Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp rèn luyện năng lực tư duy linh hoạt, sáng tạo cho học sinh thông qua các bài tập phần hợp chất hữu cơ có nhóm chức hóa học 11 – nâng cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.53 KB, 18 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN NĂNG LỰC TƯ DUY LINH
HOẠT, SÁNG TẠO CHO HỌC SINH THÔNG QUA CÁC BÀI TẬP
PHẦN HỢP CHẤT HỮU CƠ CÓ NHÓM CHỨC HÓA HỌC 11 –
NÂNG CAO"

1


PHẦN I: MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài
Nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập với cộng đồng quốc
tế. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước, đổi mới nền giáo dục là trọng tâm của
sự phát triển. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
hội nhập quốc tế là con người.
Nghị quyết trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) đã xác định: phải khuyến khích tự
học, phải áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho HS năng lực tư
duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
Trong quá trình dạy học ở trường phổ thông, nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là phát
triển tư duy cho HS ở mọi bộ môn, trong đó có bộ môn hoá học. Hoá học là môn khoa
học thực nghiệm và lý thuyết, vì thế bên cạnh việc nắm vững lý thuyết, người học cần
phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo mọi vấn đề thông qua hoạt động thực nghiệm, thực
hành giải bài tập.
Một trong những phương pháp dạy học tích cực là sử dụng BTHH trong hoạt động
dạy và học ở trường phổ thông. BTHH đóng vai trò vừa là nội dung vừa là phương tiện
để chuyển tải kiến thức, phát triển tư duy và kỹ năng thực hành bộ môn một cách hiệu
quả nhất. BTHH không chỉ củng cố nâng cao kiến thức, vận dụng kiến thức mà còn là
phương tiện để tìm tòi, hình thành kiến thức mới. Rèn luyện tính tích cực, trí thông minh
sáng tạo cho HS, giúp các em có hứng thú học tập, chính điều này đã làm cho BTHH ở


trường phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong việc dạy và học hoá học, đặc biệt là sử
dụng bài tập để phát triển năng lực tư duy cho HS trong quá trình dạy học.
Việc nghiên cứu sử dụng chúng để phát triển năng lực tư duy cho HS trong quá
trình dạy học vẫn chưa được quan tâm đúng mức.Kinh nghiệm trong giảng dạy bộ môn
Hóa Học ở trường THPT, cụ thể hơn dạng bài tập “phần hợp chất hữu cơ có nhóm chức
Hoá học 11 nâng cao” để thử nghiệm và đưa ra một số biện pháp rèn năng lực tư duy
linh hoạt, sáng tạo cho học sinh trong các BTHH, tôi nhận thấy rằng đây là một vấn đề rất
khó đối với học sinh (kể cả học sinh đi dự thi học sinh giỏi), và việc vận dụng lý thuyết
cụ thể vào từng bài tập và luyện thi đại học còn hạn chế. Sau thời gian giảng dạy và thử
nghiệm ở khối lớp khác nhau, đặc biệt là khối 11, tôi xin trình bày một số suy nghĩ của
bản thân nhằm phát huy năng lực tư duy linh hoạt, sáng tạo cho học sinh nắm bài một
cách sâu sắc, khái quát hơn thông qua đề tài: “Một số biện pháp rèn luyện năng lực tư

2


duy linh hoạt, sáng tạo cho học sinh thông qua các bài tập phần hợp chất hữu cơ có
nhóm chức Hoá học 11- nâng cao”
I.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một số biện pháp có tính phương pháp luận, đưa ra một số bài tập phần hợp
chất hữu cơ có nhóm chức lớp 11 nâng cao trường THPT, với nội dung có thể khai thác
để phát triển năng lực tư duy linh hoạt, sáng tạo cho học sinh.
I.3. Phương pháp nghiên cứu
1) Nghiên cứu lí luận
- Nghiên cứu lí luận về việc phát triển năng lực tư duy cho học sinh.
- Nghiên cứu về tác dụng và cách sử dụng bài tập trong dạy học hoá học.
2) Nghiên cứu thực tiễn
- Tìm hiểu thực trạng năng lực tư duy của HS trong quá trình giải BTHH .
- Tình hình sử dụng BTHH để phát triển tư duy cho HS ở THPT hiện nay.
- Hiệu quả của các biện pháp đã đề xuất.


