Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

08 môn nghiệp vụ công tác đảng ở cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.52 KB, 31 trang )

Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

Câu 1: Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng? (Bài 1) (Nhiệm vụ)
Câu 2: Giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng? (Bài 1)
Câu 3: Vị trí, tầm quan trọng của đảng viên và công tác đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam?
(Bài 2)
Câu 4: Vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ của Đảng? (Bài 3)
Câu 5: Làm rõ "Sử dụng cán bộ là khâu có vai trò quyết định trong công tác cán bộ"? (Bài 3)
Câu 6: Các quy chế công tác cán bộ của tổ chức cơ sở đảng? (Bài 3)
Câu 7: Làm rõ “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng”? (Bài 3)
Câu 8: Nhiệm vụ công tác tư tưởng của Đảng? (Bài 5)
Câu 9: Nhiệm vụ công tác dân vận của Đảng? (Bài 5)
Câu 10: Trình bày những nội dung chủ yếu cần thực hiện để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng? (Giống Câu 2, nên lấy Câu 2 làm bài vì sát với giáo trình)


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

Câu 1: Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng
Trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những luận điểm của Người về xây dựng tổ
chức cơ sở Đảng (TCCSĐ) là một nội dung rất quan trọng. Quán triệt và vận dụng sáng tạo t ư
tưởng của Người về xây dựng TCCSĐ nhằm chỉnh đốn và đổi mới Đảng làm cho Đảng ta thật sự
trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, là một trong những
nhiệm vụ chủ yếu, là vấn đề then chốt đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta hiện nay.
Đảng ta xác định mỗi chi bộ của Đảng là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết
chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần
chúng.
Vậy tổ chức cơ sở Đảng là những tổ chức nào? Nó có vị trí, vai trò ra sao?
Quan niệm tổ chức cơ sở đảng (bao gồm các chi bộ cơ sở và các Đảng bộ cơ sở) là tổ chức cơ


sở của Đảng được lập ở đơn vị cơ sở xã, phường, thị trấn, cơ quan, HTX, doanh nghiệp, đơn vị cơ
sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác có từ 3 đảng viên chính thức trở lên, đặt dưới
sự lãnh đạo của cấp ủy quận, huyện, thị xã, TP trực thuộc tỉnh.
Chúng ta cần hiểu thêm, Ban cán sự Đảng - Đảng đoàn không phải là tổ chức cơ sở Đảng, vì
về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ thì lãnh đạo về chuyên môn đối với đơn vị đó, còn tổ chức cơ sở
Đảng là lãnh đạo toàn diện.
Tổ chức cơ sở Đảng có:
- Từ 03 đảng viên chính thức đến dưới 30 đảng viên thì lập Chi bộ cơ sở.
- Từ 30 đảng viên trở lên thì lập Đảng bộ cơ sở.
Hiện nay nước ta có 25 loại hình thức cơ sở Đảng, được chia thành 5 nhóm: nhóm ở các đơn
vị hành chính (nhân dân); nhóm ở các cơ quan quản lý nhà nước (quyền lực); nhóm ở các đơn vị
kinh tế (tài chính); nhóm ở các lực lượng vũ trang (công cụ bạo lực); và nhóm các tổ chức đảng
thông thường (trí thức).
Về vị trí, tổ chức cơ sở Đảng có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự lãnh đạo của đảng. Tổ
chức cơ sở đảng là cấp tổ chức thấp nhất, là cấp tổ chức sâu rộng nhất trong hệ thống tổ chức 4
cấp của đảng (Trung ương, Tỉnh, Huyện, Tổ chức cơ sở đảng), là cấp tổ chức nền tảng của đảng,
là đơn vị chiến đấu của đảng ở cơ sở, là cầu nối giữa đảng với nhân dân.
Về vai trò, tổ chức cơ sở Đảng có vai trò:
- Là hạt nhân chính trị ở cơ sở:
+ Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp giáo dục, thuyết phục và tổ chức cho quần chúng nắm
vững và thực hiện đường lối của đảng, pháp luật của nhà nước, các chủ trương kế hoạch công tác
của cấp trên.
+ Tổ chức cơ sở đảng là cấp gần gũi, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, nắm được tâm tư nguyện
vọng của nhân dân; qua đó phản ánh với cơ quan cấp trên, với Đảng và Nhà nước, để Đảng và
Nhà nước ra đường lối, chính sách. Góp phần quan trọng vào việc hình thành phát triển đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng thông qua những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của đội ngũ
đảng viên và quần chúng nhân dân.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta khẳng định: “Những thành lựu đã đạt được,
những tiềm năng được khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn
đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức đảng”.

- Là cấp trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng:
+ Củng cố kiện toàn hệ thống tổ chức.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
+ Thực hiện chế độ sinh hoạt đảng, kiểm tra, giám sát trong đảng.


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

+ Trực tiếp hoặc gián tiếp bầu các cơ quan lãnh đạo của các cấp của đảng.
+ Tham gia xây dựng đường lối, chính sách của đảng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Để lãnh đạo cách mạng Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt.
Tổ chức cơ sở đảng còn là tổ chức cầu nối Đảng với quần chúng nhân dân, là một mắt khâu
trọng yếu để duy trì mối liên hệ Đảng vói dân - nền tảng sức mạnh của Đảng, bởi đây là tổ chức
đảng gần dân nhất, trực tiếp lãnh đạo nhân dân và nắm bắt tâm lý, nguyện vọng của quần chúng
nhân dân để phản ánh với Đảng.
Hồ Chí Minh dạy rằng: “Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền để
liên hệ Đảng với quần chúng” và Người đã khẳng định: “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt
thì mọi việc sẽ tốt”.
Nói về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của tổ chức cơ sở đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Đối với Đảng ta, xây dựng chi bộ cho tốt, cho vững mạnh là một việc vô cùng quan trọng”.
Trong quá trình xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi xây dựng, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là nhiệm vụ thường xuyên và quan
trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng.
Tóm lại: Với vị trí, vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở, tổ chức cơ sở đảng tuy là một bộ phận
trong hệ thống chính trị ở cơ sở, nhưng là tổ chức lãnh đạo tất cả các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị đó, là tổ chức bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng định hướng chính trị của
Đảng.
Đảng ta thực sự muốn mạnh, phải chăm lo công tác xây dựng, nâng cao chất lượng của tổ chức
cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Phải có các biện pháp đồng bộ,
chúng ta mới nâng cao được chất lượng của tổ chức đảng ở cơ sở và bảo đảm cho các tổ chức cơ

sở đảng thực sự là nền tảng, hạt nhân chính trị của Đảng.
Liên hệ thực tiễn:
- Là Chi bộ bộ phận trực thuộc Đảng bộ PISICO, thực hiện nhiệm vụ chính là sản xuất kinh
doanh: thuộc loại hình thức sở sở đảng ở nhóm các đơn vị kinh tế.
- Là cầu nối giữa Đảng bộ cấp trên với cán bộ, công nhân lao động ở đơn vị.
- Thực hiện giáo dục, tuyên truyền các đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng,
Nhà nước và Đảng bộ cấp trên. Thực hiện nhiệm vụ: Kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm do
cấp trên giao.
- Theo dõi, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của cán bộ, công nhân lao động để báo cáo, đề xuất
trình cấp trên về các chế độ hưởng lợi, lợi ích cho công nhân trong quá trình lao động, đề cử các
chức danh chủ chốt tại đơn vị và giới thiệu quần chúng ưu tú tham gia vào đội ngũ của Đảng.
- Kiểm tra, giám sát các cán bộ có vị trí trong quản lý và quần chúng, nhắc nhở, giáo dục nếu
thấy bắt đầu có dấu hiệu sai phạm trong công tác.


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

Câu 2: Giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
Trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những luận điểm của Người về xây dựng tổ
chức cơ sở Đảng (TCCSĐ) là một nội dung rất quan trọng. Quán triệt và vận dụng sáng tạo t ư
tưởng của Người về xây dựng TCCSĐ nhằm chỉnh đốn và đổi mới Đảng làm cho Đảng ta thật sự
trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, là một trong những
nhiệm vụ chủ yếu, là vấn đề then chốt đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta hiện nay.
Đảng ta xác định mỗi chi bộ của Đảng là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết
chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần
chúng.
Vậy tổ chức cơ sở Đảng là những tổ chức nào? Giải pháp nào nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng?
Quan niệm tổ chức cơ sở đảng (bao gồm các chi bộ cơ sở và các Đảng bộ cơ sở) là tổ chức cơ

