Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

MỘT số BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ các GIỜ dạy TỔNG kết TIẾNG VIỆT TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ văn lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.19 KB, 14 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC GIỜ DẠY TỔNG
KẾT TIẾNG VIỆT TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 9
---------*--------A.ĐẶT VẤN ĐỀ
I. PHẦN MỞ ĐẦU
Giáo dục Việt Nam đang từng bước hội nhập với nền giáo dục trong khu vực và
thế giới. Bản thân mỗi giáo viên trong quá trình hội nhập đó là tự đổi mới chính
mình. Đổi mới phương pháp dạy học là trên cơ sở tiếp thu những phương pháp dạy
học truyền thống, người thầy phải tìm ra những phương pháp, biện pháp cụ thể cho
từng kiểu bài, từng dạng bài, từng đối tượng học sinh. Mỗi giáo viên đứng lớp nói
chung, giáo viên dạy Ngữ văn nói riêng có bao điều trăn trở, nghĩ suy. Làm thế nào
dể tìm ra những hướng đi đúng, những giải pháp phù hợp cho từng đối tượng học
sinh, cho từng giờ lên lớp? Trong ba phân môn của Ngữ văn, Tiếng việt là phân môn
có tính chất công cụ, là phương tiện thể hiện tư duy, tạo lập các kiểu văn bản theo
yêu cầu của Tập làm văn. Phân môn Tiếng việt trong chương trình Ngữ văn 9, ngoài
việc cung cấp một số kiến thức mới về hội thoại, nghĩa của câu, các thành phần biệt
lập … còn có vai trò tổng kết những kiến thức đã học ở lớp dưới, bởi vậy có rất nhiều
những tiết ôn tập, tổng kết. Để thực hiện có hiệu quả những tiết tổng kết tiếng việt
thực sự là khó khăn, thử thách với cả thầy và trò. Góp một tiếng nói, một ý kiến nho
nhỏ trong việc “Tổ chức dạy - học những tiết tổng kết tiếng Việt trong chương
trình Ngữ văn 9” là những suy nghĩ bước đầu của cá nhân người viết, hi vọng có thể
nâng cao hơn hiệu quả những tiết day - học thuộc kiểu bài này, giúp học sinh sử dụng
các đơn vị ngôn ngữ Tiếng việt tốt hơn trong giao tiếp.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.Thực trạng:
Trong các giờ dạy - học thuộc ba phân môn của Ngữ văn, thiết kế và tổ chức thi
công một giờ dạy học Tiếng Việt có lẽ là nhẹ nhàng hơn với những giáo viên có tri
thức Tiếng việt vững vàng. Thực tế giảng dạy trong nhiều năm qua cho thấy đã có
một số giáo viên thành công ở các tiết dạy học lí thuyết Tiếng việt, phương pháp dạy
học nhóm bài lí thuyết Tiếng việt đã được định hình tương đối rõ. Song với các tiết
tổng kết Tiếng việt, thực sự chưa có nhiều tiết dạy thành công. Dạy - học Tiếng việt
là dạy học tiếng mẹ đẻ nhưng dạy học Tiếng việt cần phải có tư duy chính xác lô gíc


và khoa học hơn.
Đứng về phía người dạy, một bộ phận không nhỏ giáo viên chỉ “Mõ tre sách
in”, sách giáo khoa thế nào thì cứ thế tiến hành; đương nhiên, sách giáo khoa được
xem là “Pháp luật”, yêu cầu “Cứng” của chương trình. Song nếu chỉ dựa hoàn toàn
vào SGK thì giờ dạy sẽ khô cứng, thiếu tính thực tiễn, việc phát huy khả năng sáng
tạo của học sinh là khó thực hiện. Những tiết tổng kết Tiếng việt còn là thử thách
lớn hơn với giáo viên, bởi để thực hiện được những tiết dạy này, người giáo viên
phải có một hệ thống tri thức vững vàng từ lớp 6 đến lớp 9. nếu là người chưa từng
dạy cả 4 lớp hoặc chưa đầu tư thời gian nghiên cứu chương trình của toàn cấp học sẽ
khó hoàn thành nội dung trong các tiết tổng kết Tiếng việt. Trong khi đó sách giáo
viên - tài liệu hướng dẫn quan trọng của chúng ta thì lại không có những hướng dẫn
cụ thể phần lớn chỉ là những định hướng thiết kế theo các đề mục trong sách giáo
khoa hoặc là lời giải đáp các bài tập theo yêu cầu. Phần hệ thống hoá kiến thức, xâu
chuỗi mở rộng và nâng cao kiến thức, phương pháp làm các dạng bài tập thì sách
giáo viên chưa đề cập tới. Đó thực sự là những khó khăn với người đứng lớp


Về phía người học, ta thấy rất rõ: học sinh thích học Tiếng việt hơn Tập làm
văn nhưng lại thích học tiết lí thuyết Tiếng việt hơn những tiết tổng kết Tiếng việt. Vì
sao như vậy? Vì khả năng ghi nhớ kiến thức, sắp xếp các đơn vị kiến thức từ lớp 6
đến lớp 9 của các em chưa cao; năng lực tổng hợp và khái quát vấn đề, kỹ năng so
sánh đối chiếu kiến thức của học sinh còn yếu. Bên cạnh đó, các em có thể làm được
những bài tập nhận diện nhưng chưa làm tốt những bài tập phân tích giá trị của đơn
vị ngôn ngữ (Phân tích giá trị biểu cảm của từ, của dấu câu, phân tích giá trị của biện
pháp tu từ....), bài tập thực hành sử dụng các đơn vị ngôn ngữ, kỹ năng trình bày bài
tập của học sinh chưa tốt.
2. Kết quả của thực trạng: Bài kiểm tra Tiếng Việt - Năm học 2008 -2009
Xếp
Trung
Yếu