3


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
PHÁT TRIỂN TƯ DUY LINH HOẠT, SÁNG TẠO QUA BÀI TẬP HOÁ HỌC
II.1.1. Cơ sở lí luận
II.1.1.1. Điều kiện để có tư duy linh hoạt, sáng tạo
a) Kiến thức: Sáng tạo là vận động từ cái cũ đến cái mới, nên tư duy phải linh hoạt, mềm
dẻo trên cơ sở thông hiểu sâu sắc bản chất của các khái niệm, định luật, các qui luật
tương tác giữa các chất và các quá trình hóa học, chứ không hiểu một cách hình thức
(hiểu hình thức thì tư duy rất cứng nhắc không linh hoạt được).
b) Phương pháp khoa học: Phải có năng lực độc lập trong tư duy và trong hành động.
Tính linh hoạt và sáng tạo của tư duy liên quan mật thiết với độc lập của tư duy. Độc lập
ở trình độ cao dẫn đến sáng tạo, độc lập là tiền đề cho sáng tạo.
c) Ý chí: - Phải rèn lòng say mê học tập, ham muốn hiểu biết, biến thành nhu cầu và
nguồn vui của cuộc sống. Nhiệt tình trong công việc, không bao giờ bằng lòng với cái
hiện có, mà luôn luôn tìm cách cải tiến nó tốt hơn. Đừng xem thường những vấn đề, bài
toán đơn giản, đừng bao giờ nghĩ rằng chẳng còn gì để cải tiến, sáng tạo nữa! Suy nghĩ
đó sẽ làm hạn chế khả năng sáng tạo của HS.
- Luôn luôn chủ động học tập một cách có ý thức, không chỉ học những gì đã được giảng
dạy, mà phải tìm tòi những bài toán mới, xây dựng những bài toán mới.
- Phải rèn luyện tinh thần lao động kiên trì, nhẫn nại, vượt khó. Không có một con
đường hay một phương pháp nào đơn giản, vạn năng để đưa đến sáng tạo cả mà nếu có
thì lúc đó "sáng tạo" chẳng còn giá trị gì nữa !
II.1.1.2. Phát triển tư duy hóa học cho học sinh
Việc phát triển tư duy cho HS trước hết là giúp cho HS nắm vững kiến thức, biết vận dụng
kiến thức vào việc giải bài tập và thực hành qua đó mà kiến thức HS thu nhận được trở nên
vững chắc và sinh động hơn. HS chỉ thực sự lĩnh hội được tri thức khi tư duy của họ được

phát triển và nhờ sự hướng dẫn của GV mà HS biết phân tích, khái quát tài liệu có nội
dung sự kiện cụ thể và rút ra những kết luận cần thiết.
Tư duy càng phát triển thì càng có nhiều khả năng lĩnh hội tri thức một cách nhanh
chóng, sâu sắc và khả năng vận dụng tri thức càng linh hoạt, có hiệu quả hơn. Như vậy sự
phát triển tư duy của HS được diễn ra trong quá trình tiếp thu và vận dụng tri thức. Do đó
4


hoạt động giảng dạy cần phải tập luyện cho HS khả năng tư duy sáng tạo qua các khâu
của quá trình dạy học.
II.1.2. Thực tiễn về việc sử dụng bài tập môn Hoá học ở trường THPT nhằm phát
triển năng lực tư duy linh hoạt, sáng tạo cho học sinh
Thực tiễn cho thấy BTHH không chỉ có tác dụng ôn tập, củng cố kiến thức đã học
mà còn có tác dụng để phát triển kiến thức, phát triển năng lực tư duy và rèn trí thông
minh cho HS. Tuy nhiên, việc sử dụng BTHH như là một phương pháp dạy học hiệu quả
thì chưa được chú ý đúng mức.
- BTHH theo nghĩa rộng để vận dụng khi giải bài mới chưa được nghiên cứu vận
dụng.
- GV và HS hầu hết đều quan tâm đến kết quả của bài toán nhiều hơn quá trình giải
nhanh bài toán. Tất nhiên, trong quá trình giải nhanh bài toán các thao tác tư duy được
vận dụng, các kĩ năng suy luận, kĩ năng tính toán, kĩ năng viết và cân bằng PTHH được
rèn luyện. Thế nhưng, nếu chú ý rèn tư duy cho HS trong quá trình giải thì việc giải để đi
đến đáp số của các bài toán sẽ đơn giản và nhanh hơn rất nhiều.
- Nhiều giáo viên cũng chưa quan tâm đúng mức việc tự học của học sinh, coi việc tự
học của học sinh chỉ dừng lại ở việc học thuộc bài lý thuyết và làm được nhiều bài tập
theo sự hướng dẫn của giáo viên trên lớp. Chính vì vậy nhiều giáo viên chỉ lên lớp theo
lịch trình và truyền đạt đúng kiến thức quy định, chưa hướng dẫn cho học sinh cách tự
học bộ môn đó để học sinh có thể tự tìm tòi, khám phá và tự lĩnh hội kiến thức ngoài bài
giảng của giáo viên nhằm phát triển năng lực tư duy cho học sinh.
- Khi giải bài toán, cần tổ chức cho mọi đối tượng HS cùng tham gia tranh luận.

