Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh lớp 12 qua môn Ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.51 KB, 18 trang )

www.sangkienkinhnghiem.com
A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Xã hội ngày nay, song song cùng những bước tiến tích cực về mọi mặt là
những tồn tại đầy nhức nhối mà bất kì một người có nhân cách, lương tâm nào
cũng đều phải trăn trở. Một trong những tình trạng đáng buồn của ngành giáo
dục của chúng ta hiện nay là tình trạng học sinh đánh nhau, vô lễ với thầy cô
giáo, bỏ học, tự tử, tham gia vào các tệ nạn xã hội…xuất hiện ngày một nhiều.
Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có lẽ, nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là do các
em thiếu kĩ năng sống.
Kĩ năng sống không phải là vấn đề mới mẻ nhưng giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh một cách hiệu quả cũng không phải là vấn đề đơn giản. Đặc biệt là
học sinh lớp 12 THPT. Đây là lứa tuổi đang ở ngưỡng cửa của một công dân
trưởng thành, độ tuổi không còn là trẻ con nhưng cũng chưa thành người lớn,
mọi suy nghĩ và hành động còn nông nổi, cảm tính; giàu ước mơ, ham hiểu biết,
thích tìm tòi, khám phá nhưng còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, mua
chuộc, kích động… Là năm cuối cùng của cấp trung học, các em phải đương đầu
với nhiều khó khăn, thách thức, phải chịu nhiều áp lực…Vì vậy, nếu thiếu những
kĩ năng sống cơ bản, học sinh lớp 12 dễ mắc những sai lầm nghiêm trọng như
thực tế chúng ta đã chứng kiến không ít trường hợp đau lòng: có học sinh khá-
giỏi đã tự tử vì thi trượt đại học, có học sinh lớp cuối cấp tìm lẽ sống của mình ở
trò chơi điện tử…Hơn nữa, đã là học sinh lớp 12 thì chỉ cần một thời gian ngắn
nữa là đa số các em phải bước vào cuộc sống tự lập, phải tự mình ứng phó với vô
vàn những tình huống khác nhau của cuộc sống phức tạp và ít có sự can thiệp,
giúp đỡ của người thân trong gia đình. Vì thế giáo dục kĩ năng sống cho các em
học sinh lớp 12 càng cấp thiết hơn bao giờ hết.
Môn ngữ văn trong nhà trường THPT là môn học có nhiều ưu thế trong
việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nói chung và cho học sinh lớp 12 nói
riêng.
Vì những lí do trên, với tư cách là một giáo viên dạy ngữ văn, tôi đã trăn
trở và thử nghiệm cách rèn luyện những kĩ năng sống cho học sinh lớp 12 qua


bộ môn mình giảng dạy nhằm mục đích nâng cao hiệu quả thiết thực của việc
dạy văn, đồng thời góp phần bé nhỏ vào việc khắc phục vấn đề nhức nhối của
- 1 -
www.sangkienkinhnghiem.com
nghành giáo dục hiện nay là tình trạng thiếu kĩ năng sống của một bộ phận không
nhỏ học sinh, nhất là học sinh cuối cấp Trung học. Tuy nhiên, do vấn đề kĩ năng
sống là một vấn đề rộng và phức tạp nên trong phạm vi của bài viết này chúng
tôi chỉ chú trọng vào một số giải pháp rèn luyện một số kĩ năng sống cơ bản mà
theo chúng tôi là quan trọng đối với học sinh lớp 12.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề:
1. Định nghĩa chung về kĩ năng sống:
Từ trước đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng sống,
nhưng nhìn chung các quan niệm đều thống nhất ở chỗ thấy được bản chất của kĩ
năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự
lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng sống
là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với
người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của
cuộc sống.
Ở nước ta, kĩ năng sống thường được phân làm 3 nhóm:
- Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các KNS
cụ thể như: tự nhận thức, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự tin…
- Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm: giao tiếp,
thương lượng, bày tỏ cảm thông, hợp tác…
- Nhóm các kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm: tìm kiếm
và xử lí thông tin, ra quyết định, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo…
Cũng cần phải nói thêm rằng kĩ năng sống của con người không phải tự
nhiên mà có được, nó phải được hình thành dần qua quá trình học tập, rèn luyện
lâu dài trong cuộc sống.
2. Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 12.

Ngày nay, những ai quan tâm đến giáo dục đều hiểu rằng: giáo dục thế hệ
trẻ không chỉ chú trọng dạy chữ mà còn phải quan tâm đến nhiệm vụ dạy người ,
con người không chỉ cần có tri thức mà phải biết sống đúng, sống đẹp, sống có
ích. Muốn như thế con người nhất thiết phải có kĩ năng sống. Vì người có kĩ
năng sống mới luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải
quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống một cách tích cực và phù hợp; luôn lạc
- 2 -
www.sangkienkinhnghiem.com
quan, làm chủ bản thân và làm chủ hoàn cảnh. Có thể nói: kĩ năng sống là “chiếc
chìa khóa vạn năng” giúp con người từng bước khẳng định bản ngã của chính
mình. Hơn thế, người có kĩ năng sống luôn có hành vi tích cực để góp phần xây
dựng và làm giảm bớt các tệ nạn xã hội, làm cho cuộc sống tươi sáng và văn
minh hơn.
Tuổi trẻ nói chung, đối tượng học sinh lớp 12 nói riêng là những chủ nhân
tương lai của đất nước, là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong
những năm tới. Nếu thiếu kĩ năng sống, các em không thể thực hiện tốt trách
nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước. Do đó đất nước khó có
thể phát triển theo chiều hướng tích cực như mong muốn.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường của nước ta hiện
nay, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh còn nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục phổ thông, hướng tới mục tiêu: đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, nghề nghiệp; trung thành với lí tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các nhà trường phổ thông cũng
là xu thế chung của nhiều nước trên thế giới.
3. Đặc trưng của bộ môn ngữ văn lớp 12 và những ưu thế của nó trong việc giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh.
“Văn học là nhân học” (M.Gorki), văn học với tư cách là môn khoa học xã