Khá
Giỏi
loại
bình
SL
TL
SL TL
SL
TL
SL TL
9A(44 HS)
10
22,7
15
34,1
14
31,8
5
11,4
9B(41 HS)
9
21,9
16
39,0
12
29,3
4
9,8
9C(40HS)
7

17,5
15
37,5
16
40,0
2
5,0
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC GIẢI PHÁP CẢI TIẾN
1, Xác định chính xác, đầy đủ mục tiêu của các tiết tổng kết Tiếng việt.
2, Xác định lượng kiến thức cần tổng kết ở từng tiết, sắp xếp, bổ sung phù hợp.
3, Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài.
4, Hướng dẫn và tổ chức học sinh thực hiện các giờ dạy - học tổng kết Tiếng
việt trên lớp.
II. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1, Xác định chính xác, đầy đủ mục tiêu cần đạt ở các tiết tổng kết Tiếng việt
Chúng ta đã biết, mục tiêu chung trong dạy - học Tiếng việt là giúp học sinh
“Nắm được những đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của các loại đơn vị tiêu biểu của
từng bộ phận cấu thành Tiếng việt (Đơn vị cấu tạo từ, đơn vị từ vựng, từ loại chính,
kiểu câu thường dùng); “Nắm được những tri thức về ngữ cảnh về ý định, về mục
đích, về hiệu quả giao tiếp; nắm được các quy tắc chi phối việc sử dụng Tiếng việt để
giao tiếp trong nhà trường cũng như ngoài xã hội”. Và “Trung tâm của việc rèn luyện
kĩ năng cho học sinh là làm cho các em có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng việt
thành thạo”. Từ mục tiêu chung đó, từng tiết dạy, từng nhóm bài Tiếng việt sẽ có
những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể.
Ở những tiết dạy - học lí thuyết Tiếng việt, học sinh phải nắm được đặc điểm
cấu tạo, công dụng, phân loại... của các đơn vị ngôn ngữ, từ đó vận dụng tri thức đã
học để giải các bài tập theo yêu cầu.
Nếu tiết luyện tập Tiếng việt chú trọng việc giải bài tập, tiết ôn tập là củng cố,
xâu chuỗi kiến thức của một chương, một phần... để giải quyết các bài tập thì tiết

tổng kết Tiếng việt có yêu cầu và nhiệm vụ cao hơn.
Ở những tiết học này, học sinh phải củng cố, khắc sâu, hệ thống hoá kiến thức
cơ bản, có mở rộng và nâng cao về các đơn vị ngôn ngữ Tiếng việt đã học từ lớp 6
đến lớp 9; học sinh được rèn luyện năng lực so sánh, tổng hợp, khái quát vấn đề; kĩ
năng trình bày bài tập Tiếng việt theo từng mức độ, thực hiện tích hợp ngang với
phần Văn, phần Tập làm văn đang học. Qua những tiết tổng kết Tiếng việt, cả giáo
viên và học sinh phải có cái nhìn tổng quan về chương trình của toàn cấp học. Từ đó,


học sinh sẽ có ý thức hơn, sử dụng đạt hiệu quả hơn những đơn vị kiến thức đã học
trong giao tiếp.
Vì sao chúng ta phải đặt ra vấn đề này? Bởi vì , khi nắm vững mục tiêu bài dạy
là giáo viên đã có nhận thức đúng đắn về yêu cầu nhiệm vụ của bài, từ đó sẽ có định
hướng cho việc thiết kế và thi công, lựa chọn phương pháp phù hợp cho từng đối
tượng.
2, Xác định dung lượng kiến thức cần tổng kết ở từng tiết, sắp xếp, bổ sung
phù hợp.
Thực ra, tổng kết Tiếng việt trong chương trình Ngữ văn 9 chính là tổng kết
toàn bộ những kiến thức cơ bản ,trọng tâm của phân môn Tiếng việt trong toàn cấp
học. Với thời lượng ít ỏi (Tổng kết từ vựng học kì I: 6 tiết; Tổng kết ngữ pháp học kì
II: 3tiết), nếu người giáo viên không xác định trọng tâm kiến thức, dung lượng kiến
thức cần chuyển tải đến từng đối tượng học sinh, sắp xếp chúng theo trình tự, thì khó
hoàn thành nội dung các tiết dạy này. SGK chỉ đề ra những nội dung cần tổng kết,
chưa phân định nội dung lớn nhỏ, hệ thống bài tập chưa đa dạng... giáo viên cần phải
sắp xếp, bổ sung hệ thống kiến thức và bài tập giúp HS có thể dễ dàng củng cố kiến
thức, hình thành và rèn luyện thói quen tư duy khoa học, ...
Trên cơ sở nghiên cứu SGK, chương trình cấp học, người viết đã sắp xếp lại hệ
thống kiến thức cần tổng kết, bổ sung một số kiến thức và bài tập ở 9 tiết học vào
bảng sau đây:


Phầnkiến
thức

Tiết số

43
Tổng kết từ
vựng
44

49

Đơn vị kiến thức cần Kiến thức được sắp xếp,bổ
ôn tập (Theo SGK)
sung
I. Từ đơn, từ phức

I. Phân loại từ theo cấu tạo:
1. Từ đơn.
2. Từ phức
II. Thành ngữ
II.Thành ngữ
III. Nghĩa của từ
III. Nghĩa của từ
IV. Từ nhiều nghĩa và 1. Khái niệm
hiện tượng chuyển
2. Cách giải thích nghĩa từ.
nghĩa của từ
3. Một số hiện tượng về
V. Từ đồng âm

nghĩa từ (6 hiện tượng từ
VI. Từ đồng nghĩa
mục IV đến mục IX SGK)
VII. Từ trái nghĩa
VIII. Cấp độ khái quát
nghĩa của từ
IX. Trường từ vựng
V. Trau dồi vốn từ
I. Sử dụng từ: (Trau dồi vốn
I. Sự phát triển của từ từ )
vựng
1. Sự phát triển của từ vựng
2. Trau dồi vốn từ
II. Phân loại từ theo nguồn
gốc và phạm vi sử dụng
1.Theo nguồn gốc :