Khi nói lên được một ý hay, giải bài toán đúng, với phương pháp hay sẽ tạo ra cho HS
niềm vui, một sự hưng phấn cao độ, kích thích tư duy, nỗ lực suy nghĩ tìm ra cách giải
hay hơn thế nữa.
Vì vậy, việc đưa ra một số BTHH nhằm phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo của học sinh
rất có ý nghĩa trong việc tự ôn tập, củng cố và lĩnh hội kiến thức cho học sinh THPT.
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ RÈN NĂNG LỰC TƯ DUY LINH HOẠT,
SÁNG TẠO CHO HỌC SINH THÔNG QUA BÀI TẬP PHẦN HỢP CHẤT HỮU
CƠ CÓ NHÓM CHỨC HOÁ HỌC 11NÂNG CAO

5


II.2.1. Sử dụng các bài tập có cách giải nhanh, thông minh nhằm rèn luyện khả
năng sáng tạo của học sinh trong việc vận dụng kiến thức và các kỹ năng cơ bản để
giải quyết vấn đề
Sau đây là một số dạng bài tập rèn năng lực tư duy linh hoạt, sáng tạo cho HS khi
sử dụng các phương pháp giải toán để giải nhanh các BTHH.
1) Dựa vào phương pháp bảo toàn khối lượng
Nguyên tắc: Trong một phản ứng hoá học, tổng khối lượng của các sản phẩm bằng tổng
khối lượng của các chất tham gia phản ứng
Ví dụ 1: Cho 4,2 gam hỗn hợp gồm ancol etylic, phenol, axit fomic tác dụng vừa đủ với
Na thấy thoát ra 0,672 lít khí H2 (đktc) và một dung dịch. Cô cạn dd thu được hỗn hợp
rắn X. Khối lượng của X là
A. 2,55 gam.

B. 5,52 gam.

C. 5,25 gam.

D. 5,05 gam .


Hướng dẫn giải
*Cách giải thông thường : (phương pháp ghép ẩn số)
C2H5OH
Mol

a
C6H5OH

Mol

+

a/2

Na → C6H5ONa

{

+ ½ H2

b

b/2

+ Na → HCOONa

c

c



Dựa vào giả thiết ta có hệ phương trình :


+ ½ H2

a

b
H-COOH

Mol

+ Na → C2H5ONa

46( a + c ) + 94 b = 4,2
( a + c ) + b = 0,06



{

+ ½ H2

{

c/2
46 a + 94 b + 46 c = 4,2
a /2 + b/2 + c/2 = 0,03


(

a + c ) = 0,03
b
= 0,03

Khối lượng của hỗn hợp muối là
m = 68 a + 116 b + 68 c = 68( a + c ) + 116 b = 68. 0,03 + 116.0,03
= 5,52 g
*Cách giải nhanh :
Cả 3 hợp chất trên đều có 1 nguyên tử H linh động
6


⇒ Số

mol Na = 2 .số mol H2 = 2.0,03 = 0,06 mol .

Áp dụng định luật bảo toàn khối lượng ta có :
mX = 4,2 + 0,06 ( 23-1 ) = 5,52 gam ⇒ Chọn đáp án B.
2) Dựa vào phương pháp tăng giảm khối lượng
Nguyên tắc: Dựa vào sự tăng giảm khối lượng khi chuyển từ chất này sang chất khác để
xác định khối lượng một hỗn hợp hay một chất.
Ví dụ 2: Cho 20,15 gam hỗn hợp 2 axit no, đơn chức tác dụng vừa đủ với dd Na 2CO3 thì
thu được V lít khí CO2 (đktc) và dd muối. Cô cạn dd thì thu 28,96 gam muối. Giá trị của
V là
A. 4,84.

B. 4,48.


C. 2,24.

D. 2,42.

Hướng dẫn giải
* Cách giải thông thường :
Gọi CTTQ của axit thứ nhất là RCOOH có a mol.
Gọi CTTQ của axit thứ hai là R1COOH có b mol.
PTHH:
2 RCOOH

+

Na2CO3



2 RCOONa
amol

a
2

2R1COONa

+ CO2

b mol


b
2

a mol
2 R1COOH

+

Na2CO3



b mol
Theo đầu bài ta có hệ
 a M + 45 a + b M


÷


÷


+





aM


+  a M


mol
+ H2 O .

mol

 a  M +45 ÷ + b M
+ 45 ÷ =20,15
R
R1



:  a  M + 67  + b M + 67   = 28,96

÷
÷
  R
R1




+45b

=20,15
= 28,96


⇒  a MR + 67 a + b MR1 +67b

R
R1
 45 a + b

⇒  67 a + b
 

+ CO2 + H2O .

R

R

+bM
+bM

R1
R1


÷


÷


=20,15


= 28,96 ⇒ a + b = 0,4

⇒ Số mol CO2 =0,2 mol ⇒ Thể tích CO2 là V = 0,2 .22,4 = 4,48 lít.
* Cách giải nhanh (Sử dụng phương pháp tăng giảm khối lượng)
7


Gọi CTTQ trung bình của 2 axit là R -COOH
PTHH:

2R- COOH

+ Na2CO3 → 2R-COONa + CO2 + H2O .

