Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.99 KB, 57 trang )

LUẬN VĂN:

Hoạt động xúc tiến thương mại của
Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ


LỜI NÓI ĐẦU

Tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), điều đó có nghĩa là chúng ta đã thực sự hội nhập với nền kinh tế thế
giới. Hàng hóa của Việt Nam đâ được nhiều nước trên thế giới biết đến, tốc độ tăng trưởng
kinh tế ngày càng cao và có nhiều triển vọng. Tuy nhiên, nếu so với các nước khác trong
khu vực và nhất là so với Trung Quốc, hàng hóa của chúng ta vẫn còn rất yếu khi cạnh
tranh trên thị trường thế giới.
Trước tình hình đó, các hoạt động xúc tiến thương mại (XTTM) được triển khai
mạnh mẽ nhằm tìm kiếm thị trường, tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt
Nam. Hoạt động XTTM đã thể hiện vai trò quan trọng của mình, điều này được thể hiện
trong các chính sách ngoại thương của Chính phủ từ nay đến năm 2010. Các tổ chức
XTTM một mặt duy trì hoạt động tại các thị trường truyền thống, một mặt tịch cực đẩy
mạnh hoạt động tại các thị trường lớn và tiềm năng, hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích cho nến
kinh tế Việt Nam. Một trong những thị trường được Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp
quan tâm nhất hiện nay chính là thị trường Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ không phải là một thị trường xa lạ đối với hàng hóa Việt Nam, chúng ta đã
có những mặt hàng được biết đến trên thị trường này như hâng thủy sản chế biến, chè, cà
phê... nhưng đó vẫn chỉ là những con số nhỏ bé so với quy mô rộng lớn của thị trường Hoa
Kỳ. Với tình hình hiện nay, khi Hoa Kỳ đã traon quy chế thương mại bình thường vĩnh
viễn (PNTR) cho Việt Nam, chúng ta đang đứng trước cơ hội mở rộng quan hệ thương mại
với một trong những thị trường hấp dẫn nhất thế giới. Chính vì thế, hoạt động XTTM để
đưa hàng hóa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ cảng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đó
cũng chính là lý do em lựa chọn đề tài " Hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam
trên thị trường Hoa Kỳ" làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.


Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động
XTTM của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp làm tăng
hiệu quả của hoạt động này trong thời gian tới.
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:


Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xúc tiến thương mại và yêu cầu của hoạt
động xúc tiến thương mại ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại sang thị trường Hoa
Kỳ trong thời gian qua.
Chương 3: Phương hướng phát triển và giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động
xúc tiến thương mại tại thị trường Hoa Kỳ.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động XTTM nói chung và hoạt động XTTM
tại thị trường Hoa Kỳ nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu:
Bài viết chủ yếu tập trung vào các hoạt động XTTM mà Việt Nam thực hiện tại thị
trường Hoa Kỳ sau khi Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu
lực (11/2001) cho đến nay.
Phương pháp nghiên cứu: dựa trên các quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử kết hợp với các biện pháp thông kê, sử dụng số liệu theo kết quả điều tra và công bố của
các Bộ, ngành có liên quan


Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xúc tiến thương mại và yêu cầu của hoạt
động xúc tiến thương mại ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

1.1 Cơ sở lý luận về hoạt động xúc tiến thương mại
1.1.1 Khái niệm xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại (XTTM) theo quan điểm truyền thống là hoạt động trao đổi và
hỗ trợ trao đổi thông tin giữa bên bán và bên mua, hoặc qua khâu trung gian, nhằm tác

động tới thái độ và hành vi buôn bán, qua đó thúc đẩy việc mua bán và trao đổi hàng hóa
và dịch vụ. Theo quan điểm này, xúc tiến thương mại gồm các hoạt động sau:
- Hoạt động thông tin thương mại và nghiên cứu thị trường.
- Hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, triển lãm và khuyến mại hàng hóa và dịch vụ.
- Tổ chức và tham gia các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài.
- Đón tiếp và tổ chức cho các đoàn thương mại và thương nhân nước ngoài vào khảo
sát thị trường nội địa
- Đại diện thương mại tại nước ngoài.
Theo giáo trình "Lý luận và nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh" của trường Đại
học Kinh tế quốc dân thì: XTTM là các biện pháp và nghệ thuật mà các nhà kinh doanh
dùng để thông tin về hàng hóa, tác động tới người mua, lôi kéo họ về phía mình và các biện
pháp hỗ trợ bán hàng. Theo quan điểm này, XTTM gồm có ba nội dung chính: Quảng cáo;
các hoạt động yểm trợ và xúc tiến bán hàng.
Theo quan điểm của Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC) thì XTTM là tấ cả các
biện pháp có thể tác động, hỗ trợ, khuyến khích phát triển thương mại.
Trong các quan niệm trên thì quan niệm của ITC là quan niệm hiểu theo nghĩa rộng
và khá toàn diện trên cả tầm vĩ mô, vi mô với 3 chủ thể tham gia chủ yếu là: Chính phủ,
các tổ chức hoạt động XTTM và các doanh nghiệp. Còn các quan niệm khác vẫn hiểu
XTTM theo nghĩa hẹp tức là vẫn coi hoạt động XTTM là 1 trong 4p của marketing. Nếu
hiểu theo nghĩa hẹp thì không thể giải quyết được những vấn đề đặt ra hiện nay của hoạt
động thương mại như sự tăng trưởng bền vững của thương mại làm động lực cho sự phát
triển kinh tế, việc thúc đẩy xuất khẩu của các nước đang phát triển trong xu thế toàn cầu


hoá… Do vậy trong điều kiện hiện nay nên hiểu XTTM theo quan niệm của ITC là phù
hợp với thực tế đang có nhiều biến động.
Bên cạnh khái niệm về XTTM như đã nêu ở trên, có rất nhiều khái niệm về các hoạt
động hỗ trợ tương tự như: xúc tiến xuất khẩu, phát triển thương mại, thuận lợi hóa thương
mại... Các hoạt động này trong một số hoàn cảnh có thể hiểu giống như XTTM nhưng về
cơ bản, XTTM là một khái niệm mang ý nghĩa rộng và việc áp dụng khái niệm nào là theo

quan điểm của từng quốc gia hoặc tổ chức thực hiện hoạt động XTTM.
1.2 Yêu cầu của hoạt động XTTM ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
Hiện này, theo quan điểm của Việt Nam, XTTM được hiểu theo quan điểm truyền
thống, nghĩa là chỉ bao gồm các hoạt động trực tiếp thúc đẩy bán hàng, diễn ra ở khâu cuối
cùng của quy trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ. Luật Thương mại Việt Nam
định nghĩa hoạt động XTTM chỉ bao gồm hoạt động quảng cáo, hội chợ triển lãm và
khuyến mại.
Nhưng kể từ tháng 11/2006, khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hoạt động XTTM của chúng ta cần đáp ứng một số
yêu cầu để phù hợp với hòa cảnh mới, đó là:
Hoạt động XTTM phải được coi là một bộ phận cấu thành đồng bộ, không thể thiếu
trong chính sách thương mại quốc gia.
Chính sách thương mại được hiểu là việc sử dụng các công cụ, biện pháp khác nhau
để can thiệp và điều tiết hoạt động thương mại.
Chính sách thương mại của quốc gia được Chính phủ sử dụng để điều tiết hoạt động
thị trường nội địa hoặc để phân biệt đối xử với hàng hoá dịch vụ nước ngoài, với các chủ
thể nước ngoài kinh doanh trên thị trường nội địa. Do sự tác động của xu thế tự do hoá
thương mại mà việc thực hiện chính sách thương mại của mỗi quốc gia phải phù hợp với
luật pháp quốc tế.
Hoạt động XTTM phải chuyên nghiệp hoá và có tính chuyên môn hoá cao.
Đối với Việt Nam, XTTM còn khá mới mẻ nên tính chuyên nghiệp và chuyên môn
hoá chưa cao. Do vậy, hoạt động XTTM chưa có ý nghĩa thiết thực đối với hoạt động xuất


khẩu, đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Thực tế cho thấy hoạt
động XTTM ở Việt Nam hiện nay chủ yếu mang tính tình thế và tập trung vào các nội dung
như: hội chợ triển lãm, quảng cáo, khuyến mại… chứ chưa có một chiến lược, kế hoạch cụ
thể, cho nên hoạt động XTTM không có mục tiêu cụ thể, chưa gắn với thị trường, chưa có
các biện pháp cụ thể phù hợp…