hội và nhân văn, nó không chỉ giúp học sinh hiểu biết về văn hóa, xã hội, lịch sử,
con người mà còn giúp mỗi người tự hiểu hơn về chính mình; với tính chất là
môn học công cụ, nó giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để tư duy, để học tập,
để giao tiếp, để nhận thức; với đặc trưng là môn học về giáo dục thẩm mĩ, nó bồi
dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành
mạnh để hoàn thiện nhân cách.
Chương trình ngữ văn lớp 12 là phần văn học hiện đại xen kẽ với các bài
học về tiếng Việt và làm văn, phù hợp với ngôn ngữ cũng như kiểu tư duy, tình
cảm hiện đại, rất thiết thực cho việc giáo dục những kiến thức và các kĩ năng
sống của con người hiện đại.
- 3 -
www.sangkienkinhnghiem.com
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
1. Thực trạng chung:
Tất cả những ai có trách nhiệm với tương lai đất nước, với thế hệ trẻ đều
nhận thấy rằng: giáo dục kĩ năng sống cho lứa tuổi học sinh đặc biệt là học sinh
cuối cấp THPT là vô cùng cấp thiết.
Bộ giáo dục và đào tạo từ năm 2005 đã xác định lại mục tiêu của giáo dục
Việt Nam: chuyển từ mục tiêu cung cấp kiến thức là chủ yếu sang hình thành và
phát triển những năng lực cần thiết ở người học để đáp ứng sự phát triển CNH-
HĐH đất nước. Thể hiện mục tiêu của giáo dục thế kỉ XXI: học để biết, học để
làm, học để tự khẳng định và học để cùng chung sống. Chủ trương chung của Bộ
giáo dục là từ năm học 2009-2010 đưa vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh vào tích hợp trong tất cả các môn học từ cấp mầm non cho đến lớp 12.
Nhưng có lẽ đây là lĩnh vực khoa học còn khá mới mẻ và với nhiều
nguyên nhân khác nhau nên việc giảng dạy, huấn luyện kĩ năng sống vẫn còn
nhiều điều bỏ ngỏ và chưa được quan tâm đúng mức; chưa có sự thống nhất
đồng bộ trong hệ thống giáo dục phổ thông của cả nước.
2. Thực trạng đối với giáo viên:
Anh chị em giáo viên trường tôi và cả một số trường bạn, khi được hỏi tới

vấn đề: giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thế nào để đạt hiệu quả? Đa số chỉ
cười lảng tránh hoặc thú thật: “đối phó thôi, thời gian đâu mà tích hợp”. Có
người chân thành và cởi mở hơn thì tâm sự: chủ trương chung là phải tích hợp
rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh nhưng thực tế chẳng có gì là cụ thể, thậm
chí làm cho giờ học phức tạp và rối rắm hơn. Bản thân tôi, khi mới tiếp cận với
vấn đề cũng có những cảm nhận như thế. Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, học
sinh chẳng mấy thiết tha với môn văn nên việc “tích hợp” càng khó khăn hơn.
Một điều đáng nói nữa là đa số phụ huynh, học sinh lớp 12, ngay cả phần lớn
giáo viên dạy khối học này cũng đều xác định mục tiêu quan trọng nhất của việc
học cho lớp 12 là “học để thi” chứ không phải là “học để làm người”. Xác định
mục tiêu như thế nên kiến thức phải luôn đặt ở thế “thượng phong”, việc giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh 12 chỉ mang tính chất “tự phát” và “tùy hứng” chứ
không mang tính chiến lược nên hiệu quả chưa có.
- 4 -
www.sangkienkinhnghiem.com
3. Thực trạng đối với học sinh:
Mỗi tháng, trường chúng tôi đều phải tổ chức những buổi họp Hội đồng kỉ
luật để xử lí những vụ đánh nhau mà đôi khi vì những lí do chẳng đâu vào đâu,
các em cũng “thượng cẳng tay, hạ cẳng chân” với nhau để lại hậu quả nghiêm
trọng đối với từng cá nhân học sinh, với gia đình, với nhà trường, với cả xã hội.
Học sinh lớp 12 mà chỉ cần một ánh mắt, một câu nói đùa của bạn đã có thể gây
ra một vụ ẩu đả ra trò. Đó chẳng phải do các em thiếu kĩ năng làm chủ cảm cảm
xúc, kĩ năng ra quyết định phù hợp đó sao? Mỗi ngày, các giáo viên chủ nhiệm
đều phải xử lí tại lớp mình bao nhiêu trường hợp nghỉ học để đi chơi game, bao
nhiêu trường hợp vô lễ với thầy cô giáo…Xử lí nhiều, kỉ luật nhiều, thậm chí có
những trường hợp kỉ luật nặng (đuổi học) nhưng tình hình vẫn không thay đổi
được là bao. Trong trường có biết bao nhiêu em rơi vào tình trạng “ăn không nên
đọi, nói không nên lời”, khi được thầy cô giáo chỉ định trả lời một câu hỏi thì ấp
úng, lúng túng, không thể diễn đạt nổi… Vấn đề cốt lõi của cái gốc thực trạng
đau lòng ấy chính là do các em thiếu những kĩ năng sống quan trọng: kĩ năng

