Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh lớp 12 qua môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.97 KB, 17 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 12 QUA
MÔN NGỮ VĂN"

-1-


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội ngày nay, song song cùng những bước tiến tích cực về mọi mặt là những tồn tại
đầy nhức nhối mà bất kì một người có nhân cách, lương tâm nào cũng đều phải trăn trở.
Một trong những tình trạng đáng buồn của ngành giáo dục của chúng ta hiện nay là tình
trạng học sinh đánh nhau, vô lễ với thầy cô giáo, bỏ học, tự tử, tham gia vào các tệ nạn xã
hội…xuất hiện ngày một nhiều. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có lẽ, nguyên nhân cơ
bản nhất vẫn là do các em thiếu kĩ năng sống.
Kĩ năng sống không phải là vấn đề mới mẻ nhưng giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh một cách hiệu quả cũng không phải là vấn đề đơn giản. Đặc biệt là học sinh lớp 12
THPT. Đây là lứa tuổi đang ở ngưỡng cửa của một công dân trưởng thành, độ tuổi không
còn là trẻ con nhưng cũng chưa thành người lớn, mọi suy nghĩ và hành động còn nông
nổi, cảm tính; giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá nhưng còn thiếu kinh
nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, mua chuộc, kích động… Là năm cuối cùng của cấp trung học,
các em phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức, phải chịu nhiều áp lực…Vì vậy,
nếu thiếu những kĩ năng sống cơ bản, học sinh lớp 12 dễ mắc những sai lầm nghiêm
trọng như thực tế chúng ta đã chứng kiến không ít trường hợp đau lòng: có học sinh khágiỏi đã tự tử vì thi trượt đại học, có học sinh lớp cuối cấp tìm lẽ sống của mình ở trò chơi
điện tử…Hơn nữa, đã là học sinh lớp 12 thì chỉ cần một thời gian ngắn nữa là đa số các
em phải bước vào cuộc sống tự lập, phải tự mình ứng phó với vô vàn những tình huống
khác nhau của cuộc sống phức tạp và ít có sự can thiệp, giúp đỡ của người thân trong gia
đình. Vì thế giáo dục kĩ năng sống cho các em học sinh lớp 12 càng cấp thiết hơn bao giờ
hết.
Môn ngữ văn trong nhà trường THPT là môn học có nhiều ưu thế trong việc giáo


dục kĩ năng sống cho học sinh nói chung và cho học sinh lớp 12 nói riêng.
Vì những lí do trên, với tư cách là một giáo viên dạy ngữ văn, tôi đã trăn trở và thử
nghiệm cách rèn luyện những kĩ năng sống cho học sinh lớp 12 qua bộ môn mình giảng
dạy nhằm mục đích nâng cao hiệu quả thiết thực của việc dạy văn, đồng thời góp phần bé
nhỏ vào việc khắc phục vấn đề nhức nhối của nghành giáo dục hiện nay là tình trạng
thiếu kĩ năng sống của một bộ phận không nhỏ học sinh, nhất là học sinh cuối cấp Trung
học. Tuy nhiên, do vấn đề kĩ năng sống là một vấn đề rộng và phức tạp nên trong phạm vi
của bài viết này chúng tôi chỉ chú trọng vào một số giải pháp rèn luyện một số kĩ năng
sống cơ bản mà theo chúng tôi là quan trọng đối với học sinh lớp 12.

-2-


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề:
1. Định nghĩa chung về kĩ năng sống:
Từ trước đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng sống, nhưng nhìn
chung các quan niệm đều thống nhất ở chỗ thấy được bản chất của kĩ năng sống là kĩ
năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống,
học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản thân
của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với người khác và với xã hội, khả năng ứng phó
tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Ở nước ta, kĩ năng sống thường được phân làm 3 nhóm:
- Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các KNS cụ thể như: tự
nhận thức, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự tin…
- Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm: giao tiếp, thương lượng,
bày tỏ cảm thông, hợp tác…
- Nhóm các kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm: tìm kiếm và xử lí thông
tin, ra quyết định, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo…
Cũng cần phải nói thêm rằng kĩ năng sống của con người không phải tự nhiên mà có

được, nó phải được hình thành dần qua quá trình học tập, rèn luyện lâu dài trong cuộc
sống.
2. Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 12.
Ngày nay, những ai quan tâm đến giáo dục đều hiểu rằng: giáo dục thế hệ trẻ không
chỉ chú trọng dạy chữ mà còn phải quan tâm đến nhiệm vụ dạy người , con người không
chỉ cần có tri thức mà phải biết sống đúng, sống đẹp, sống có ích. Muốn như thế con
người nhất thiết phải có kĩ năng sống. Vì người có kĩ năng sống mới luôn vững vàng
trước mọi khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống
một cách tích cực và phù hợp; luôn lạc quan, làm chủ bản thân và làm chủ hoàn cảnh. Có
thể nói: kĩ năng sống là “chiếc chìa khóa vạn năng” giúp con người từng bước khẳng định
bản ngã của chính mình. Hơn thế, người có kĩ năng sống luôn có hành vi tích cực để góp
phần xây dựng và làm giảm bớt các tệ nạn xã hội, làm cho cuộc sống tươi sáng và văn
minh hơn.
Tuổi trẻ nói chung, đối tượng học sinh lớp 12 nói riêng là những chủ nhân tương lai
của đất nước, là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu
-3-


thiếu kĩ năng sống, các em không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình,
cộng đồng và đất nước. Do đó đất nước khó có thể phát triển theo chiều hướng tích cực
như mong muốn.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay,
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh còn nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ
thông, hướng tới mục tiêu: đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,
tri thức, sức khỏe, nghề nghiệp; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các nhà trường phổ thông cũng là xu thế
chung của nhiều nước trên thế giới.
3. Đặc trưng của bộ môn ngữ văn lớp 12 và những ưu thế của nó trong việc giáo dục kĩ