52 - 53

59

II. Từ mượn
III. Từ Hán – Việt
IV. Từ ngữ địa
phương và biệt ngữ xã
hội
I Từ tượng thanh,
tượng hình .
II.Một số biện pháp tu

từ từ vựng

- Từ thuần việt
- Từ mượn: từ Hán –
Việt, từ mượn của ngôn ngữ
châu Âu
2. Theo phạm vi sử dụng
- Từ ngữ địa phương
- Biệt ngữ xã hội
I. Gía trị biểu cảm của từ.
II. Một số biện pháp tu từ từ
vựng

Luyện tập tổng hợp

Bổ sung thêm một số
bài tập phân tích giá trị biểu
cảm của từ, giá trị của phép
tu từ lấy từ các văn bản Văn
đang học
147-148
A. Từ loại
A. Từ loại
B. Cụm từ
B. Cụm từ
Tổng kết ngữ
1. Khái niệm
pháp
2. Cấu tạo của 3 loại
cụm từ

154
C. Thành phần
C. Thành phần câu
câu
D. Các kiểu câu:
D. Các kiểu câu:
I. Câu chia theo cấu
I. Câu đơn.
trúc:
II. Câu ghép
1. Câu đơn.
IV. Các kiểu câu
2. Câu ghép
ứng với mục đích nói
II. Câu chia theo mục
III. Biến đổi câu đích nói
E. Biến đổi câu
Nhìn vào bảng hệ thống hoá trên, chúng ta đã xác định được hệ thống kiến thức
cơ bản cần chuyển tải, định hình rõ đơn vị kiến thức lớn, nhỏ; từ đó phân định thời
gian tổng kết cho các đơn vị kiến thức.
3, Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở các tiết tổng kết Tiếng việt
Nếu giáo viên phải nghiên cứu nội dung, chương trình SGK để xác định đơn vị
kiến thức cần tổng kết, lựa chọn phương pháp phù hợp thì học sinh cũng phải chuẩn
bị tốt cho những tiết tổng kết Tiếng việt.
Sau mỗi giờ học ,bao giờ cũng có phần củng cố kiến thức và hướng dẫn chuẩn
bị bài mới. Trước những tiết tổng kết Tiếng việt, giáo viên phải dành thời gian nhiều
hơn để hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài, nếu chỉ trả lời những câu hỏi và bài tập
trong SGK, học sinh chỉ việc chép “Để học tốt Ngữ văn” mà không cần phải tư duy



hoặc đọc lại kiến thức cũ. Trong khi đó, phần lớn kiến thức được tổng kết đã học từ
lâu, học sinh quên nhiều, thậm chí quên hết. Vậy nên hướng dẫn học sinh như thế
nào?
Trên cơ sở đã xác định dung lượng kiến thức cần tổng kết trong giờ học, giáo
viên phải đưa ra hệ thống câu hỏi và bài tập cho các đối tượng học sinh: Với học sinh
trung bình - yếu, phải yêu cầu các em đọc lại toàn bộ kiến thức cũ, hoàn thành bảng
hệ thống hoá (Theo các mục ở phần 4.1 của SKKN này) trước khi đến lớp; với học
sinh khá giỏi, chỉ yêu cầu đọc lại kiến thức cũ mà không nhất thiết phải hoàn thành
bảng hệ thống hoá nhưng phải nghiên cứu trước một số bài tập nâng cao cần sử dụng
so sánh, phân tích.
Ở tiết 52-53, ta thấy HS phải đọc, nhớ lại kiến thức của từ tượng thanh, từ tượng
hình trong chương trình Ngữ văn 8; 9 biện pháp tu từ Tiếng việt được học trong toàn
cấp:
Lớp 6: So sánh, nhân hoá, ẩn dụ, hoán dụ
Lớp7: Điệp ngữ, liệt kê, chơi chữ
Lớp 8: Nói quá, nói giảm nói tránh
Ở tiết 147,148: HS phải nhớ lại12 từ loại được học rải đều trong 3 lớp:
Lớp 6: 7từ loại, gồm có: Danh từ, động từ, tính từ, số từ, chỉ từ, lượng từ,
phó từ
Lớp 7: 2 từ loại là đại từ và quan hệ từ
Lớp 8: 3 từ loại là trợ từ, thán từ, tình thái từ
Và 3 cụm từ: cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ học ở lớp 6
Nhìn vào những đơn vị kiến thức này, thử nghĩ xem, nếu HS không đọc và
nhớ lại kiến thứccũ, không chuẩn bị bài, liệu trong thời lượng 1,2 tiết trên lớp có thể
đủ để GVvà HS hoàn thành nội dung tổng kết? Điều đó cho thấy, việc chuẩn bị bài
của HS có vai trò quan trọng trong sự thành công của giờ dạy - học tổng kết Tiếng
việt.
4, Hướng dẫn và tổ chức cho học sinh thực hiện các giờ dạy tổng kết Tiếng
việt trên lớp đạt hiệu quả
4.1Hướng dẫn HS củng cố, khắc sâu kiến thức qua việc hoàn thành bảng hệ

thống hoá.