sở của Đảng được lập ở đơn vị cơ sở xã, phường, thị trấn, cơ quan, HTX, doanh nghiệp, đơn vị cơ
sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác có từ 3 đảng viên chính thức trở lên, đặt dưới
sự lãnh đạo của cấp ủy quận, huyện, thị xã, TP trực thuộc tỉnh.
Chúng ta cần hiểu thêm, Ban cán sự Đảng - Đảng đoàn không phải là tổ chức cơ sở Đảng, vì
về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ thì lãnh đạo về chuyên môn đối với đơn vị đó, còn tổ chức cơ sở
Đảng là lãnh đạo toàn diện.
Tổ chức cơ sở Đảng có:
- Từ 03 đảng viên chính thức đến dưới 30 đảng viên thì lập Chi bộ cơ sở.
- Từ 30 đảng viên trở lên thì lập Đảng bộ cơ sở.
Hiện nay nước ta có 25 loại hình thức cơ sở Đảng, được chia thành 5 nhóm: nhóm ở các đơn
vị hành chính (nhân dân); nhóm ở các cơ quan quản lý nhà nước (quyền lực); nhóm ở các đơn vị
kinh tế (tài chính); nhóm ở các lực lượng vũ trang (công cụ bạo lực); và nhóm các tổ chức đảng
thông thường (trí thức).
Tổ chức cơ sở Đảng có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự lãnh đạo của đảng. Tổ chức cơ sở
đảng là cấp tổ chức thấp nhất, là cấp tổ chức sâu rộng nhất trong hệ thống tổ chức 4 cấp của đảng
(Trung ương, Tỉnh, Huyện, Tổ chức cơ sở đảng), là cấp tổ chức nền tảng của đảng, là đơn vị chiến
đấu của đảng ở cơ sở, là cầu nối giữa đảng với nhân dân.
Và tổ chức cơ sở Đảng có vai trò: Là hạt nhân chính trị ở cơ sở; Là cấp trực tiếp tiến hành các
hoạt động xây dựng nội bộ Đảng.
Những giải pháp chủ yếu để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng:
Thực trạng tổ chức cơ sở Đảng
- Ưu điểm:
+ Tổ chức cơ sở đảng đã được thiết lập ở hầu khắp các đơn vị cơ sở và được kiện toàn 1 bước.
+ Các tổ chức cơ sở đảng đã có bước chuyển biến tiến bộ trong việc phát huy vai trò hạt nhân
chính trị lãnh đạo, các mặt công tác ở cơ sở (xóa đói giảm nghèo, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát
triển y tế, giáo dục, …)
+ Phương thức phong cách lãnh đạo bước đầu được đổi mới (xây dựng quy chế làm việc, gần
dân hơn, hoạt động theo quy chế dân chủ cơ sở,…)
+ Sinh hoạt đảng được chỉnh đốn, khắc phục một bước tình trạng lõng lẻo trong sinh hoạt

đảng.
+ Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở được đẩy
mạnh.


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

+ Số tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh ngày càng tăng, số tổ chức cơ sở đảng yếu
kém giảm mạnh.
Nguyên nhân của ưu điểm:
+ Đảng đã có nhiều nghị quyết chỉ đạo công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng.
+ Từ Trung ương đến các cấp ủy địa phương đã có nhiều cố gắng đề ra, nhiều biện pháp xây
dựng cũng cố tổ chức cơ sở đảng.
+ Nhiều tổ chức cơ sở đảng có sự nổ lực phấn đấu vươn lên.
Từ ưu điểm và nguyên nhân trên, ta thấy có chuyển biến tiến bộ, năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu được nâng cao một bậc.
- Khuyết điểm:
+ Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở nhiều nơi còn yếu, một số nơi
chưa đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở.
+ Phương thức, phong cách lãnh đạo còn nhiều hạn chế, tình trạng bao biện, là thay hoặc
buông lõng vai trò lãnh đạo còn xảy ra ở không ít nơi.
+ Nội dung, hình thước sinh hoạt chi bộ còn lúng túng, hiệu quả thấp.
+ Công tác đảng viên, cán bộ còn nhiều yếu kém, nhất là công tác giáo dục, quản lý đảng viên,
cán bộ; trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên còn hạn chế, bất cập.
+ Một số tổ chức cơ sở đảng chậm được chỉnh đốn, yếu kém kéo dài, mất đoàn kết nội bộ, vi
phạm dân chủ, cán bộ quan liêu, tham nhũng, làm cho quần chúng bất bình, khiếu kiện tập thể,
gây mất ổn định cơ sở.
+ Mô hình tổ chức của tổ chức cơ sở đảng còn chưa thật sự thống nhất, một bộ phận đơn vị cơ
sở chưa có tổ chức cơ sở đảng.
Nguyên nhân của khuyết điểm:

+ Chưa nhận thức thật sự sâu sắc về vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng; chưa quan tâm tập
trung chỉ đạo để xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng.
+ Tổ chức đảng cấp trên cơ sở chưa sâu sát hiểu rõ cơ sở; chưa kịp thời giúp cơ sở phát hiện,
tháo gỡ khó khăn, yếu kém.
+ Một số quy định, hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, chế độ, chính sách cho cơ sở chậm
được ban hành, sửa đổi.
+ Bản thân một số tổ chức cơ sở đảng chưa nhận thức rõ chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu xây
dựng chỉnh đốn tổ chức cơ sở đảng, có nơi còn trông chờ, ỷ lại cấp trên hoặc chủ quan tự mãn.
Từ ưu điểm và nguyên nhân trên, ta thấy mặc dù có chuyển biến tiến bộ, nhưng năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu nhiều
nhiệm vụ hiện nay.
Từ thực trạng trên, Đảng đã có những biện pháp chủ yếu cần thực hiện để nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng: có 5 biện pháp chủ yếu
- Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ
luật, thực sự tiên phong gương mẫu, đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao
Các cấp ủy phải quan tâm làm tốt công tác chính trị tư tưởng, chủ động dự báo tình hình để kịp
thời trang bị những thông tin có định hướng của Đảng cho cán bộ, đảng viên.
Chủ động khắc phục những biểu hiện phai nhạt lý tưởng; chống chủ nghĩa cơ hội, thực dụng,
vụ lợi, cá nhân, trung bình chủ nghĩa; kiên quyết đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền
xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch.
Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong cấp ủy, chi bộ, đảng bộ trên cơ sở Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chính sách của Đảng và tình đồng chí.
Thực hiện tốt biện pháp này nó có ý nghĩa, tổ chức cơ sở Đảng là nơi trực tiếp tiến hành các


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

mặt công tác đảng viên, cho nên hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng có tác động trực tiếp đến sự
trưởng thành của từng đảng viên và chất lượng đội ngủ cán bộ, đảng viên. Ngược lại chất lượng

đội ngũ đảng viên là một trong những yếu tố quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức Đảng nói chung và tổ chức cơ sở Đảng nói riêng. Với ý nghĩa đó, các tổ chức cơ sở Đảng
phải chú trọng công tác đảng viên và phải coi công tác đảng viên là một trong những biện pháp cơ
bản để tăng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
- Hai là, hoàn thiện mô hình tổ chức của các loại hình tổ chức cơ sở đảng theo hướng gắn tổ
chức cơ sở đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và lãnh đạo các tồ chức chính trị - xã hội;
chăm lo kết nạp đảng viên, nhất là ở những địa bàn, đơn vị chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng
viên.
Tiếp tục kiện toàn, sắp xếp tổ chức của các tổ chức cơ sở đảng cho đồng bộ, thống nhất với
các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Xây dựng mô hình tổ chức phù hợp với những tổ chức cơ sở đảng có tính đặc thù.
Đối với khu vực xã, phường, thị trấn, tiến hành sắp xếp mô hình tổ chức của đảng bộ, chi bộ,
chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn dân cư theo hướng phù hợp.
Đổi với những đảng bộ cơ sở trong cơ quan, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước cần sắp
xếp lại bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công
tác cán bộ và lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội.
Đối với tổ chức cơ sở đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn thực hiện chủ trương
thành lập tổ chức đảng toàn tập đoàn gắn công tác xây dựng Đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh, công tác cán bộ của doanh nghiệp.
Đối với các tỉnh, thành phố có nhiều khu công nghiệp tập trung thì thành lập đảng bộ cơ sở
khu công nghiệp, đặt trực thuộc cấp uỷ cấp trên trực tiếp phù hợp.
- Ba là, thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hoá, thể chế hóa và từng bước nhất
thể hóa chức danh cán bộ; tạo bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
ở cơ sở.
Sớm ban hành chính sách thu hút để thực hiện chủ trương đưa sinh viên tốt nghiệp đại học,
cao đẳng về công tác ở xã, phường, thị trấn, doanh nghiệp.
Xây dựng hệ thống chính sách phù hợp và đồng bộ đối với cán bộ, công chức cơ sở xã,
phường, thị trấn.
Đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
xã, phường, thị trấn theo chức danh cán bộ.

Bổ sung, sửa đổi một số quy định về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng nhằm xác
định rõ hơn vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công
tác cán bộ.
Thực hiện thí điểm chủ trương nhất thể hóa hai chức danh cán bộ chủ chốt ở cơ sở.
Các tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp, thực hiện thống
nhất chủ trương thủ trưởng cơ quan, đơn vị hoặc một đồng chí lãnh đạo của cơ quan, đơn vị trực
tiếp làm bí thư cấp ủy. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện thống nhất chủ trương chủ
tịch hội đồng quản trị hoặc tổng giám đốc (giám đốc) đồng thời là bí thư cấp ủy.
Trong các đơn vị cơ sở thuộc Công an nhân dân, thực hiện chế độ thủ trưởng đom vị đồng thời
làm bí thư cấp ủy, đồng chí lãnh đạo cấp phó làm phó bí thư và phụ trách công tác xây dựng lực
lượng.
- Bốn là, năng cao chất lượng, đỗi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của các loại
hình tổ chức cơ sở đảng theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật; khắc
phục tính hình thức, đơn điệu trong sinh hoạt, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giảo dục, tính chiến đẩu
của tổ chức cơ sở đảng.


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

Tập trung củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự
phê bình và phê bình, giữ nghiêm kỷ luật, tăng cường đoàn kết trong Đảng.
Các cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ sở thực hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng định
kỳ. Nội dung sinh hoạt chi bộ phải cụ thể, thiết thực, giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc ở
địa phương, cơ quan, đơn vị.
Việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng cần tiến hành thường xuyên, nghiêm túc,
thiết thực, nhất là trong các đợt tự phê hình và phê bình trong quá trình thực hiện Cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Định kỳ 6 tháng một lần, cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng kiểm tra việc thực
hiện nền nếp, nội dung, chất sinh hoạt của các chi bộ và thông báo kết quả kiểm tra toàn đảng bộ.

Thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy về kỹ năng cụ thể hóa và tổ chức
thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các
nghị quyết, chi thị của cấp ủy cấp trên.
- Năm là, tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên; dựa vào dân để
xây dựng Đảng.
Các cấp ủy cấp trên phải nắm chắc tình hình cơ sở, phân công cấp ủy viên trực tiếp phụ trách
cơ sở, kịp thời tháo gỡ khó khăn, giải quyết những vấn đề xảy ra ở cơ sở.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý và các cấp ủy viên cấp trên của tổ chức cơ sở đảng phải bố trí thời
gian để gặp gỡ đảng viên và nhân dân tại cơ sở, giải quyết kịp thòi những kiến nghị chính đáng
của đảng viên và quần chúng.
Các chi bộ phải thực hiện tốt việc phân công công tác cho đảng viên, bảo đảm mọi đảng viên
trong chi bộ đều được phân công công tác phù hợp.
Tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên.
Tóm lại: Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ
chức cơ sở đảng thực sự trong sạch, vững mạnh; mỗi tổ chức cơ sở đảng phải làm tốt công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, giám sát đảng viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và
phẩm chất đạo đức, lối sống; đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực trong Đảng, thực hiện tốt
chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở.


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

Câu 3: Vị trí, tầm quan trọng của đảng viên và công tác đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh thường luôn luôn nhắc nhở và chỉ thị cho chúng ta phải tăng
cường công tác đảng viên. Chính Người đã nêu gương sáng về mặt này, Đảng viên là nguồn tuyển
lựa và bổ sung cho đội ngũ cán bộ, Có đội ngũ đảng viên tốt thì mới có đội ngũ cán bộ tốt. Hồ Chí
Minh có lời dạy: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt.”
Vậy đảng viên là những ai, có vị trí, tầm quan trọng như thế nào trong Đảng và công tác

đảng viên.
Đảng viên là người ở trong một tổ chức của một chính đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định: “Đảng viên ĐCSVN là chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và dân tộc VN, suốt đời phấn đấu cho mục đích lý tưởng của Đảng, đặt
lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp
hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của
Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh,
gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất
trong Đảng”.
Hay được hiểu ngắn gọn, đảng viên đảng cộng sản là chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt nam.
Công tác đảng viên là tổng hợp các hoạt động của tổ chức đảng và của mỗi đảng viên nhằm
xây dựng đội ngũ đảng viên không ngừng phát triển và vững mạnh cả về số lượng, chất lượng, cơ
cấu, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Vị trí, tầm quan trọng của đảng viên và công tác đảng viên
* Vị trí, tầm quan trọng của đảng viên:
Thứ nhất, mối quan hệ giữa đảng viên với đường lối, nhiệm vụ chính trị.
Đây là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau giữa đảng viên với đường lối, nhiệm
vụ chính trị. Đảng viên có vai trò quyết định trực tiếp xây dựng đường lối, nhiệm vụ chính trị
đúng đắn hay không, nhất là những đảng viên giữ cương vị công tác quan trọng, có quan hệ trực
tiếp đến việc xây dựng đường lối, nhiệm vụ chính trị.
Song đường lối, nhiệm vụ chính trị có vai trò quyết định trở lại đối với từng đảng viên và công
tác xây dựng đội ngũ đảng viên. Đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng sẽ bảo đảm xây dựng đội ngũ
đảng viên trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, mối quan hệ giữa đảng viên với tổ chức đảng.
Đảng viên là “tế bào” xây dựng nên các tổ chức cơ sở đảng. Không có đảng viên không thành
tổ chức. Đảng viên tốt sẽ bảo đảm xây dựng tổ chức manh; đảng viên kém tổ chức không thể
trong sạch, vững mạnh. Khi đã thành tổ chức, tổ chức quyết định trở lại đối với từng đảng viên
nhân sức mạnh của mỗi đảng viên lên gấp bội. Đứng ngoài tổ chức, xem thường tổ chức, sức
mạnh của đảng viên bị hiệt tiêu; chỉ đứng trong tổ chức, phục tùng tổ chức, sức manh của mỗi

đảng viên mới được phát huy.
Thứ ba, mối quan hệ giữa đảng viên với phong trào cách mạng của nhân dân.
Đảng viên có vai trò là người lãnh đạo, tổ chức các phong trào cách mạng của nhân dân, vì vậy
phong trào của nhân dân mạnh hay yếu là do đảng viên lãnh đạo ở đó tốt hay kém.
Song từ trong phong trào cách mạng của nhân dân, Đảng sẽ phát hiện được quần chúng tích
cực để bồi dưỡng giúp đỡ, đồng thời là phong trào nhân dân cũng là nơi Đảng thử thách, rèn luyện
đảng viên của mình. Gắn bó mật thiết với nhân dân, thông qua phong trào cách mạng của nhân
dân là nguyên tắc hoạt động, là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.
* Vị trí, tầm quan trọng của công tác đảng viên:


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

Thứ nhất, công tác đảng viên có vai trò quyết định trực tiếp xây dựng đội ngũ đảng viên và
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên thực hiện tốt các mặt công tác đảng viên như công tác đào
tạo, bồi dưỡng đảng viên; công tác phân công nhiệm vụ và quản lý đảng viên; công tác kiểm tra;
công tác kết nạp đảng viên mới và đưa những người không đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi Đảng
đều là những mặt công tác quan trọng trực tiếp xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên.
Thứ hai, công tác đảng viên trực tiếp góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa đảng viên và tổ chức đảng, đảng viên là thành tố
cấu thành nên tổ chức đảng, đảng viên tốt sẽ là điều kiện, là tiền đề, là cơ sở để xây dựng nên tổ
chức đảng vững mạnh. Công tác đảng viên trực tiếp xây dựng đội ngũ đảng viên mạnh, nên góp
phần có ý nghĩa quyết định nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Thứ ba, công tác đảng viên là một bộ phận hết sức quan trọng của công tác tổ chức xây dựng
Đảng. Xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức không thể không chăm lo xây dựng đội ngũ đảng
viên về số lượng, nhất là về chất lượng. Công tác đảng viên có chức năng, nhiệm vụ xây dựng
Đảng vững mạnh về tổ chức.
Tóm lại: Trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam hiện nay, cùng với việc thể hiện vai trò
tiên phong, gương mẫu, đảng viên phải tích cực tham gia đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và

các tệ nạn xã hội; phê phán những biểu hiện mơ hồ, cực đoan hay tư tưởng sai lệch. Đảng chỉ thực
sự vững mạnh, đủ sức đương đầu với những khó khăn, sóng gió, đưa dân tộc đi tới dân chủ, công
bằng, văn minh khi mỗi đảng viên ý thức đầy đủ về nghĩa vụ của mình trước nhân dân. Coi trọng
việc phát huy tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên là thước đo trong từng hành động
thực hiện nhiệm vụ của bản thân mình.


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

Câu 4: (Bài 3) Vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ của Đảng
Đảng ta xác định “Cán bộ và công tác cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Và trong công tác cán bộ thì bổ nhiệm
cán bộ là một nội dung quan trọng. Do đó, để thực hiện đúng, khoa học, hiệu quả công tác này thì
việc bổ nhiệm cán bộ cần tuân theo các nguyên tắc và quy trình nhất định.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”.
Cán bộ được đặt vào trong 3 mối quan hệ: đường lối nhiệm vụ chính trị; tổ chức; và phong trào
quần chúng.
Địng nghĩa phổ biến hiện nay cũng có 2 nghĩa:
Thứ nhất, cán bộ là người làm công tác, có nghiệp vụ chuyên môn nhất định trong một cơ quan
Nhà nước, một tổ chức của hệ thống chính trị.
Nghĩa này chỉ, đội ngũ cán bộ được hình thành thông qua con đường đào tạo từ các nhà trường.
Đây là bộ hận đông đảo nhất, ổn định nhất.
Thứ hai, cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức của hệ thống
chính trị.
Nghĩa này chỉ, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (có chức vụ). Bộ phận này được hình thành
thông qua việc bầu cử hoặc bổ nhiệm.
Công tác cán bộ của Đảng là toàn bộ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của
Đảng nhằm phát huy đến mức cao nhật nọi tiềm năng của toàn Đảng các cơ quan, tổ chức trong hệ

thống chính trị và toàn xã hội, cham lo phát triển nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý,… xây dựng
đội ngũ cán bộ có chất lượng cao, bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách cùa Đảng, pháp
luật của Nhà nước, nghị quyết quyết định của các tổ chức Đảng cấp trên được thực hiện có hiệu
quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện CNH-HĐH đất nước.
Công tác cán bộ của Đảng bao gồm:
- Xây dựng hệ thống quan điểm, nội dung, quy trình công tác cán bộ.
- Hoạt động lãnh đạo, quản lý các tổ chức trong hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ.
- Công tác nghiên cứu khoa học về con người.
* Vai trò, vị trí chung của đội ngũ cán bộ:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ:
+ Các nhà kinh điển đều coi: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, quần chúng là lực
lượng quyết định sự thành bại của cách mạng.
C.Mác cho rằng: "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực
tiễn". V.I.Lênin cũng khẳng định: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền
thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những
đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào".
Sau năm năm trực tiếp lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Nhà nước Xô viết non trẻ, V.I.Lênin càng
thấy rõ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ. Người nhấn mạnh: nếu không có đội ngũ cán bộ tốt
"thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn".
+ Bên cạnh đó “Họ” cũng rất coi trọng vai trò của đội ngũ cán bộ. Các ông “ đặt đội ngũ cán bộ
vào vị trí, vai trò có tính quyết định đối với các cuộc cách mạng, là yếu tố quyết định đối với sự
lãnh đạo của Đảng”
- Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng: cán bộ và công tác cán bộ có vị trí, vai trò là
mắt khâu quan trọng, them chốt mang tính quyết định đối với sự nghiệp cách mạng, là nhân tố
quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, quyết định vận mệnh của đất nước và chế