năng sống cho học sinh.
“Văn học là nhân học” (M.Gorki), văn học với tư cách là môn khoa học xã hội và
nhân văn, nó không chỉ giúp học sinh hiểu biết về văn hóa, xã hội, lịch sử, con người mà
còn giúp mỗi người tự hiểu hơn về chính mình; với tính chất là môn học công cụ, nó giúp
học sinh có năng lực ngôn ngữ để tư duy, để học tập, để giao tiếp, để nhận thức; với đặc
trưng là môn học về giáo dục thẩm mĩ, nó bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc
thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách.
Chương trình ngữ văn lớp 12 là phần văn học hiện đại xen kẽ với các bài học về
tiếng Việt và làm văn, phù hợp với ngôn ngữ cũng như kiểu tư duy, tình cảm hiện đại, rất
thiết thực cho việc giáo dục những kiến thức và các kĩ năng sống của con người hiện đại.
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
1. Thực trạng chung:
Tất cả những ai có trách nhiệm với tương lai đất nước, với thế hệ trẻ đều nhận thấy
rằng: giáo dục kĩ năng sống cho lứa tuổi học sinh đặc biệt là học sinh cuối cấp THPT là
vô cùng cấp thiết.
Bộ giáo dục và đào tạo từ năm 2005 đã xác định lại mục tiêu của giáo dục Việt Nam:
chuyển từ mục tiêu cung cấp kiến thức là chủ yếu sang hình thành và phát triển những
năng lực cần thiết ở người học để đáp ứng sự phát triển CNH-HĐH đất nước. Thể hiện
mục tiêu của giáo dục thế kỉ XXI: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định và học
để cùng chung sống. Chủ trương chung của Bộ giáo dục là từ năm học 2009-2010 đưa

-4-


vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh vào tích hợp trong tất cả các môn học từ cấp
mầm non cho đến lớp 12.
Nhưng có lẽ đây là lĩnh vực khoa học còn khá mới mẻ và với nhiều nguyên nhân khác
nhau nên việc giảng dạy, huấn luyện kĩ năng sống vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ và chưa
được quan tâm đúng mức; chưa có sự thống nhất đồng bộ trong hệ thống giáo dục phổ
thông của cả nước.

2. Thực trạng đối với giáo viên:
Anh chị em giáo viên trường tôi và cả một số trường bạn, khi được hỏi tới vấn đề: giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh thế nào để đạt hiệu quả? Đa số chỉ cười lảng tránh hoặc
thú thật: “đối phó thôi, thời gian đâu mà tích hợp”. Có người chân thành và cởi mở hơn
thì tâm sự: chủ trương chung là phải tích hợp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh nhưng
thực tế chẳng có gì là cụ thể, thậm chí làm cho giờ học phức tạp và rối rắm hơn. Bản thân
tôi, khi mới tiếp cận với vấn đề cũng có những cảm nhận như thế. Hơn nữa, trong bối
cảnh hiện nay, học sinh chẳng mấy thiết tha với môn văn nên việc “tích hợp” càng khó
khăn hơn. Một điều đáng nói nữa là đa số phụ huynh, học sinh lớp 12, ngay cả phần lớn
giáo viên dạy khối học này cũng đều xác định mục tiêu quan trọng nhất của việc học cho
lớp 12 là “học để thi” chứ không phải là “học để làm người”. Xác định mục tiêu như thế
nên kiến thức phải luôn đặt ở thế “thượng phong”, việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh 12 chỉ mang tính chất “tự phát” và “tùy hứng” chứ không mang tính chiến lược nên
hiệu quả chưa có.
3. Thực trạng đối với học sinh:
Mỗi tháng, trường chúng tôi đều phải tổ chức những buổi họp Hội đồng kỉ luật để xử lí
những vụ đánh nhau mà đôi khi vì những lí do chẳng đâu vào đâu, các em cũng “thượng
cẳng tay, hạ cẳng chân” với nhau để lại hậu quả nghiêm trọng đối với từng cá nhân học
sinh, với gia đình, với nhà trường, với cả xã hội. Học sinh lớp 12 mà chỉ cần một ánh
mắt, một câu nói đùa của bạn đã có thể gây ra một vụ ẩu đả ra trò. Đó chẳng phải do các
em thiếu kĩ năng làm chủ cảm cảm xúc, kĩ năng ra quyết định phù hợp đó sao? Mỗi ngày,
các giáo viên chủ nhiệm đều phải xử lí tại lớp mình bao nhiêu trường hợp nghỉ học để đi
chơi game, bao nhiêu trường hợp vô lễ với thầy cô giáo…Xử lí nhiều, kỉ luật nhiều, thậm
chí có những trường hợp kỉ luật nặng (đuổi học) nhưng tình hình vẫn không thay đổi
được là bao. Trong trường có biết bao nhiêu em rơi vào tình trạng “ăn không nên đọi, nói
không nên lời”, khi được thầy cô giáo chỉ định trả lời một câu hỏi thì ấp úng, lúng túng,
không thể diễn đạt nổi… Vấn đề cốt lõi của cái gốc thực trạng đau lòng ấy chính là do
các em thiếu những kĩ năng sống quan trọng: kĩ năng làm chủ cảm xúc, kĩ năng giải
-5-



quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ…Thiết
nghĩ, không thể khắc phục được thực trạng đáng buồn ấy bằng kiểu “học thi” như bây giờ
mà phải chú tâm thỏa đáng đến việc rèn luyện cho các em những kĩ năng sống để “làm
Người”
III. Những giải pháp và tổ chức thực hiện
1. Tạo tình huống có tính chất ứng dụng thực tiễn đời sống:
1.1. Vai trò của những tình huống có tính chất ưng dụng:
Thực tế, kĩ năng sống không thể chỉ được giới thiệu và giảng giải bằng lí thuyết. Bởi “lí
thuyết suông” có thể tạo ra sự nhàm chán hoặc suy nghĩ “văn nói láo, báo nói phét” từ
phía học sinh, khiến các em mất niềm tin vào lời thầy cô giảng. Hơn nữa, chỉ lí thuyết
không chắc hẳn các em sẽ rất chóng quên.
Ưu thế nổi bật nhất của việc tạo ra được những tình huống có ý nghĩa vận dụng trong quá
trình dạy học văn:
- Nâng cao tính thực tiễn của môn học, để văn học gắn với đời sống chứ không phải là thế
giới chỉ có trong sách vở.
- Nâng cao tính chủ động, sáng tạo và sự hứng thú của học sinh trong quá trình học.
- Đặc biệt là sẽ rèn luyện, nâng cao kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng trình bày, bảo vệ
và phản biện ý kiến trước đám đông.
- Ngoài ra, giáo viên, trong vai trò của người dẫn dắt, cũng sẽ tiếp thu được rất nhiều kinh
nghiệm và những cách nhìn, những giải pháp mới từ phía học sinh để làm phong phú bài
giảng và điều chỉnh nội dung tình huống nghiên cứu.
1.2. Cách thức thực hiện:
Chính vì vậy, nên trong mỗi bài học tôi đều cố gắng tạo ra những tình huống có vấn đề
mang tính chất ứng dụng vào thực tế đời sống, rồi tổ chức cho học sinh tự giải quyết.
Việc giải quyết các tình huống như thế lúc đầu mang tính chất cá nhân sau đó được thảo
luận để đi đến một cách giải quyết tối ưu nhất.
Ví dụ: Trong khi dạy bài “Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống HIV/
AIDS” của Cô-phi-a-nan, tôi đặt ra tình huống: Nếu em có một người bạn thân bị nhiễm
HIV/ AIDS, em sẽ hành động như thế nào? Vì sao? (lưu ý: hãy trả lời bằng chính suy

nghĩ thật và tình cảm thật của mình)

-6-


Sau khi đưa ra tình huống, tôi tổ chức cho học sinh tự giải quyết vấn đề trên một tờ phiếu
học tập, tất cả mọi người đều phải đưa ra chủ kiến của riêng mình. Tôi chọn một số ý
kiến (có thể để các em xung phong, cũng có khi chỉ định bất kì), gọi một học sinh khác
đọc to các ý kiến đó lên cho cả lớp cùng nghe, cùng thảo luận, để thống nhất cách giải
quyết tốt nhất. Với tình huống trên, học sinh có thể có nhiều cách giải quyết khác nhau,
chẳng hạn:
- Tìm cách trốn tránh, xa lánh, không chơi với bạn nữa vì sợ bị lây nhiễm. Con người ta
không thể cẩn thận tuyệt đối được và trong khi tiếp xúc với người bệnh không thể chắc
chắn rằng mình không bao giờ bị lây nhiễm.
- Vẫn giữ mối quan hệ bạn bè nhưng thận trọng và giữ một khoảng cách nhất định khi
tiếp xúc với bạn ấy. Vì mặc dù biết HIV không lây qua đường tiếp xúc thông thường
nhưng vẫn sợ, đó là bệnh nan y chưa có thuốc chữa, nhỡ may sơ ý khi cả 2 cùng bị chảy
máu, mình sẽ tự hủy hoại chính mình.
- Quan tâm chăm sóc, gần gũi, giúp đỡ bạn bằng tất cả những gì mình có thể để bạn
không rơi vào tình trạng mặc cảm, chán nản, bi quan. Vì lúc này là lúc bạn cần mình
nhất, lúc thể hiện tình bạn đẹp nhất.

Sau khi cho các em thảo luận, giáo viên định hướng chung để thống nhất cách giải quyết:
Nên gần gũi, giúp đỡ bạn bằng cả tình thương và trách nhiệm nhưng tất nhiên phải cẩn
thận để tự bảo vệ cho chính mình. Tìm hiểu kĩ để có kiến thức thật vững vàng về căn
bệnh, cũng như chú ý, quan tâm đến diễn biến tâm lí, tình cảm của người bạn để chăm
sóc bạn hiệu quả nhất và an toàn nhất.
Ví dụ 2: Khi dạy “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, đến chi tiết: A Phủ đánh A Sử trong lễ
hội mùa xuân vì A Sử cậy quyền thế mà phá đám cuộc chơi. Tôi sẽ đặt ra tình huống vận
dụng: Giả sử, bạn là A Phủ, trong hoàn cảnh trên bạn sẽ xử sự thế nào? Học sinh cũng

sẽ có nhiều cách xử trí khác nhau như:
- Sẽ đánh A Sử như A Phủ đã đánh hắn để hắn bớt thói hống hách, cậy thế làm càn.
- Sẽ tự kiềm chế mà bỏ đi để tránh bạo lực và để khỏi “rước vạ” vào thân.
- Sẽ tổ chức một cuộc gặp gỡ để dùng lí lẽ mà thuyết phục đối phương không nên phá rối
như vậy bởi vui là vui chung, nếu có thể, sẽ đi đến một thỏa thuận giữa hai bên để cuộc
vui vẫn được tiếp diễn, không có gì đáng tiếc xảy ra.
- Sẽ tổ chức, lôi kéo được nhiều người đứng về phía mình, đánh kẻ cậy quyền thế như A
Sử một cách có tổ chức để vẫn dạy cho hắn một bài học nhưng lại không chịu tội một
mình như A Phủ.
-7-