Đây là công việc cần làm đầu tiên trong các tiết tổng kết Tiếng việt. Có thể thực
hiện công việc này theo nhiều cách với nhiều hình thức khác nhau. Ở đây, người viết
xin trình bày một số cách thức tiến hành:
Cách1: HS hoàn thành bảng hệ thống hoá ở nhà, đến giờ học, GV sử dụng bảng
phụ (máy chiếu), ghi đầy đủ, chính xác những nội dung kiến thức cần tổng kết, HS tự
đối chiếu, bổ sung vào vở soạn ở nhà.
Cách 2: Hướng dẫn HS, qua hệ thống câu hỏi, nhắc lại kiến thức cần ghi nhớ,
GV lần lượt điền nội dung vào bảng, HS chốt kiến thức vào vở, công việc này tách
thành phần riêng, trước khi làm bài tập.
Cách 3: Hoàn thành bảng hệ thống hoá song song với việc giải các bài tập có
liên quan, HS sử dụng cùng lúc 2 loại vở: Vở bài tập và vở ghi trên lớp (hiện nay,
cuốn vở bài tập mới do Nguyễn Khắc Phi chủ biên có rất nhiều ưu thế).
Việc sử dụng cách nào là do năng lực của mỗi GV, do từng đối tượng HS. Cách
1đỡ phần ghi trên lớp của HS, dành thời gian để làm bài tập nhưng chỉ áp dụng được
với những HS tích cực và tự giác học tập, có khả năng tự học. Cách 2 có tính chất
rạch ròi giữa lý thuyết và thực hành nhưng lại khó khắc sâu kiến thức qua bài tập,
khó xâu chuỗi, mở rộng và nâng cao kiến thức. Có lẽ, cách 3 chiếm nhiều ưu thế hơn
cả nhưng nó đòi hỏi người GV phải biết chọn bài tập cho từng phần kiến thức, phải
luyện cho HS kỹ năng ghi chép, sự tập trung theo dõi giờ học, những thao tác... và cả
tốc độ ghi bài.
Để hoàn thành bảng hệ thống hoá có thể sử dụng một số hình thức sau trong các
giờ trên lớp:
Hình thức 1: Kẻ vào bảng chính.
Hình thức 2: Dùng bảng phụ bằng giấy để bóc dán.
Hình thức 3: Dùng bảng phụ chép chưa đầy đủ nội dung để HS điền tiếp.
Hình thức 4: Dùng máy chiếu.........
GV cần linh hoạt sử dụng các hình thức này trong các tiết tổng kết Tiếng việt.

Bởi lẽ, việc đặt câu hỏi để hoàn thành bảng hệ thống hoá dễ gây nhàm chán, thường
có sự lặp lại. Việc sử dụng giáo án điện tử có lẽ sẽ đem lại hứng thú học tập nhiều
hơn cho học sinh. Phần lớn các đơn vị ngôn ngữ Tiếng việt cần tổng kết có thể được
đưa vào bảng hệ thống hoá sau đây (có thể xem là mẫu chung, GV điều chỉnh cho
phù hợp với từng đơn vị kiến thức).


Tên đơn vị
kiến thức

Khái niệm, đặc
điểm

Phân loại

Tác dụng cách sử dụng

Ví dụ

Trong bài viết này, người viết xin trình bày bảng hệ thống hoá có thể sử dụng
cho một phần lớn nội dungcần tổng kết ở tiết 52,53- Tổng kết từ vựng:


phép
tu từ

Khái niệm
Đối chiếu hai
hay nhiều sự
vật, sự việc có

những nét
tươngđồng

Phân loại

Tác dụng- cách
sử dụng

Làm nổi bật đặc
điểm tính chất...của
So
sự vật sự việc được
sánh
so sánh; sử dụng
trong miêu tả, biểu
cảm...
Gọi, tả vật bằng Trò chuyện,
Sự vật hiện tượngtrở
những từ ngữ
xưng hô với
nên gần gũi thân
dùng để gọi tả
vật như với
thiết,có đời sống tâm
người
người
hồn,cách diễn đạt
Nhân
-Dùng những từ sinh động và gợi cảm
hoá

miêu tả hoạt
hơn; sử dụng trong tự
động, tính
sự, miêu tả, biểu
chất...của người cảm...
để chỉ vật
Gọi tên sự vật
-Ẩn dụ phẩm
-Tăng sức gợi hình
hiện tượng này chất
gợi cảm
bằng tên của sự -Ẩn dụ cách
- Nội dung biểu đạt
Ẩn
vật hiện tượng
thức
trở nên sâu sắc, kín
dụ
khác có những -Ẩn dụ hình
đáo,tế nhị...
nét tương đồng thức
Sử dụng trong tác
-Ẩn dụ chuyển phẩm văn học, trong
đổi cảm giác
đời sống
Gọi tên của sự
- Lấy bộ phận
Tạo thêm sắc thái ý
vật hiện tượng
để chỉ toàn thể nghĩa,tăng sức gợi

Hoán này
Lấy dấu hiệu,
hình ,gơi cảm cho lời
dụ
bằng tên của sự đặc điểm để chỉ diễn đạt, sử dụng
vật hiện tượng
vật mang dấu
trong nhiều văn cảnh
khác có sự gần hiệu,đặc điểm
gũi
Lấy vật chứa
đựng để chỉ vật
bị chứa đựng...
Lặp đi, lặp lại
- Điệp ngữ cách Nhấn mạnh ý , nổi
một từ, một ngữ quãng
bật đối tượng, gây ấn
Điệp có dụng ý nghệ - Điệp ngữ nối tượng cảm xúc, tạo
ngữ
thuật
tiếp
nhịp điệu cho lời
- Điệp ngữ
diễn đạt,sử dụng
chuyển tiếp
nhiêu trong biểu
(điệp ngữ vòng) cảm…

Nói
quá


Nói

Phóng đại đặc
điểm, quy mô,
tính chất của
SVHT nhằm
dụng ý nhất
định
Dùng cách diễn
đạt tế nhị uyển

-So sánh ngang
bằng
-So sánh không
ngang bằng

Nhấn mạnh, gây ấn
tượng, tăng sức biểu
cảm, sử dụng để trào
phúng, châm biếm…

Ví dụ
Cầu cong như
chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc
cung nga buông
hờ
Chị tre chải tóc
bên ao

Nàng mây áo
trắng ghé vào soi
gương

Ngày ngày mặt
trời đi qua trên
lăng
Thấy một mặt
trời trong lăng
rất đỏ
Áo chàm đưa
buổi phân ly
Cầm tay nhau
biết nói gì hôm
nay

Một bếp lửa
chờn vờn sương
sớm
Một bếp lửa ấp
iu nồng đượm.