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

độ, là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".
* Vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ cơ sở: ngoài vị trí, vai trò chung của đội ngũ cán bộ, đội ngũ
cán bộ cơ sở còn có vị trí, vai trò riêng:
+ Ví trí đội ngũ cán bộ cơ sở là tế bào hợp thành các tổ chức ở cơ sở; là cầu nối giữa Đảng, chính
quyền, các đoàn thể quần chúng với nhân dân; là những người trực tiếp lãnh đạo các phong trào cách
mạng của quần chúng ở cơ sở; là những người trực tiếp tổ chức cho quần chúng thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở.
+ Vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở là lực lượng phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần làm
chủ của quần chúng ở cơ sở; là lực lượng nồng cốt đảm bảo sự đoàn kết thống nhất ở cơ sở; là nguồn
bổ sung cán bộ cho các tổ chức cấp trên.
Thực tiễn cách mạng ở nước ta cho thấy, ở nơi nào có đội ngũ cán bộ cơ sở tốt, nhất là cán bộ
chủ chốt thi ở đó phong trào cách mạng quần chúng phát hiển mạnh mẽ, kinh tế - xã hội phát triển,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng lên. Vì thế, bước vào thời kỳ
đổi mới, Đảng ta khẳng định: “Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà
Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng". Đặc biệt, tại Hội
nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta nhấn mạnh: Thực hiện mạnh mẽ
chủ trương trẻ hóa, thể chế hóa và từng bước nhất thể hóa chức danh cán bộ; tạo bước chuyển có
tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở.
Từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ đòi hỏi Đảng và các tổ chức trong hệ
thống chính trị phải coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, phải xác định rõ công tác cán bộ là
khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng.
* Vị trí, vai trò của công tác cán bộ của tổ chức cơ sở Đảng:
Công tác cán bộ của Đảng gồm nhiều công việc, có thể coi mỗi công việc là một khâu của
công tác cán bộ. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những công việc
chủ yếu như: huấn luyện cán bộ; dạy cán bộ; dùng cán bộ; lựa chọn cán bộ; cách đối với cán bộ;
chính sách cán bộ...
Theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, trong Văn kiện Đảng, Đảng chỉ ra những khâu chủ yếu của
công tác cán bộ như: xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
nhận xét, đánh giá cán bộ, luân chuyển cán bộ; nhân dân tham gia xây dựng và giám sát cán bộ;

kiểm tra cán bộ; quản lý cán bộ; chính sách cán bộ... Công tác cán bộ của tổ chức cơ sở đảng cũng
bao gồm các khâu chủ yếu đó.
Công tác cán bộ là một nội dung có vị trí quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng, là khâu then
chốt của công tác xây dựng Đảng.
Công tác cán bộ có vai trò tạo nên đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ
cách mạng; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; là công tác trọng
yếu thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền; là công tác bảo đảm cho sự sống còn của chế
độ, của đất nước.
Công tác cán bộ là nhân tố quyết định mọi thắng lợi và là khâu then chốt của công tác xây
dựng Đảng.
Hay nói cách khác, từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác cán bộ đòi hỏi Đảng và các tổ
chức trong hệ thống chính trị phải coi trọng công tác cán bộ, phải xác định rõ công tác cán bộ là
khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng.
Trong công cuộc đổi mới, nhất là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Đảng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của công tác cán bộ và chỉ rõ mục tiêu của công tác cán
bộ là xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có chất lượng mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt của


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

các ngành, các cấp và cơ sở. Đặc biệt hiện nay phải “tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu của công
tác cán bộ, tạo chuyển biến cơ bản, vững chắc trong công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ
thật sự vì Đảng, vì dân, có bản lĩnh và trí tuệ, đi đầu trong công tác và gương mẫu trong đạo đức
lối sống, bảo đảm tính kế thừa và phát triển; xây dựng và thực hiện chính sách phát triển nhân
tài...”.
Tóm lại: Muốn có đội ngũ cán bộ cơ sở có chất lượng tốt phải tiếp tục đổi mới công tác cán
bộ, đó là trách nhiệm của toàn Đảng, của cấp ủy cấp trên, nhất là cấp ủy cấp trên trực tiếp của cơ
sở và của cấp ủy cơ sở. Song, quyết định thành công hay không vẫn do cấp ủy cơ sở chủ động tích
cực thực hiện công tác cán bộ của tổ chức cơ sở đảng.



Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

Câu 5: (Bài 3) Làm rõ "Sử dụng cán bộ là khâu có vai trò quyết định trong công tác cán
bộ"?
Đảng ta xác định “Cán bộ và công tác cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Và trong công tác cán bộ thì bổ nhiệm
cán bộ là một nội dung quan trọng. Do đó, để thực hiện đúng, khoa học, hiệu quả công tác này thì
việc sử dụng, bổ nhiệm cán bộ cần tuân theo các nguyên tắc và quy trình nhất định.
Định nghĩa phổ biến hiện nay về cán bộ cũng có 2 nghĩa:
Thứ nhất, cán bộ là người làm công tác, có nghiệp vụ chuyên môn nhất định trong một cơ quan
Nhà nước, một tổ chức của hệ thống chính trị.
Nghĩa này chỉ, đội ngũ cán bộ được hình thành thông qua con đường đào tạo từ các nhà trường.
Đây là bộ hận đông đảo nhất, ổn định nhất.
Thứ hai, cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức của hệ thống
chính trị.
Nghĩa này chỉ, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (có chức vụ). Bộ phận này được hình thành
thông qua việc bầu cử hoặc bổ nhiệm.
Công tác cán bộ của Đảng là toàn bộ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của
Đảng nhằm phát huy đến mức cao nhật nọi tiềm năng của toàn Đảng các cơ quan, tổ chức trong hệ
thống chính trị và toàn xã hội, cham lo phát triển nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý,… xây dựng
đội ngũ cán bộ có chất lượng cao, bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách cùa Đảng, pháp
luật của Nhà nước, nghị quyết quyết định của các tổ chức Đảng cấp trên được thực hiện có hiệu
quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện CNH-HĐH đất nước.
* Vai trò, vị trí chung của đội ngũ cán bộ:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ:
+ Các nhà kinh điển đều coi: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, quần chúng là lực
lượng quyết định sự thành bại của cách mạng.
C.Mác cho rằng: "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực
tiễn". V.I.Lênin cũng khẳng định: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền

thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những
đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào".
Người nhấn mạnh: nếu không có đội ngũ cán bộ tốt "thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ
chỉ là mớ giấy lộn".
+ Bên cạnh đó “Họ” cũng rất coi trọng vai trò của đội ngũ cán bộ. Các ông “ đặt đội ngũ cán bộ
vào vị trí, vai trò có tính quyết định đối với các cuộc cách mạng, là yếu tố quyết định đối với sự
lãnh đạo của Đảng”
- Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng: cán bộ và công tác cán bộ có vị trí, vai trò là
mắt khâu quan trọng, then chốt mang tính quyết định đối với sự nghiệp cách mạng, là nhân tố
quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, quyết định vận mệnh của đất nước và chế
độ, là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".
* Vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ cơ sở: ngoài vị trí, vai trò chung của đội ngũ cán bộ, đội ngũ
cán bộ cơ sở còn có vị trí, vai trò riêng:
+ Ví trí đội ngũ cán bộ cơ sở là tế bào hợp thành các tổ chức ở cơ sở; là cầu nối giữa Đảng, chính
quyền, các đoàn thể quần chúng với nhân dân; là những người trực tiếp lãnh đạo các phong trào cách
mạng của quần chúng ở cơ sở; là những người trực tiếp tổ chức cho quần chúng thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở.


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

+ Vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở là lực lượng phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần làm
chủ của quần chúng ở cơ sở; là lực lượng nồng cốt đảm bảo sự đoàn kết thống nhất ở cơ sở; là nguồn
bổ sung cán bộ cho các tổ chức cấp trên.
* Quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đấy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Trong chiến lược cán bộ thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta
đưa ra năm quan điểm xây dụng đội ngũ cán bộ. Kết luận Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành

Trung ương khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiên lược cán bộ từ năm nay đên năm 2020
bổ sung, xác định 6 quan điểm. Cấp ủy cơ sở cần quán triệt các quan điểm đó vào công tác cán bộ
của mình để xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cơ sở trong thời kỳ mới.
Thứ nhất, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt công tác
xây dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ
gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Quan điểm này xuất phát từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ và mối quan hệ
biện chứng giữa đội ngũ cán bộ với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Ý nghĩa thực tiễn của quan điểm này là: các tổ chức Đảng phải thường xuyên chăm lo công tác
cán bộ, gắn công tác cán bộ với việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và
bảo vệ Tổ quốc, từ yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ yêu cầu đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm này thể hiện giữa đường lối, nhiệm vụ chính trị với đội ngũ cán bộ có mối quan hệ
biện chứng, mối quan hệ đó được thể hiện như sau:
- Đội ngũ cán bộ tác động vào đường lối, nhiệm vụ chính trị: Đội ngũ cán bộ tốt (có trình độ,
năng lực, kinh nghiệm) có khả năng nắm bắt được các quy luật vận động của xã hội, từ đó vận
dụng vào xác định đường lối, đường lối. nhiệm vụ chính trị sẽ phù hợp với điều kiện của đất nước,
của đơn vị, và tổ chức thực hiện có hiệu quả.
- Đường lối, nhiệm vụ chính trị tác động vào đội ngũ cán bộ: Nếu đường lối đúng, tạo môi
trường thuận lợi cho cán bộ hoạt động; là cơ sở để đội ngũ cán bộ xác định lập trường, quan điểm;
là cơ sở để các tổ chức xác định phương hướng đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng đúng cán bộ.
Ngược lại, nếu đường lối không phù hợp, thì môi trường hoạt động của cán bộ bị hạn chế; cán bộ
mất phương hướng hoạt động, dẫn đến đẩy cán bộ vào sai phạm; Nội bộ thiếu đoàn kết, bị phân
hóa.
Từ mối quan hệ trên ta thấy, đường lối, nhiệm vụ chính trị là sản phẩm của đội ngũ cán bộ.
Đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng hay sai là do đội ngũ cán bộ quyết định.
Ý nghĩa thực tiễn của quan điểm này là:
- Khi tiến hành công tác cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của đường lối, nhiệm vụ chính

trị, Muốn có đội ngũ cán bộ tốt trước hết phải quan tâm xác định đúng đường lối, nhiệm vụ chính
trị. Các cấp, các ngành và từng địa phương, đơn vị phải quan tâm đến việc xác định đúng nhiệm vụ
chính trị của đơn vị mình và cho từng cán bộ.
- Khi cách mạng chuyển giai đoạn; điều kiện hoàn cảnh mới xuất hiện, đường lối, nhiệm vụ
chính trị thay đổi, công tác cán bộ cũng cần được đổi mới. Mọi vấn đề về công tác cán bộ đều phải
xuất phát và gắn với đường lối, nhiệm vụ, chính trị.
- Hiện nay, việc xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
và bảo vệ tổ quốc, từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc CNH-HĐH đất
nước nhàm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, phải thông qua thực tiễn CNH-HĐH để rèn