Theo phương trình ta có :
2mol axit → 2 mol muối thì có 1 mol CO2 và khối lượng tăng 2(23-1) =44 gam
⇒ Số mol CO2 =

8,81
44

= 0,2 mol, theo đề bài: m tăng 28,96-20,15=8,81 gam

⇒ Thể tích CO2 = V= 0,2 .22,4 = 4,48 lít ⇒ Chọn đáp án B.
Nhận xét: Hai phương pháp bảo toàn khối lượng và tăng giảm khối lượng gắn bó với
nhau như chân với tay. Thông thường một bài toán giải được bằng phương pháp bảo toàn
khối lượng, thì cũng giải được bằng phương pháp tăng giảm khối lượng và ngược lại.
Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm đề ra mà nên sử dụng phương pháp nào là hợp lí nhất.
3) Dựa vào phương pháp trung bình

Nguyên tắc:
- Phương pháp trung bình chỉ áp dụng cho bài toán hỗn hợp các chất


- Áp dụng với khối lượng mol trung bình ( M ), số nguyên tử C trung bình, số
nguyên tử H trung bình, gốc hiđrocacbon trung bình, số nhóm chức trung bình .
Ví dụ 3: Một hỗn hợp A gồm 2 ankanal X, Y có tổng số mol là 0,25 mol .Khi cho hỗn hợp
A tác dụng với dd AgNO3/NH3 có dư thì có tạo ra 86,4 gam kết tủa và khối lượng dd
AgNO3 giảm 77,5 gam. Biết MX < MY . CTCT thu gọn của X là:
A. CH3CHO.

B. H-CHO.

C. C2H5CHO. D. không xác định được.

Hướng dẫn giải
*Cách giải thông thường :
Đặt CTTQ của ankanal thứ nhất là CnH2n+1CHO , có a mol
ankanal thứ hai là CmH2m+1CHO , có b mol
t
CnH2n+1CHO+2AgNO3+3NH3+H2O 
→ CnH2n+1COONH4+2Ag+2NH4NO3.
0

a

2a(mol)

t
CmH2m+1CHO+2AgNO3+3NH3+H2O 

→ CmH2m+1COONH4+2Ag
0

+2NH 4NO3.
b

2b (mol)
8


Vì khối lượng dd AgNO3 giảm: 77,5 g mà khối lượng kết tủa Ag là 86,4 gam
⇒ khối lượng 2 anđehit là ( 86,4 – 77,5 ) = 8,9 gam
Theo đề bài ta có


a ( 14n + 30 ) + b ( 14m + 30 ) = 8,9

a + b = 0, 25
⇒ Hệ
:
 2a + 2b = 86, 4 /108 = 0,8


HS sẽ chọn đáp án D

vô nghiệm

⇒ HS đã làm sai

*Cách giải nhanh : Vì khối lượng Ag tách ra là 86,4 gam mà khối lượng dd AgNO 3

giảm 77,5 gam
⇒ Khối lượng 2 anđehit là 86,4 - 77,5 = 8,9 gam


8,9





MX = 30 ⇒ X là H-CHO ⇒ Chọn đáp án B .

M

< MY



M

= 0,25 = 35,6 g/mol Mà MX <

MX < 35,6 < MY

Ví dụ 4: Trung hòa hoàn toàn 12,9 gam hỗn hợp X gồm 2 axit hữu cơ đơn chức cần dùng
vừa đủ 250 ml dd Ba(OH)2 0,5 M. Cô cạn dd sau phản ứng thu được m gam chất rắn.
Giá trị của m là
A. 9,925.

B. 22,333.


C. 14,875.

D. 29,775.

Suy luận: nBa(OH)2 2 = 0,5.0,25 = 0,125 mol
Đặt công thức chung của hai axit là:


2 R COOH + Ba(OH)2 →
0,25
(*)

⇒ R−

⇒ mmuối



+ 45 =

0,125
12,9
0, 25



R COOH



( R COO)2Ba + 2H2O



(*)

0,125

= 51,6 ⇒ R = 6,6


= (2.6,6 + 44.2 + 137).0,125 = 29,775 gam ⇒ Chọn đáp án D.

Nhận xét: Trên đây là một số ví dụ về sử dụng phương pháp trung bình để giải nhanh
bài tập hóa học, đặc biệt là bài tập trắc nghiệm. Dạng bài tập sử dụng phương pháp trung
bình rất đa dạng và phong phú, đặc biệt là bài toán hữu cơ. Trong đó, có nhiều bài toán
không thể giải được theo phương pháp khác. Do vậy trong quá trình giảng dạy, người GV
cần phải làm cho HS thông hiểu bản chất của phương pháp này, suy nghĩ, tìm tòi, vận
dụng linh hoạt, sáng tạo vào giải quyết nhiều bài toán có bản chất tương tự như trên. Từ
đó góp phần phát triển tư duy hóa học cho HS.
9


4) Dựa vào phương pháp sơ đồ đường chéo
Bài toán trộn lẫn các chất với nhau là một dạng bài tập hay gặp trong chương trình
hóa học phổ thông cũng như trong các đề thi kiểm tra và đề thi tuyển sinh đại học, cao
đẳng. Ta có thể giải bài tập dạng này theo nhiều cách khác nhau, song việc giải loại dạng
bài tập này theo phương pháp sơ đồ đường chéo được coi là tốt nhất.
Nguyên tắc: Phương pháp đường chéo thường dùng để giải bài toán trộn lẫn các
chất với nhau, có thể đồng thể hoặc dị thể nhưng hỗn hợp cuối cùng phải là đồng thể

