Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Phân tích hành vi của lứa tuổi nhi đồng (611 tuổi)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.76 KB, 37 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài:

Phân tích hành vi của lứa tuổi nhi đồng (611 tuổi)
Phần 1. Phần mở đầu
1. Tên đề tài
Phân tích hành vi của lứa tuổi nhi đồng (6-11 tuổi)
2. Lý do nghiên cứu
- Lứa tuổi nhi đồng (6-11 tuổi) là lứa tuổi có nhiều sự thay đổi về tâm sinh
lý cũng như hành vi.
- Những chuyển biến xã hội diễn ra quá nhanh đã hạn chế chức năng giáo
dục của gia đình và các thiết chế truyền thống đem lại cho lứa tuổi này
nhiều thử thách.
- Hiện nay, tình trạng lứa tuổi nhi đồng mắc hành vi lệch chuẩn có xu hướng
ngày càng gia tăng.
- Những hành vi lệch chuẩn sẽ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường học
đường và nhân cách của các em trong tương lai.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Hiểu được thế nào là hành vi lệch chuẩn và những hành vi lệch chuẩn ở
lứa tuổi nhi đồng.
- Xác định được đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý của lứa tuổi nhi đồng.
- Tìm hiểu những ảnh hưởng của môi trường xã hội đến hành vi ở lứa tuổi
nhi đồng.


4. Phạm vi nghiên cứu
- Trường Tiểu học
- Gia đình
- Hàng xóm
5. Phương pháp nghiên cứu
- Quan sát


- Điều tra
- Nghiên cứu tài liệu
- Tiếp cận thực tế

Phần 2. Phần nội dung
I.

HÀNH VI LỆCH CHUẨN VÀ HÀNH VI BẤT THƯỜNG

1. Định nghĩa


Hành vi lệch chuẩn

Khi nói đến hành vi lệch chuẩn, trước hết cần hiểu như thế nào là hành vi
hợp chuẩn. Hành vi hợp chuẩn là hành vi khi xem xét dưới góc độ thống kê là
phần lớn những hành vi của cá nhân được lặp đi lặp lại nhiều lần trong cộng
đồng giống nhau ở một tình huống cụ thể. Những hành vi đó được coi là chuẩn
mực khi nó phù hợp với các quy ước do cộng đồng quy định. Loại chuẩn mực
này được đưa ra trên cơ sở yêu cầu chung của cộng đồng, các cá nhân trong
cộng đồng phải tuân theo. Những cá nhân trong cộng đồng có hành vi khác với
các khuôn mẫu và chuẩn mực đó thì được coi là hành vi lệch chuẩn.


- Hành vi lệch chuẩn có hai mức độ: Thấp và Cao
+ Sự sai lệch chuẩn hành vi ở mức độ thấp chỉ xảy ra ở một số hành vi nhất định.
Cá nhân có thể có những hành vi không bình thường nhưng không gây tác hại
hoặc ảnh hưởng đến các hoạt động và đời sống của cộng đồng, gia đình, xã hội.
+ Sự sai lệch chuẩn hành vi ở mức độ cao có các biểu hiện thường là những hành
vi sai lệch và gây ảnh hưởng đến cuộc sống của chính bản thân người thực hiện

hành vi, của gia đình và cộng đồng, xã hội. Nhiều khi đây được coi là những hành
vi bệnh lí.
- Các loại hành vi lệch chuẩn:
Căn cứ vào mức độ nhận thức và khả năng chấp nhận chuẩn mực xã hội,
có thể chia hành vi lệch chuẩn thành hai loại:
+ Loại 1: Sai lệch chuẩn mực hành vi thụ động: Loại hành vi này là những hành vi
cá nhân sai lệch do nhận thức không đầy đủ hoặc nhận thức sai chuẩn mực xã
hội, nhận thức sai về các quan hệ trong môi trường sống.
+ Loại 2: Sai lệch chuẩn mực hành vi chủ động: Đây là loại hành vi cố ý làm sai
khác so với chuẩn mực.



Hành vi bất thường

- Quan điểm hành vi:
Quan điểm y tế và quan điểm phân tâm học thể hiện một tiếp cận chung
đối với rối loạn hành vi, cả hai đều xem hành vi bất thường như triệu chứng một
số vấn đề.
Các nhà lý thuyết hành vi có thể giải thích tại sao con người hành xử một
cách bất thường hay bình thường. Cả hai hành vi bất thường và bình thường
đều được cho là phản ứng trước một kích thích. Những phản ứng đó đã được
tích lũy thông qua kinh nghiệm trong quá khứ và hiện tại, được điều khiển bởi
các kích thích của môi trường.