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

luyện, tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ.
Thứ ba, quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
truyền thống yêu nước, đại đoàn kết và gắn bó mật thiết với nhân dân; tập hợp rộng rãi các loại các
bộ, trọng dụng nhân tài, không phân biệt Đảng viên hay người ngoài Đảng, dân tộc, tôn giáo,
người ở trong nước hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài; không định kiến với người có sai
lầm trong quá khứ, nay đã sửa chữa và có tâm huyết xây dựng đất nước.
Đây là một quan điểm mang tính nguyên tắc, xuất phát từ vai trò của Đảng cầm quyền, không
chỉ các Đảng Cộng sản mà bất cứ chế độ xã hội nào cũng vận dụng.
Mỗi chế độ xã hội có những yêu cầu khác nhau về đội ngũ lãnh đạo của mình. Nhưng nhìn
chung, chế độ xã hội nào cũng đều chú ý xây dựng “đội ngũ cán bộ”đại biểu cho quyền lợi của giai
cấp mình. Do vậy khi xây dựng “đội ngũ cán bộ” giai cấp nào cũng có quan điểm giai cấp. Nhất là
đối với các cương vị lãnh đạo chủ chốt có ảnh hưởng đến địa vị lãnh đạo của giai cấp.
Ý nghĩa thực tiễn của quan điểm này là:
- Phải thường xuyên tăng cường, giáo dục, bồi dưỡng lập trường quan điểm, ý thức giai cấp
công nhân cho đội ngũ cán bộ.
- Phải căn cứ vào tiêu chuẩn để tuyển chọn bố trí, sử dụng cán bộ, phải tăng cường số cán bộ

xuất thân từ công nhân.
- Đối với các lĩnh vực như: kinh tế, khoa học kỹ thuật,… để trọng dụng nhân tài và tập hợp
đông đảo mọi người tham gia xây dựng đất nước, Đảng không phân biệt người trong Đảng hay
người ngoài Đảng, dân tộc, tôn giáo, người ở trong nước hay người Việt nam ở nước ngoài, không
định kiến với những sai lầm trong quá khứ mà nay hồi cải sửa chữa.
Thứ tư, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách,
với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Cơ sở xuất phát của quan điểm này là mối quan hệ biện chứng giữa cán bộ với tổ chức. Mới
quan hệ đó được thể hiện:
- Đội ngũ cán bộ tác động vào tổ chức: Nếu đội ngũ cán bộ tốt, thì xác định đúng nhiệm vụ,
phương hướng, mục tiêu, biện pháp thực hiện; Chấp hành tốt nội quy, quy chế hoạt động; Điều
hành hoạt động của tổ chức theo chức năng, nhiệm vụ và quy chế. Ngược lại, nếu đội ngũ cán bộ
yếu, sẽ dẫn đến hạn chế trong việc xác định nhiệm vụ; chấp hành kỷ luật thiếu nghiêm túc; Tổ
chức thực hiện nhiệm vụ có nhiều hạn chế.
- Tổ chức tác động vào đội ngũ cán bộ: buộc cán bộ phải hoạt động theo nội quy, quy chế,
nguyên tắc, kỷ luật của tổ chức; Quyết định vị trí, chức năng nhiệm vụ, mục tiêu, phương hướng
hoạt động của cán bộ, Trao cho cán bộ một quyền lực nhất định (chỉ có khi hoạt động trong tổ
chức); Đào tạo, rèn luyện, sàng lọc cán bộ.
Ý nghĩa thực tiễn của quan điểm này là:
- Muốn có đội ngũ cán bộ mạnh phải gắn công tác cán bộ với xây dựng tổ chức, xây dựng tổ
chức phải đi đôi với xây dựng đội ngũ cán bộ. Công tác cán bộ phải thực hiện nguyên tắc; từ tổ
chức, từ công việc mà bố trí, sắp xếp cán bộ, không được vì người, vì cán bộ mà lập ra tổ chức. Tất
cả các khâu trong quy trình cán bộ từ đánh giá tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, đến bố trí, sử dụng,
luân chuyển, điều động cán bộ đều phải gắn với việc xây dựng tổ chức.
- Muốn có tổ chức mạnh phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mà xác định cần loại
cán bộ nào? Tiêu chuẩn của các chức danh cán bộ như thế nào? Số lượng bao nhiêu? Để lựa chọn,
bố trí, sử dụng.
Thứ năm, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình
độ dân trí, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng
cán bộ. Phải dựa vào nhân dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ.

Cơ sở xuất phát của quan điểm này là mối quan hệ biện chứng giữa cán bộ với các phong trào


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

cách mạnh của nhân dân. Mối quan hệ đó được thể hiện như sau:
- Đội ngũ cán bộ tác động vào phong trào cách mạng của nhân dân: Đội ngũ cán bộ tổ chức,
duy trì và phát triển các phòng trào; Xác định nhiệm vụ, phương hướng mục tiêu hoạt động cho các
phong trào; Tuyên truyền, phát động, tập hợp lực lượng, tổ chức thành phong trào; Phối hợp hoạt
động giữa các phong trào.
- Phong trào cách mạng nhân dân tác động vào đội ngũ cán bộ: Phong trào cách mạng là “lò
lửa” tôi luyện, giáo dục, rèn luyện, thử thách, sàng lọc cán bộ; Là nơi để các cấp trên đánh giá,
tuyển chọn cán bộ; Là nguồn cung cấp cán bộ, nơi sản sinh ra cán bộ.
Ý nghĩa thực tiễn của quan điểm này là:
- Khi tiến hành công tác cán bộ phải gắn với việc xây dựng và tổ chức các phòng trào cách
mạnh của nhân dân, phải vì hiệu quả của phong trào mà tuyển chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ cho phù
hợp.
- Muốn xây dựng đội ngũ cán bộ tốt phải quan tâm xây dựng phong trào cách mạng của nhân
dân. Phải thông qua phong trào để lựa chọn cán bộ đưa đi đào tạo bồi dưỡng. Đào tạo bồi dưỡng
xong lại phải đưa cán bộ thử thách, rèn luyện trong phong trào.
- Không đánh giá, sử dụng cán bộ một cách cảm tính chủ quan. Mọi phẩm giá và bằng cấp,
danh hiệu và chức vụ, tài năng và cống hiến đều phải được kiểm nghiệm qua hoạt động thực tiễn,
phải dựa vào nhân dân để phát triển và kiểm tra, giám sát cán bộ.
Thứ sáu, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức
trong hệ thống chính trị.
Quan điểm này mang tính nguyên tắc thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ là khâu quan trọng, then chốt, là khâu có ảnh hưởng
quyết định đến vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
Để thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ:

- Trong bổ nhiệm cán bộ, cấp ủy lựa chọn những người có đủ tiêu chuẩn để ban thường vụ
quyết định giới thiệu cho các tổ chức trong hệ thống chính trị để các tổ chức đó quyết định bổ
nhiệm.
- Trong bầu cử, cấp ủy lựa chọn những người có đủ tiêu chuẩn để ban thường vụ quyết định
giới thiệu sang ứng cử vào các chức danh lãnh đạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị để các
tổ chức đó bầu.
Ý nghĩa thực tiễn của quan điểm này là:
- Các cấp ủy, tổ chức Đảng thực hiện quản lý cán bộ theo phân công, phân cấp thường xuyên
kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các cấp, các ngành.
- Mọi vấn đề về công tác cán bộ phải đều do tập thể cấp ủy có thẩm quyền quyết định theo đa số.

- Các tổ chức Đảng phải trực tiếp chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cho toàn bộ hệ
thống chính trị và trên mọi lĩnh vực của đồi sống xã hội.
Trong các quan điểm nêu trên, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của đội ngũ
cán bộ, công tác cán bộ trong các giai đoạn cách mạng trước đây và hiện nay. Khẳng định đay là “công việc
gốc”, “là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”.
Do đó, toàn Đảng, các tổ chức cơ sở đảng phải thường xuyên quan tâm và làm tốt công tác trọng yếu này.
Tóm lại: Muốn có cán bộ tốt phải gắn công tác cán bộ với xây dựng tổ chức. Xây dựng tổ chức phải đi
đôi với xây dựng đội ngũ cán bộ. Có nhiệm vụ chính trị mới lập ra tổ chức, có tổ chức mới bố trí cán bộ.
Trên cơ sở nhiệm vụ chính trị mà xác định cần bao nhiêu cán bộ và loại cán bộ, từ đó lựa chọn bố trí cán bộ
cho phù hợp, không vì cán bộ mà lập tổ chức. Quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ gắn với yêu cầu
và nội dung xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, kiện toàn hệ thống chính trị, đổi mới cơ chế, chính sách. Vì vây, cán bộ là khâu có vai trò quyết
định trong công tác cán bộ của Đảng.