làm chủ cảm xúc, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ra quyết
định, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ…Thiết nghĩ, không thể khắc phục được thực
trạng đáng buồn ấy bằng kiểu “học thi” như bây giờ mà phải chú tâm thỏa đáng
đến việc rèn luyện cho các em những kĩ năng sống để “làm Người”
III. Những giải pháp và tổ chức thực hiện
1. Tạo tình huống có tính chất ứng dụng thực tiễn đời sống:
1.1. Vai trò của những tình huống có tính chất ưng dụng:
Thực tế, kĩ năng sống không thể chỉ được giới thiệu và giảng giải bằng lí
thuyết. Bởi “lí thuyết suông” có thể tạo ra sự nhàm chán hoặc suy nghĩ “văn nói
láo, báo nói phét” từ phía học sinh, khiến các em mất niềm tin vào lời thầy cô
giảng. Hơn nữa, chỉ lí thuyết không chắc hẳn các em sẽ rất chóng quên.
Ưu thế nổi bật nhất của việc tạo ra được những tình huống có ý nghĩa vận
dụng trong quá trình dạy học văn:
- Nâng cao tính thực tiễn của môn học, để văn học gắn với đời sống chứ
không phải là thế giới chỉ có trong sách vở.
- Nâng cao tính chủ động, sáng tạo và sự hứng thú của học sinh trong quá
trình học.
- 5 -
www.sangkienkinhnghiem.com
- Đặc biệt là sẽ rèn luyện, nâng cao kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng
trình bày, bảo vệ và phản biện ý kiến trước đám đông.
- Ngoài ra, giáo viên, trong vai trò của người dẫn dắt, cũng sẽ tiếp thu
được rất nhiều kinh nghiệm và những cách nhìn, những giải pháp mới từ phía
học sinh để làm phong phú bài giảng và điều chỉnh nội dung tình huống nghiên
cứu.
1.2. Cách thức thực hiện:
Chính vì vậy, nên trong mỗi bài học tôi đều cố gắng tạo ra những tình
huống có vấn đề mang tính chất ứng dụng vào thực tế đời sống, rồi tổ chức cho
học sinh tự giải quyết. Việc giải quyết các tình huống như thế lúc đầu mang tính
chất cá nhân sau đó được thảo luận để đi đến một cách giải quyết tối ưu nhất.

Ví dụ: Trong khi dạy bài “Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống
HIV/ AIDS” của Cô-phi-a-nan, tôi đặt ra tình huống: Nếu em có một người bạn
thân bị nhiễm HIV/ AIDS, em sẽ hành động như thế nào? Vì sao? (lưu ý: hãy trả
lời bằng chính suy nghĩ thật và tình cảm thật của mình)
Sau khi đưa ra tình huống, tôi tổ chức cho học sinh tự giải quyết vấn đề
trên một tờ phiếu học tập, tất cả mọi người đều phải đưa ra chủ kiến của riêng
mình. Tôi chọn một số ý kiến (có thể để các em xung phong, cũng có khi chỉ
định bất kì), gọi một học sinh khác đọc to các ý kiến đó lên cho cả lớp cùng
nghe, cùng thảo luận, để thống nhất cách giải quyết tốt nhất. Với tình huống trên,
học sinh có thể có nhiều cách giải quyết khác nhau, chẳng hạn:
- Tìm cách trốn tránh, xa lánh, không chơi với bạn nữa vì sợ bị lây nhiễm.
Con người ta không thể cẩn thận tuyệt đối được và trong khi tiếp xúc với người
bệnh không thể chắc chắn rằng mình không bao giờ bị lây nhiễm.
- Vẫn giữ mối quan hệ bạn bè nhưng thận trọng và giữ một khoảng cách
nhất định khi tiếp xúc với bạn ấy. Vì mặc dù biết HIV không lây qua đường tiếp
xúc thông thường nhưng vẫn sợ, đó là bệnh nan y chưa có thuốc chữa, nhỡ may
sơ ý khi cả 2 cùng bị chảy máu, mình sẽ tự hủy hoại chính mình.
- Quan tâm chăm sóc, gần gũi, giúp đỡ bạn bằng tất cả những gì mình có
thể để bạn không rơi vào tình trạng mặc cảm, chán nản, bi quan. Vì lúc này là lúc
bạn cần mình nhất, lúc thể hiện tình bạn đẹp nhất.

- 6 -
www.sangkienkinhnghiem.com
Sau khi cho các em thảo luận, giáo viên định hướng chung để thống nhất
cách giải quyết: Nên gần gũi, giúp đỡ bạn bằng cả tình thương và trách nhiệm
nhưng tất nhiên phải cẩn thận để tự bảo vệ cho chính mình. Tìm hiểu kĩ để có
kiến thức thật vững vàng về căn bệnh, cũng như chú ý, quan tâm đến diễn biến
tâm lí, tình cảm của người bạn để chăm sóc bạn hiệu quả nhất và an toàn nhất.
Ví dụ 2: Khi dạy “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, đến chi tiết: A Phủ đánh
A Sử trong lễ hội mùa xuân vì A Sử cậy quyền thế mà phá đám cuộc chơi. Tôi

sẽ đặt ra tình huống vận dụng: Giả sử, bạn là A Phủ, trong hoàn cảnh trên bạn
sẽ xử sự thế nào? Học sinh cũng sẽ có nhiều cách xử trí khác nhau như:
- Sẽ đánh A Sử như A Phủ đã đánh hắn để hắn bớt thói hống hách, cậy thế
làm càn.
- Sẽ tự kiềm chế mà bỏ đi để tránh bạo lực và để khỏi “rước vạ” vào thân.
- Sẽ tổ chức một cuộc gặp gỡ để dùng lí lẽ mà thuyết phục đối phương
không nên phá rối như vậy bởi vui là vui chung, nếu có thể, sẽ đi đến một thỏa
thuận giữa hai bên để cuộc vui vẫn được tiếp diễn, không có gì đáng tiếc xảy ra.
- Sẽ tổ chức, lôi kéo được nhiều người đứng về phía mình, đánh kẻ cậy
quyền thế như A Sử một cách có tổ chức để vẫn dạy cho hắn một bài học nhưng
lại không chịu tội một mình như A Phủ.
Sau cùng sẽ thống nhất phương án giải quyết: Tùy vào thái độ và mức độ
phá đám của “kẻ cậy quyền” để ứng phó. Tốt nhất vẫn là ngồi lại để nói chuyện
với nhau, tìm điểm yếu của hắn rồi dùng lập luận, lí lẽ để thuyết phục, buộc đối
phương phải suy nghĩ lại. Tất nhiên phải có nghệ thuật để “nâng cao tầm” của
đối phương để sự tự phụ của hắn được ru vỗ thì ắt xung đột bạo lực sẽ không xảy
ra.
Việc tổ chức giải quyết các tình huống trải nghiệm kiểu như thế này
thường tạo cho học sinh tâm thế “nhập cuộc”, hứng thú, cảm thấy mình là người
trong cuộc, cần phải thể hiện suy nghĩ và hành động cụ thể. Qua những tình
huống đó, học sinh dần dần hình thành kĩ năng giải quyết các vấn đề và điều
chỉnh hành vi theo hướng hợp lí.