Ví dụ 5: Một dd ancol C2H5OH có độ ancol là 45o và một dd ancol etylic khác có độ
ancol là 15o. Để có một dd mới có độ ancol là 20 o thì cần pha chế về thể tích giữa dd
ancol 450 và ancol 15o theo tỉ lệ là:
A. 1 : 2

B. 2 : 5

C. 1 : 5

D. 2 : 3

Hướng dẫn giải
*Cách giải thông thường
Gọi V1 là thể tích dd ancol 450 ; V2 là thể tích dd ancol 15o .
Vnguyên chất dd1=


45 V1
= 0,45V1
100

;

Vnguyên chất dd 2=

Vddlúc sau = V1 + V2 ;

Theo đề bài ta có: 20 =
⇒ V1:V2


15 V2
= 0,15V2
100

Vnguyên chất lúc sau = 0,45V1 + 0,15V2

0, 45V1 + 0,15V2
V1 + V2

.100

⇒ 20V1

+ 20V2 = 0,45V1 + 0,15V2

⇒ 5V1=

V2

=1:5

*Cách giải nhanh
Áp dụng quy tắc đường chéo ta có
V1

45

5



20
V2


15

V1
5
1
=
=
V2 25 5

25

Chọn đáp án C

5) Dựa vào các đại lượng ở dạng tổng quát

10


Ví dụ 6: Đốt cháy hoàn toàn a mol axit hữu cơ Y được 2a mol CO 2. Mặt khác, để trung
hòa a mol Y cần vừa đủ 2a mol NaOH. CTCT thu gọn của Y là
A. HOOC−CH2−CH2−COOH. B. C2H5−COOH.
C. CH3−COOH.

D. HOOC−COOH.

Hướng dẫn giải

- Đốt a mol axit hữu cơ Y được 2a mol CO 2
phân tử.



axit hữu cơ Y có hai nguyên tử C trong

- Trung hòa a mol axit hữu cơ Y cần dùng đủ 2a mol NaOH
chức cacboxyl (−COOH).



axit hữu cơ Y có 2 nhóm

⇒ CTCT thu gọn của Y là HOOC−COOH ⇒ Chọn đáp án D
Ví dụ 7: Đốt cháy hoàn toàn a mol một anđehit X (mạch hở) tạo ra b mol CO 2 và c mol
H2O (biết b = a + c). Trong phản ứng tráng gương, một phân tử X chỉ cho 2 electron. X
thuộc dãy đồng đẳng anđehit
A. no, đơn chức.

B. không no có hai nối đôi, đơn chức.

C. không no có một nối đôi, đơn chức.

D. no, hai chức.

Hướng dẫn giải
Trong phản ứng tráng gương một anđehit X chỉ cho 2e → X là anđehit đơn chức bởi vì:
+3
+1

trong đó: C+1 − 2e → C+3.
RCHO → RCOONH 4
Đặt công thức phân tử của anđehit đơn chức X là CxHyO ta có phương trình
CxHyO +

y 1

 x + − ÷O2
4 2


→ xCO2 +



a

a.x →

y
H2O
2
a.y
2

mol

(b mol) (c mol)
Ta có:


b=a+c



ax = a +

a.y
2



y = 2x − 2.

Công thức tổng quát của anđehit đơn chức X là C xH2x−2O có dạng Cx−1H2(x−1)−1CHO là
anđehit không no có một liên kết đôi, đơn chức
⇒ Chọn đáp án C
6) Dựa vào phương pháp biện luận
11


Nguyên tắc: Có nhiều bài toán hỗn hợp, đặc biệt là các bài toán hữu cơ có số phương
trình lập được ít hơn số ẩn số. Để giải các bài toán thường phải dùng phương pháp biện
luận.
Ví dụ 8: Hợp chất hữu cơ X chứa C, H, O trong đó oxi chiếm 37,21% khối lượng. Trong
X chỉ có một loại nhóm chức. Khi cho 1 mol X tác dụng với dd AgNO 3/NH3 dư thu được 4
mol Ag. Xác định CTPT và viết CTCT thu gọn của X
Hướng dẫn giải
X có phản ứng tráng bạc ⇒ X có nhóm chức andehit
1mol X tráng bạc sinh ra 4 mol Ag ⇒ X là HCHO hoặc R(CHO)2
Nếu X là HCHO thì %O =