Đêm tháng năm
chưa nằm đã
sáng. Ngày tháng
mười chưa cười
đã tối

- Tránh gây cảm giác Bác đã đi rồi sao
đau buồn, ghê sợ,

Bác ơi,


Tại sao phải lập bảng hệ thống hoá? Có thể trình bày theo kiểu liệt kê kiến thức
được không? Có phải bất kỳ tiết tổng kết Tiếng việt nào cũng cần sử dụng bảng hệ
thống hoá? Có lẽ là không phải! Việc sử dụng bảng hệ thống hoá còn tuỳ thuộc vào
nội dung cụ thể của từng tiết ,vào năng lực khái quát vấn đề của từng giáo viên...
Song ta nhìn thấy rất rõ, khi sử dụng bảng hệ thống hoá, kiến thức đã được trình bày
rõ ràng, khoa học, khúc chiết giúp HS dễ nhớ kiến thức, dễ so sánh đối chiếu, dễ rèn
luyện năng lực khái quát và tổng hợp , từ đó các em sẽ tư duy khoa học và logíc hơn.
4.2 Hướng dẫn HS trả lời câu hỏi, làm bài tập để mở rộng, nâng cao những
kiến thức Tíêng việt cần tổng kết
Công việc này có thể dược tiến hành song song với quá trình hệ thống hoá kiến
thức hoặc có thể được tiến hành đồng thời khi làm các bài tập theo yêu cầu. Vấn đề
là, GV phải xác định những đơn vị kiến thức nào cần được mở rộng và nâng cao, từ
đó đặt câu hỏi và lựa chọn bài tập phù hợp giúp HS mở rộng nâng cao kiến thức, rèn
luyện năng lực so sánh, đối chiếu, phân tích và khái quát vấn đề.
Khi dạy tiết 43 - tổng kết từ vựng, qua BT2, phần I-trang 122 SGK tập1, yêu
cầu HS chỉ ra điểm giống và khác nhau giữa từ ghép và từ láy; qua BT2, phần II
trang 123-SGK tập1, yêu cầu HS phân biệt thành ngữ và tục ngữ.
Khi dạy tiết 49, để mở rộng và nâng cao kiến thức, có thể sử dụng một số câu
hỏi sau: Từ Hán - Việt có những tác dụng gì? Tìm một số trường hợp có sử dụng từ
Hán - Việt và chỉ ra giá trị của chúng? Giữa sự phát triển từ vựng và trau dồi vốn từ
có mối quan hệ như thế nào? Cách phát triển nghĩa của từ có điểm gì giống và khác
với các biện pháp tu từ ẩn dụ , hoán dụ? Hãy làm BT5- trang57 SGK tập 1
Khi dạy tiết 154 - tổng kết ngữ pháp, GV có thể đặt ra vấn đề: Trong giao tiếp,
vì sao phải sử dụng nhiều loại câu? Câu ghép có những tác dụng gì? Khi nào người ta
sử dụng liên tục những câu rút gọn?
Việc mở rộng và nâng cao kiến thức thường được áp dụng cho những đối tượng
HS khá giỏi, tuy nhiên ở một mức độ nào đó, HS trung bình cũng có thể tham gia

được. Đây cũng là cách kích thích tư duy, rèn năng lực sáng tạo cho HS, gắn lý
thuyết với thực tiễn giao tiếp. Tuy vậy trong thực tế, ở các giờ tổng kết Tiếng Việt
giáo viên chưa chú ý đến hoạt động này. Nếu chúng ta không lưu tâm đến việc mở
rộng nâng cao kiến thức thì khi học sinh gặp những bài tập khó hoặc những đề thi
học sinh giỏi, các em không thể tự mình giải quyết các bài tập.
4.3 Hướng dẫn học sinh vận dụng những kiến thức Tiếng việt đã tổng kết
để làm bài tập theo các mức độ khác nhau.
Dạy - học Tiếng việt bao giờ cũng phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản:
Hướng vào hoạt động giao tiếp, gắn lý thuyết với thực hành, tiếp cận vấn đề trong
mối quan hệ hữu cơ giữa nội dung và hình thức. Bất kỳ một tiết Tiếng việt nào cũng
phải luyện tập thực hành qua hệ thống bài tập. Trong tiết tổng kết Tiếng việt, việc
hướng dẫn HS làm bài tập có thể được tiến hành song song với việc củng cố lý thuyết
hoặc đươc tách thành phần riêng, sau phần ôn tập lý thuyết. Ở đây, người viết xin
trình bày 3 dạng bài tập điển hình trong Tiếng việt, những yêu cầu và cách trình bày
bài tập ở từng dạng:
4.3.1 Những bài tập (BT) nhận diện
Dạng BT này yêu cầu HS phải phát hiện các đơn vị ngôn ngữ trong những văn
cảnh cụ thể. Bởi vậy, HS phải dựa vào khái niệm, đặc điểm, bản chất... của các đơn
vị ngôn ngữ theo yêu cầu để xác định chính xác, đầy đủ. Những bài tập thuộc dạng
này giúp HS củng cố, nắm vững hơn kiến thức đựơc tổng kết; từ đó sử dụng chúng
đúng, hay hơn trong giao tiếp và viết bài Tập làm văn.


Xét tiết 147- BT1- phần I-A trang 130 SGK tập2: Trong số các từ in đậm sau
đây, từ nào là danh từ, từ nào là động từ, từ nào là tính từ? Để làm được bài tập này,
hiển nhiên HS phải nhớ lại khái niệm, đặc điểm của 3 từ loại đồng thời phải xét nghĩa
của từ trong văn cảnh. Dạng bài tập này có thể được trình bày theo 3 cách sau đây:
Cách 1: Liệt kê: Ví dụ: - Danh từ : Lăng, làng, bài thơ......
- Động từ : Đọc, đập, phục dịch,.....
- Tính từ : Hay, đột ngột, sung sướng,....