2. Tổ chức những hoạt động đối thoại đa dạng trong giờ dạy học:
2.1. Tầm quan trọng của hoạt động đối thoại trong dạy học và rèn luyện kĩ năng
sống:
- 7 -
www.sangkienkinhnghiem.com
Với kinh nghiệm của một người đã nhiều năm đứng trên bục giảng, tôi
nhận thấy, đối thoại có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc rèn luyện kĩ năng

cho học sinh nhất là học sinh lớp 12: đối thoại có tác dụng rèn cho học sinh thói
quen hợp tác với bạn trong quá trình học tập, tự đánh giá, điều chỉnh vốn tri thức
của bản thân trong quá trình thảo luận. Qua đối thoại,học sinh rèn luyện được kĩ
năng nói, phát biểu trước tập thể, tăng cường tinh thần trách nhiệm, tự tin, kích
thích sự chủ động sáng tạo của các em.
Tổ chức cho học sinh đối thoại trên lớp không chỉ tạo điều kiện phát triển
năng lực cá nhân cho mỗi HS mà còn phát huy vai trò hỗ trợ của tập thể trong
học tập khiến cho những vấn đề đưa ra đối thoại được nhìn nhận đa dạng, phong
phú, toàn diện hơn. Hơn nữa, Khi HS được tự do phát biểu một cách độc lập,
sáng tạo theo cảm nhận cá nhân, giáo viên sẽ có cơ sở và điều kiện để phát huy
vai trò chủ thể HS trong giờ học, lớp học trở nên sinh động, và việc tiếp thu kiến
thức của HS trở nên tự nhiên, sâu sắc hơn.
Nhưng một nghịch lí đáng buồn là trong các nhà trường hiện nay hiện
tượng lười xây dựng, phát biểu bài trở nên ngày càng phổ biến. Việc ngại hỏi,
ngại nói, ngại tranh luận trong lứa tuổi học sinh, nhất là học sinh THPT đã và
đang để lại những hậu quả bất lợi cho cả thầy và trò, cho chất lượng dạy-học,
trong đó người chịu thiệt thòi nhiều nhất chính là các em; đã khá nhiều lần chúng
tôi và các đồng nghiệp trao đổi, bàn tán về việc chán nản trước hiện tượng lớp
học này, lớp học kia lười phát biểu, xây dựng bài. Nhiều lần thầy cô giáo ra câu
hỏi, dù chỉ là những câu hỏi trong sách giáo khoa nhưng hỏi đi hỏi lại 2, 3, 4 lượt
nhưng các em vẫn ngồi im thin thít như tượng gỗ, và thầy cô rơi vào hoàn cảnh:
“miệng liền tai, nói lấy, nghe lấy rồi tự trả lời lấy” những tình huống như vậy
thường gây tâm lí ức chế cho thầy cô rất nhiều, thậm chí chán nản, không tha
thiết với công việc của mình.
Bên cạnh đó, việc lười xây dựng phát biểu bài của các em còn nảy sinh
tâm lí thụ động, chờ đợi, co cụm, ỷ lại nên học sinh khó nắm bắt và làm chủ kiến
thức của bài học, lâu ngày sẽ tạo thành thói quen thiếu tự tin, hạn chế tính tư duy
sáng tạo của người học, vì vậy trí nhớ giảm sút, học lực giảm, không phát huy
được ưu điểm cũng như không khắc phụ được nhược điểm của mình; đồng thời
việc rèn luyện kỹ năng, khả năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử của các em với cộng

đồng sẽ gặp nhiều hạn chế. Điều đó sẽ làm cho giáo dục đào tạo ra một lớp
- 8 -
www.sangkienkinhnghiem.com
người lạc hậu, kém năng động, kém sáng tạo, không giám khẳng định mình, co
mình như con rùa rụt cổ, không dám mạnh dạn đứng lên phê phán , chống lại cái
sai, cái ác, bảo vệ cái đúng cái thiện, thậm chí đồng tình, đồng lõa với các thói
hư tật xấu là điều khó tránh khỏi.
2.2.Cách thức thực hiện:
Chính vì những lí do như vậy nên trong quá trình dạy học văn, tôi đã cố
gắng để tạo ra những hoạt động đối thoại đa dạng. Ví dụ: Khi dạy tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa”(Nguyễn Minh Châu), tôi tạo ra các hoạt động đối thoại
sau:
- Đối thoại giữa giáo viên với học sinh thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở
như: Câu1: Cảm nhận của người nghệ sĩ trước “một cảnh đắt trời cho”? Vì sao
Phùng lại nghĩ đến sự đúc kết “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”? Câu 2: Ngay
khi đang tận hưởng cái khoảng khắc kì diệu mà hóa công ban tặng, Phùng đã
phát hiện ra điều gì? Thái độ của anh trước phát hiện ấy? Vì sao anh lại có thái
độ như vậy? Câu 3: Qua 2 phát hiện của Phùng, nhà văn muốn người đọc nhận
thức điều gì về cuộc đời? Câu 4: Giả sử đảo vị trí của 2 phát hiện ấy (cảnh bạo
lực của gia đình hàng chài thấy trước; cảnh đẹp của chiếc thuyền trên biển mờ
sương thấy sau), giá trị của tác phẩm có gì thay đổi? Với những câu hỏi kiểu
này, tôi thường khuyến khích cá nhân các em suy nghĩ, trả lời và thưởng điểm
cho những người có câu trả lời hay, sáng tạo.
- Đối thoại giữa học sinh với học sinh: Yêu cầu một em học sinh tự đặt ra
câu hỏi, gọi một em khác trả lời, 2 em tranh luận với nhau để bảo vệ ý kiến của
riêng mình. Chẳng hạn: Nếu bạn chứng kiến cảnh bạo lực của một gia đình nào
đó như gia đình hàng chài trong truyện, bạn sẽ làm thế nào? Sẽ có nhiều hướng
giải quyết khác nhau, người giáo viên sẽ làm trọng tài cho cuộc tranh luận giữa 2
em học sinh để đi đến một cách giải quyết hợp lí nhất.
- Đối thoại giữa học sinh với giáo viên: Cho phép học sinh đặt ra những