Những việc làm trên sẽ tạo điều kiện từng bước đưa hoạt động XTTM ở Việt Nam
đi vào chuyên nghiệp và có tính chuyên môn hoá cao nhằm đem lại hiệu quả cao hơn.
Hoạt động XTTM phải bảo đảm bảo tính đồng bộ, có ý nghĩa thiết thực đối với việc
đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ và nâng cao năng lực cạnh tranh cho các
doanh nghiệp.
Sự đồng bộ của hoạt động XTTM phải đảm bảo trên cả hai góc độ sau:
Một là, đảm bảo sự đồng bộ giữa các giải pháp trong quá trình thực hiện. Điều này
có nghĩa là không nên chỉ tập trung vào các giải pháp dễ làm, các giải pháp không cần
nhiều chất xám như tổ chức hội chợ triển lãm, quảng cáo… còn các giải pháp cần nhiều
chất xám, khó tổ chức thực hiện như nghiên cứu thị trường, nghiên cứu phát triển sản
phẩm... thì lại không làm.
Hai là, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ trong hoạt động giữa các tổ chức XTTM, giữa
các dự án XTTM bởi lẽ nếu không có sự phối hợp đồng bộ trong quá trình hoạt động thì sẽ
dẫn đến tình trạng chồng chéo, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí các
nguồn lực của doanh nghiệp.
1.3 Chức năng, vai trò của xúc tiến thương mại.
1.3.1 Chức năng của XTTM
Mặc dù mỗi một tổ chức XTTM tùy theo hoạt động chính của mình mà có các chức
năng riêng biệt, nhưng hoạt động XTTM nói chung vẫn thể hiện năm chức năng chính của
mình, cụ thể là:
1.3.1.1 Xác định, phát triển sản phẩm và thị trường
XTTM có chức năng xác định một cách chính xác nhất có thể về cung xuất khẩu có
sẵn hoặc sắp có, thông tin về các nhu cầu của cộng đồng xuất khẩu và tính chất của thị
trường nước ngoài, các cơ hội thương mại ở thị trường nước ngoài. Các thông tin này thu


thập được thông qua nghiên cứu về cung xuất khẩu và tiềm năng thị trường. Kết quả của
các thông tin này được phổ biến thông qua các bản mô tả tóm tắt về sản phẩm và thị
trường. Ở các nước, khuynh hướng đang phát triển là tập trung vào các nghiên cứu vì nó
được xem là ngày càng quan trọng cho các quyết định về hoạt động hỗ trợ trong tương lai

đối với cộng đồng xuất khẩu.
1.3.1.2 Dịch vụ thông tin thương mại
Trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu, việc thiếu thông tin về thị trường nước ngoài
vẫn luôn là rào cản được thường xuyên đề cập đến trong các diễn đàn hay hội thảo về kinh
doanh xuất khẩu. Có nhiều định chế về dịch vụ thông tin thương mại được lập ra như
Phòng Thương mại, tổ chức CTTM và thông tin cũng đến từ nhiều nguồn. Tại một số quốc
gia, việc tạo ra dịch vụ thông tin là biểu thị cho sự bắt đầu của các nỗ lực xúc tiến xuất
khẩu.
1.3.1.3 Các dịch vụ hỗ trợ chuyên môn
Các dịch vụ này nhằm hỗ trợ cộng đông xuất khẩu nâng cao trình độ chuyên môn về
kỹ thuật ngoại thương của họ, và nhằm đưa ra các dịch vụ cạnh tranh hơn trên thị trường
quốc tế bằng việc cải tiến chất lượng sản phẩm và các đặc điểm, tính chất khác. Các dịch
vụ này gồm nhiều các vấn đề như: thủ tục xuất khẩu, vận chuyển, vốn, tiếp thị, định giá
thành và giá bán, kiểm định chất lượng, bao bì xuất khẩu, quảng cáo, các vấn đề pháp lý,
xuất khẩu các dịch vụ...
Phạm vi các dịch cụ này rất rộng, tổ chức XTTM phải dựa trên một nghiên cứu kỹ
lưỡng về các yêu cầu của nhà xuất khẩu để lựa chọn các dịch vị thực hiện.
1.3.1.4 Các hoạt động CTTM ở nước ngoài
Các dịch vụ XTTM tại nước ngoài bổ sung thêm sự hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu
trong nước. Các hoạt đông này bao gồm việc tham gia vào các hội chợ thương mại ở nước
ngoài, tổ chức các đoàn thương nhân khảo sát thị trường nước ngoài, mời đối tác nước
ngoài đến thăm cơ sở sản xuất trong nước và tham dự triển lãm trong nước, v.v...
Tại nhiều quốc gia, đại diện thương mại tại nước ngoài do Bộ Ngoại giao đảm trách,
trong một số it trường hợp, trách nhiệm này do Bộ Thương mại hoặc tương đương. Sự tồn
tại mạng lưới các văn phòng đại diện thương mại dưới sự điều hành trực tiếp cảu tổ chức


XTTM là hiếm có, ngoại trừ các tổ chức XTTM có quá trình hoạt động lâu dài và có nguồn
lực tài chính dồi dào và có chiến lược mạnh hướng về xuất khẩu. Trong thực tế, có khoảng
một nửa các quốc gia, các văn phòng đại diện thương mại tại nước ngoài có những liên kết

trực tiếp với tổ chức XTTM. Các đại diện thương mại của tổ chức XTTM tại nước ngoài
thường có chức năng riêng biệt về XTTM, trong một số rất ít trường hợp, họ cũng có liên
quan đến các vấn đề như xúc tiến đầu tư và tìm nguồn nhập khẩu. Trái lại, đa số các viên
chức của Bộ Ngoại giao hay Bộ Thương mại lại không có nhiệm vụ riêng cho xúc tiến xuất
khẩu. Tuy nhiên, tại các quốc gia phát triển, có sự tập trung rõ ràng cho các vấn đề thương
mại.
Một số it quốc gia tổ chức bộ phận thương vụ để người địa diện của các Bộ có thể
liên lạc và nhận các thông tin, hướng dẫn từ tổ chức XTTM, do đó đẩy mạnh và làm cho
công việc có hiệu quả hơn.
1.3.1.5 Hỗ trợ các tổ chức khác
Có nhiều chức năng, do bản chất riêng của chúng, nên được thực hiện bởi các định
chế chuyên môn công và tư khác tổ chức XTTM. Tuy nhiên, do các chức năng này có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp vào các trách nhiệm xúc tiến và phát triển xuất khẩu của tổ
chức XTTM, nên rất cần thiết phải được liên kết với tổ chức XTTM bằng một cơ chế thích
hợp cho việc phối hợp. Vả lại, tổ chức XTTM nên hỗ trợ các hoạt động của các định chế
này do có liên quan đến hoạt động xúc tiến.
Các hoạt động này gồm các chương trình huấn luyện của các định chế khác, thực
hiện các chiến dịch thúc đẩy, chuẩn bị các nghiên cứu kinh tế và các báo cáo tư vấn trình
Chính phủ, và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.3.2 Vai trò của XTTM
1.3.2.1 Vai trò của XTTM đối với quốc gia
Đối với nền kinh tế thị trường, XTTM có một vai trò quan trọng, nó tạo ra những
thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, mang lại thu nhập cho nền kinh tế. Hoạt động
XTTM ở cấp quốc gia do Chính phủ thực hiện, có ý kiến cho rằng Chính phủ chỉ nên tập
trung vào việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi bằng cách ban hành các chính sách
khuyến khích thương mại hoặc tiến hành các hoạt động nhằm thuận lợi hóa thương mại,