- Quan điểm nhận thức:
Quan điểm này cho rằng nhận thức (suy nghĩ và niềm tin của con người) là
tâm điểm của hành vi bất thường.
- Quan điểm nhân văn:

Tính bất thường tập trung vào những gì chỉ có ở con người, được định
hướng vào những gì chỉ có ở con người và xã hội hay nói cách khác là tập trung
vào mối quan hệ của con người với xã hội.

2. Biểu hiện

Hai em nhỏ đang ở độ tuối “ăn chưa no, lo chưa tới” nhưng đã có những hành vi
bắt chước người lớn.
<sưu tầm>


Hai em nhỏ có hành động “người lớn” và công khai đăng ảnh lên facebook kèm
theo một status (trạng thái) rất tình cảm.<sưu tầm>

3. Nguyên nhân dẫn đến hành vi lệch chuẩn ở lứa tuổi nhi đồng (6-11
tuổi)
Nguyên nhân dẫn đến các biểu hiện lệch chuẩn trong đời sống đạo đức
học sinh hiện nay:
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng tha hóa lệch chuẩn trong đời
sống đạo đức của học sinh ngày nay.



Từ bản thân các em học sinh:

Theo các nhà tâm lí học cho rằng, lứa tuổi học sinh tâm lí chưa ổn định.
Các em luôn tự cho mình là người lớn, muốn tự khẳng định “ cái tôi” của mình.
Lứa tuổi khao khát khám phá những gì mà các em cho là bí mật, đây cũng là thời
kì các em dễ bị tổn thương, sa ngã nhất. Đặc biệt là trong tình hình hội nhập
quốc tế ngày nay, với sự giao thoa giữa các nền văn hóa ngày càng được mở

rộng.
Do lối sống thiếu ý thức, sống buông thả, đua đòi; đặc biệt là các em lạm
dụng tự do để làm những chuyện phi đạo đức. Và các em đã hiểu sai cái tự do


đó, tự do không phải là làm những gì mình thích, tự do phải là một giá trị để
đảm bảo hạnh phúc của mình và người khác.
Nói như Jean Cocteau: “Cái thảm kịch của giới trẻ, chính là giới trẻ bị đặt
vào tình trạng không thể không vâng lời vì sự tự do quá đáng.”



Từ gia đình:

“Gia đình chính là một phần tử của xã hội, gia đình mà tốt đẹp thì xã hội
mới tốt đẹp được”. Đây chính là bài học giáo dục công dân của cấp 2. Thế mà gia
đình trong xã hội chúng ta ngày nay có những “lỗ hổng” rất lớn, hầu như người
nào sống biết người đó: cha có việc cha, mẹ có việc mẹ, ai cũng phải vật lộn với
cuộc sống, với đồng tiền. Sau giờ làm, cha bận “tiếp khách” ở quán nhậu, mẹ
bận việc nhà, thế là cha mẹ không có thời gian dành cho con cái, bữa cơm gia
đình thường không có đủ mặt, chưa kể cha mẹ còn xích mích cãi vã, thế là sự
“quan tâm” của cha mẹ với con cái chỉ là có tiền cho con đi học, học chính quy,
học thêm, học đàn, học nhạc, học võ... Và thay vì khuyên bảo thì chỉ là quở trách
và la mắng.Dần dà con cái không biết nương tựa vào ai, không biết tâm sự cùng
ai. Một số nảy sinh cách sống đơn độc, nhút nhát, khó gần; số khác sẽ tụ tập với
những kẻ “cùng tâm trạng” để quậy phá xưng hùng xưng bá, sống bất cần đời.
Và để lấy “số má” với bạn bè, chúng sẽ làm bất cứ gì, chơi bất cứ thứ chi để
chứng tỏ “đẳng cấp”, “thua trời một vạn không bằng kém bạn một li”.
Đúc kết kinh nghiệm giáo dục con cái, ông cha ta đã từng khẳng định:
“Dạy con từ thuở còn thơ”, cũng tựa như uốn cây tre, phải uốn từ lúc tre còn