câu hỏi, những tình huống đối với giáo viên, giáo viên sẽ chia sẻ suy nghĩ và
kinh nghiệm của mình với học sinh một cách dân chủ, cởi mở. Ví dụ có em học
sinh hỏi: Nếu cô là người đàn bà hàng chài, trong hoàn cảnh nghèo khổ và bị
hành hạ như thế cô sẽ làm thế nào? Tôi sẽ nói với các em rằng: nếu rơi vào hoàn
cảnh như vậy, tôi sẽ suy nghĩ vì sao mình lại nghèo, vì sao chồng mình lại có
- 9 -
www.sangkienkinhnghiem.com
những hành vi như thế? trước hết phải tìm cách để thoát nghèo; sau đó sẽ dùng
lời lẽ, lập luận để chỉ ra cái sai trái trong hành động của người chồng. Nếu bản
chất của người chồng là tốt đẹp thì không có lí do gì mà cảnh tượng ấy lại tái
diễn
Để có những cuộc đối thoại đạt hiệu quả, tôi xác định những vấn đề trọng
tâm, mở ra nhiều cách giải thích khác nhau, kích thích khả năng tư duy sáng tạo,
thúc đẩy HS bộc lộ quan điểm và đối thoại. Những tình huống nêu ra để HS tham
gia đối thoại vừa không thoát li tác phẩm, vừa phù hợp với trình độ tiếp nhận của
các em, đồng thời đảm bảo cuộc tranh luận không mất trật tự, và không mất quá
nhiều thời gian cho phép. Cần tránh những hình thức câu hỏi mà khi trả lời, HS
chỉ dựa vào những quan niệm và kinh nghiệm đã có hay chỉ trình bày một chiều
các luận cứ để khẳng định một kiến giải nào đó. Ngoài ra, tôi cũng dự đoán
những tình huống có thể xảy ra trong sự tiếp nhận của HS để điều khiển cuộc đối
thoại sao cho không rơi vào bế tắc mà luôn đi theo những con đường hợp lí nhất.
3.Tích cực sử dụng phương pháp dạy học nhóm một cách hiệu quả:
3.1.Ý nghĩa, tầm quan trọng của phương pháp dạy học nhóm
Làm việc theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học được áp
dụng trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay nhằm phát huy được tính tích
cực của người học, dạy học hướng về người học
Tôi tự nhận thấy rằng: ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát
triển thì yêu cầu làm việc theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết vì trong thực tế
cuộc sống không có ai là hoàn hảo, do đó làm việc theo nhóm có thể tập trung
được những mặt mạnh của một nhóm người, từng người trong nhóm sẽ bổ sung,

hoàn thiện cho nhau những điểm yếu, hơn nữa nó còn tạo ra được niềm vui và sự
hứng thú trong học tập. Vì vậy, trong những năm học qua tôi luôn có ý thức tích
cực sử dụng phương pháp dạy học nhóm nhằm phát huy được những điểm mạnh
của nó.
Qua thử nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học văn trong những năm
học vừa qua, tôi thấy: bên cạnh việc giải quyết tốt nhiệm vụ nhận thức, tăng
cường dạy học theo nhóm giúp học sinh hình thành các phẩm chất nhân cách và
các kỹ năng xã hội tốt hơn, cụ thể là:
- 10 -
www.sangkienkinhnghiem.com
- Học theo nhóm phát huy cao độ vai trò chủ thể, tích cực của mỗi cá nhân
trong việc thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao; khi học theo nhóm, vai trò chủ
thể, tính tự giác, tích cực, sáng tạo, năng động, tinh thần trách nhiệm của học
sinh thường được phát huy hơn, cơ hội cho học sinh tự thể hiện, tự khẳng định
khả năng của mình nhiều hơn. Đặc biệt, khi học sinh học theo nhóm thì kết quả
học tập thường cao hơn, hiệu quả làm việc tốt hơn, khả năng ghi nhớ lâu hơn,
động cơ bên trong, thời gian dành cho việc học, trình độ lập luận cao và tư duy
phê phán. Nhóm làm việc còn cho phép các em thể hiện vai trò tích cực đối với
việc học của mình - hỏi, biểu đạt, đánh giá công việc của bạn, thể hiện sự
khuyến khích và giúp đỡ, tranh luận và giải thích rất nhiều những kĩ năng nhận
thức được hình thành, như: biết đưa ra ý tưởng của mình trong môi trường cùng
phối hợp, giải thích, học hỏi lẫn nhau bằng ngôn ngữ và phương thức tác động
qua lại, phát triển sự tự tin vào bản thân như là người học và trong việc chia sẻ
ý tưởng với sự tiếp thu có phê phán (của nhiều người cùng nghe về một vấn đề).
Hay nói cách khác, HS trở thành chủ thể đích thực của họat động học tập của cá
nhân mình.
- Giúp hình thành các kĩ năng xã hội và các phẩm chất nhân cách cần thiết
như: kĩ năng tổ chức, quản lí, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng hợp tác, có trách
nhiệm cao, tinh thần đồng đội, sự quan tâm và mối quan hệ khăng khít, sự ủng
hộ cá nhân và khuyến khích tinh thần học hỏi lẫn nhau, xác định giá trị của sự đa