còn những hoạt động XTTM trực tiếp khác nên để cho khu vực tư nhân và phi chính phủ
đảm nhiệm. Lập luận này dựa trên cơ sở học thuyết kinh tế thị trường thuần túy cho rằng

Nhà nước chỉ can thiệp vào thị trường khi có những thất bại thị trường hoặc khi Nhà nước
làm việc có hiệu quả hơn khu vực tư nhân. Song trên thực tế, ở hầu hết tất cả các nước kể
cả các nước phát triển, chính phủ đền trực tiếp tiến hành một số hoạt động XTTM, nhất là
hoạt động thông tin. Nhiều người cho rằng chính phủ là tổ chức thu thập, phân tích và
chuyển tải thông tin về thị trường và cơ hội kinh doanh ở nước ngoài cũng như dự đoán xu
hướng và thay đổi của nó v.v... cho cả cộng đồng doanh nghiệp với chi phí thấp hơn so với
khu vực tư nhân đảm nhiệm.
Mặt khác, theo quy đingj của WTO, chính phủ các nước thành viên có mức thu nhập
GNP bình quân đầu người từ 1000USD trở lên không được phép trợ cấp trực tiếp cho xuất
khẩu nhưng có thể trợ cấp cho hoạt động XTTM hoặc tiến hành một số hoạt động XTTM
để hỗ trợ cho doanh nghiệp. Đây là nguyên nhân ngày càng nhiều quốc gia thành lập tổ
chức XTTM của Chính phủ, hiện nay trên thế giới có khoảng 130 nước có tổ chức này.
Tóm lại, vai trò chủ yếu của XTTM đối với quốc gia vẫn thể hiện qua những chính
sách của Chính phủ nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại. Đồng thời, việc xuất
hiện các tổ chức XTTM của Chính phủ cũng khẳng đinh vai trò quan trọng không thể thiếu
của XTTM đối với nền kinh tế quốc gia, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.2.2 Vai trò của XTTM đối với doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp, XTTM có vai trò đặc biệt quan trọng, tác động trực tiếp đến
hoạt động kinh doanh, là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Cụ thể là:
Thứ nhất, hỗ trợ và cung cấp các thông tin nghiệp vụ cần thiết và chính xác là một
trong những yêu cầu bức thiết . Hiện nay, môi trường và thị trường kinh doanh đã có
những thay đổi lớn, tác động đến hoạt động của doanh nghiệp và sự phát triển của xã hội.
Ngày càng có nhiều quốc gia tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới, hạn ngạch xuất
nhập khẩu sẽ bị bãi bỏ cùng với các khoản thuế đánh vào hàng nhập khẩu. Điều này tạo
thuận lợi lớn cho việc giao thương nhưng cũng đưa các nhà kinh doanh vào môi trường
cạnh tranh gay gắt trên trường quốc tế. Các thông tin về các hiệp định thương mại, thuế
quan, hàng rào phi thuế quan là rất cần thiết và hữu ích. Tuy nhiên, các doanh nghiệp kinh


doanh nhập khẩu thường ít được thông tin đầy đủ. Vì thế, vai trò của xúc tiến thương mại

là phải cập nhật và nắm vững thông tin để cung cấp cho doanh nghiệp một cách kịp thời và
chính xác.
Thứ hai, tăng cường vai trò là cầu nối giúp doanh nghiệp nghiên cứu thị trường và
tìm kiếm khách hàng. Bên cạnh môi trường kinh doanh thay đổi, thị trường kinh doanh
hiển nhiên cũng thay đổi liên tục. Các yếu tố cấu tạo nên thị trường như nhu cầu của người
tiêu dùng, nhà sản xuất, kênh phân phối, giao dịch, dịch vụ … hiện nay đã khác hẳn những
năm trước đây. Hoạt động trong lĩnh vực xúc tiến thương mại phải nhanh nhạy với những
thay đổi của thị trường, nắm bắt và dự báo xu hướng thị trường để tư vấn và hỗ trợ doanh
nghiệp đạt hiệu quả. Doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ thị trường trong nước cũng như thị
trường nước ngoài để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Xúc tiến thương
mại sẽ làm cầu nối đưa doanh nghiệp đi nghiên cứu mở rộng thị trường, giúp doanh nghiệp
hiểu và thận trọng hơn khi lựa chon bạn hàng, thị trường và phương thức kinh doanh khi ký
kết hợp đồng.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác huấn luyện, đào tạo nâng cao năng lực cho doanh
nghiệp, ứng dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả . Internet cũng là một công cụ
rất hữu ích cho doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các nhà xuất khẩu. Đây là kênh thu thập
và phổ biến thông tin, công cụ bán hàng và marketing hữu hiệu. Thông qua, người ta có thể
chào giá, giới thiệu sản phẩm, giao dịch,… với các công ty khác trên khắp thế giới. Nhưng
trên thực tế, sử dụng công cụ này như thế nào cho hiệu quả, mang lại lợi nhuận là điều
không phải doanh nghiệp, tổ chức nào cũng làm được. Do đó, vai trò của các tổ chức xúc
tiến thương mại là tăng cường công tác đào tạo nghiệp vụ thương mại điện tử để doanh
nghiệp có khả năng sử dụng công cụ này. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến đào tạo nghiệp
vụ chuyên môn để năng cao hơn nữa khả năng và trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Thứ tư, khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu nhằm nâng cao
sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá. Vấn đề xây dựng và phát triển thương hiệu cũng
là một yêu cầu cấp thiết, khẳng định vị thế, uy tín của hàng hoá và doanh nghiệp, giúp
doanh nghiệp nâng cao năng lực thâm nhập, duy trì và phát triển thị trường cả trong nước
và nước ngoài. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta không chỉ cạnh tranh với các doanh