non. Nhưng xem ra nhiều gia đình ngày nay không coi trọng điều này, không
quan tâm đến việc xây dựng nếp sống có văn hóa trong gia đình, cha mẹ thiếu
gương mẫu về đạo đức, về lối sống và cũng không quan tâm dạy bảo con cái. Có
bao nhiêu bậc cha mẹ hiện nay chịu bỏ thời gian dạy con cái biết cách đối nhân
xử thế, biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác, dạy con lòng khoan dung,
độ lượng, vị tha và những chuẩn mực giá trị đạo đức mà con người phải sống
theo và tôn trọng với tư cách là một con người?
Kết quả điều tra cũng cho thấy: có 52% ý kiến cho rằng việc vi phạm đạo
đức của học sinh là nằm trong các gia đình kinh doanh, buôn bán; 25,4% là trong


các hộ gia đình cán bộ lãnh đạo các cấp; trong khi đó chỉ có 6,7% cho rằng các
em trong hộ gia đình nông dân và 11,8% trong hộ gia đình công chức, viên chức.


Từ nhà trường:

Nhà trường cũng không khác gia đình mấy, bởi nhà trường hiện nay cũng
chỉ đề cao việc nhồi nhét kiến thức, đề cao việc “đào tạo nguồn nhân lực để đáp
ứng nhu cầu nhân lực của nền kinh tế”. Việc giáo dục đạo đức, giáo dục công
dân cho người học gần như bị bỏ quên hoặc bị xem là thứ yếu. Trong khi đó, vai
trò của trường học đâu chỉ bó hẹp trong việc dạy kiến thức mà còn phải truyền
tải cho người học những giá trị, chuẩn mực của xã hội để họ trở thành những
con người toàn diện, biết sống và biết tôn trọng người khác. Thậm chí một số
trường học còn là nơi dung dưỡng điều xấu, bởi ta mới chỉ nói không với tiêu
cực và bệnh thành tích trong giáo dục. Chính vì chỉ quan tâm đến việc nhồi nhét
kiến thức nên trường học chỉ có thể đào tạo ra những con người đầy tri thức,
thông thạo các kỹ năng mang tính công cụ nhưng không phải là những người trí
thức thật sự. Chính vì không phải là người trí thức nên những “sản phẩm giáo
dục” ấy rất “hồn nhiên” gây tổn hại đến người khác và vi phạm pháp luật. Lối

sống tha hóa đạo đức của một bộ phận không nhỏ của giới trẻ trong xã hội ta có
một nguyên nhân cần nhấn mạnh là do ảnh hưởng của những gì đang diễn ra
trong cuộc sống hiện nay.”



Từ xã hội:

Nếu chúng ta nhìn vào những gì đã và đang diễn ra hằng ngày sẽ thấy
những hiện tượng tha hóa đạo đức không phải là hành động bộc phát, mà hầu
như chúng tuân theo “quy luật nhân quả”; những hành vi đáng tiếc đó được “lập
trình” từ trước do những ảnh hưởng không mong muốn của xã hội. Lối sống tha
hóa đạo đức đó là do ảnh hưởng của cuộc sống hiện đại. Có người đã nói: cuộc
sống càng hiện đại bao nhiêu thì giới trẻ ngày càng hư hỏng bấy nhiêu. Và cuộc
sống càng văn minh hiện đại bao nhiêu thì hình như con người càng làm nô lệ
cho nhiều thứ chán nản, thất vọng. Khi đó họ tìm đến với rượu bia, xì ke, ma tuý,
thuốc lắc, ăn chơi trác táng.
Hơn nữa, do sống trong cơn lốc của nền kinh tế thị trường, giới trẻ khó
đứng vững được trước những thay đổi chóng mặt của nó. Họ phải chạy theo


những giá trị vật chất, những thứ đảm bảo cho một cuộc sống thoải mái hơn về
tiện nghi. Với xu thế đó, họ không có thời gian để thưởng thức những giá trị tinh
thần cao đẹp như những liều thuốc an thần. Thay vào đó, họ cứ lao đầu vào
dòng đời ngược xuôi tốc độ, cạnh tranh. Trong thời đại này, ai bình chân người
đó sẽ chết đói, có người cho rằng “thật thà ăn cháo, láo nháo ăn cơm”; nếu cứ
sống một cách lương thiện thì áo chẳng có mà mặc, cơm chẳng có mà ăn, nói chi
là “ăn no mặc ấm, ăn sung mặc sướng”.
Nhìn vào thực tế, ta thấy được những hậu quả do sự phát triển của xã hội,
do lối giáo dục từ chương, nhồi sọ, và do cơ chế quản lý. Đó là một lối sống