Ta có: MX =

32.100
37,21

16
.100
30

= 53,3% (loại) ⇒ X là R(CHO)2

= 86 → R = 86 – 29.2 = 28 ⇒ R là C2H4

CTPT của X là C2H4(CHO)2.
CTCT của X là: OHC-CH2–CH2–CHO hay CH3–CH–(CHO)2
II.2.2. Sử dụng các bài tập có nhiều cách giải để học sinh được nhìn nhận và giải
quyết vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau
* Đây là một biện pháp quan trọng nhằm phát triển năng lực tư duy và trí thông minh
sáng tạo của HS. Vì vậy khi tiến hành giảng dạy, người GV phải xây dựng một hệ thống
bài tập có nhiều cách giải khác nhau, rồi yêu cầu HS tự mình suy nghĩ tìm ra những
phương pháp giải hợp lí, rút ra nhận xét về phương pháp nào là hay nhất, hợp lí nhất.
Phương pháp nào không thể sử dụng để giải bài toán đó. Công việc này tương đối khó
khăn, đòi hỏi HS phải có kiến thức vững chắc và khả năng suy nghĩ độc lập cao, tư duy
linh hoạt, sáng tạo mới có thể tìm ra nhiều cách giải khác nhau trên một bài toán.
Ví dụ 9: Anđehit A no, mạch thẳng có CTPT (C 3H5O)n. Xác định CTPT, CTCT của A.
Nếu không biết A là hợp chất no, mạch thẳng, có thể xác định được CTPT của A không?
Nếu có hãy trình bày cách biện luận.
Hướng dẫn giải
Cách 1. Dùng nhận xét về số nhóm chức liên quan tới cấu trúc mạch cacbon.
Ta có (C3H5O)n ⇔ C3nH5nOn ⇔ C2nH4n(CHO)n. Vì A là anđehit có mạch cacbon không

phân nhánh, nên số nhóm chức trong phân tử không quá 2 -0 nghĩa là n = 1; hoặc n = 2.
Với n = 1 loại, vì số nguyên tử H trong phân tử lẻ – không có cấu tạo phù hợp!
12


Với n = 2, nhận A là C4H8(CHO)2 hay OHC-CH2-CH2-CH2-CH2-CHO (anđehit ađipic).
Cách 2. Dùng công thức tổng quát.
Ta có (C3H5O)n ⇔ C3nH5nOn ⇔ C2nH4n(CHO)n. Đã biết công thức tổng quát của anđehit
no, mạch hở là CmH2m+2-a(CHO)a. Đồng nhất hai công thức ta có:
(n = a; 2n = m) (*) và đương nhiên: 4n = 2m + 2 – a; thế (*) vào ta có n = 2
Cách 3. Dùng độ bất bão hoà.
Ta có (C3H5O)n ⇔ C3nH5nOn ⇔ C2nH4n(CHO)n.
- Tính độ bất bão hoà theo công thức: ∆ = 1/2 (2.3n + 2 – 5n) = 1/2 (n + 2).
- Tính độ bất bão hoà theo cấu tạo: Phân tử không có vòng, no, có n nhóm
(-CHO) (mỗi nhóm có một liên kết π) nên ∆ = 0 + 0 + n = n.
Với một phân tử chỉ có một giá trị độ bất bão hoà duy nhất nên: ∆= 1/2 (n + 2) = n hay n
=2
Cách 4. Dùng nhận xét (hệ quả) từ CTTQ của hợp chất có nhóm chức.
Ta có (C3H5O)n ⇔ C3nH5nOn ⇔ C2nH4n(CHO)n.
Đã biết: (Số H + số chức) ≤ (2.số C + 2) – không tính H trong nhóm chức nếu có - nên:
4n
{ +

soá H

n{

soá chöùc




2.2n
{ + 2 ⇒ n ≤ 2. Mà n phải nguyên dương, nên n có thể nhận
hai laàn soá C

các giá trị n = 1 và n = 2. Với n = 1 loại – vì số H trong phân tử lẻ; vậy n = 2.
Cách 5. Dựa vào điều kiện tồn tại của độ bất bão hoà: ∆ ≥ 0 nguyên, và k ≥ 0.
Có thể tìm được công thức của A khi bỏ bớt dữ kiện !
Tổng quát khi không biết A no, mạch không phân nhánh ta giải như sau:
- Ta có (C3H5O)n ⇔ C3nH5nOn ⇔ C2nH4n(CHO)n.
- Giả sử A có k vòng; hoặc k liên kết π trong mạch cacbon; hoặc tổng số liên kết π và
vòng trong mạch cacbon là k (không kể n liên kết π trong các nhóm chức anđehit), điều
kiện: k ≥ 0 nguyên.
- Độ bất bão hoà (tính theo đặc điểm cấu tạo) của A là: ∆ = k + n
- Độ bất bão hoà tính theo công thức: ∆ = 1/2(2.3n + 2 – 5n) = 1/2 (n + 2).
Vậy phải có: k + n = 1/2 (n + 2) ⇔ n = 2(1 – k). Vì n > 0 nên 1 – k > 0 → k < 1 mà k
không âm, nguyên nên k = 0. với k = 0 ta có n = 2.(tiếp theo như cách 1).
13


Ví dụ 10: Đốt cháy hoàn toàn 16,2 gam axit cacboxylic đơn chức thì thu được 12,096 lít
CO2 (đktc) và 9,72 gam H2O. CTPT của axit đó là
A. C2H4O2.