Sau cùng sẽ thống nhất phương án giải quyết: Tùy vào thái độ và mức độ phá đám của
“kẻ cậy quyền” để ứng phó. Tốt nhất vẫn là ngồi lại để nói chuyện với nhau, tìm điểm
yếu của hắn rồi dùng lập luận, lí lẽ để thuyết phục, buộc đối phương phải suy nghĩ lại.
Tất nhiên phải có nghệ thuật để “nâng cao tầm” của đối phương để sự tự phụ của hắn
được ru vỗ thì ắt xung đột bạo lực sẽ không xảy ra.
Việc tổ chức giải quyết các tình huống trải nghiệm kiểu như thế này thường tạo cho học
sinh tâm thế “nhập cuộc”, hứng thú, cảm thấy mình là người trong cuộc, cần phải thể hiện
suy nghĩ và hành động cụ thể. Qua những tình huống đó, học sinh dần dần hình thành kĩ
năng giải quyết các vấn đề và điều chỉnh hành vi theo hướng hợp lí.
2. Tổ chức những hoạt động đối thoại đa dạng trong giờ dạy học:
2.1. Tầm quan trọng của hoạt động đối thoại trong dạy học và rèn luyện kĩ năng sống:
Với kinh nghiệm của một người đã nhiều năm đứng trên bục giảng, tôi nhận thấy, đối
thoại có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh nhất là
học sinh lớp 12: đối thoại có tác dụng rèn cho học sinh thói quen hợp tác với bạn trong
quá trình học tập, tự đánh giá, điều chỉnh vốn tri thức của bản thân trong quá trình thảo
luận. Qua đối thoại,học sinh rèn luyện được kĩ năng nói, phát biểu trước tập thể, tăng
cường tinh thần trách nhiệm, tự tin, kích thích sự chủ động sáng tạo của các em.
Tổ chức cho học sinh đối thoại trên lớp không chỉ tạo điều kiện phát triển năng lực cá

nhân cho mỗi HS mà còn phát huy vai trò hỗ trợ của tập thể trong học tập khiến cho
những vấn đề đưa ra đối thoại được nhìn nhận đa dạng, phong phú, toàn diện hơn. Hơn
nữa, Khi HS được tự do phát biểu một cách độc lập, sáng tạo theo cảm nhận cá nhân,
giáo viên sẽ có cơ sở và điều kiện để phát huy vai trò chủ thể HS trong giờ học, lớp học
trở nên sinh động, và việc tiếp thu kiến thức của HS trở nên tự nhiên, sâu sắc hơn.
Nhưng một nghịch lí đáng buồn là trong các nhà trường hiện nay hiện tượng lười xây
dựng, phát biểu bài trở nên ngày càng phổ biến. Việc ngại hỏi, ngại nói, ngại tranh luận
trong lứa tuổi học sinh, nhất là học sinh THPT đã và đang để lại những hậu quả bất lợi
cho cả thầy và trò, cho chất lượng dạy-học, trong đó người chịu thiệt thòi nhiều nhất
chính là các em; đã khá nhiều lần chúng tôi và các đồng nghiệp trao đổi, bàn tán về việc
chán nản trước hiện tượng lớp học này, lớp học kia lười phát biểu, xây dựng bài. Nhiều
lần thầy cô giáo ra câu hỏi, dù chỉ là những câu hỏi trong sách giáo khoa nhưng hỏi đi hỏi
lại 2, 3, 4 lượt nhưng các em vẫn ngồi im thin thít như tượng gỗ, và thầy cô rơi vào hoàn
cảnh: “miệng liền tai, nói lấy, nghe lấy rồi tự trả lời lấy” những tình huống như vậy
thường gây tâm lí ức chế cho thầy cô rất nhiều, thậm chí chán nản, không tha thiết với
công việc của mình.
-8-


Bên cạnh đó, việc lười xây dựng phát biểu bài của các em còn nảy sinh tâm lí thụ động,
chờ đợi, co cụm, ỷ lại nên học sinh khó nắm bắt và làm chủ kiến thức của bài học, lâu
ngày sẽ tạo thành thói quen thiếu tự tin, hạn chế tính tư duy sáng tạo của người học, vì
vậy trí nhớ giảm sút, học lực giảm, không phát huy được ưu điểm cũng như không khắc
phụ được nhược điểm của mình; đồng thời việc rèn luyện kỹ năng, khả năng giao tiếp, kỹ
năng ứng xử của các em với cộng đồng sẽ gặp nhiều hạn chế. Điều đó sẽ làm cho giáo
dục đào tạo ra một lớp người lạc hậu, kém năng động, kém sáng tạo, không giám khẳng
định mình, co mình như con rùa rụt cổ, không dám mạnh dạn đứng lên phê phán , chống
lại cái sai, cái ác, bảo vệ cái đúng cái thiện, thậm chí đồng tình, đồng lõa với các thói hư
tật xấu là điều khó tránh khỏi.
2.2.Cách thức thực hiện:

Chính vì những lí do như vậy nên trong quá trình dạy học văn, tôi đã cố gắng để tạo ra
những hoạt động đối thoại đa dạng. Ví dụ: Khi dạy tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài
xa”(Nguyễn Minh Châu), tôi tạo ra các hoạt động đối thoại sau:
- Đối thoại giữa giáo viên với học sinh thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở như: Câu1:
Cảm nhận của người nghệ sĩ trước “một cảnh đắt trời cho”? Vì sao Phùng lại nghĩ đến sự
đúc kết “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”? Câu 2: Ngay khi đang tận hưởng cái khoảng
khắc kì diệu mà hóa công ban tặng, Phùng đã phát hiện ra điều gì? Thái độ của anh trước
phát hiện ấy? Vì sao anh lại có thái độ như vậy? Câu 3: Qua 2 phát hiện của Phùng, nhà
văn muốn người đọc nhận thức điều gì về cuộc đời? Câu 4: Giả sử đảo vị trí của 2 phát
hiện ấy (cảnh bạo lực của gia đình hàng chài thấy trước; cảnh đẹp của chiếc thuyền trên
biển mờ sương thấy sau), giá trị của tác phẩm có gì thay đổi?... Với những câu hỏi kiểu
này, tôi thường khuyến khích cá nhân các em suy nghĩ, trả lời và thưởng điểm cho những
người có câu trả lời hay, sáng tạo.
- Đối thoại giữa học sinh với học sinh: Yêu cầu một em học sinh tự đặt ra câu hỏi, gọi
một em khác trả lời, 2 em tranh luận với nhau để bảo vệ ý kiến của riêng mình. Chẳng
hạn: Nếu bạn chứng kiến cảnh bạo lực của một gia đình nào đó như gia đình hàng chài
trong truyện, bạn sẽ làm thế nào? Sẽ có nhiều hướng giải quyết khác nhau, người giáo
viên sẽ làm trọng tài cho cuộc tranh luận giữa 2 em học sinh để đi đến một cách giải
quyết hợp lí nhất.
- Đối thoại giữa học sinh với giáo viên: Cho phép học sinh đặt ra những câu hỏi, những
tình huống đối với giáo viên, giáo viên sẽ chia sẻ suy nghĩ và kinh nghiệm của mình với
học sinh một cách dân chủ, cởi mở. Ví dụ có em học sinh hỏi: Nếu cô là người đàn bà
hàng chài, trong hoàn cảnh nghèo khổ và bị hành hạ như thế cô sẽ làm thế nào? Tôi sẽ
-9-