Cách2: Kẻ bảng
Danh từ
Lăng, làng , bài thơ..

Động từ
Đọc, đập, phục dịch...

Tính từ
Hay, đột ngột, sung sướng

Cách 3: Gạch chân dưới các từ ngữ:
Trên đây là bài tập nhận diện ở mức độ đơn giản, cũng là BT nhận diện nhưng
có những BT khó hơn: Ở tiết 44, ta quan sát mục V, phần 2 - trang 124 SGK tâp1:
Trong 2 trường hợp (a) và (b) sau đây, trường hợp nào có hiện tượng từ nhiều nghĩa,
trường hợp nào có hiện tượng từ đồng âm?
a)Từ “lá” trong:
Khi chiếc lá xa cành
Lá không còn màu xanh
Mà sao em xa anh
Đời vẫn xanh rời rợi
Và trong: Công viên là lá phổi của thành phố
b)Từ “đường” trong : Đường ra trận mùa này đẹp lắm
và trong: Ngọt như đường
Để trả lời câu hỏi này, HS phải giải nghĩa từ trong văn cảnh, đối chiếu nghĩa của
từ trong văn cảnh với nghĩa gốc, căn cứ vào khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
mới có thể kết luận và khẳng định: Từ “lá” trong trường hợp (a) là từ nhiều nghĩa vì
nghĩa của chúng có liên quan đến nhau, từ “đường” trong trường hợp (b) là từ đồng
âm vì nghĩa của chúng khác xa nhau
4.3.2. Những BT phân tích giá trị của đơn vị ngôn ngữ
Dạng BT này thường đựơc kết hợp với dạng BT nhận diện, khi phân tích giá trị

của đơn vị ngôn ngữ thì trước hết phải nhận diện đơn vị ngôn ngữ đó. Dạng này sử
dụng chủ yếu trong các tiết tổng kết từ vựng. Để giúp HS làm được những BT này,
GV cần hướng dẫn các em phân tích kỹ yêu cầu đề, nhớ lại kiến thức về các đơn vị
ngôn ngữ, xem xét nội dung cụ thể trong các BT, có thể dùng thao tác so sánh, phân
tích ... chỉ ra tác dụng của chúng .Về dạng BT này,người viết chỉ trình bày 2 loại BT
phân tích giá trị đơn vị ngôn ngữ thường gặp (phân tích giá trị biểu cảm của từ, phân
tích giá trị của phép tu từ)
4.3.2.1 Về BT phân tích giá trị biểu cảm của từ:
Ở tiết 59 (Luyện tập tổng hợp), chúng ta xem xét BT1- trang 158, SGK tập1.
Yêu cầu của đề là: So sánh hai dị bản của câu ca dao:
(1)Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon
(2) Râu tôm nấu với ruột bù
Chồng chan vợ húp gật gù khen ngon
Cho biết trong trường hợp này, gật đầu hay gật gù thể hiện thích hợp hơn ý
nghĩa cần biểu đạt. Vì sao?


Yêu cầu thực chất của đề bài là phân tích giá trị biểu cảm của từ gật gù trong
bài ca dao. Cần tiến hành thực hiện dạng BT này theo các bước sau đây:
Bước1: Giải thích nghĩa của từ trong văn cảnh
Gật gù: gật nhẹ và nhiều lần, biểu thị thái độ đồng tình tán thưởng
Bước 2: Đặt từ vào văn cảnh, xem xét khả năng biểu đạt của nó, có thể so sánh
với những từ ngữ khác (đồng nghĩa hoặc gần nghĩa)
Gật đầu là từ đồng nghĩa với gật gù nhưng nó có những nét nghĩa khác, gật đầu
là cúi đầu xuống rồi ngẩng lên ngay, thường để chào hỏi hay tỏ sự đồng ý. Đặt vào
văn cảnh của bài ca dao, ta thấy từ gật gù biểu đạt thích hợp hơn cảnh và tình mà tác
giả dân gian muốn nói.
Bước 3: Chỉ rõ giá trị biểu cảm của từ
Trong bài ca dao, từ láy gật gù có giá trị biểu cảm lớn, nó không chỉ thể hiện

thái độ đồng tình, tán thưởng, sự hài lòng của người nói mà còn góp phần làm nổi bật
cảnh đầm ấm, hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ trong cuộc sống gia đình đạm bạc.
Những BT phân tích giá trị biểu cảm của từ có ý nghĩa lớn trong việc rèn luyện
kỹ năng phân tích từ ngữ ở các tác phẩm văn chương nhằm nâng cao năng lực cảm
thụ Văn- đích cần đến của Tiếng việt.
Chúng ta hãy xem xét trường hợp sau đây:
Phân tích giá trị biểu cảm của từ “đi” trong các câu sau :
(1) “ Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con” (Trích “ Con cò” –Chế Lan
Viên)
(2)
“ Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”
(Trích “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”-Nguyễn
Duy)
Trong BT này có 3 từ “đi”, yêu cầu HS phải chỉ ra được nét nghĩa chung và
nét nghĩa riêng của các từ để khẳng định giá trị biểu cảm của chúng trong từng văn
cảnh.
Theo nghĩa gốc, đi là người (động vật) tự di chuyển bằng những động tác
liên tiếp của chân, lúc nào cũng vừa có chân tựa trên mặt đất, vừa có chân giơ lên
đặt tới chỗ khác (Theo Từ điển Tiếng việt). Trong những câu thơ trên, đi không nằm
trong nét nghĩa đó nữa mà nên hiểu đi là sống, trải qua, là hiểu; đi không tính bằng
quãng đường mà được tính bằng thời gian, năm tháng, đời người, bằng sự đồng cảm
sẻ chia…
Trong lời thơ của Chế Lan Viên, đi chính là cả cuộc đời mẹ, suốt cuộc đời
mẹ từ trẻ đến già, từ khi con thơ dại đến khi con khôn lớn trưởng thành, đó là cả
cuộc đời gian truân, vất vả, tần tảo lam lũ vì con, hy sinh cho con, mẹ đã đi qua mọi
thử thách thăng trầm của cuộc sống vì tình yêu thương con.Từ đi đã góp phần khẳng
định tình mẹ mãi vững bền, thiêng liêng và sâu sắc; nó gợi trong lòng bạn đọc bao
suy nghĩ nỗi niềm ....