B. C3H6O2.

C. CH2O2.

D. C4H8O2.


*Cách 1:
12,096
22,4

mC =

9,72
18

.12 = 6,48 g .

mH =

.2 = 1,08 gam.

mO = 16,2 - 6,48

- 1,08 = 8,64 gam.

Đặt CTTQ của axit là CxHyOz .
Ta có :
x : y : z =
⇒ CTTN


mC
12

:


mH
1

:

mO
16

=

6,48 1,08 8,64
:
:
=
12
1
16

0,54: 1,08 : 0,54 = 1: 2: 1

n ≥ 1. Vì axit đơn chức nên n = 2 .

là (CH2O)n

CTPT của axit là : C2H4O2.

*Cách 2:
Số mol CO2 =



12,096
22,4

= 0,54 mol; số mol H2O =

số mol CO2 = số mol H2O

CnH2nO2 +
Ta có :

3n − 2
2

14n + 32
16, 2

⇒ Chọn

=



9,72
18

= 0,54 mol .

Đây là axit no, đơn chức, mạch hở

O2 → n CO2 + n H2O .

18n
9,72

⇒n

=2



CTPT của axit là C2H4O2

đáp án A

II.2.3. Sử dụng bài tập có nhiều trường hợp xảy ra để rèn năng lực suy luận logic
Ví dụ 11: Chia hỗn hợp gồm 2 ancol no mạch hở P và Q làm 2 phần bằng nhau.
- Cho phần thứ nhất tác dụng hết với Na dư thu được 0,896 lít khí (đktc).
- Đốt cháy hết phần thứ hai thu được 3,06 gam H2O và 5,28 gam CO2 .
Xác định CTCT của 2 ancol, biết rằng khi đốt V thể tích hơi của P hoặc Q thì thể tích
CO2 thu được trong cùng điều kiện nhiệt độ và áp suất đều không vượt quá 3V.
Hướng dẫn giải:
14


Số mol H2 = 0,04 ; CO2 = 0,12 ; H2O = 0,17
Do 2 ancol đều no mạch hở nên công thức chung CnH2n+2Ox. (n, x đều là trị số trung bình)
CnH2n+2Ox +

3n + 1 − x
O2 → n CO2 + (n +1) H2O
2


Theo phương trình tổng số mol A + B = 0,17 – 0,12 = 0,05 mol
CnH2n+2Ox+ x Na → CnH2n+2- x(ONa)x +
0,12

0,04

Nhận thấy : n = 0,05 = 2,4 và x = 0,05 × 2 = 1,6



x
H2↑
2

phải có 1 ancol đơn chức

Theo giả thiết, số nguyên tử cacbon trong mỗi ancol đều không quá 3 nên :
* Trường hợp 1 : Ancol đơn chức có số cacbon = 3 (C3H7OH)
Ancol đa chức còn lại có số cacbon < 2,4 và có số nhóm OH > 1,6
Đó là CH2OH – CH2OH (số nhóm -OH không vượt quá số cacbon)
* Trường hợp 2 : Ancol đơn chức có số cacbon = 2 (C2H5OH)
Ancol đa chức còn lại có số cacbon > 2,4 và số nhóm -OH ≤ 3
Ta có :

2



C3H8Ox


0,6


2,4
3

C H OH

0,6

3

2
5
tỉ số mol C H O = 0,4 = 2
3
8 x

0,4

Áp dụng tỉ số này để tính x :
1

x -1,6


1,6
x


x − 1,6 3
= ⇒ x = 2,5
0,6
2

0,6

* Trường hợp 3 : Ancol đơn chức có số cacbon = 1 (CH3OH)

15


Ancol đa chức còn lại có số cacbon > 2,4 và số nhóm OH ≤ 3 ⇒ C3H8Ox Làm
tương tự trên tính được x = 1,857. Cả 2 trường hợp 2 và 3 đều cho x không nguyên (loại).
Vậy nghiệm là C3H7OH (0,02 mol) và C2H4(OH)2 (0,03 mol)
II.2.4. Sử dụng bài tập thực nghiệm, thực tiễn
Hóa học là một bộ môn khoa học thực nghiệm, do đó dạy và học hóa học không chỉ dừng
lại ở khả năng truyền đạt và lĩnh hội kiến thức, mà phải biết tổ chức và rèn luyện các kĩ
năng thực hành cho HS để tăng cường tính thực tiễn của môn học. Thông qua bài tập thực
hành giúp HS phát triển năng lực tư duy sáng tạo.
Khi làm các dạng bài tập này HS giải thích được các hiện tượng tự nhiên sẽ thấy yêu
thích môn hoá học hơn từ đó mà năng lực tư duy cũng được phát triển. Mặt khác bảo vệ
môi trường hiện nay đã trở thành những vấn đề cấp thiết và mang tính toàn cầu. Môn hoá
học có nhiệm vụ và có nhiều khả năng giáo dục cho HS ý thức bảo vệ môi trường.
Ví dụ 12 : Trong phòng thí nghiệm người ta tiến hành thu và điều chế anđehit axetic từ
đất đèn (chứa CaC2) như hình sau:

a) Viết PTHH của các phản ứng xảy ra.
b) Hãy giải thích tại sao phải ngâm bình phản ứng vào nước nóng và sau đó cho sản
phẩm đi qua cốc nước đá ?