nói với các em rằng: nếu rơi vào hoàn cảnh như vậy, tôi sẽ suy nghĩ vì sao mình lại
nghèo, vì sao chồng mình lại có những hành vi như thế? trước hết phải tìm cách để thoát
nghèo; sau đó sẽ dùng lời lẽ, lập luận để chỉ ra cái sai trái trong hành động của người
chồng. Nếu bản chất của người chồng là tốt đẹp thì không có lí do gì mà cảnh tượng ấy

lại tái diễn
Để có những cuộc đối thoại đạt hiệu quả, tôi xác định những vấn đề trọng tâm, mở ra
nhiều cách giải thích khác nhau, kích thích khả năng tư duy sáng tạo, thúc đẩy HS bộc lộ
quan điểm và đối thoại. Những tình huống nêu ra để HS tham gia đối thoại vừa không
thoát li tác phẩm, vừa phù hợp với trình độ tiếp nhận của các em, đồng thời đảm bảo cuộc
tranh luận không mất trật tự, và không mất quá nhiều thời gian cho phép. Cần tránh
những hình thức câu hỏi mà khi trả lời, HS chỉ dựa vào những quan niệm và kinh nghiệm
đã có hay chỉ trình bày một chiều các luận cứ để khẳng định một kiến giải nào đó. Ngoài
ra, tôi cũng dự đoán những tình huống có thể xảy ra trong sự tiếp nhận của HS để điều
khiển cuộc đối thoại sao cho không rơi vào bế tắc mà luôn đi theo những con đường hợp
lí nhất.
3.Tích cực sử dụng phương pháp dạy học nhóm một cách hiệu quả:
3.1.Ý nghĩa, tầm quan trọng của phương pháp dạy học nhóm
Làm việc theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học được áp dụng trong đổi
mới phương pháp dạy học hiện nay nhằm phát huy được tính tích cực của người học, dạy
học hướng về người học
Tôi tự nhận thấy rằng: ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì yêu cầu
làm việc theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết vì trong thực tế cuộc sống không có ai là
hoàn hảo, do đó làm việc theo nhóm có thể tập trung được những mặt mạnh của một
nhóm người, từng người trong nhóm sẽ bổ sung, hoàn thiện cho nhau những điểm yếu,
hơn nữa nó còn tạo ra được niềm vui và sự hứng thú trong học tập. Vì vậy, trong những
năm học qua tôi luôn có ý thức tích cực sử dụng phương pháp dạy học nhóm nhằm phát
huy được những điểm mạnh của nó.
Qua thử nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học văn trong những năm học vừa qua,
tôi thấy: bên cạnh việc giải quyết tốt nhiệm vụ nhận thức, tăng cường dạy học theo nhóm
giúp học sinh hình thành các phẩm chất nhân cách và các kỹ năng xã hội tốt hơn, cụ thể
là:
- Học theo nhóm phát huy cao độ vai trò chủ thể, tích cực của mỗi cá nhân trong việc
thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao; khi học theo nhóm, vai trò chủ thể, tính tự giác,
- 10 -



tích cực, sáng tạo, năng động, tinh thần trách nhiệm của học sinh thường được phát huy
hơn, cơ hội cho học sinh tự thể hiện, tự khẳng định khả năng của mình nhiều hơn. Đặc
biệt, khi học sinh học theo nhóm thì kết quả học tập thường cao hơn, hiệu quả làm việc
tốt hơn, khả năng ghi nhớ lâu hơn, động cơ bên trong, thời gian dành cho việc học, trình
độ lập luận cao và tư duy phê phán. Nhóm làm việc còn cho phép các em thể hiện vai trò
tích cực đối với việc học của mình - hỏi, biểu đạt, đánh giá công việc của bạn, thể hiện sự
khuyến khích và giúp đỡ, tranh luận và giải thích... rất nhiều những kĩ năng nhận thức
được hình thành, như: biết đưa ra ý tưởng của mình trong môi trường cùng phối hợp, giải
thích, học hỏi lẫn nhau bằng ngôn ngữ và phương thức tác động qua lại, phát triển sự tự
tin vào bản thân như là người học và trong việc chia sẻ ý tưởng với sự tiếp thu có phê
phán (của nhiều người cùng nghe về một vấn đề). Hay nói cách khác, HS trở thành chủ
thể đích thực của họat động học tập của cá nhân mình.
- Giúp hình thành các kĩ năng xã hội và các phẩm chất nhân cách cần thiết như: kĩ
năng tổ chức, quản lí, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng hợp tác, có trách nhiệm cao, tinh
thần đồng đội, sự quan tâm và mối quan hệ khăng khít, sự ủng hộ cá nhân và khuyến
khích tinh thần học hỏi lẫn nhau, xác định giá trị của sự đa dạng và tính gắn kết. Có
những cảm xúc về trách nhiệm với nhóm và khuyến khích ý thức tự giác, tự kỉ luật;
phương tiện rèn luyện và duy trì các mối quan hệ liên nhân cách.
- Thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ và nhân văn: dạy học theo nhóm sẽ tạo cơ
hội bình đẳng cho mỗi cá nhân người học được khẳng định mình và được phát triển.
Nhóm làm việc sẽ khuyến khích HS giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho những học
sinh nhút nhát, thiếu tự tin, cô độc có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học. Thêm vào đó,
học theo nhóm còn tạo ra môi trường hoạt động mang bâù không khí thân mật, cởi mở,
sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ trên cơ sở cố gắng hết sức và trách nhiệm cao của mỗi cá nhân.
Học sinh có cơ hội được tham gia tích cực vào hoạt động nhóm. Mọi ý kiến của các em
đều được tôn trọng và có giá trị như nhau, được xem xét, cân nhắc cẩn thận. Do đó sẽ
khắc phục tình trạng áp đặt, uy quyền, làm thay, thiếu tôn trọng...giữa những người tham
gia hoạt động, đặc biệt giữa thầy và trò.