nghiệp trong nước mà chúng ta còn phải cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài đầu tư và
kinh doanh tại VN. Một sản phẩm mang nhãn hiệu được bảo hộ độc quyền dưới mắt người
tiêu dùng thì đó là biểu tượng xác định uy tín về mặt chất lượng của sản phẩm, mặt khác nó
còn khẳng định về mặt trách nhiệm của nhà cung cấp đối với người tiêu dùng. Do vậy, sức
mua trên thị trường đối với những sản phẩm có thương hiệu thường lớn hơn, và ngưòi tiêu
dùng sẳn sàng chi trả cao hơn những sản phẩm cùng loại mà không có thương hiệu. Nói
tóm lại, chất lượng và thương hiệu của sản phẩm là điều kiện tiên quyết trong môi trường
cạnh tranh. Tuy nhiên, để doanh nghiệp hiểu và bắt tay vào làm là cả một quá trình. Do đó,
vai trò của xúc tiến thương mại là làm sao tư vấn, cung cấp thông tin và hướng dẫn để
doanh nghiệp có nhận thức đúng đắn hơn về tầm quan trọng của thương hiệu và có sự đầu
tư nhất định cho việc phát triển thương hiệu. Hiện nay, tỉnh ta việc xây dựng thương hiệu
cho các sản phẩm còn quá ít so với tiềm năng, chất lượng sản phẩm cũng chưa thật đều.
Tỉnh cũng đã có nhiều chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp xây dựng và phát triển thương
hiệu để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp luôn là vấn đề được quan tâm. Về vấn đề
này, XTTM thể hiện vai trò của mình qua các mặt chủ yếu sau:
Một là, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp: Hoạt động XTTM ở
tầm vi mô sẽ tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp bởi lẽ việc hoàn
thiện các chính sách, chế độ sẽ tạo ra động lực giúp cho doanh nghiệp từng bước vươn lên
trong môi trường cạnh tranh. Mặt khác, các cam kết song phương, đa phương của Chính
phủ sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường ngoài
nước, phát huy được những lợi thế của doanh nghiệp trên thị trường thế giới.
Hai là, giúp cho doanh nghiệp tăng năng lực cạnh tranh: Hoạt động XTTM sẽ giúp
cho các doanh nghiệp có được những thông tin đầy đủ, chính xác về thị trường, khách
hàng, đối thủ cạnh tranh… Trên cơ sở những thông tin đó, doanh nghiệp sẽ xử lý và đưa ra
những quyết định hợp lý về lựa chọn chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả
nhất nhằm giảm giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo ra năng lực cạnh
tranh ngày càng mạnh hơn.



Ba là, giúp cho doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ: Hoạt động XTTM là công
cụ hữu hiệu để duy trì và chiếm lĩnh thị trường cho doanh nghiệp từ đó tăng nhanh dung
lượng thị trường của hàng hoá bởi lẽ hoạt động XTTM sẽ giúp cho doanh nghiệp tiếp cận
được các thị trường tiềm năng, cung cấp cho khách hàng những thông tin nổi bật của hàng
hoá nhằm kích thích nhu cầu của khách hàng tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ.
Bốn là, giúp cho doanh nghiệp củng cố, khẳng định được vị thế so với đối thủ cạnh
tranh: Hoạt động XTTM có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và phát triển thương
hiệu sản phẩm của doanh nghiệp. Thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp khi đã được
khẳng định và có uy tín trên thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp mở rộng được thị trường
tiêu thụ, nâng cao vị thế của doanh nghiệp… Bởi vậy, uy tín thương hiệu sản phẩm của
doanh nghiệp được coi là tài sản vô hình của doanh nghiệp.
Vai trò xúc tiến thương mại là cũng chính hỗ trợ doanh nghiệp nhằm góp phần tăng
trưởng kinh tế xã hội. Vậy, làm thế nào để hỗ trợ tốt cho doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi
người làm công tác xúc tiến thương mại phải có kiến thức về kinh tế vĩ mô, giao thương
quốc tế, công nghệ thông tin…;cập nhật và bổ sung kiến thức thường xuyên để nâng cao
trình độ; nhận thức được những gì đang diễn ra; có óc phán đoán, tiên liệu xu hướng thị
trường để có thể tư vấn một cách hữu hiệu cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp xác định
được các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của mình để linh hoạt và thích ứng khi điều
kiện thị trường thay đổi. Tuy nhiên, vấn đề chính là doanh nghiệp phải năng động, tự nhận
thức được những thay đổi trên thế giới, và có ý thức tự vận động để tồn tại và phát triển.
1.4 Các loại hình XTTM
1.4.1 Các chuyến thăm và làm việc của lãnh đạo Chính phủ ở nước ngoài
Đây là hoạt động XTTM ở cấp quốc gia, do các cấp lãnh đạo thực hiện nhằm thúc
đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước bằng các chuyến viếng thăm và làm việc tại nước
ngoài. Thông qua các chuyến thăm và làm việc này, nhiều hiệp định thương mại hoặc các
cam kết tương tự có thể được ký kết, tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ kinh tế giữa hai
hay nhiều quốc gia.
1.4.2 Hội chợ triển lãm trong và ngoài nước



Hội chợ triển lãm là hoạt động phổ biến khi doanh nghiệp muốn giới thiệu sản phẩm
của mình đến người tiêu dùng. Các tổ chức XTTM thường tổ chức các hội chợ triển lãm để
quảng bá và giới thiệu hàng hóa Việt Nam ở thị trường nước ngoài. Đây cũng là một loại
hình XTTM được các doanh nghiệp quan tâm do quy mô tổ chức lớn, tập trung nhiều loại
hàng hóa và dịch vụ, dễ thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng trong khi chi phí lại
thấp hơn so với quảng cáo riêng cho loại hàng hóa đó trên các phương tiện thông tin. Mặt
khác, hình thức triển lãm tỏ ra phù hợp hơn với các sản phẩm mới đang trong giai đoạn
thăm dò thị trường trước khi đưa ra quyết định thâm nhập thị trường đó hay không.
1.4.3 Các buổi hội thảo, diễn đàn hợp tác kinh tế
Một trong các mục đích của các buổi hội thảo, hợp tác kinh tế là thúc đẩy quan hệ
thương mại, nâng cao quy mô và hiệu quả của hoạt động ngoại thương. Tại đây, các doanh
nghiệp có cơ hội gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau trong vấn đề kinh doanh ở thị
trường nước ngoài. Ngoài ra, trong các buổi hội thảo, các doanh nghiệp cũng có cơ hội tìm
thấy đối tác kinh doanh phù hợp.
1.4.4 Các hoạt động khác
Ngoài những hình thức đã nêu ở trên, các tổ chức XTTM cũng tiến hành nhiều hoạt
động nhằm phát triển cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp như: Tổ chức các buổi gặp mặt
tham tán thương mại tại các nước với doanh nghiệp kinh doanh tại thị trường nước đó; tổ
chức các lớp học giúp doanh nghiệp làm quen với các quy tắc quốc tế sắp được áp dụng;
thành lập các tổ chức tư vấn luật pháp, cung cấp thông tin thị trường, bảo hiểm hàng hóa,
các tổ chức hỗ trợ tín dụng v.v...
Tóm lại, các loại hình hoạt động XTTM là rất đa dạng và phong phú, một tổ chức
XTTM thường tập trung vào một vài hoạt động phù hợp nhất với tình hình thực tế của
doanh nghiệp nước mình để mang lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động XTTM, giảm chi phí
cho doanh nghiệp.
1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động XTTM
1.5.1 Các yếu tố khách quan
1.5.1.1 Sự quản lý của Nhà nước về hoạt động XTTM