Trong “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”, Nguyễn Duy không nói mẹ đi mà là con đi,
mỗi chúng ta đi - trọn vẹn cả kiếp người. Từ đi diễn tả một thời gian dài được đặt
trong sự đối lập với “mấy lời mẹ ru” - thời gian mấy phút, người con hiểu, đồng cảm
và sẻ chia cùng mẹ những vất vả gian lao ...Đặt vào hoàn cảnh ra đời của bài thơ, ta
thấy được lòng trắc ẩn, niềm biết ơn kính trọng của tác giả với người mẹ của mình
qua đó khẳng định ý nghĩa sâu sắc của lời ru đối với cuộc đời con người......


BT phân tích giá trị biểu cảm của từ thường được trình bày dưới dạng lời văn
,đoạn văn. Điều này đòi hỏi HS không chỉ có tri thức Tiếng việt mà còn phải có năng
lực cảm thụ Văn, năng lực diễn đạt.Vì vậy, để hướng dẫn HS thực hiện được dạng
BT này, người GVcũng phải rèn luyện năng lực về nhiều mặt.
4.3.2.2 Về BT phân tích giá trị của phép tu từ
Yêu cầu chung của các BT này là chỉ rõ tác dụng , giá trị của phép tu từ trong
những văn cảnh cụ thể ( thường là các văn bản thơ hoặc các văn bản văn xuôi giàu
chất thơ). Nhược điểm lớn nhất của HS khi làm dạng BT này là nhắc lại lý thuyết
chung chung, không chỉ ra được tác dụng cụ thể của phép tu từ trong văn cảnh nào
đó. Có thể hướng dẫn HS trình bày dạng BT này theo các bước sau đây:
Bước 1: P hát hiện, gọi tên đầy đủ, chính xác các phép tu từ có trong văn cảnh
Bước 2 Chỉ rõ những từ ngữ thực hiện các phép tu từ
Bước3: Căn cứ vào tác dụng của phép tu từ về phương diện lý thuyết, căn cứ
vào nội dung cụ thể của văn cảnh, chỉ ra tác dụng của từng phép tu từ (Làm nổi bật
đối tượng nào? Về những đặc điểm, tính chất trạng thái gì? Nhấn mạnh nội dung
nào? Thể hiện thái độ tình cảm gì của người viết?...)
Bước 4: Trình bày những nhận xét, đánh giá chung về tác dụng của các phép tu
từ trong văn cảnh.
Chúng ta áp dụng cách trình bày này vào một BT cụ thể: Tiết 52, 53 - tổng kết
từ vựng, phần II – Bài tập 2b trang 147- SGK tập 1
Đề bài: Vận dụng kiến thức đã học về một số phép tu từ từ vựng để phân tích
nét nghệ thuật độc đáo của những câu thơ sau:

Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
(Truỵện Kiều -Nguyễn Du)
Bài làm: Đoạn thơ trên sử dụng nhiều phép tu từ: so sánh, liệt kê, điệp ngữ.
Trong đó, phép so sánh là nổi bật nhất. Nhà thơ đã so sánh tiếng đàn của Kiều với
nhiều hình ảnh thiên nhiên: Trong như tiếng hạc, đục như tiếng suối mới sa, khoan
như gió thoảng, tiếng mau như trời đổ mưa. Phép so sánh đã thể hiện những vẻ đẹp
khác nhau trong tiếng đàn của Kiều, khẳng định tài năng tình cảm của nàng gửi vào
tiếng đàn, đồng thời làm rõ quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ trung đại: lấy vẻ đẹp
của thiên nhiên làm chuẩn mực. Bên cạnh phép so sánh, ta thấy phép liệt kê cũng có
vai trò quan trọng. Nó đã diễn tả nhiều cung bậc khác nhau, nhiều sắc thái ý nghĩa
khác nhau trong tiếng đàn kỳ diệu của nàng Kiều. Điệp ngữ “tiếng” đã nhấn mạnh ý
và gây ấn tượng cho bạn đọc về tiếng đàn. Có thể nói, nhờ việc sử dụng nhiều biện
pháp tu từ từ vựng, tác giả đã ngợi ca tiếng đàn của Kiều với sự thấu hiểu và trân
trọng đặc biệt, ta cũng hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn tài năng cũng như nỗi lòng Kiều.
BT đã được trình bày dưới dạng đoạn văn - đây là yêu cầu cần đạt tới của dạng
BT này. Trong quá trình viết bài, HS có thể làm gộp bước 2 và bước3; với những HS
trung bình, yếu có thể chỉ yêu cầu các em trình bày dưới dạng ý hoặc chỉ yêu cầu
phân tích giá trị của một phép tu từ nổi bật.
Trên đây, ngưòi viết đã trình bày 2 loại BT trong dạng BT phân tích giá trị của
đơn vị ngôn ngữ, dạng đề này thường được sử dụng trong các đề thi HS giỏi hoặc
những đề thi vào lớp 10 THPT chuyên hoặc không chuyên. Trong thực tế, những BT


này thực sự có tác dụng hỗ trợ và nâng cao năng lực cảm thụ văn chương, giúp HS
viết tốt hơn, hay hơn những bài văn nghị luận tác phẩm thơ, nghị luận tác phẩm
truyện trong chương trình Ngữ văn 9.
4.3.3, Dạng BT thực hành, sử dụng các đơn vị ngôn ngữ