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

Câu 6: (Bài 3) Các quy chế công tác cán bộ của tổ chức cơ sở đảng
Công tác cán bộ của Đảng là toàn bộ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của

Đảng nhằm phát huy đến mức cao nhật nọi tiềm năng của toàn Đảng các cơ quan, tổ chức trong hệ
thống chính trị và toàn xã hội, cham lo phát triển nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý,… xây dựng
đội ngũ cán bộ có chất lượng cao, bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách cùa Đảng, pháp
luật của Nhà nước, nghị quyết quyết định của các tổ chức Đảng cấp trên được thực hiện có hiệu
quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện CNH-HĐH đất nước.
Công tác cán bộ là một nội dung có vị trí quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng, là khâu then
chốt của công tác xây dựng Đảng.
Công tác cán bộ có vai trò tạo nên đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ
cách mạng; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; là công tác trọng
yếu thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền; là công tác bảo đảm cho sự sống còn của chế
độ, của đất nước.
Các quy chế công tác cán bộ của tổ chức cơ sở đảng:
Xây dựng và thực hiện tốt các quy chể là một trong những vấn đề nghiệp vụ chủ yếu của công
tác cán bộ của tổ chức cơ sở đảng là những công việc chuyên môn về công tác cán bộ nhằm đảm
bảo cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, đúng quy trình, có căn cứ khoa học, tránh được những sai
lầm chủ quan, phiến diện, độc đoán, chuyên quyền trong công tác cán bộ.
Xây dựng và thực hiện tốt các quy chế công tác cán bộ của tổ chức cơ sở đảng. Đây là khâu rất
quan trọng của công tác cán bộ. Trên cơ sở các quy chế chung về công tác cán bộ, cấp ủy cơ sở cần
quán triệt, vận dụng để xây dựng các quy định thích hợp. Nghị quyết lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã đưa ra mười quy chế của công tác cán bộ:
Thứ nhất, về đánh giá cán bộ.
Việc đánh giá cán bộ phải làm hàng năm, trước khi cán bộ kết thúc nhiệm kỳ, bổ nhiệm, đề bạt
hoặc chuyển công tác hay hết thời hạn tập sự.
Đánh giá cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ; chất lượng hiệu quả công việc thực tế, có
tính đến môi trường và điều kiện công tác; mức độ tín nhiệm của quần chúng nơi công tác và nhân
dân nơi cán bộ sinh sống.
Trách nhiệm đánh giá cán bộ thuộc về cấp ủy, tổ chức đảng nơi cán bộ sinh hoạt, cơ quan quản
lý cấp trên trực tiếp của cán bộ và bản thân cán bộ tự đánh giá.
Cán bộ được thông báo ý kiến nhận xét của cơ quan có thẩm quyền về bản thân cán bộ đó,

được trình bày ý kiến, có quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp trên về ý kiến của mình nhưng trong
khi chờ đợi ý kiến của cấp trên phải chấp hành ý kiến kết luận của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, về tuyển chọn cán bộ, công chức, viên chức cơ sở.
Thực hiện chế độ dân chủ, công khai trong việc tuyển chọn cán bộ, công chức, bảo đảm tuyển
chọn đúng những người có đủ tiêu chuẩn theo từng chức danh cán bộ. Xây dựng và thực hiện quy
trình tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ một cách chặt chẽ.
Các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị có nhu cầu tuyển cán bộ, công chức cần công bố
công khai rộng rãi nhu cầu, đối tượng, tiêu chuẩn cán bộ cần tuyển. Kết quả sát hạch, thi tuyển là
một căn cứ chủ yếu để ra quyết định tuyển dụng cán bộ.
Tùy theo loại cán bộ cần tuyển mà lập hội đồng thi tuyển quốc gia, hội đồng thi tuyển ngành
hoặc địa phương. Quy định nhiệm vụ, chức năng, quy chế làm việc của các hội đồng thi tuyển, bảo
đảm việc thi tuyển tiến hành một cách chặt chẽ, khách quan và công bằng.
Việc lựa chọn công chức, viên chức ở cơ sở có thể từ nhiều nguồn khác nhau, song phải thực
hiện theo pháp luật. Mọi công dân muốn trở thành công chức, viên chức cơ sở phải thi tuyển công


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

khai, dân chủ, minh bạch.
Thứ ba, về bầu cử.
Việc bầu cử phải thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước và Điều lệ Đảng, đoàn thể. Các cán
bộ do tổ chức đảng giới thiệu, tham gia vào các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể
nhân dân phải được tập thể cấp ủy thảo luận và nhất trí giới thiệu đúng thể lệ, quy chế, quy trình
bầu cử.
Người được bầu vào các chức vụ cấp trưởng phải đề xuất được đề án, chương trình công tác
trong nhiệm kỳ, cam kết hoàn thành nhiệm vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức.
Thứ tư, về bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ.
Thực hiện chế độ bổ nhiệm có thời hạn. Hết thời hạn giữ chức vụ, cấp có thẩm quyền căn cứ
vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ và yêu cầu công tác để xem xét quyết định có tiếp
tục bổ nhiệm cán bộ giữ chức vụ đó nữa hay không.

Trong thời gian đảm nhiệm chức vụ, người nào vì việc công, vì lý do sức khỏe hoặc vì hoàn
cảnh cá nhân được từ chức, miễn chức; người không hoàn thành nhiệm vụ, có sai phạm, uy tín
giảm sút thì tùy theo mức độ mà bị miễn chức hoặc cách chức kịp thời.
Cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị có trách nhiệm cùng tập thể lãnh đạo đào tạo, bồi dưỡng
người kế nhiệm.
Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ phải thực hiện đúng quy chế, đúng pháp luật của Nhà
nước và Điều lệ Đảng, đoàn thể.
Thứ năm, về luân chuyển cán bộ.
Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý theo quy hoạch giữa các vùng, các ngành, các
cấp nhằm sử dụng có hiệu quả và tạo nên sự đồng đều trong đội ngũ cán bộ; bồi dưỡng toàn diện
cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong
thực tiễn.
Căn cứ vào đặc điểm từng vùng, từng ngành, từng cấp, nhu cầu công tác và năng lực, sở
trường của cán bộ, cấp ủy lập quy hoạch, kế hoạch luân chuyển cán bộ theo một quy trình chặt
chẽ và có chế độ, chính sách thích hợp.
Thứ sáu, về chế độ học tập.
Học tập là quyền lợi và nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên. Mọi cán bộ, công
chức phải có kế hoạch thường xuyên học tập nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn và năng lực
hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng đạo đức cách mạng. Tinh thần và kết quả học tập là một tiêu chuẩn
để xem xét đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.
Có chế độ chính sách, kinh phí, tạo điều kiện thuận lợi để công tác giáo dục lý luận chính trị
đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Thứ bảy, về việc nhân dân tham gia xây dựng và giám sát cán bộ.
Có cơ chế để nhân dân phát hiện, tiến cử những người có đức, có tài cho các cơ quan lãnh đạo
Đảng, Nhà nước và đoàn thể, lựa chọn, bầu cử những người lãnh đạo trực tiếp của mình.
Nhân dân giám sát các công việc và phẩm chất của cán bộ, trước hết là những cán bộ có quan
hệ trực tiếp với mình; bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại của nhân dân đối với cán bộ theo pháp
luật.
Có chế độ định kỳ cán bộ tự phê bình, lắng nghe và tiếp thu những ý kiến của dân, sửa chữa
những khuyết điểm mà nhân dân nêu ra.

Thứ tám, về chế độ kiểm tra, giám sát.
Cấp ủy và tổ chức đảng có trách nhiệm xây dựng chế độ kiểm tra, giám sát cán bộ và công tác
cán bộ.
Kịp thời giám sát, kiểm tra, kết luận các vụ việc có liên quan đến cán bộ để đánh giá chính xác
cán bộ. Phát hiện và uốn nắn những sơ hở, thiếu sót trong công tác cán bộ.


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

Thứ chín, về bảo vệ chính trị nội bộ.
Xây dựng quy chế bảo vệ chính trị nội bộ nhằm:
- Bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh và đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
- Bảo vệ sự trong sạch chính trị nội bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và cán bộ
lãnh đạo bong hệ thống chính trị, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các phần tử chống đối và cơ hội
về chính trị.
- Thẩm tra kết luận các cán bộ có vấn đề về lịch sử chính trị hoặc có quan hệ chính trị phức
tạp.
- Phát hiện và xử lý kịp thời các tổ chức chống đối ngay từ khi chúng nhen nhóm hoạt động.
- Bảo vệ bí mật của Đảng và của Nhà nước.
Thứ mười, về phân công, phân cấp quản lý cán bộ.
Xác định trách nhiệm, quyền hạn của các cấp quản lý cán bộ; quyền hạn phải đi liền với trách
nhiệm.
Cấp ủy, cấp ủy viên và thủ trưởng quản lý cán bộ phải chịu trách nhiệm trước cấp ủy và thủ
trưởng cấp trên về cán bộ thuộc quyền quản lý của mình.
Chi bộ, đảng bộ có trách nhiệm quản lý cán bộ là đảng viên thuộc chi bộ, đảng bộ mình (kể cả
đảng viên là cán bộ cao cấp).
Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo, ủy ban Kiểm tra, Ban Dân vận cùng các ban khác của Đảng có
trách nhiệm giúp cấp ủy, tổ chức đảng về công tác cán bộ.
Tóm lại, để thực hiện tốt công tác cán bộ, tổ chức cơ sở Đảng cần phải xây dựng và thực hiện tốt

các quy chế cán bộ, đây là khâu rất quan trọng của công tác cán bộ. Đi đôi với khuyến khích lợi ích
vật chất, cần chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng cho cán bộ. Mục tiêu lý tưởng cách mạng là
động lực lớn nhất để thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của từng cán bộ./.