Nhóm các yếu tố thuộc về quản lý vĩ mô là các chủ trương chính sách của Nhà nước
tác động vào hoạt động XTTM. Trong mỗi điều kiện cụ thể của từng nước, từng thị trường,
từng thời kỳ mà các chủ trương, chính sách của Nhà nước sẽ tạo hành lang pháp lý cho các
hoạt động XTTM.
Các yếu tố về pháp luật chi phối mạnh mẽ hoạt động XTTM. Trong mọi hoạt động
xúc tiến thì luật pháp luôn di trước một bước, sự thống nhất về mặt pháp luật được thể hiện
dưới hình thức các hiệp định và mọi hoạt động xúc tiến được diễn ra khi các bên có sự
thống nhất về mặt luật pháp.
Hệ thống pháp luật có tác động mạnh mẽ đến hoạt động XTTM. Hệ thống pháp luật
có thể khuyến khích và cũng có thể hạn chế hoạt động xúc tiến. Ví dụ ở Việt Nam trước kia
do luật pháp chỉ cho phép các tổ chức XTTM quốc doanh được hoạt động nên không phát
huy được tính năng động, sáng tạo của các tổ chức XTTM ngoài quốc doanh nhưng đến
nay Việt Nam đã có một hệ thống các tổ chức XTTM rộng khắp do pháp luật đã cải tiến,
mở đường cho việc thành lập các tổ chức XTTM mới.
1.5.1.2 Chính sách kinh tế
Các chính sách kinh tế của Chính phủ có tác động rất lớn tới hoạt động XTTM. Các
chính sách kinh tế của Nhà nước sẽ định hướng cho các hoạt động XTTM. Tùy thuộc vào
từng quốc gia mà các hoạt động XTTM sẽ tập trung vào mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, có
điều kiện pháp lý thâm nhập vào thị trường mới. Như ở Việt Nam, chính sách xuất khẩu
khuyến khích các hoạt động XTTM tập trung vào các ngành nông, thủy hải sản, dệt may,
giày dép, thủ công mỹ nghệ... và tập trung vào một số thị trường trọng điểm như Mỹ, Nhật,
EU, ÁEAN, Trung Quốc. Như vậy, rõ ràng chính sách kinh tế có tính chất định hướng cho
hoạt động xuất khẩu cũng như hoạt động XTTM.
1.5.1.3 Môi trường cạnh tranh
Cạnh tranh được xác định là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị
trường với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu thì người đó chiến
thắng. Các tổ chức XTTM cũng vậy, với hoạt động chính là XTTM, các tổ chức XTTM
cũng phải cạnh tranh với nhau, tổ chức nào hoạt động tốt hơn thì tổ chức đó sẽ tồn tại. Sự



cạnh tranh sẽ thúc đẩy hoạt động XTTM, các doanh nghiệp sẽ nhận được các cơ hội xuất
khẩu dễ dàng hơn, thuận lợi hơn.
Chính phủ luôn tìm cách duy trì sự cạnh tranh này bởi các tổ chức XTTM quốc
doanh luôn nhận được nhiều sự ưu đãi của chính phủ nên có thể hoạt động chưa hiệu quả
nhưng các tổ chức xúc tiến ngoài quốc doanh phải hạch toán độc lập nên tiêu chí hiệu quả
luôn được đưa lên hàng đầu.
Với việc phát triển mạnh mẽ của hệ thống các doanh nghiệp làm cho nhân tố cạnh
tranh trong nền kinh tế ngày càng gay gắt. Điều này đòi hỏi các tổ chức XTTM phải hoạt
động tốt hơn, hỗ trợ doanh nghiệp nhiều hơn nữa nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường.
1.5.2 Các yếu tố chủ quan
Phương hướng hoạt động của một tổ chức XTTM phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tó
phản ánh tiềm lực của nó. Với đặc thù của các tổ chức XTTM là không sản xuất, các tổ
chức này phụ thuộc rất nhiều vào các mội quan hệ để tiến hành các hoạt động xúc tiến. Mối
quan hệ của các tổ chức XTTM là mối quan hệ đa chiều: quan hệ với doanh nghiệp, quan
hệ với chính phủ, quan hệ với công chúng, quan hệ với các tổ chức XTTM khác trong nước
và quốc tế... Với đặc thù đó thì tiềm lực chính của một tổ chức XTTM là trình độ của đội
ngũ cán bộ.
Như vậy, hiệu quả của hoạt động XTTM phụ thuộc rất lướn vào yếu tố con người.
Con người là yếu tố quan trọng để đảm bảo thành công, nó chiếm vị trí số một trong các
nhân tố chủ quan tác động đến hoạt động XTTM, trên cả khả năng tài chính và cơ sở vật
chất của tổ chức XTTM. Con người với năng lực của họ mới lựa chọn đúng phương án,
chiến lược XTTM và sử dụng các nguồn lực khác một cách có hiệu quả nhất.
Nhân tố con người trong XTTM được xem xét trên nhiều giác độ trong đó nhận thức
của doanh nghiệp, đặc biệt nhận thức của ban lãnh đạo về XTTM sẽ ảnh hưởng đến khả
năng tiếp nhận, hưởng ứng các chương trình XTTM của tổ chức XTTM. Hình thức xúc tiến
như thế nào, ngân sách bao nhiêu, quảng bá ra sao, trước hết phụ thuộc vào ban lãnh đạo.
Hoạt động XTTM sẽ sôi động hay tẻ nhạt, sơ sài, phụ thuộc vào nhận thức của ban lãnh
đạo về vai trò của XTTM.



Ngoài ra, XTTM đạt được mục tiêu khi công tác tổ chức được quan tâm đúng mức.
Khi tiến hành chương trình XTTM, phải xây dựng kế hoạch xúc tiến cũng như chương
trình hành động một cách khoa học. Trong suốt quá trình tổ chức cần có sự kiểm tra, giám
sát để hoạt động XTTM đạt hiệu quả cao nhất.
Và cuối cùng, để hoạt động XTTM có hiệu quả thì các tổ chức XTTM phải có mạng
lưới hoạt động rộng khắp đi đến từng doanh nghiệp, đảm bảo luôn đáp ứng được nhu cầu
của doanh nghiệp.
1.6 Các loại hình tổ chức XTTM
Đặc điểm về mặt tổ chức XTTM khác nhau giữa các quốc gia, do phụ thuộc vào
nhiều yếu tố đặc tính địa phương, như vai trò chủ yếu mà tổ chức XTTM được chỉ định,
các nguồn lực, các thông lệ hành chính, và sự ưu tiên cho hoạt động XTTM. Nhiều Chính
phủ tại các quốc gia dường như không nhận ra rằng hoạt động của tổ chức XTTM nên chủ
yếu là cung cấp các dịch vụ XTTM, và vai trò của nó trong việc xây dựng chính sách và
kiểm soát phải là ở mức tối thiểu. Sự nhầm lẫn về các mục tiêu thường gây ra cơ cấu điều
hành và khung pháp lý phản tác dụng.
Dù ở bất cứ một hình thức pháp lý nào, có một số điều kiện phải được thỏa mãn cho
một tổ chức XTTM hoạt động có hiệu quả:
- Vai trò và lĩnh vực hoạt động chủ yếu của tổ chức này phải được xác định rõ ràng.
Việc xác định này có ảnh hưởng quan trọng đối với cơ cấu của cơ
quan lãnh đạo và các cấp điều hành của tổ chức này.
- Tổ chức này nên có một vị trí mang tính chất pháp lý nằm trong cơ cấu chung của
Chính phủ, cho nó các phương tiện hoạt động và quyền hành cần thiết để thực hiện các
nhiệm vụ được giao.
- Mục đích của tổ chức nên được trình bày rõ ràng, do đó tránh được lầm lẫn về các
mục tiêu và sự đảm đương các nhiệm vụ không liên quan đến các mục tiêu của tổ chức.
- Phải đảm bảo các nguồn lực đầy đủ, cả về nhân sự và tài chính.
Có ba loại hình tổ chức XTTM sau đây:
1.6.1 Tổ chức XTTM thuộc Chính phủ