3.2.Cách thức thực hiện:
Để một giờ học trên lớp thành công với phương pháp dạy học nhóm, tôi thường tiến hành
theo 3 bước:
a.Chuẩn bị: Trước khi diễn ra tiết học có sử dụng hoạt động nhóm trên lớp, hướng dẫn
cho học sinh cách chuẩn bị bài theo một dàn ý bao gồm các nội dung cơ bản sau:
- Đọc kĩ phần “kết quả cần đạt” trong sách giáo khoa.
- 11 -


- Tìm hiểu trước những kiến thức về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, đặc trưng thể
loại của tác phẩm (kiến thức này chủ yếu nằm trong phần “tiểu dẫn”)
- Đọc thật kĩ văn bản trước khi học (nếu là văn tự sự, kịch phải tóm tắt được cốt truyện;
nếu là tác phẩm thuộc thể loại trữ tình phải nắm bắt được mạch cảm xúc).
- Đọc phần chú giải trong sách giáo khoa để hiểu một số từ ngữ khó hoặc các điển tích,
điển cố, những chủ ý sáng tạo của nhà văn…
- Tự mình trả lời các câu hỏi trong phần “hướng dẫn học bài”; đánh dấu những chỗ chưa
giải quyết được hoặc còn băn khoăn để trao đổi với thầy cô và các bạn.
Khi đưa ra những yêu cầu chuẩn bị bài cho học sinh, tôi luôn kiểm tra tính hiệu quả
của công việc này bằng cách kiểm tra vở soạn bài kết hợp với những câu hỏi về bài mới.
Bởi vì nếu không chuẩn bị bài tốt, phương pháp dạy học nhóm không thể thành công.
b. Xây dựng được những nội dung thảo luận quan trọng và phù hợp để hoạt động nhóm
có hiệu quả:
- Thảo luận về kết cấu ngôn từ của tác phẩm: từ nhan đề, bố cục cho đến ngôn từ, hình
ảnh, biểu tượng nghệ thuật mang tính sáng tạo của tác giả. Ví dụ: Học tác phẩm “Vợ
nhặt” ( Kim Lân) giáo viên có thể hỏi: Tại sao tác giả lại đặt tên cho tác phẩm là “Vợ
nhặt”? Nhan đề đó có ý nghĩa và có quan hệ như thế nào với nội dung của tác phẩm?
Những từ ngữ tác giả dùng để miêu tả về nạn đói có gì đặc biệt? gợi cho em cảm giác gì?
- Thảo luận về kết cấu hình tượng của tác phẩm: về các hình tượng nhân vật chính trong
tác phẩm tự sự; hình tượng cái tôi trữ tình trong các tác phẩm thuộc thể loại trữ tình. Ví
dụ: Cảm nhận về hình tượng “sóng” khi hạy học bài thơ “Sóng” (Xuân Quỳnh); hình

tượng Mị và A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài)?
- Thảo luận về hiệu quả của các giá trị nghệ thuật độc đáo trong tác phẩm qua hệ thống
những câu hỏi so sánh. Để tạo tình huống cho học sinh tham gia đàm thoại giáo viên có
thể liên hệ các tác phẩm có cùng đề tài chủ đề, cùng một kiểu kết cấu để tìm ra những
điểm giống nhau và khác nhau. Giáo viên hướng dẫn học sinh đi đến những kết luận,
đánh giá tính đặc sắc, độc đáo của từng tác phẩm và nhận xét về điều chúng giống nhau.
Để có kỹ thuật so sánh yêu cầu người học phải có khả năng khái quát, đánh giá và phải có
vốn kiến thức sâu rộng nhất định. Chẳng hạn khi học xong bài thơ Sóng ( Xuân Quỳnh)
học sinh có thể bộc lộ cảm nhận của mình về tình yêu trong mối liên hệ với những bài thơ
tình của Xuân Diệu.
- Thảo luận về nội dung cảm xúc, ý nghĩa khái quát, ý nghĩa tư tưởng của hình tượng,
của tác phẩm. Từ đó có sự liên hệ văn bản với đời sống. Đây là một việc làm có ý nghĩa
tổng kết cho những vấn đề phân tích chi tiết cụ thể về nội dung và ý nghĩa của hình tượng
- 12 -


nghệ thuật. Việc tổng hợp, khái quát lại thành những phạm trù ý, luận điểm ngắn ngọn,cô
đọng là rất cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc. Đây là một yêu cầu khá phức tạp cho nên nó
phù hợp với hoạt động thảo luận với những dạng câu hỏi về giá trị nội dung và đặc sắc
nghệ thuật, sự thay đổi tên gọi, sự liên tưởng và suy nghĩ về những vấn đề được tác giả
đặt ra trong bài thơ. Ví dụ học xong bài thơ “ Sóng” có thể thảo luận với câu hỏi: Vì sao
nhà thơ lại có ước muốn “Làm sao được tan ra, thành trăm con sóng nhỏ”? Em lí giải
như thế nào về ước muốn này của thi nhân, thái độ sống ấy có phù hợp với những khao
khát của tuổi trẻ hiện nay không? Hoặc khi học đoạn trích “Đất nước” (Nguyễn Khoa
Điềm), có thể cho học sinh thảo luận với câu hỏi: Em nghĩ gì về lời nhắn nhủ của nhà
thơ: “Em ơi em! Đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết
háo thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời”? Lời nhắn nhủ ấy ngày nay
có còn tác dụng gì với tuổi trẻ của đất nước không?...
c.Tiến hành tổ chức thảo luận nhóm ở trên lớp:
- Mở đầu thảo luận: Giáo viên tổ chức phân nhóm, cho học sinh tự bầu trưởng