dạng và tính gắn kết. Có những cảm xúc về trách nhiệm với nhóm và khuyến
khích ý thức tự giác, tự kỉ luật; phương tiện rèn luyện và duy trì các mối quan hệ
liên nhân cách.
- Thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ và nhân văn: dạy học theo nhóm
sẽ tạo cơ hội bình đẳng cho mỗi cá nhân người học được khẳng định mình và
được phát triển. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích HS giao tiếp với nhau và như
vậy sẽ giúp cho những học sinh nhút nhát, thiếu tự tin, cô độc có nhiều cơ hội
hòa nhập với lớp học. Thêm vào đó, học theo nhóm còn tạo ra môi trường hoạt
động mang bâù không khí thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ trên cơ sở
cố gắng hết sức và trách nhiệm cao của mỗi cá nhân. Học sinh có cơ hội được
tham gia tích cực vào hoạt động nhóm. Mọi ý kiến của các em đều được tôn
trọng và có giá trị như nhau, được xem xét, cân nhắc cẩn thận. Do đó sẽ khắc
- 11 -
www.sangkienkinhnghiem.com
phục tình trạng áp đặt, uy quyền, làm thay, thiếu tôn trọng giữa những người
tham gia hoạt động, đặc biệt giữa thầy và trò.
3.2.Cách thức thực hiện:
Để một giờ học trên lớp thành công với phương pháp dạy học nhóm, tôi
thường tiến hành theo 3 bước:
a.Chuẩn bị: Trước khi diễn ra tiết học có sử dụng hoạt động nhóm trên
lớp, hướng dẫn cho học sinh cách chuẩn bị bài theo một dàn ý bao gồm các nội
dung cơ bản sau:
- Đọc kĩ phần “kết quả cần đạt” trong sách giáo khoa.
- Tìm hiểu trước những kiến thức về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, đặc
trưng thể loại của tác phẩm (kiến thức này chủ yếu nằm trong phần “tiểu dẫn”)
- Đọc thật kĩ văn bản trước khi học (nếu là văn tự sự, kịch phải tóm tắt được cốt
truyện; nếu là tác phẩm thuộc thể loại trữ tình phải nắm bắt được mạch cảm xúc).
- Đọc phần chú giải trong sách giáo khoa để hiểu một số từ ngữ khó hoặc các
điển tích, điển cố, những chủ ý sáng tạo của nhà văn…
- Tự mình trả lời các câu hỏi trong phần “hướng dẫn học bài”; đánh dấu những

chỗ chưa giải quyết được hoặc còn băn khoăn để trao đổi với thầy cô và các bạn.
Khi đưa ra những yêu cầu chuẩn bị bài cho học sinh, tôi luôn kiểm tra tính
hiệu quả của công việc này bằng cách kiểm tra vở soạn bài kết hợp với những
câu hỏi về bài mới. Bởi vì nếu không chuẩn bị bài tốt, phương pháp dạy học
nhóm không thể thành công.
b. Xây dựng được những nội dung thảo luận quan trọng và phù hợp để
hoạt động nhóm có hiệu quả:
- Thảo luận về kết cấu ngôn từ của tác phẩm: từ nhan đề, bố cục cho đến ngôn
từ, hình ảnh, biểu tượng nghệ thuật mang tính sáng tạo của tác giả. Ví dụ: Học
tác phẩm “Vợ nhặt” ( Kim Lân) giáo viên có thể hỏi: Tại sao tác giả lại đặt tên
cho tác phẩm là “Vợ nhặt”? Nhan đề đó có ý nghĩa và có quan hệ như thế nào
với nội dung của tác phẩm? Những từ ngữ tác giả dùng để miêu tả về nạn đói có
gì đặc biệt? gợi cho em cảm giác gì?
- Thảo luận về kết cấu hình tượng của tác phẩm: về các hình tượng nhân vật
chính trong tác phẩm tự sự; hình tượng cái tôi trữ tình trong các tác phẩm thuộc
thể loại trữ tình. Ví dụ: Cảm nhận về hình tượng “sóng” khi hạy học bài thơ
- 12 -
www.sangkienkinhnghiem.com
“Sóng” (Xuân Quỳnh); hình tượng Mị và A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A
Phủ” (Tô Hoài)?
- Thảo luận về hiệu quả của các giá trị nghệ thuật độc đáo trong tác phẩm qua hệ
thống những câu hỏi so sánh. Để tạo tình huống cho học sinh tham gia đàm thoại
giáo viên có thể liên hệ các tác phẩm có cùng đề tài chủ đề, cùng một kiểu kết
cấu để tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau. Giáo viên hướng dẫn học
sinh đi đến những kết luận, đánh giá tính đặc sắc, độc đáo của từng tác phẩm và
nhận xét về điều chúng giống nhau. Để có kỹ thuật so sánh yêu cầu người học
phải có khả năng khái quát, đánh giá và phải có vốn kiến thức sâu rộng nhất
định. Chẳng hạn khi học xong bài thơ Sóng ( Xuân Quỳnh) học sinh có thể bộc
lộ cảm nhận của mình về tình yêu trong mối liên hệ với những bài thơ tình của
Xuân Diệu.

- Thảo luận về nội dung cảm xúc, ý nghĩa khái quát, ý nghĩa tư tưởng của
hình tượng, của tác phẩm. Từ đó có sự liên hệ văn bản với đời sống. Đây là một
việc làm có ý nghĩa tổng kết cho những vấn đề phân tích chi tiết cụ thể về nội
dung và ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật. Việc tổng hợp, khái quát lại thành
những phạm trù ý, luận điểm ngắn ngọn,cô đọng là rất cần thiết và có ý nghĩa
sâu sắc. Đây là một yêu cầu khá phức tạp cho nên nó phù hợp với hoạt động thảo
luận với những dạng câu hỏi về giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật, sự thay
đổi tên gọi, sự liên tưởng và suy nghĩ về những vấn đề được tác giả đặt ra trong
bài thơ. Ví dụ học xong bài thơ “ Sóng” có thể thảo luận với câu hỏi: Vì sao nhà
thơ lại có ước muốn “Làm sao được tan ra, thành trăm con sóng nhỏ”? Em lí
giải như thế nào về ước muốn này của thi nhân, thái độ sống ấy có phù hợp với
những khao khát của tuổi trẻ hiện nay không? Hoặc khi học đoạn trích “Đất
nước” (Nguyễn Khoa Điềm), có thể cho học sinh thảo luận với câu hỏi: Em nghĩ
gì về lời nhắn nhủ của nhà thơ: “Em ơi em! Đất nước là máu xương của mình/
Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết háo thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất
nước muôn đời”? Lời nhắn nhủ ấy ngày nay có còn tác dụng gì với tuổi trẻ của
đất nước không?
c.Tiến hành tổ chức thảo luận nhóm ở trên lớp:
- Mở đầu thảo luận: Giáo viên tổ chức phân nhóm, cho học sinh tự bầu
trưởng nhóm, giáo viên thông báo quy trình và quy định thảo luận.
- Giao nhiệm vụ cho từng nhóm; giáo viên chỉ làm nhiệm vụ quan sát, theo
- 13 -
www.sangkienkinhnghiem.com
dõi mà không tham gia ý kiến, không cắt ngang lời học sinh, không tỏ vẻ phản
ứng nếu câu trả lời, tranh luận không đúng với ý mình; khi học sinh đưa ra
những câu trả lời ngờ nghệch, không đúng, giáo viên nên nhanh chóng làm cho
học sinh nhận thức được sự không đúng của thông tin đó mà không làm ảnh
hưởng đến cảm xúc, lòng tự trọng của học sinh; khi học sinh trình bày, giáo viên
phải nghe cẩn thận những điều học sinh nói để hiểu các em định nói gì hoặc ghi
chép nhanh lại những điểm cơ bản của mỗi ý kiến để chuẩn xác kiến thức