Phân tích: - Để giải được bài tập trên thì HS phải vận dụng kiến thức đã học, tổng hợp
lại để xây dựng chuỗi phản ứng: CaC2 → C2H2 → CH3CHO.
- Chú ý phân tích đến các điều kiện phản ứng của C 2H2 với H2O có xúc tác HgSO4 và
nhiệt độ sôi của anđehit axetic.
Hướng dẫn giải:
16


a) CaC2 + 2H2O
C2H2 + H2O



Ca(OH)2 + C2H2 ↑
0

HgSO4 ,t



CH3CHO

b) Phản ứng C2H2 với H2O thực hiện ở 800C nên phải đặt bình phản ứng vào cốc nước
nóng. Ngoài ra anđehit axetic sôi ở 20,80C nên muốn thu được anđehit axetic lỏng phải
bỏ bình thu nó trong cốc có chứa nước đá.

17


PHẦN III: KẾT QUẢ GIẢNG DẠY

Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu, tôi nhận thấy một số biện pháp trên có một
sức mạnh rất lớn trong việc cuốn hút học sinh, giúp học sinh nhanh chóng nắm vững và
khá sâu sắc bài học. Kết quả cụ thể là các em ngày càng có sự tiến bộ trong việc học bộ
môn Hoá học và ngày càng say mê môn Hoá học hơn.
Qua cải tiến phương pháp dạy phần hợp chất hữu cơ có nhóm chức đối với nhiều lớp
khác nhau, nhiều đối tượng học sinh khác nhau, so với phương pháp chưa cải tiến, tôi
nhận thấy rằng:
- Có thể sử dụng bài tập này ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình dạy học hóa học đặc
biệt ở giai đoạn ôn tập, củng cố, hoàn thiện, hệ thống hóa kiến thức, kĩ năng cũng như khi
kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập của học sinh.
Khi giải, chữa bài tập, giáo viên tiết kiệm được lời nói và thời gian vì đây là hình
thức trình bày ngắn gọn nhất, cô đọng nhất.
Phương pháp này rất phù hợp với giảng dạy theo phương pháp giáo án điện tử lấy
học sinh làm trung tâm, giáo viên với tư cách hướng dẫn là chủ yếu để học sinh nắm chắc
vấn đề và có tính sáng tạo cao trong quá trình học tập.
PHẦN IV: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
+ Cần tăng cường trang bị cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm cho các trường THPT, để
HS có thể làm bài tập thực hành, vì đây là loại bài tập rèn năng lực tư duy và phong cách
làm việc khoa học có hiệu quả nhất.
+ Trong điều kiện hiện nay, cần phải đưa vào áp dụng đại trà phương pháp dạy học phân hóa
bằng bài toán phân hóa, để kích thích mọi đối tượng đều phải động não, nâng cao dần khả
năng tư duy và hứng thú học tập cho HS.
+ Khuyến khích GV tự mình xây dựng hệ thống bài tập có chất lượng tốt, ưu tiên các
bài tập thực nghiệm, bài tập có cách giải nhanh, thông minh, bài tập có nhiều cách giải,
bài tập có nhiều trường hợp xảy ra ... để kích thích sự phát triển tư duy và óc thông minh,
sáng tạo của HS.
+ GV cần chú ý rèn cho HS giải nhanh, thành thạo các bài tập cơ bản bằng những lí giải
cụ thể cho mỗi bước suy luận và mỗi phép toán nhằm phát triển năng lực tư duy cho HS.

18



PHẦN V: KẾT LUẬN
Trong suốt quá trình giảng dạy 9 năm ở Tổ Hoá trường THPT , tôi nhận thấy rằng chỉ có
người sử dụng mới làm cho BTHH thật sự có ý nghĩa, một bài tập hay nhưng sử dụng
không đúng chưa chắc đã có tác dụng tích cực. Suy cho cùng cần phải làm thế nào để HS
tự mình tìm ra cách giải bài toán một cách nhanh nhất, tự tìm ra cái hay của bài toán, lúc
đó tư duy của HS sẽ trở lên mềm dẻo và linh hoạt hơn, óc thông minh, sáng tạo được bồi
dưỡng và phát triển.
Do những hạn chế về điều kiện thời gian, năng lực và trình độ bản thân, bản thân tôi chỉ
nêu ra một số biện pháp để thực hiện đổi mới phương pháp dạy học của bộ môn Hoá học
mà tôi đã và đang làm ở trường THPT bấy lâu nay. Chắc chắn đề tài vẫn còn nhiều thiếu
sót, tôi rất mong được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trường THPT Đào Duy
Từ, các đồng chí chuyên viên và đồng nghiệp.
Tôi chân thành cảm ơn!

19



×