buông thả, gian lận trong thương trường và hưởng thụ quá độ. Những vụ việc
như “múa kiếm”, tham ô tham nhũng của người lớn được du di cho qua không
thể không khiến người trẻ nghĩ rằng “làm sai cũng chẳng sao cả”, vì đâu có thấy
những hành vi đó bị trừng phạt thích đáng. Hơn nữa, do hội nhập văn hoá làm
cho giới trẻ sống “tây hoá” không còn biết đến nền tảng đạo đức của con người.
Từ đó, nảy sinh ra nhiều kiểu sống bệnh hoạn, làm băng hoại những giá trị
truyền thống văn hoá. Trong mục “Gặp gỡ đầu tuần” của báo Phụ Nữ ngày 21
tháng 03 năm 2009, cố Thạc sĩ tâm lý Nguyễn Thị Oanh cho biết: “Dường như xã
hội chưa quan tâm đến việc giáo dục nhân cách cho giới trẻ”. Mối quan ngại của
bà là mặc dù ngày nay lĩnh vực khoa học kỹ thuật, kinh tế phát triển rất nhanh
nhưng xã hội khó lòng đi lên nếu thế hệ trẻ không coi trọng việc học và rèn luyện
đạo đức làm người.

4. Biện pháp
Ở nhà trường
- Cần dạy học sinh những giá trị đạo đức cơ bản của con người thay cho quá
nhiều kiến thức triết học, hàn lâm, thiếu vắng việc hình thành những thói quan
đạo đức và kỹ năng sống đúng đắn.
- Giáo dục đạo đức trong nhà trường cần giảm thiểu những vấn đề cao xa, lớn
lao. Thay vào đó cần kiên trì bồi đắp lòng nhân ái, tính trung thực, lòng tự trọng,
nếp nghĩ và lối sống lành mạnh, trọng đạo lý, sống có kỷ luật, tức là hình thành
hành vi chuẩn mực.
- Cần thay đổi cách đánh giá học sinh thay cách đánh giá đơn thuần bằng điểm
số.



- Các trường học nên có quy định khi đánh giá xếp loại hạnh kiểm học sinh hàng
năm, giáo viên phải ghi rõ những mặt mạnh, mặt yếu, mặt nào cần rèn luyện,
những biểu hiện sai lệch để học sinh cố gắng trong năm sau.

- Cần đưa ra những tiêu chí định hướng cho học sinh rèn luyện cũng như những
điều cần nhận xét như: năng lực tư duy, khả năng sáng tạo, sở trường, cá tính, ý
thức tập thể, chuyên cần, thái độ với mọi người,…
- Giáo viên phải tự tìm cho mình những phương pháp dạy học tốt nhất nhằm
giúp học sinh có kỹ năng ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức.
- Cần phát huy thế mạnh của các phương pháp như sắm vai (đóng kịch), thảo
luận, tổ chức trò chơi, đề án. “Thực tế cho thấy học sinh rất thích học môn giáo
dục công dân vì trong giờ học các em được bày tỏ ý kiến. Điều quan trọng là thầy
cô phải là gương sáng mọi lúc mọi nơi để học sinh noi theo”.


Ở gia đình
- Các bậc phụ huynh nên dạy con cái biết đối nhân xử thế, biết tôn trọng mình và
tôn trọng người khác, dạy con lòng khoan dung, sự độ lượng, vị tha và những
chuẩn mực, giá trị đạo đức mà con người phải sống theo, dạy con điều hay lẽ
phải.
- Để làm được điều đó, trước hết cha mẹ phải là tấm gương cho con cái noi
theo.
- Trong một thế giới đang đề cao sự thỏa mãn tức thì những ham muốn bản
năng, thì gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc khơi dậy ý thức về cái tốt,
cái xấu, về cái đáng làm và không nên làm, nhưng nếu các bậc cha mẹ đã không
đóng đúng vai trò của mình thì đừng đòi hỏi những đứa con ở nhà sẽ trở thành
một công dân tốt.
- “Môi trường tạo nên tính cách”, vì thế nếu cha mẹ rượu chè, cờ bạc, vi phạm
pháp luật thì hình ảnh của họ sẽ như thế nào trong mắt con cái? Việc hình thành
hành vi hợp chuẩn từ gia đình rất quan trọng trong việc phòng ngừa hành vi lệch
chuẩn của trẻ em.
Ngoài xã hội
- Ra ngoài xã hội, lứa tuổi nhi đồng cần được quan tâm nhiều hơn nữa từ các
ban ngành, đoàn thể mà cụ thể trước hết là Đội thiếu niên.