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

Câu 7: Làm rõ “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then
chốt trong công tác xây dựng Đảng”?
Đảng ta xác định “Cán bộ và công tác cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Và trong công tác cán bộ thì bổ nhiệm
cán bộ là một nội dung quan trọng. Do đó, để thực hiện đúng, khoa học, hiệu quả công tác này thì
việc sử dụng, bổ nhiệm cán bộ cần tuân theo các nguyên tắc và quy trình nhất định.
Định nghĩa phổ biến hiện nay về cán bộ cũng có 2 nghĩa:
Thứ nhất, cán bộ là người làm công tác, có nghiệp vụ chuyên môn nhất định trong một cơ quan
Nhà nước, một tổ chức của hệ thống chính trị.
Nghĩa này chỉ, đội ngũ cán bộ được hình thành thông qua con đường đào tạo từ các nhà trường.
Đây là bộ hận đông đảo nhất, ổn định nhất.
Thứ hai, cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức của hệ thống
chính trị.
Nghĩa này chỉ, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (có chức vụ). Bộ phận này được hình thành
thông qua việc bầu cử hoặc bổ nhiệm.
Công tác cán bộ của Đảng là toàn bộ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của
Đảng nhằm phát huy đến mức cao nhật nọi tiềm năng của toàn Đảng các cơ quan, tổ chức trong hệ
thống chính trị và toàn xã hội, cham lo phát triển nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý,… xây dựng
đội ngũ cán bộ có chất lượng cao, bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách cùa Đảng, pháp
luật của Nhà nước, nghị quyết quyết định của các tổ chức Đảng cấp trên được thực hiện có hiệu
quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện CNH-HĐH đất nước.
* Vai trò, vị trí chung của đội ngũ cán bộ:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ:

+ Các nhà kinh điển đều coi: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, quần chúng là lực
lượng quyết định sự thành bại của cách mạng.
Người nhấn mạnh: nếu không có đội ngũ cán bộ tốt "thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ
chỉ là mớ giấy lộn".
+ Bên cạnh đó “Họ” cũng rất coi trọng vai trò của đội ngũ cán bộ. Các ông “ đặt đội ngũ cán bộ
vào vị trí, vai trò có tính quyết định đối với các cuộc cách mạng, là yếu tố quyết định đối với sự
lãnh đạo của Đảng”
- Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng: cán bộ và công tác cán bộ có vị trí, vai trò là
mắt khâu quan trọng, then chốt mang tính quyết định đối với sự nghiệp cách mạng, là nhân tố
quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, quyết định vận mệnh của đất nước và chế
độ, là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".
* Vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ cơ sở: ngoài vị trí, vai trò chung của đội ngũ cán bộ, đội ngũ
cán bộ cơ sở còn có vị trí, vai trò riêng:
+ Ví trí đội ngũ cán bộ cơ sở là tế bào hợp thành các tổ chức ở cơ sở; là cầu nối giữa Đảng, chính
quyền, các đoàn thể quần chúng với nhân dân; là những người trực tiếp lãnh đạo các phong trào cách
mạng của quần chúng ở cơ sở; là những người trực tiếp tổ chức cho quần chúng thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở.
+ Vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở là lực lượng phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần làm
chủ của quần chúng ở cơ sở; là lực lượng nồng cốt đảm bảo sự đoàn kết thống nhất ở cơ sở; là nguồn
bổ sung cán bộ cho các tổ chức cấp trên.
Từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ đòi hỏi Đảng và các tổ chức trong hệ thống


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

chính trị phải coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, phải xác định rõ công tác cán bộ là khâu then
chốt của công tác xây dựng Đảng.
Thực trạng đội ngũ cán bộ hiện nay:

Mặt mạnh
- Đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý tại bộ phận đã được rèn luyện thử thách trong
chiến tranh cách mạng và thực tiễn xây dựng kinh tế, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần
độc lập tự chủ, kiên định với mục tiêu lý tưởng đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân đã lựa chọn.
- Số cán bộ đào tạo, bồi dưỡng cơ bản ngày càng nhiều. Phần lớn nhạy bén với những vấn đề
mới bước đầu có những hiểu biết, tích lũy được kinh nghiệm về kinh tế thị trường, kinh tế đối
ngoại, pháp luật và quản lý vĩ mô. Nắm vững và vận dụng sáng tạo đường lối chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước tạo cơ sở cho sự thống nhất cao về ý chí và hành động.
- Đội ngũ cán bộ các cấp luôn giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất, gắn bó
chặt chẽ với nhân dân, hết lòng vì dân, chính vì vậy mà giữ được sự ổn định chính trị (ngay cả lúc
khó khăn nhất), tạo tiền đề cho sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp CNH-HĐH đúng hướng và thành công
Yếu kém
- Một số bộ phận cán bộ sa sút về phẩm chất chính trị, giao động về mục tiêu, lú tưởng; có
trường hợp ở mức nghiêm trọng.
- Một số bộ phận cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức và lối sống, lợi dụng sơ hở của cơ chế
quản lý Nhà nước để ăn cắp của công, lợi dụng chức quyền để thu vén cá nhân, làm giàu bất chính.
Thực trạng công tác cán bộ hiện nay:
Mặt mạnh
- Bước đầu huy động được các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng trực tiếp làm tham mưu
xây dựng đội ngũ cán bộ. Việc đánh giá, sử dụng cán bộ dân chủ, tập thể hơn trước. Từng bước tiêu
chuẩn hóa cán bộ, kết hợp các độ tưởi, các loại, các thế hệ cán bộ.
- Đã đào tạo, bồi dưỡng hàng vạn cán bộ cả về lý luận, chính trị, quân sự, quan điểm, đường lối
của Đảng, về quản lý hành chính, quản lý kinh tế, khoa học kỹ thuật, pháp luật, văn hóa nghệ thuật.
- Đã thực hiện một số chính sách phù hợp với tình hình mới như: chính sách chăm sóc người có
công; chính sách mẹ Việt nam anh hùng, ….
- Đã ban hành được nhiều quy chế và công tác cán bộ.
Yếu kém
- Việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ nhiều khi còn chủ quan, chưa thật công tâm, thiếu dân
chủ hoặc dân chủ hình thức. Bố trí cán bộ nhiều trường hợp còn nặng nề về cơ cấu, lúng túng bị
động khi bố trí cán bộ chủ chốt. Ở một số ngành, địa phương còn hẹp hòi, định kiến, không mạnh

dạn đề bạt cán bộ trẻ.
- Chính sách đãi ngộ cán bộ, nhất là chính sách tiền lương, nhà ở, điều kiện làm việc còn bất hợp
lý, thực hiện không thấng nhất, chưa tạo được động lực, chưa phát huy tài năng, chưa khuyết khích
cán bộ công tác ở cơ sở, những vùng khó khăn.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch, sử dụng cán bộ
chất lượng và hiệu quả đào tạo còn thấp.
Từ thực trạng đội ngũ can bộ và công tác cán bộ (còn nhiều yếu kém, hạn chế) đòi hỏi Đảng, các
tổ chức trong hệ thống chính trị phải coi trọng công tác cán bộ, phải xác định rõ công tác cán bộ là
khâu then chốt của công tác xây dựng đảng.
Trong Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, Đảng ta đưa ra 5 quan điểm
xây dựng đội ngũ cán bộ. Kết luận Hội nghị lần thứ chín BCH TW khóa X về tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020 bổ sung, xác định 6 quan điểm. Trong đó, có
quan điểm khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

tác cán bộ gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”
Có thể nói quan điểm này xuất phát từ nhận thức về vai trò của cán bộ. Sinh thời Chủ tịch Hồ
Chí Minh dạy rằng: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, "công việc thành công hoặc thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém".
Qua hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã đạt được thành tựu to lớn, đất nước
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm
vụ của thời kỳ này, Đảng ta đã xây dựng chiến lược cán bộ. Trong đó, Đảng khẳng định: "Cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng". Đội ngũ cán bộ có vai trò quan trọng, đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành lại càng có vai trò quan trọng h ơn. Thực tiễn
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và thực tiễn cách mạng nước ta cũng khẳng định điều đó.
Sự nghiệp đối mới của đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đòi hỏi phải phát huy cao độ

sức mạnh, trí sáng tạo và tinh thần làm chủ của nhân dân. Đó là trách nhiệm của toàn Đảng. Song
đội ngũ cán bộ cơ sở hằng ngày, hằng giờ gắn bó với nhân dân, lăn lộn trong thực tiễn sinh động ở
cơ sở, họ có ưu thế và vai trò to lớn trong việc khơi dậy, phát huy tinh thần làm chủ, tính sáng tạo
của nhân dân; nắm vững tâm tư, tình cảm, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phán ánh với
Đảng, để Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân, dễ đi vào nhân dân
để nhân dân thực hiện. Đời sống mọi mặt của nhân dân ở cơ sở được đảm bảo hay không phụ thuộc
rất lớn vào sự lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ cơ sở.
Xã, phường, thị trấn là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, mọi mặt hoạt động của xã hội đều diễn ra
hằng ngày ở đó. Người trực tiếp lãnh đạo, điều hành các hoạt động ở xã, phường, thị trấn chính là
đội ngũ cán bộ cơ sở. Họ là hạt nhân, lực lượng nòng cốt bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong chi
bộ, đảng bộ và trong nhân dân, xóm, ấp bản, khu phố. Thông qua đội ngũ cán bộ cơ sở, vai trò lãnh
đạo và uy tín của Đảng được thê hiện và được nâng lên.
Thực tiễn cách mạng ở nước ta cho thấy, ở nơi nào có đội ngũ cán bộ cơ sở tốt, nhất là cán bộ
chủ chốt thi ở đó phong trào cách mạng quần chúng phát triển mạnh mẽ, kinh tế - xã hội phát triển,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng lên. Vì thế bước vào thời kỳ đổi
mới, Đảng ta khẳng định: "Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng
ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng". Đồng thời Đảng nhấn
mạnh vai trò quan trọng của cán bộ cơ sở, nhất là đội ngũ cốt cán và chỉ rõ cần dành kinh phí thỏa
đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở và chú ý kiện toàn, tăng cường đội ngũ cốt
cán. Đặc biệt, tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta nhấn mạnh:
Thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hóa, thể chế hóa và từng bước nhất thể hóa chức danh cán bộ;
tạo bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở.
Từ những vấn đề làm rõ trên, xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, đồng bộ, có chất lượng cao
là đòi hỏi tất yếu khách quan; là trách nhiệm của toàn Dảng, toàn dân, toàn hệ thống chính trị.
Phải xác định rõ: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh
của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng./.