Dạng BT này yêu cầu HS phải sử dụng các dơn vị ngôn ngữ để tạo lập văn bản
nói, văn bản viết. Ở những tiết tổng kết Tiếng việt ít xuất hiện dạng này. Giáo viên
nên lồng ghép chúng vào phần ôn tập lý thuyết bằng cách cho HS đặt câu hoặc viết
một đoạn văn có sử dụng đơn vị ngôn ngữ vừa tổng kết, cũng nên tích hợp nội dung
cần trình bày với phần Văn, Tập làm văn đang học, với thực tiễn giao tiếp, với các
địa chỉ tích hợp khác trong chương trình( môi trường, ma tuý, ...)
Khi dạy tiết 59, có thể giao BT: Viết một đoạn văn bàn về hiện tượng ô nhiễm
môi trường ở địa phương em, trong đó có sử dụng từ đồng nghĩa, một số tù ngữ cùng
trường từ vựng.
Khi dạy tiết 154, có thể cho HS luyện thêm ở BT: Đặt một câu ghép nói về
tình hình của lớp em hiện nay. Hoặc có thể: Viết đoạn văn trình bày cảm nghĩ về
nhân vật Phương Định, trong đó có dùng câu nghi vấn, câu cảm thán .... Hoặc: Viết
đoạn văn (từ 12 đến 15 dòng) giới thiệu truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa ” của Nguyễn
Thành Long, gạch chân dưới thành phần khởi ngữ, thành phần biệt lập trong đoạn
văn vừa viết.
Nếu thời gian trên lớp không cho phép, ta có thể giao những BT này về nhà
nhằm giúp các em tiếp tục củng cố, khắc sâu kiến thức, luyện tập thực hành giao tiếp
có hiệu quả hơn những đơn vị ngôn ngữ đã tổng kết.
C. KẾT LUẬN
I, KẾT LUẬN VÀ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Trên đây là những suy nghĩ của người viết và những suy nghĩ ấy đã được áp
dụng vào quá trình dạy – học những tiết tổng kết Tiếng việt vài năm qua.Có thể, sẽ
có nhiều GV nghĩ rằng: cứ tổng kết lý thuyết theo các đề mục của SGK, làm các bài
tập theo thứ tự đã có là được rồi. Vâng, như thế cũng không sai, song cá nhân tôi
nhận thấy: Qua những tiết tổng kết Tiếng việt, HS không chỉ cần củng cố kiến thức
mà cần biết mối quan hệ giữa các đơn vị kiến thức, sự bao hàm giữa chúng; HS phải
phân định được đơn vị ngôn ngữ lớn hơn, đơn vị ngôn ngữ nhỏ hơn - đó cũng chính
là cách rèn luyện tư duy lô-gíc khoa học, giúp HS có cái nhìn tổng quát về chương
trình. Bởi vậy, GV phải định hướng, sắp xếp, bổ sung kiến thức, hướng dẫn học sinh
đưa vào bảng hệ thống hoá. Muốn thực hiện được điều đó, học sinh phải tích cực chủ

động trong sự chuẩn bị bài; giáo viên phải giúp các em xâu chuỗi mở rộng và nâng
cao kiến thức thông qua những câu hỏi và bài tập. Mặt khác, sau những tiết tổng kết
Tiếng việt, HS không chỉ luỵện các BT mà còn được khắc sâu hơn phương pháp,
cách làm từng dạng BT theo yêu cầu.
Sau một thời gian đưa những vấn đề trên vào thực tế dạy- học tôi đã thu dược
kết quả sau:
Bài kiểm tra Tiếng việt cuối kì II năm học 2010-2011:
Xếp loại

Yếu

Trung bình
SL
TL
SL
TL
9A (33 HS)
2
6
15
45
9B (32 HS)
0
12
37
II, BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Khá
SL
TL

10
30
12
36.6

Giỏi
SL
TL
6
18
8
25


1, Phải nhấn mạnh vai trò của GV trong việc tổ chức và hướng dẫn HS thực
hiện các tiết tổng kết Tiếng Việt. Người thầy phải có một hệ thống tri thức vững
vàng về Tiếng việt ở toàn cấp học, có năng lực khái quát tổng hợp vấn đề, có nhạy
cảm ngôn ngữ, thường xuyên trau dồi ngôn ngữ, rèn luyện năng lực cảm thụ văn
chương.
2, GV phải căn cứ vào nội dung từng bài, từng đối tượng HS để xác định dung
lượng kiến thức cần tổng kết, lựa chọn bổ sung hệ thống bài tập phù hợp nhằm
củng cố khắc sâu kiến thức có mở rộng nâng cao, đảm bảo tính tích hợp của môn
học, giáo viên phải chủ động, linh hoạt sáng tạo trong từng giờ trên lớp.
3, Chú trọng rèn luyện kỹ năng hệ thống hoá kiến thức, so sánh, phân tích;
năng lực cảm thụ văn chương … cho HS, thực hiện nguyên tắc dạy - học Tiếng
việt, hưóng dẫn HS trình bày các bài tập Tiếng việt theo yêu cầu của từng dạng đề.
4, Phải động viên, khuyến khích HS trong các giờ học, tạo tình huống học tập,
áp dụng công nghệ thông tin, gây hứng thú học tập để bản thân mỗi HS tự nhận
thấy: học Tiếng việt - tiếng mẹ đẻ là thực sự cần thiết và hạnh phúc.
5, Sau mỗi tiết tổng kết Tiếng việt, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tiếp tục

luyện tập, nâng cao hơn nữa kỹ năng làm bài tập Tiếng việt, năng lực sử dụng
Tiếng việt trong giao tiếp và viết bài Tập làm văn. Giáo viên cũng phải luôn đổi mới
chính mình, tích cực học tập và rèn giũa để nâng cao chất lượng các giờ dạy tiếp
theo.



×