- Công tác Đội cần nhận thấy và nắm bắt được những diễn biến tâm lý, đời sống
của lứa tuổi nhi đồng. Cần đưa ra nhiều chương trình và kế hoạch quan tâm tới
việc giáo dục đạo đức cho các em. Cần có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình và
nhà trường trong việc quản lý, rèn luyện đạo đức cho lứa tuổi nhi đồng.



II.

ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI ĐẾN HÀNH VI CỦA LỨA TUỔI
NHI ĐỒNG (6-11 tuổi)
1. Khái niệm thuyết hệ thống

Hệ thống là tập hợp nhiều yếu tố đối với cùng loại hoặc cùng chức năng có
quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ làm thành một hệ thống nhất (Từ điển
Tiếng Việt)
Thuyết hệ thống được phát triển vào những năm 30 và 40 của thế kỷ XX
do nhà sinh học Ludvig Von Bertalanffy khởi xướng. Thuyết hệ thống bao quát
mọi lĩnh vực (tin học, sinh học, kinh tế, xã hội học…), một hệ thống được định
nghĩa là một tổng thể phức hợp gồm nhiều yếu tố liên quan với nhau và mỗi
biến động trong một yếu tố nào đó đều tác động lên những yếu tố khác và cũng
tác động lên toàn bộ hệ thống. Một hệ thống có thể gồm nhiều tiểu hệ thống,
đồng thời là một bộ phận của một đại hệ thống. Có những hệ thống khép kín,
không trao đổi với hệ thống xung quanh.


Tiếu hệ thống

- Trong một hệ thống có tiểu hệ thống, là hệ thống thứ cấp hoặc hệ thống hỗ
trợ. Có thể coi đó là những hình thức nhỏ hơn trong hệ thống lớn, các tiểu hệ

thống được phân biệt với nhau bởi các ranh giới, là bộ phận của hệ thống lớn.
Ta thấy con người là một tiểu hệ thống, gia đình là một hệ thống trung mô, xã
hội là hệ thống vĩ mô. Một cá nhân được coi là một hệ thống vi mô. Hệ thống vi
mô có ba tiểu hệ thống: Hệ thống tâm lý, hệ thống sinh học và hệ thống hành vi.
Các tiểu hệ thống của con người chịu sự tác động của cả hệ thống gia đình và hệ
thống xã hội.
- Vai trò của tiểu hệ thống:
Vai trò của tiểu hệ thống được xác định theo ba cách đó là vai trò của tiểu hệ
thống trong mối quan hệ gia đình, mối quan hệ đồng nghiệp, mối quan hệ với
cộng đồng trong xã hội. Như vậy, mỗi cá nhân trong tiểu hệ thống của mình sẽ
bộc lộ vai trò nào đó ở một môi trường nào đó mà cá nhân đó gặp phải.