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở


Câu 8: (Bài 5) Nhiệm vụ công tác tư tưởng của Đảng
Trong các thời kỳ lãnh đạo cách mạng, Đảng ta bao giờ cũng đặt công tác tư tưởng lên hàng
đầu. Công tác tư tưởng luôn được coi là bộ phận trọng yếu của công tác xây dựng Đảng, góp phần
quan trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.
Vậy công tác tư tưởng là gì? Có vị trí, vai trò, và nhiệm gì thế nào trong công tác xây dựng
Đảng.
Công tác tư tưởng là hoạt động lãnh đạo quan trọng hàng đầu của Đảng nhằm nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn, phát triển Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ;
truyền bá Cương lĩnh, đường lối, chính sách, xây dựng thế giới quan khoa học, bồi dưỡng lý
tưởng, lẽ sống, xây dựng niềm tin, định hướng giá trị đúng đắn, thúc đẩy con người hành động
tích cực và sáng tạo để thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng; xây dựng đời sống văn
hóa, con người mới; xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức.
Công tác tư tưởng là một trong những phương thức lãnh đạo chủ yếu, có vị trí quan trọng hàng
đầu trong hoạt động lãnh đạo của Đảng.
Công tác tư tưởng có vai trò tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh chính
trị - tinh thần to lớn trong Đảng và toàn xã hội, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng. Đánh giá về vai trò quan trọng của công tác tư tưởng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: "Công tác tư tưởng đã góp phần nâng cao nhận thức, tính
tích cực của cán bộ, đảng viên, nâng cao lòng tin của nhân dân vào đường lối đổi mới, tạo sự nhất
trí trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, giữ vững ổn
định chính trị - xã hội".
* Nhiệm vụ công tác tư tưởng của tổ chức cơ sở đảng
Trong những năm tới, công tác tư tưởng của chi bộ, đảng bộ cơ sở cần tập trung vào các nhiệm
vụ chủ yếu sau:
Một là, tăng cường giáo dục, nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, thống nhất nhận thức và
hành động, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
Nội dung chính trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng ở cơ sở trong những năm tới là:
- Giáo dục quan điểm, đường lối và các nghị quyết của Đảng, của tổ chức đảng các cấp ở địa
phương, cơ sở.
- Giáo dục, nâng cao nhận thức về thời cơ và thách thức của đất nước, của từng địa phương,

ngành, cơ sở trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Giáo dục, nâng cao cảnh giác cách mạng, chổng âm mưu và thủ đoạn "diễn biến hòa bình",
bạo loạn lật đổ, phá hoại về tư tưởng, chính trị của các thế lực thù địch, cơ hội.
- Giáo dục tinh thần đoàn kết dân tộc, tinh thần tương thân, tương ái, hướng về cội nguồn, giữ
gìn truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc...
Hai là, công tác tư tưởng phải tuyên truyền, cổ vũ, động viên quần chúng góp phần đẩy mạnh
phong trào thi đua yêu nước, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
Công tác tư tưởng của chi bộ, đảng bộ cơ sở phải góp phần đưa đường lối của Đảng vào cuộc
sống, biến nghị quyết của Đảng thành hiện thực, thông qua việc tham gia giải quyết những vấn đề
kinh tế - xã hội bức xúc ở địa phương, cơ sở.
Động viên mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân đoàn kết thống nhất, phát huy truyền thống,
khắc phục khó khăn, huy động mọi nguồn lực để phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, nâng cao
đời sống nhân dân, hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Công tác tư tưởng phải góp phần giải đáp kịp thời, đúng đắn những vướng mắc về nhận thức,
định hướng chính trị trong xây dựng đời sống văn hóa, thực hiện các chính sách xã hội, chính sách
dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ở địa phương, cơ sở.


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

Ba là, tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
Đây là nhiệm vụ rất quan trọng không chỉ với công tác tư tưởng của các tổ chức đảng ở địa
phương cơ sở, mà còn có ý nghĩa to lớn đối với sự “tồn vong” của vai trò lãnh đạo của Đảng.
Chi bộ, đảng bộ cơ sở là nơi thường xuyên và trực tiếp quản lý, giáo dục, theo dõi diễn biến,
sự hình thành những phẩm chất đạo đức mới của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí.
Hướng dẫn nhân dân phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng
phí của cán bộ, đảng viên, công chức ở địa phương, cơ sở.
Phát huy sức mạnh tổng họp của các lực lượng làm công tác tư tưởng, kết hợp các biện pháp tư

tưởng, chính trị, tổ chức, kiểm tra, kinh tế, hành chính.
Bốn là, công tác tư tưởng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa, bồi dưỡng,
xây dựng con người mới với những đức tính, phẩm chất tốt đẹp.
Chi bộ, đảng bộ cơ sở phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu
quả phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" ở cơ sở, xây dựng làng, ấp, xã,
phường, v.v. văn hóa, gia đình văn hóa; xây dựng con người mới với những đức tính tốt đẹp.
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh đi đôi với đấu tranh chống tệ nạn xã hội, chống
mê tín, dị đoan và các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, lối sống thực dụng, xa hoa, trụy
lạc...
Năm là, công tác tư tưởng trực tiếp tham gia đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh.
Các chi bộ, đảng bộ cơ sở cần coi trọng, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng
trên lĩnh vực tư tưởng. Thực hiện nghiêm túc quy định về chế độ học tập lý luận chính trị trong
Đảng. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Thường
xuyên nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, xây dựng chi bộ, đảng bộ trong sạch, vững mạnh;
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, đảng bộ.
Sáu là, chủ động tiến công, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng.
Không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, vững vàng trước mọi thử thách, khó khăn.
Quán triệt sâu sắc những chỉ thị, quy định về bảo vệ chính trị nội bộ, trước hết là những quy
định về những điều đảng viên không được làm.
Tóm lại: công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt
động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị, bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, khẳng định vai trò
tiên phong của Đảng về chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hóa, đạo đức. Công tác tư tưởng có vai trò đi
trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Đề cương ôn tập Môn: Nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở

Câu 9: (Bài 6) Nhiệm vụ công tác dân vận của Đảng

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý
nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân.
Trong bài báo Dân vận viết ngày 15-10-1949, Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm dân vận: "Dân
vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp
thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và
Đoàn thể đã giao cho".
Công tác dân vận của Đảng là toàn bộ hoạt động của Đảng nhằm tăng cường mối quan hệ mật
thiết giữa Đảng với nhân dân, được thể hiện bằng việc vận động nhân dân thực hiện đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa, các tổ chức đảng,
các tổ chức chính trị - xã hội và vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Công tác dân vận của tổ chức cơ sở đảng là toàn bộ những hoạt động của đảng bộ, chi bộ và
các tổ chức khác trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng nhằm tuyên truyền,
giáo dục, thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ở Việt Nam, hiện nay toàn Đảng có khoảng 57.000 tổ chức cơ sở Đảng, với hơn 4,3 triệu đảng
viên, vai trò của tổ chức với công tác dân vận rất quan trọng, bởi vì:
- Thứ nhất, cơ sở là nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước đến với nhân dân và trực tiếp giải thích cho nhân dân, hướng dẫn nhân dân hiểu rõ và
bàn bạc dân chủ, tìm ra giải pháp tối ưu, động viên, tổ chức nhân dân thực hiện các sáng tạo, sinh
động đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
- Thứ hai, các tổ chức cơ sở Đảng được xây dựng theo đơn vị cơ sở là những điểm tựa, qua đó
đảng hiểu từng tập thể, từng người lao động, từng nhân dân để tiến hành công tác tuyên truyền cổ
động và tổ chức nhân dân.
- Thứ ba, các tổ chức cơ sở đảng là gốc rễ để đảng bắt sâu vào nhân dân, tiếp thêm sức mạnh và
nhựa sống từ quần chúng.
Vì vậy, làm tốt công tác dân vận chính là góp phần quan trọng vào cũng cố, tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

* Nhiệm vụ công tác dân vận của tổ chức cơ sở đảng: 5 nhiệm vụ
Một là, tuyên truyền, phổ biển mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương đơn vị đến
mỗi người dân.
Vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị trên các lĩnh vực của tổ chức đảng tại địa
phương, cơ sở đã vạch ra. Các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng, v.v. của địa
phương, cơ sở phải trở thành nội dung cụ thể của phong trào cách mạng quần chúng nhân dân. Chỉ
thông qua phong trào cách mạng của nhân dân mới có khả năng hiện thực hóa nhiệm vụ chính trị.
Vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị là nội dung quan trọng của công tác dân vận
của tổ chức cơ sở đảng. Tuy nhiên, vận động nhân dân không chỉ bằng tuyên truyền, giác ngộ mà
phải nâng cao đời sống cho nhân dân. Dân chỉ tin Đảng, theo Đảng, gắn bó với Đảng khi đời sống
vật chất, văn hóa, tinh thần và dân chủ của họ được đảm bảo.
Hai là, vận động và tổ chức nhân dân thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, đi sâu, đi sát nắm bắt
tình hình và giải quyết kịp thời những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là
những vấn đề liên quan đến dân sinh, dân trí và dân chủ. Để nhân dân thực hiện quy chế dân chủ ở


×