nhóm, giáo viên thông báo quy trình và quy định thảo luận.
- Giao nhiệm vụ cho từng nhóm; giáo viên chỉ làm nhiệm vụ quan sát, theo dõi mà
không tham gia ý kiến, không cắt ngang lời học sinh, không tỏ vẻ phản ứng nếu câu trả
lời, tranh luận không đúng với ý mình; khi học sinh đưa ra những câu trả lời ngờ nghệch,
không đúng, giáo viên nên nhanh chóng làm cho học sinh nhận thức được sự không đúng
của thông tin đó mà không làm ảnh hưởng đến cảm xúc, lòng tự trọng của học sinh; khi
học sinh trình bày, giáo viên phải nghe cẩn thận những điều học sinh nói để hiểu các em
định nói gì hoặc ghi chép nhanh lại những điểm cơ bản của mỗi ý kiến để chuẩn xác kiến
thức
- Sau khi thảo luận: Giáo viên phải tổng kết những ý kiến phát biểu thống nhất và
chưa thống nhất để mình tham gia vào những ý kiến chưa thống nhất và bổ sung thêm
những ý cần thiết; đánh giá các ý kiến phát biểu, nhận xét tinh thần, thái độ làm việc của
học sinh để thưởng điểm hoặc trừ điểm cho cá nhân của nhóm.
Tuy có nhiều ưu điểm và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc góp phần rèn
luyện những kĩ năng sống cho học sinh, song cũng cần lưu ý một điều rằng: sử dụng một
phương pháp dạy học không có nghĩa là đề cao và coi đó là phương pháp độc tôn, bởi lẽ
không có phương pháp nào là vạn năng. Hoạt động nhóm sử dụng trong dạy học môn
Ngữ văn nói chung và trong dạy học Ngữ văn lớp 12 nói riêng chỉ thực sự phát huy tác
dụng khi được phối hợp linh hoạt với các cách dạy học khác.
4. Tổ chức dạy học tác phẩm văn học theo phương pháp trò chơi.
- 13 -


4.1. Ý nghĩa, tầm quan trọng của phương pháp trò chơi
Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện những
hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó.
Cùng với học tập, giao lưu với bạn bè, vui chơi cũng là một nhu cầu của thanh thiếu niên
học sinh. Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ chức cho thanh thiếu niên vui
chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại hiệu quả giáo dục. Qua trò chơi, lớp trẻ
không những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ mà còn được hình

thành nhiều phẩm chất và hành vi tích cực. Chính vì vậy, trò chơi được sử dụng như là
một phương pháp dạy học quan trọng
Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động; học sinh
được lôi cuốn vào quá trình học hỏi một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách
nhiệm, đồng thời loại bỏ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. Trong quá trình
chơi sẽ hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi
và khả năng quyết định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp, từ đó sẽ hình
thành được ở các em niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực sau này. Vì học sinh
luôn có nhu cầu thể hiện mình nên sự cạnh tranh tích cực trong trò chơi còn kích thích sự
tiếp thu nội dung bài học các em. Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa
học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh, tính nhút nhát từ đó sẽ được cải thiện.
Vì thế môi trường sư phạm sẽ trở nên hòa đồng, thân thiện hơn.
4.2. Cách thức thực hiện:
Chính vì tự nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của phương pháp trò
chơi trong dạy học nên tôi có ý thức sử dụng phương pháp này trong quá trình giảng dạy
của mình. Nhưng do sự hạn chế của thời gian, của những đòi hỏi công phu, phức tạp của
phương pháp nên tôi mới chọn lọc để áp dụng vào việc dạy học một số tác phẩm văn học
ở lớp 12 như tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài), “Vợ nhặt” (Kim Lân), “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” (Lưu Quang Vũ)…nhằm hướng tới mục tiêu chủ yếu là rèn
luyện các kĩ năng sống cho học sinh khối lớp này.
Để thực hiện phương pháp này trên lớp, tôi chia học sinh thành 4 nhóm (thường là theo
tổ), giao nhiệm vụ chuẩn bị cụ thể cho mỗi nhóm như sau:
- Nhóm 1: Có trách nhiệm tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả; về xuất xứ, hoàn
cảnh ra đời của tác phẩm; đánh giá khái quát về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm (đọc
kĩ phần tiểu dẫn, tham khảo một số tài liệu khác, nếu chuẩn bị được một clip tư liệu về
tác giả và tác phẩm là tốt nhất)
- 14 -


- Nhóm 2: Có nhiệm vụ dàn dựng một tiểu phẩm dựa vào nội dung chính của tác phẩm.

- Nhóm 3: Có trách nhiệm chuẩn bị trang phục, trang trí và các phương tiện phục vụ cho
tiết mục biểu diễn.
- Nhóm 4: Có trách nhiệm soạn thảo các câu hỏi và đáp án để khám phá giá trị của tác
phẩm; chủ trì cho hoạt động hội thảo, tranh luận giữa các ý kiến khác nhau trên lớp.
Công việc chuẩn bị phải được giao cho học sinh trước đó 1 tuần, giáo viên cũng tham gia
vào việc tư vấn, điều chỉnh, huấn luyện các em luyện tập cho thật tốt trước khi tiến hành
“chơi”.
Sau thời gian chuẩn bị theo quy định, giáo viên báo trước học sinh thời gian giờ “học chơi”. Vào học, các nhóm sẽ “trình diễn” phần của mình một cách tự giác theo quy định,
giáo viên chỉ là người theo dõi, lắng nghe. Tiết học sẽ được thể hiện theo trình tự sau:
- Mở đầu tiết học, nhóm trưởng của nhóm 1 sẽ trong vai trò một người dẫn chương trình,
giới thiệu khái quát về tác giả - tác phẩm; trình chiếu lên máy chiếu đa năng đoạn phim tư
liệu về tác giả- tác phẩm.
- Sau đó, đại diện của nhóm 2 sẽ giới thiệu về vở diễn; các thành viên lên diễn lại tiểu
phẩm mà các em đã chuẩn bị.
- Đại diện của nhóm 4 sẽ chủ động đưa ra các câu hỏi hội thảo để tất cả thành viên trong
lớp tham gia; tổ chức cho các bạn thảo luận xoay quanh giá trị nội dung và nghệ thuật của
tác phẩm.
- Cuối cùng, giáo viên nhận xét, đánh giá và cho điểm từng phần.
Để tránh nhàm chán và tạo sự cạnh tranh lành mạnh trong học tập giữa các nhóm, tôi
thường thay đổi nhiệm vụ theo kiểu luân phiên giữa các nhóm để nhóm nào cũng được
“thử sức” với các nhiệm vụ khác nhau.
Khi tiến hành thử nghiệm dạy học theo phương pháp này tôi nhận thấy rằng, những giờ
dạy học đó không chỉ đem lại hứng thú cho học sinh, rèn luyện được nhiều kĩ năng sống
quan trọng cho các em mà còn tạo thêm niềm say mê nghề nghiệp, niềm tin yêu học sinh
của giáo viên. Điều thú vị là 100% học sinh trả lời rất thích học những giờ học kiểu như
thế này.
IV. Kiểm nghiệm:
Sau một năm thực hiện thí điểm các biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
lớp 12 qua môn Ngữ văn ở 2 lớp 12A2 và 12A3 của trường THPT Đào Duy Từ, tôi nhận
thấy: kết quả học tập đã có những chuyển biến đáng mừng, nhiều em tiếp thu bài chủ