Sơ đồ biểu diễn mối quan hệ của hệ tống vĩ mô, trung mô, vi mô

HỆ THỐNG VĨ MÔ
Hệ thống pháp luật

Hệ thống nhà nước

Hệ thống văn hóa – xã hội
Hệ thống chính trị

HỆ THỐNG TRUNG MÔ
HỆ THỐNG VI MÔ
(Tiểu hệ thống cá nhân)
(
Gia đình

Nhóm
Hệ thống xã hội
Hệ thống tâm lý
Hệ thống sinh học


2. Ảnh hưởng vĩ mô


Hệ thống pháp luật

- Pháp luật nước ta luôn quan tâm, chú trọng đến quyền lợi của trẻ em như
quyền được khai sinh; quyền có quốc tịch; quyền được chăm sóc nuôi dưỡng;
quyền sống chung với cha mẹ; quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, nhân
phẩm, danh dự; quyền được chăm sóc sức khỏe; quyền được học tâp;…
- Pháp luật đã tạo ra một môi trường an toàn, lành mạnh cho trẻ em được phát
triển một cách toàn diện.
- Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì hệ thống pháp luật vẫn còn tồn
đọng nhiều hạn chế như:
+ Hệ thống pháp luật không được phổ cập rộng rãi và ở độ tuổi nhi đồng, để trẻ
tiếp cận được tới hệ thống pháp luật gần như là điều không thể.Do đó các em
không biết luật, không biết mình được hưởng những quyền lợi gì của bản thân.
+ Cha mẹ các em tuy là người lớn nhưng chắc chắn cũng không biết hết và hiểu
hết được những quy định của pháp luật cũng như quyền lợi các em được
hưởng. Trong khi đó ở độ tuổi này, các em coi lời nói của bố mẹ như những “quy
định pháp luật”, vậy mà bố mẹ cũng không nắm rõ thì thử hỏi họ sẽ giáo dục con
mình về pháp luật, về các quyền trẻ em như thế nào?
+ Nhà trường cũng chỉ dạy các em những lý thuyết về pháp luật nhưng cũng
chưa chú trọng đi sâu vào việc tạo ra các chương trình hoạt động ngoại khóa để
tạo điều kiện cho các em trực tiếp tham gia nhằm tìm hiểu về pháp luật.

+ Mọi người xung quanh nhìn chung cũng chưa thực hiện nghiêm chỉnh pháp
luật, dẫn đến trẻ dễ bị nhiễm những hành vi xấu này và cho rằng việc vi phạm là
điều bình thường, hiển nhiên và không có gì đáng sợ.
- Ví dụ: việc đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy, vượt đèn đỏ, đánh nhau,…



Hệ thống nhà nước


- Các cấp chính quyền nhà nước là công cụ để đảm bảo thực thi pháp luật về
quyền trẻ em.
- Nhà nước và chính quyền địa phương tạo ra môi trường cho trẻ được hoạt
động, phát triển và hướng trẻ đến những hoạt động tích cực, lành mạnh.



Hệ thống văn hóa – xã hội

- Nền văn hóa đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội và với
con người. Văn hóa đối với lứa tuổi nhi đồng giống như một phương tiện giúp
trẻ nhìn nhận về xã hội xung quanh nơi mà trẻ đang sống.
- Với nền văn hóa mở cửa và hội nhập như hiện nay, nước ta ngày càng đón
nhận thêm nhiều luồng văn hóa mới. Ở độ tuổi nhi đồng, các em vô cùng thích
thú, tò mò và sẵn sàng khám phá chúng. Có thể là qua phim ảnh, sách, truyện,
internet,.. Đó là những kênh thông tin hữu ích giúp trẻ nhận thức, đồng thời
cũng sẽ góp phần tác động không nhỏ đến hành vi của trẻ. Sự tác động đó có thể
là tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào cách tiếp cận của trẻ cũng như cách
hướng dẫn của gia đình, thầy cô, bạn bè đối với trẻ ở độ tuổi này.
- Những tác động của văn hóa cộng đồng, văn hóa học đường và văn hóa gia

đình sẽ giúp trẻ tiếp thu những giá trị truyền thống của dân tộc, giúp trẻ tiếp thu
được tri thức, định hướng cho trẻ trong việc hình thành và phát triển nhân cách.



Hệ thống chính trị

- Các cấp chính quyền địa phương tạo điều kiện cho trẻ nhi đồng bằng các hoạt
động thiết thực nhằm giáo dục và tạo cho trẻ một môi trường sinh hoạt lành
mạnh: sinh hoạt hè ở địa phương, tổ chức các trò chơi dân gian vào các dịp lễ
Tết, tổ chức Trung thu cho em, thi học sinh giỏi các cấp,…
- Tuy nhiên việc tổ chức còn gặp một số hạn chế nhất định như về cách thức tổ
chức, địa điểm,.. Vì vậy không thu hút được trẻ tham gia một cách đông đủ,
không thích thú hưởng ứng các hoạt động ở địa phương,…


- Đội ngũ nhân viên công tác xã hội ở địa phương chưa đáp ứng đủ do vậy các kỹ
năng của trẻ gặp rất nhiều hạn chế. Chính vì vậy dễ dẫn đến những hành vi lệch
chuẩn.

3. Ảnh hưởng trung mô

a.