Đây là các tổ chức XTTM được chính phủ thành lập và chịu sự quản lý của Chính
phủ. Thông thường, cơ quan chịu trách nhiệm quản lý tổ chức XTTM này là Bộ Thương
mại, Bộ Kinh tế hoặc một cơ quan tương đương. Việc thành lập các cơ quan XTTM thuộc
Bộ là để dễ quản lý và phân bổ ngân sách hoạt động hàng năm.
Các tổ chức XTTM của Chính phủ có lợi thế là được cung cấp ngân sách hoạt động,
được sự hỗ trợ từ phía Chính phủ, nhưng nó cũng có nhiều hạn chế như:
- Thiếu tính độc lập trong hoạt động, nó phải tuân theo các quy định của cơ quan
chủ quản về cách thức hoạt động và bố trí nhân sự. Điều này dễ dẫn đến quan liêu, thiếu
khách quan.
- Rất khó phân biệt giữa nhiệm vụ xúc tiến với các chức năng quản lý truyền thống
của Bộ, một tình trạng mà trong hầu hết các trường hợp sẽ dẫn đến kết quả tiêu cực.
- Do được giao cho những công việc hàng ngảy của Bộ, tổ chức XTTM có thể mất
đi mục đích ban đầu và trong thời gian dài có thể hoàn toàn không có hiệu quả của một tổ
chức XTTM.
Hiện nay, bên cạnh hình thức tổ chức XTTM là cơ quan thuộc Bộ, còn có một số
định chế công - tự quản. Trên lý thuyết, những định chế công - tự quản này vẫn thuộc sự
quản lý của Bộ nhưng nó có sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp và hiệp hội. Do đó, ở
các định chế công - tự quản này có sự độc lập hơn trong hoạt động và đặc biệt là trong
công tác tuyển nhân sự - một yếu tố quan trong giúp các định chế này hoạt động có hiệu
quả hơn.
1.6.2 Các tổ chức tư nhân.
Trong một số ít các quốc gia, do không có hoặc do hoạt động kém hiệu quả của một
tổ chức XTTM thuộc Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp đã có sáng kiến thực hiện các
hoạt động xúc tiến xuất khẩu thông qua một vài loại tổ chức tư nhân như Phòng Thương
mại hoặc các Hiệp hội.
Các tổ chức tư nhân này quan tâm đặc biệt đến các hoạt động quảng bá thông tin về
thị trường nước ngoài; và trong một vài trường hợp, có thể tạo ra các cơ chế hoạt động
nhằm thực hiện các công việc xúc tiến thương mại tại nước ngoài. Tuy nhiên, do thường bị
hạn chế bởi nguồn lực tài chính, chúng không thể đáp ứng tất cả nhu cầu của cộng đồng



thương mại. Do đó, các tổ chức này không phải là lý tưởng và Chính phủ cần cố gắng cung
cấp các dịch vụ để thỏa mãn, ở mức tối thiểu, các yêu cầu xúc tiến xuất khẩu cơ bản nhất
cảu cộng đồng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cần phải nói rõ rằng, một số quốc gia phát triển có các tổ chức XTTM
được tư nhân tài trợ đã thực hiện đầy đủ các loại hoạt động XTTM. Các tổ chức XTTM này
hoàn toàn độc lập và không có mối liên hệ chính thức nào với Chính phủ.
Ngoài ra, do đặc thù về hàng hóa và dịch vụ, nhiều công ty đã thành lập các bộ phận
xúc tiến thương mại riêng cho công ty mình. Đây là hình thức xúc tiến thương mại chuyên
biệt hóa, nhưng nó có hạn chế là đòi hỏi chi phí cao. Vì thế, loại hình này thường chỉ thích
hợp cho các tập đoàn lớn, các tập đoàn đa quốc gia và các công ty xuyên quốc gia kinh
doanh đa ngành, đa dịch vụ.
1.7 Kinh nghiệm XTTM của một số nước
Một trong những bạn hàng lớn nhất của Hoa Kỳ hiện nay là Trung Quốc. Với những
hoạt động sản xuất và xúc tiến có hiệu quả, Trung Quốc đã chứng tỏ sức mạnh vượt trội so
với các bạn hàng khác và trở thành quốc gia xuất khẩu nhiều nhất vào Hoa Kỳ hai loại
hàng hóa là dệt may và giày dép.
Về hàng dệt may, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc vào Hoa Kỳ không chỉ lớn
nhất mà còn có tốc độ tăng trưởng cao. Sau khi hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may được
xóa bỏ giữa các nước thành viên WTO, xuất khẩu dệt may của Trung Quốc và Hoa Kỳ đã
tăng vọt. Năm 2005, Trung Quốc xuất khẩu vào Hoa Kỳ xấp xỉ 27 tỷ USD, tăng 42,5% so
với năm 2004 và chiếm 27% tổng kim ngạch nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sau khi
Hoa Kỳ áp dụng trở lại hạn ngạch đối với Trung Quốc từ tháng 5/2005 thì tốc độ tăng nhập
khẩu hàng dệt may vào nước này đã chậm lại.
Trung Quốc có thể thống trị thị trường dệt may thế giới nói chung và Hoa Kỳ nói
riêng nếu không bị hạn chế bởi điều khoản tự vệ là vì:
- Trung Quốc có chi phí lao động trên một đơn vị sản phẩm rất thấp do mức lương
thấp và năgn suất lao động cao.
- Trung Quốc có thể sản xuất các loại vải, phụ kiện trang trí, bao bì và hầu hết các
phụ kiện khác dùng để sản xuất hàng dệt may và các sản phẩm dệt khác.



- Trung Quốc được giới chuyên môn đánh giá là nơi tốt nhất về sản xuất quần áo và
các sản phẩm dệt may khác với bất kỳ chất lượng hay mức giá thành nào.
- Trung Quốc có khả năng cung cấp hàng dệt may với số lượng lớn trong thời gian
ngắn. Tuy nhiên, hiện tại một số chủng loại dệt may Trung Quốc đã bị Hoa Kỳ hạn chế trở
lại bằng hạn ngạch cho đến năm 2008.
Về giày dép, Trung Quốc cũng là nước xuất khẩu lớn nhất vào Hoa Kỳ. Năm 2005,
Trung Quốc xuất khẩu vào Hoa Kỳ 12,65 tỷ USD giày dép, tăng 11,5% so với năm 2004
và chiếm 71% giá trị nhập khẩu giày dép của Hoa Kỳ. Có được thành công đó một phần
nhờ năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Trung Quốc, nhưng một phần cũng nhờ các
chiến dịch XTTM của họ. Bằng cưu thế về chất lượng, giá cả, mẫu mã, thời gian giao hàng
nhanh, v.v... Trung Quốc đã nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường Hoa Kỳ và trở thành
đối thủ đe dọa ngay cả các công ty Hoa Kỳ.
Nhìn vào hoạt động XTTM mà Trung Quốc đã thực hiện thành công tại thị trường
Hoa Kỳ, doanh nghiệp Việt Nam có thể học tập được một bài học quý giá, đó là luôn coi
chất lượng hàng hóa là tiêu chí hàng đầu. Hàng hóa Trung Quốc không những vượt qua
được tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe của Hoa Kỳ mà còn có thể "tung hoành" tại thị trường
này nhờ giá cả cạnh tranh và mẫu mã rất phong phú. Với điều kiện nguồn tài nguyên gần
giống với Trung Quốc, chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng làm được điều tương tự như
Trung Quốc đã là, dù đó là một việc rất khó khăn vì Trung Quốc đã đi trước và doanh
nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với áp lực cạnh tranh từ phía họ, một áp lực không hề
nhỏ đối với một nền kinh tế mới như Việt Nam.


Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động XTTM của Việt Nam tại thị trường
Hoa Kỳ trong thời gian qua.

2.1 Tổng quan về thị trường Hoa Kỳ
Hiện nay và trong nhiều thập kỷ qua, Hoa Kỳ vẫn là nước có nền kinh tế lớn nhất

thế giới. Năm 2005, GDP của Hoa Kỳ ước đạt xấp xỉ 12,5 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng
28% tổng GDP toàn thế giới. Nếu tính theo ngang giá sức mua thì GDP Hoa Kỳ chiếm
khoảng 20%.Thu nhập bình quân đầu người của Hoa Kỳ đạt 42.000USD năm 2005.
Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế của Hoa Kỳ năm 2005 gồm dịch vụ 78,7%, công nghiệp chế tạo
20,3%, và nông nghiệp 1%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP của Hoa Kỳ vẫn có xu hướng tăng
Tốc độ tăng trưởng
Kể từ thập kỷ 90 trở lại đây, Hoa Kỳ đã duy trì được mức tăng trưởng GDP cao hơn
mức tăng trưởng chung của cả khối G7. Mức tăng trưởng GDP bình quân của Hoa Kỳ
trong thập kỷ 90 là 3,6% trong khi đó mức tăng chung của cả khối G7 trong cùng thời kỳ là
chỉ là 2,6%. Tuy nhiên, tốc độ tăng GDP thực tế bình quân của Hoa Kỳ từ năm 2000 trở lại
đây thấp hơn so với thập kỷ 90 và không ổn định, được thể hiện như trong bảng dưới đây:
Bảng 2.1.1 Tăng trưởng GDP thực tế (%)
(tính theo giá USD năm 2000)
Năm

Tỷ lệ tăng trưởng thực tế (%)


2001

3.7

2002

0.75

2003

1.6


2004

2.5

2005

3.9

2006

3.2

Nguồn: Cục phân tích kinh tế Hoa Kỳ
Hoa Kỳ rất mạnh và đóng vai trò chi phối thế giới trong các lĩnh vực tài chính tiền tệ,
thương mại điện tử, thông tin, tin học, bưu điện, du lịch, vận tải hàng không, vận tải biển, y
tế, giáo dục, điện ảnh, tư vấn v.v...Trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, hiện nay Hoa Kỳ chiếm
khoảng 50% tổng lưu lượng thanh toán và đầu tư quốc tế thực hiện bằng đồng USD. Năm
2005, Hoa Kỳ xuất khẩu khoảng 380 tỷ USD dịch vụ.
Các ngành công nghiệp chính của Hoa Kỳ bao gồm: dầu lửa, sắt thép, ô tô, hàng
không, viễn thông, hóa chất, điện tử, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, khai thác gỗ,
khai khoáng. Các ngành chế tạo hàng không, điện tử, tin học, nguyên tử, vũ trụ, hóa chất là
các ngành công nghiệp mũi nhọn của Hoa Kỳ. Các sản phẩm nông nghiệp chính của Hoa
Kỳ gồm lúa mỳ, các loại ngũ cốc khác, ngô, hoa quả, bông, thịt bò, thịt lợn, gia cầm, sản
phẩm sữa, lâm sản, cá.
Ngoại thương
Hoa Kỳ là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), là một trong ba
nước thành lập ra Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Hoa Kỳ đã ký hiệp định
thương mại tự do song phương với một số nước, và dành ưu đãi thương mại đơn phương
cho nhiều nước đang và chậm phát triển. Hiện nay, Hoa Kỳ có quan hệ buôn bán với hơn

230 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trung Quốc đã vượt Nhật Bản để trở thành bạn
hàng lớn thứ ba của Hoa Kỳ sau Canada và Mexico là thành viên của NAFTA.
Tổng kim ngạch thương mại quốc tế (gồm cả hàng hóa và dịch vụ) của Hoa Kỳ năm
năm 2005 đạt xấp xỉ 3.270 tỷ USD, tăng khoảng 12% so với năm 2004. Trong đó, kim
nghạch xuất nhập khẩu hàng hóa khoảng 2.570 tỷ USD, chiếm 78% và bằng 20% tổng
GDP.


Năm 2005, thâm hụt cán cân thương mại hàng hóa quốc tế của Hoa Kỳ tiếp tục tăng
17,5% (giảm so với mức tăng 22% của năm 2004) từ 666 tỷ USD năm 2004 lên 783 tỷ
USD năm 2005. Kim ngạch xuất khẩu hàng đạt 894,6 tỷ USD, tăng 10,8%, trong đó kim
ngạch nhập khẩu hàng hóa là 1.677,4 tỷ, tăng 13,8%. Bảng dưới đây cho thấy từ năm 2001
đến năm 2005 mức thâm hụt thương mại hàng hóa của Hoa Kỳ năm sau đề cao hơn năm
trước:
Bảng 2.1.2 Xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ
Đơn vị: Triệu USD
2001

2002

2003

2004

2005

1.004,9

974,7


1.016,1

1.151,9

1.275,2

Hàng hóa

718,7

682,4

713,4

807,4

894,6

Dịch vụ

286,2

292,3

302,7

344,4

380,6


1.367,7

1.395,8

1.511,0

1.763,2

1.992,0

Hàng hóa

1.145,9

1.164,7

1.260,7

1.472,9

1.677,4

Dịch vụ

221,8

231,1

250,3


290,3

314,6

Tổng cán cân

-362,8

-422,1

-494,9

-611,3

-716,7

Hàng hóa

-427,2

-482,3

-547,3

-665,5

-782,7

Dịch vụ


64,4

61,2

52,4

54,1

66,0

Tổng xuất khẩu

Tổng nhập khẩu

Nguồn: Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ
Xuất khẩu
Năm 2005, kim nghạch xuất khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ đạt xấp xỉ 894,6 tỷ USD,
tăng 87,2 tỷ (10,8%) so với năm 2004. Ba nhóm hàng có mức tăng cao nhất là máy bay và
các thiết bị hàng không vũ trụ; các sản phẩm dầu lửa và xe động cơ. Riêng ba nhóm này
năm 2005 đã tăng 18,3 tỷ, chiếm 24% tổng giá trị hàng xuất khẩu tăng. Hai nhóm hàng có
kim ngạch xuấtk khẩu có kim ngạch xuất khẩu giảm lớn nhất là bán dẫn, giảm 1,8 tỷ (14%)
và ngũ cốc, giảm 1,6 tỷ (13%).
Nhập khẩu


Năm 2005, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 1.677,4 tỷ USD, tăng 204,5 tỷ (14%)
so với năm 2004. Nhiều nhóm hàng có mức tăng trên 4 tỷ, trong đó nhóm sản phẩm năng
lượng có mức tăng cao nhất là 75,1 tỷ USD chiếm 37% tổng trị giá tăng nhập khẩu, chủ
yếu là do giá dầu thế giới tăng. Các nhóm hàng có kim ngạch giảm nhiều nhất là bán dẫn
và mạch tích hợp (giảm 831 triệu USD), máy ảnh và thiết bị ( giảm 503 triệu USD).