- 15 -


động, có chiều sâu, phát huy cá tính sáng tạo; những kĩ năng sống quan trọng như kĩ năng
giao tiếp, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng hợp tác, kĩ năng giải quyết vấn đề…được hình
thành và phát triển bền vững; hứng thú dạy và học ở cả thầy và trò đều tăng lên đáng kể.
Kết quả khảo sát chất lượng và thăm dò ý kiến học kì II trên 100 học sinh tại 2 lớp 12A2
và 12A3 như sau:
Học lực

Kĩ năng

Hứng thú học tập

- 5% xếp loại giỏi

- 70% các em có kĩ năng giao - 75% hứng thú cao
với môn học.
- 40% xếp loại khá tiếp tốt.
- 55% xếp loại - 75% tự nhận thức được - 65% tích cực tham
năng lực, sở thích, sở trường gia đối thoại, xây
trung bình
của bản thân, hoàn cảnh của dựng bài.
- Không còn học gia đình, nhu cầu của xã hội.
- Số học sinh trây
sinh yếu - kém
- 60% có khả năng tự giải lười, không làm việc
quyết các vấn đề của bản trong mỗi giờ học
thân, của tập thể hợp lí, hợp còn không đáng kể
tình

So với đầu năm học: không khí giờ học văn ì trệ, nặng nề, mỗi lớp trong mỗi giờ
học chỉ khoảng 3-4 em giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng bài; thi khảo sát chất lượng đầu
năm không có bài đạt điểm 8 trở lên, điểm khá chỉ có 15/100 em, điểm dưới 4 có tới
20/100em; Rất nhiều em không thể diễn đạt một vấn đề một cách trôi chảy, nhiều em
không tự nhận thức được cái “vốn” của mình, cũng không biết mục đích của mình học để
làm gì; đa số các em giải quyết các vấn đề khoa học cũng như đời sống một cách thụ
động, thiếu tính hợp lí…
Kết quả này là nguồn động viên rất lớn đối với bản thân tôi và đó là tiền đề vững
chắc cho những năm tiếp theo để tôi có thể làm tròn nhiệm vụ của một người thầy đúng
nghĩa- không chỉ dạy chữ mà còn góp phần dạy Người.

- 16 -


C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục của thế kỉ XXI: Học để biết, học để làm, học để tự
khẳng định và học để cùng chung sống; đồng thời xuất phát từ yêu cầu mới của công việc
giảng dạy- lấy học sinh làm trung tâm, cho nên việc thể nghiệm những biện pháp trên vào
việc dạy học ngữ văn lớp 12 không nằm ngoài mục đích phục vụ mục tiêu và yêu cầu ấy.
Việc làm này không chỉ có tác dụng nâng cao việc dạy – học của thầy- trò mà còn có tác
dụng rèn luyện học sinh thành những người có kĩ năng thích ứng với đời sống ngày càng
đa dạng và phức tạp.
Đề tài này tuy không phải là một hướng đi mới mà chỉ là một cách làm cụ thể trong
quá trình lên lớp hằng ngày của giáo viên, hướng tới thực hiện mục tiêu chung của
nghành. Song, để thực hiện một cách có hiệu quả những giải pháp trên với những tiết dạy
cụ thể, đòi hỏi giáo viên phải thực sự có tâm huyết, yêu trẻ, yêu nghề, có các phương tiện
hiện đại hỗ trợ trong quá trình thực hiện.
Để nâng cao hiệu quả dạy- học văn và rèn luyện được những kĩ năng sống quan
trọng cho học sinh nói chung và học sinh lớp 12 nói riêng, đây cũng không phải là những
giải pháp duy nhất mà trong quá trình dạy học người giáo viên còn phải biết vận dụng

linh hoạt nhiều biện pháp, cách thức khác tùy thuộc vào nội dung bài học và đối tượng
học sinh cụ thể. Hơn nữa, cần phải có sự phối hợp, quan tâm thỏa đáng hơn từ phía nhà
trường, gia đình và các tổ chức xã hội khác, không nên quá đề cao mục đích “học thi” của
học sinh.
Với điều kiện thời gian và trình độ có hạn, tuy bài viết còn nhiều hạn chế nhưng với
tình yêu nghề và tinh thần tự giác gắn bó với sự nghiệp trồng người của mình, tôi muốn
đóng góp một kinh nghiệm cho công việc dạy học văn để các đồng nghiệp tham khảo.
Kính mong nhận được sự đồng cảm, đồng tình và những góp ý quý báu của các quý vị,
các đồng nghiệp gần xa để sự nghiệp giáo dục luôn luôn là sự nghiệp cao quý.

- 17 -



×