- Sau khi thảo luận: Giáo viên phải tổng kết những ý kiến phát biểu thống
nhất và chưa thống nhất để mình tham gia vào những ý kiến chưa thống nhất và
bổ sung thêm những ý cần thiết; đánh giá các ý kiến phát biểu, nhận xét tinh
thần, thái độ làm việc của học sinh để thưởng điểm hoặc trừ điểm cho cá nhân
của nhóm.
Tuy có nhiều ưu điểm và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc góp phần
rèn luyện những kĩ năng sống cho học sinh, song cũng cần lưu ý một điều rằng:
sử dụng một phương pháp dạy học không có nghĩa là đề cao và coi đó là phương
pháp độc tôn, bởi lẽ không có phương pháp nào là vạn năng. Hoạt động nhóm sử
dụng trong dạy học môn Ngữ văn nói chung và trong dạy học Ngữ văn lớp 12
nói riêng chỉ thực sự phát huy tác dụng khi được phối hợp linh hoạt với các cách
dạy học khác.
4. Tổ chức dạy học tác phẩm văn học theo phương pháp trò chơi.
4.1. Ý nghĩa, tầm quan trọng của phương pháp trò chơi
Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thực
hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi
nào đó.
Cùng với học tập, giao lưu với bạn bè, vui chơi cũng là một nhu cầu của
thanh thiếu niên học sinh. Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ
chức cho thanh thiếu niên vui chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại
hiệu quả giáo dục. Qua trò chơi, lớp trẻ không những được phát triển về các
mặt trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất và hành
vi tích cực. Chính vì vậy, trò chơi được sử dụng như là một phương pháp dạy
học quan trọng
- 14 -
www.sangkienkinhnghiem.com
Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh
động; học sinh được lôi cuốn vào quá trình học hỏi một cách tự nhiên, hứng thú
và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời loại bỏ được những mệt mỏi, căng thẳng
trong học tập. Trong quá trình chơi sẽ hình thành năng lực quan sát, được rèn

luyện kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi và khả năng quyết định lựa chọn cho
mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp, từ đó sẽ hình thành được ở các em niềm
tin vào những thái độ, hành vi tích cực sau này. Vì học sinh luôn có nhu cầu thể
hiện mình nên sự cạnh tranh tích cực trong trò chơi còn kích thích sự tiếp thu
nội dung bài học các em. Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa
học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh, tính nhút nhát từ đó sẽ được
cải thiện. Vì thế môi trường sư phạm sẽ trở nên hòa đồng, thân thiện hơn.
4.2. Cách thức thực hiện:
Chính vì tự nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của phương
pháp trò chơi trong dạy học nên tôi có ý thức sử dụng phương pháp này trong
quá trình giảng dạy của mình. Nhưng do sự hạn chế của thời gian, của những
đòi hỏi công phu, phức tạp của phương pháp nên tôi mới chọn lọc để áp dụng
vào việc dạy học một số tác phẩm văn học ở lớp 12 như tác phẩm “Vợ chồng A
Phủ” (Tô Hoài), “Vợ nhặt” (Kim Lân), “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Lưu
Quang Vũ)…nhằm hướng tới mục tiêu chủ yếu là rèn luyện các kĩ năng sống
cho học sinh khối lớp này.
Để thực hiện phương pháp này trên lớp, tôi chia học sinh thành 4 nhóm
(thường là theo tổ), giao nhiệm vụ chuẩn bị cụ thể cho mỗi nhóm như sau:
- Nhóm 1: Có trách nhiệm tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả; về
xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm; đánh giá khái quát về nội dung, nghệ
thuật của tác phẩm (đọc kĩ phần tiểu dẫn, tham khảo một số tài liệu khác, nếu
chuẩn bị được một clip tư liệu về tác giả và tác phẩm là tốt nhất)
- Nhóm 2: Có nhiệm vụ dàn dựng một tiểu phẩm dựa vào nội dung chính của
tác phẩm.
- Nhóm 3: Có trách nhiệm chuẩn bị trang phục, trang trí và các phương tiện
phục vụ cho tiết mục biểu diễn.
- 15 -
www.sangkienkinhnghiem.com
- Nhóm 4: Có trách nhiệm soạn thảo các câu hỏi và đáp án để khám phá giá
trị của tác phẩm; chủ trì cho hoạt động hội thảo, tranh luận giữa các ý kiến