Về phía gia đình

Tác động của gia đình tới hành vi của trẻ.
Gia đình là một bộ phận của hệ thống trung mô có tác động rất lớn đến hành vi
của trẻ.
Bất cứ ai cũng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình. Gia đình bao

gồm những người sống chung dưới một mái nhà, ăn chung một bếp, có lợi ích
kinh tế chung và có trách nhiệm với nhau trong cuộc sống. Gia đình vừa là nơi
đáp ứng nhu cầu riêng tư vừa thực hiện chức năng phát triển nòi giống và là
trường học đầu tiên hình thành, phát triển nhân cách con người. Tuy vậy, quá
trình trưởng thành và hình thành nhân cách của mỗi người là khác nhau, ngay cả
với anh em trong một nhà.
Giáo dục và nuôi dưỡng là hai yếu tố then chốt quyết định tạo nên tài
năng và tính cách của mỗi con người. Sự nuôi dạy con trẻ sát nhất là gia đình,
tiếp đến là xóm giềng và xã hội. Nhân cách con người bắt đầu hình thành từ lúc
còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi trưởng thành vẫn chưa dừng lại. Lứa tuổi
ấu thơ là giai đoạn quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách của trẻ.
Nhân cách mặc dù chưa được thể hiện rõ ràng nhưng thông qua hành vi bắt
trước hành động của người lớn trẻ em bắt đầu thu nhận tất cả các tương tác
nhân – sinh – quan để hình thành nhân cách của mình.
Trong mỗi gia đình vai trò của bố mẹ có vị trí quan trọng. Theo truyền thống
Việt Nam, đàn ông thường là chủ của gia đình. Người cha là trụ cột, là biểu hiện
của nhân cách văn hóa cao đẹp nhất để con cái học tập và noi theo . Còn người
mẹ là chỗ dựa, là hạt nhân tâm lý chủ đạo, nguồn lửa sưởi ấm yêu thương trong
gia đình, nguồn tình cảm vô tận cho các con. Cho nên gia đình là cái nôi văn hóa
đầu tiên hình thành nhân cách cho trẻ em.


Trẻ được sinh ra từ lòng mẹ, được nuôi dưỡng từ dòng sữa mẹ, được
nghe lời ru ấm áp của mẹ để đi vào giấc ngủ. Mẹ là người đầu tiên trẻ được tiếp
xúc khi cất tiếng khóc chào đời, là người dạy trẻ từ lời ăn tiếng nói, hướng dẫn
trẻ những bước đi đầu tiên. Bên cạnh quan hệ cha mẹ - con cái còn có quan hệ
vợ chồng. Đây là quan hệ cơ bản, đan xen giữa khía cạnh tự nhiên – sinh học,
kinh tế và tâm lý đạo đức. Văn hóa trong gia đình nói chung, quan hệ vợ chồng
nói riêng đều có sự ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân
cách của các thành viên trong gia đình. Bầu không khí tâm lý – đạo đức của gia

đình tác động trực tiếp đến nếp nghĩ, lối sống của trẻ. Mọi xung khắc của các cá
nhân trong gia đình, nhất là giữa bố và mẹ, đều ảnh hưởng đến con cái. Trong
nếp nghĩ của trẻ nhỏ luôn lưu giữ hình dáng, lời ăn tiếng nói của cha mẹ.
Trong gia đình, ngoài các mối qua hệ nói trên còn có mối quan hệ giữa ông
bà và các cháu, anh chị và các em. Mối quan hệ này càng bền chặt thì càng làm
phong phú thêm đời sống tinh thần của các cá nhân trong gia đình. Các bậc lớn
tuổi phải làm gương, tự điều chỉnh hành vi của mình thì mới đáp ứng được vấn
đề đạo đức, văn hóa và các mối quan hệ đặt ra trong phạm vi gia đình. Người
xưa nói “rau nào sâu đó”, lối sống của cha mẹ và những người trong gia đình
ảnh hưởng rất lớn đến trẻ em.
Trở thành một người có nhân cách tốt khi trưởng thành hoàn toàn không
dễ. Không thể chủ quan khi cho rằng “cha mẹ sinh con trời sinh tính” mà câu nói
“ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” rất đúng đối với trẻ. Giáo dục con cái không thể
chỉ bằng lời nói mà phải bằng những công việc cụ thể, mọi hành vi, thái độ, lối
sống của người lớn có có tác động trực tiếp tới việc hình thành, phát triển nhân
cách của trẻ. Trẻ em sẽ không tôn trọng người lớn nếu nó như chúng thấy cha
mẹ mình thể hiện sự thiếu tôn trọng lẫn nhau. Khi cha mẹ dạy con phải lễ phép
với bố, mẹ nhưng chính họ lại không tôn trọng cha, mẹ của mình (ông bà của
trẻ) thì chắc chắn trẻ sẽ chẳng bao giờ lễ phép với cha, mẹ và cả ông, bà. Những
bậc cha mẹ luôn quan tâm đến con cái sẽ chú trọng đến việc giáo dục hình thành
nhân cách cho trẻ, dạy con không được nói dối người lớn, phải thật thà và biết
nhìn nhận khuyết điểm, biết cám ơn khi được cho quà. Nhưng cũng có nhiều gia
đình thiếu quan tâm đến việc giáo dục con cái, người lớn đối xử với nhau bằng
lời nói, cử chỉ, hành động thiếu văn hóa,… những hành động xấu đó đã phản
chiếu vào tâm hồn non nớt của trẻ em, làm cho các em trở nên cộc cằn, thô lỗ.