Cán cân
Theo thống kê, kể từ năm 2001 đến nay, thâm hụt thương mại hàng hóa của Hoa Kỳ
liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2005, thâm hụt thương mại hàng hóa đã lên
tới mức 782,7 tỷ USD (tăng 17,5%).
Các nhóm hàng có mức thâm hụt lớn nhất trong năm 2005 là: các sản phẩm năng
lượng ( -243,3 tỷ USD), sản phẩm điện tử ( -149,9 tỷ), các phương tiện vận tải, dệt may,
các sản phẩm chế tạo khác. Nhóm hàng điện tử có mức và tỷ lệ tăng nhập siêu cao là do
các công ty HOa Kỳ tiếp tục di chuyển sản xuất ra nước ngoài để tận dụng giá lao động rẻ
để phục vụ thị trường Châu Á đang tăng trưởng mạnh.
Đáng chú ý là Hoa Kỳ vốn dĩ là nước xuất siêu nông sản, nhưng từ năm 2004 trở lại
đây trở thành nước nhập siêu. Hoa Kỳ đã giảm xuất siêu nông sản từ 7,5 tỷ năm 2001
xuống 3,8 tỷ năm 2003 và nhập siêu tăng vọt từ 104 triệu năm 2004 lên xấp xỉ 4,4 tỷ năm
2005. Nhập siêu tăng vọt là do xuất khẩu ngũ cốc và hạt có dầu giảm, xuất khẩu thịt bò và
thịt gia súc chưa phục hồi được. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu hoa quả tươi, chè và
cà phê tiếp tục tăng mạnh do tăng cả về lượng tiêu thụ và giá nhập khẩu.
Các bạn hàng chính
Hoa Kỳ, Canada và Mexico là ba nước thành viên NAFTA. Nhiều daonh nghiệp
Hoa Kỳ đã di chuyển cơ sở sản xuất sang Canada và Mexico để tận dụng giá lao động rẻ và
các ưu đãi đầu tư của hai nước này, kéo theo đó là nhiều bán sản phẩm được xuất khẩu từ
Hoa Kỳ sang hai nước này để chế biến tiếp hoặc lắp ráp thành sản phẩm hoàn chỉnh và
nhập trở lại Hoa Kỳ. Do vậy, những nhóm hàng chế tạo và liên quan thường là những
nhóm hàng có kim ngạch trao đổi hai chiều lớn nhất giữa Hoa Kỳ và hai nước này.
Canada


Canada vẫn tiếp tục là bạn hàng thương mại lớn nhất của Hoa Kỳ. Năm 2005, kim
ngạch buôn bán hai chiều giữa Hoa Kỳ và Canada là 470,8 tỷ USD, tăng 12%, trong đó
Hoa Kỳ xuất sang Canada 183,2 tỷ và nhập từ Canada 287,5 tỷ. Như vậy, thâm hụt thương
mại hàng hóa của Hoa Kỳ với Canada năm 2005 là 104,3 tỷ USD, tăng 13% so với năm
2004.

Các nhóm hàng Hoa Kỳ xuất khẩu chính sang Canada bao gồm: thiết bị vận tải, hóa
chất và các sản phẩm liên quan, khoáng sản và kim loại, các sản phẩm điện tử, máy móc,
nông sản, lâm sản, các sản phẩm năng lượng.
Các sản phẩm Hoa Kỳ nhập khẩu chủ yếu từ Canada năm 2005 là: thiết bị vận tải
(77,2 tỷ USD), các sản phẩm năng lượng (66,1 tỷ USD), lâm sản, khoáng sản và kim loại
(khoảng 52 tỷ USD), hóa chất và các sản phẩm liên quan (25,5 tỷ USD), ngoài ra có nông
sản, sản phẩm điện tử, máy móc.
Mexico
Mexico vốn là bạn hàng lớn thứ hai của Hoa Kỳ. Năm 2005, kim ngạch buôn bán
hàng hóa hai chiều giữa hai nước vẫn tăng khoảng 9%, đạt 270,9 tỷ USD, song Mexico đã
tụt xuống vị trí thứ ba sau Trung Quốc. Thâm hụt thương mại hàng hóa với Mexico năm
2005 là 67,5 tỷ USD.
Các mặt hàng chính Hoa Kỳ xuất sang Mexico năm 2005 bao gồm: hóa chất và các
sản phẩm liên quan (18,1 tỷ USD), thiết bị vận tải (16,6 tỷ USD), các sản phẩm điện tử
(16,1 tỷ), máy móc (11,4 tỷ), nông sản (9,7 tỷ), khoáng sản và kim loại (9,3 tỷ), các sản
phẩm năng lượng (5,5 tỷ), dệt may - chủ yếu là vải (4,7 tỷ).
Các mặt hàng chính Hoa Kỳ nhập khẩu từ Mexico năm 2005 là: các sản phẩm điện
tử (40,2 tỷ), thiết bị vận tải (34,5 tỷ), các sản phẩm năng lượng (25 tỷ), máy móc (20,2 tỷ),
khoáng sản và kim loại (11,4 tỷ), nông sản (9,3 tỷ), ngoài ra còn có dệt may, hóa chất và
các sản phẩm liên quan (5,4 tỷ).
Trung Quốc
Kể từ khi Trung Quốc trở thành thành viên của WTO, kim ngạch buôn bán giữa
Trung Quốc và Hoa Kỳ liên tục tăng cao. Năm 2003, Trung Quốc vượt qua Nhật Bản trở


thành bạn hàng lớn thứ ba, và năm 2005 vượt qua Mexico, trở thành bạn hàng lớn thứ hai
của Hoa Kỳ, chỉ sau Canada.
Năm 2005, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cảu Trung Quốc với Hoa Kỳ là 281,5 tỷ
USD, tăng 52,5 tỷ USD so với năm 2004, trong đó Trung Quốc xuất sang Hoa Kỳ 242,6 tỷ
USD và chỉ nhập siêu của Hoa Kỳ 39 tỷ USD. Hiện nay, Trung Quốc là nước xuất siêu lớn

nhất vào Hoa Kỳ. Xuất siêu của Trung Quốc vào Hoa Kỳ từ năm 2001 đến 2005 lần lượt
là: 84,1 tỷ; 104,2 tỷ; 124,9 tỷ; 163,5 tỷ; 203,8 tỷ USD. Lý do là nhiều công ty Hoa Kỳ và
các nước khác đầu tư vào Trung Quốc nhằm tận dụng lao động rẻ ở nước này để sản xuất,
trong đó phần lớn được xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
Các mặt hàng Hoa Kỳ nhập khẩu từ Trung Quốc năm 2005 bao gồm: các sản phẩm
điện tử, các sản phẩm chế tạo khác, hàng dệt may, máy móc, khaongs sản và kim loại, giày
dép, hóa chất và các sản phẩm liên quan.
Các bạn hàng lớn tiếp theo của Hoa Kỳ là Nhật Bản, Đức, Anh, Hàn Quốc, Đài
Loan, Pháp, Malaysia. Các bạn hàng lớn nhất của Hoa Kỳ thường là các nước xuất siêu vào
thị trường này.
Nhóm các nước EU
Nếu tính gộp cả 25 nước EU thành một thị trường chung thì nhóm này là bạn hàng
lớn nhất của Hoa Kỳ với tổng kim ngạch hai chiều năm 2005 là 474,4 tỷ USD, trong đó
Hoa Kỳ xuất 167,4 tỷ và nhập 307 tỷ, thâm hụt 139,6 tỷ.
Các nhóm hàng Hoa Kỳ nhập khẩu từ EU 25 cũng là những nhóm hàng Hoa Kỳ
thâm hụt lớn nhất, trong đó các thiết bị vận tải nhập 66 tỷ USD và thâm hụt 29 tỷ; nhóm
máy móc nhập 33 tỷ và thâm hụt 19 tỷ; nhóm các sản phẩm năng lượng nhập 22,5 tỷ và
thâm hụt 18 tỷ.

Biểu đồ 2.1.3: Thị trường xuất khẩu của Hoa Kỳ


×