khác nhau trên lớp.
Công việc chuẩn bị phải được giao cho học sinh trước đó 1 tuần, giáo viên
cũng tham gia vào việc tư vấn, điều chỉnh, huấn luyện các em luyện tập cho thật
tốt trước khi tiến hành “chơi”.
Sau thời gian chuẩn bị theo quy định, giáo viên báo trước học sinh thời gian
giờ “học - chơi”. Vào học, các nhóm sẽ “trình diễn” phần của mình một cách tự
giác theo quy định, giáo viên chỉ là người theo dõi, lắng nghe. Tiết học sẽ được
thể hiện theo trình tự sau:
- Mở đầu tiết học, nhóm trưởng của nhóm 1 sẽ trong vai trò một người dẫn
chương trình, giới thiệu khái quát về tác giả - tác phẩm; trình chiếu lên máy
chiếu đa năng đoạn phim tư liệu về tác giả- tác phẩm.
- Sau đó, đại diện của nhóm 2 sẽ giới thiệu về vở diễn; các thành viên lên
diễn lại tiểu phẩm mà các em đã chuẩn bị.
- Đại diện của nhóm 4 sẽ chủ động đưa ra các câu hỏi hội thảo để tất cả thành
viên trong lớp tham gia; tổ chức cho các bạn thảo luận xoay quanh giá trị nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Cuối cùng, giáo viên nhận xét, đánh giá và cho điểm từng phần.
Để tránh nhàm chán và tạo sự cạnh tranh lành mạnh trong học tập giữa các
nhóm, tôi thường thay đổi nhiệm vụ theo kiểu luân phiên giữa các nhóm để
nhóm nào cũng được “thử sức” với các nhiệm vụ khác nhau.
Khi tiến hành thử nghiệm dạy học theo phương pháp này tôi nhận thấy rằng,
những giờ dạy học đó không chỉ đem lại hứng thú cho học sinh, rèn luyện được
nhiều kĩ năng sống quan trọng cho các em mà còn tạo thêm niềm say mê nghề
nghiệp, niềm tin yêu học sinh của giáo viên. Điều thú vị là 100% học sinh trả
lời rất thích học những giờ học kiểu như thế này.
IV. Kiểm nghiệm:
Sau một năm thực hiện thí điểm các biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho
học sinh lớp 12 qua môn Ngữ văn ở 2 lớp 12A2 và 12A3 của trường THPT Đào
Duy Từ, tôi nhận thấy: kết quả học tập đã có những chuyển biến đáng mừng,
- 16 -

www.sangkienkinhnghiem.com
nhiều em tiếp thu bài chủ động, có chiều sâu, phát huy cá tính sáng tạo; những kĩ
năng sống quan trọng như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng hợp
tác, kĩ năng giải quyết vấn đề…được hình thành và phát triển bền vững; hứng thú
dạy và học ở cả thầy và trò đều tăng lên đáng kể.
Kết quả khảo sát chất lượng và thăm dò ý kiến học kì II trên 100 học sinh
tại 2 lớp 12A2 và 12A3 như sau:
Học lực Kĩ năng Hứng thú học tập
- 5% xếp loại giỏi
- 40% xếp loại khá
- 55% xếp loại trung
bình
- Không còn học
sinh yếu - kém
- 70% các em có kĩ năng giao
tiếp tốt.
- 75% tự nhận thức được năng
lực, sở thích, sở trường của bản
thân, hoàn cảnh của gia đình,
nhu cầu của xã hội.
- 60% có khả năng tự giải quyết
các vấn đề của bản thân, của tập
thể hợp lí, hợp tình
- 75% hứng thú cao
với môn học.
- 65% tích cực tham
gia đối thoại, xây dựng
bài.
- Số học sinh trây lười,
không làm việc trong

mỗi giờ học còn không
đáng kể
So với đầu năm học: không khí giờ học văn ì trệ, nặng nề, mỗi lớp trong
mỗi giờ học chỉ khoảng 3-4 em giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng bài; thi khảo
sát chất lượng đầu năm không có bài đạt điểm 8 trở lên, điểm khá chỉ có 15/100
em, điểm dưới 4 có tới 20/100em; Rất nhiều em không thể diễn đạt một vấn đề
một cách trôi chảy, nhiều em không tự nhận thức được cái “vốn” của mình, cũng
không biết mục đích của mình học để làm gì; đa số các em giải quyết các vấn đề
khoa học cũng như đời sống một cách thụ động, thiếu tính hợp lí…
Kết quả này là nguồn động viên rất lớn đối với bản thân tôi và đó là tiền
đề vững chắc cho những năm tiếp theo để tôi có thể làm tròn nhiệm vụ của một
người thầy đúng nghĩa- không chỉ dạy chữ mà còn góp phần dạy Người.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
- 17 -
www.sangkienkinhnghiem.com
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục của thế kỉ XXI: Học để biết, học để làm, học
để tự khẳng định và học để cùng chung sống; đồng thời xuất phát từ yêu cầu mới
của công việc giảng dạy- lấy học sinh làm trung tâm, cho nên việc thể nghiệm
những biện pháp trên vào việc dạy học ngữ văn lớp 12 không nằm ngoài mục
đích phục vụ mục tiêu và yêu cầu ấy. Việc làm này không chỉ có tác dụng nâng
cao việc dạy – học của thầy- trò mà còn có tác dụng rèn luyện học sinh thành
những người có kĩ năng thích ứng với đời sống ngày càng đa dạng và phức tạp.
Đề tài này tuy không phải là một hướng đi mới mà chỉ là một cách làm cụ
thể trong quá trình lên lớp hằng ngày của giáo viên, hướng tới thực hiện mục tiêu
chung của nghành. Song, để thực hiện một cách có hiệu quả những giải pháp trên
với những tiết dạy cụ thể, đòi hỏi giáo viên phải thực sự có tâm huyết, yêu trẻ,
yêu nghề, có các phương tiện hiện đại hỗ trợ trong quá trình thực hiện.
Để nâng cao hiệu quả dạy- học văn và rèn luyện được những kĩ năng sống
quan trọng cho học sinh nói chung và học sinh lớp 12 nói riêng, đây cũng không
phải là những giải pháp duy nhất mà trong quá trình dạy học người giáo viên còn

phải biết vận dụng linh hoạt nhiều biện pháp, cách thức khác tùy thuộc vào nội
dung bài học và đối tượng học sinh cụ thể. Hơn nữa, cần phải có sự phối hợp,
quan tâm thỏa đáng hơn từ phía nhà trường, gia đình và các tổ chức xã hội khác,
không nên quá đề cao mục đích “học thi” của học sinh.
Với điều kiện thời gian và trình độ có hạn, tuy bài viết còn nhiều hạn chế
nhưng với tình yêu nghề và tinh thần tự giác gắn bó với sự nghiệp trồng người
của mình, tôi muốn đóng góp một kinh nghiệm cho công việc dạy học văn để các
đồng nghiệp tham khảo. Kính mong nhận được sự đồng cảm, đồng tình và những
góp ý quý báu của các quý vị, các đồng nghiệp gần xa để sự nghiệp giáo dục
luôn luôn là sự nghiệp cao quý.
Thanh Hóa, ngày 01/06/2012
Người viết sáng kiến kinh nghiệm


Nguyễn Thị Thơ
- 18 -

×