Môi trường gia đình có vai trò quyết định đến sự phát triển của trẻ em. Những
mâu thuẫn, lục đục trong gia đình hay gia đình tan vỡ đã đẩy nhiều trẻ em rơi
vào tình trạng hụt hẫng về mọi phương diện, nhiều em không đủ ý chí để vượt

qua khó khăn này đã rơi vào những bệnh như trầm cảm, rối loạn tâm lý hoặc bỏ
nhà đi lang thang, phạm tội.
Yếu tố gia đình chịu trách nhiệm đối với quá trình xã hội hóa ban đầu của
cá nhân, ảnh hưởng đến việc hình thành phẩm chất, nhân cách gốc của trẻ. Nếu
ngay từ đầu các phẩm chất đó bị sai lệch, trẻ sẽ dễ sinh hư. Ông bà ta xưa cho
rằng muốn con cái trở thành thương nhân thì nên ở gần chợ, muốn con hay chữ
thì ở gần trường học, nếu gần trộm, gần cướp thì sớm hay muộn cũng trở thành
cướp. “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, câu tục ngữ mang tính giáo dục đến
nay vẫn còn nguyên giá trị. Sống trong các gia đình có bố mẹ hoặc người lớn
khác có hành vi thiếu văn hóa, đạo đức thậm chí có cả những hành vi phạm tội,
như bố mẹ bất hòa hay đánh chửi nhau, nghiện rượu, nghiện ma túy, trộm cắp,
tham ô…thì những gương xấu này làm cho trẻ em dần dần coi thường pháp luật,
nhiễm các thói hư tật xấu và dễ bị lôi kéo rồi dần dần vi phạm pháp luật. Chỉ có
những trẻ có ý chí kiên cường, có lòng tự trọng cao, sớm đánh giá được đúng sai
mới tránh được những ảnh hưởng xấu đó. Cũng có nhiều trường hợp bố mẹ là
người tốt, có đủ kiến thức nhưng không chú ý đúng mức đến việc giáo dục con
cái hoặc không có điều kiện gần gũi trẻ, có người ỷ lại cho nhà trường, một số
mải làm ăn, kiếm sống hoặc phải đi công tác trong thời gian dài.
Có gia đình bố mẹ ly hôn, có con ngoài giá thú, một trong hai người chết…
dẫn đến việc con cái bị bỏ rơi, thiếu sự dạy dỗ và tình thương của cha mẹ, không
được dạy dỗ và chăm sóc chu đáo trẻ sẽ có tâm lý lệch lạc, tự do ngang bướng,
bất cần. Chúng dễ dàng phạm tội khi bị rủ rê, lôi kéo… Có những gia đình bố mẹ
thiếu hiểu biết hoặc không kiềm chế được nên đã coi việc đánh đập hoặc dùng
nhục hình với trẻ như là quyền của họ. Khi trẻ có lỗi, cha mẹ đã buồn bực, lo
lắng và trút đòn roi lên đầu con cái. Nhiều đứa trẻ bị bạo hành đã nghĩ gia đình
không còn yêu thương, che chắn và bảo vệ mình nữa. Chính cách xử sự này của
bố mẹ đã khiến trẻ bị khủng hoảng về tâm lý, tự ti, khó hòa nhập, trẻ trở lên
hung hãn, lì lợm, xa lánh mọi người và căm ghét gia đình. Trong hoàn cảnh đó
trẻ dễ bị kẻ xấu lôi kéo, lợi dụng, khống chế thực hiện những hành vi trái pháp



luật. Con hư còn bởi cách dạy. Sự quá nuông chiều, thỏa mãn mọi nhu cầu của
con cái, thói quen đòi gì được nấy.
Bên cạnh sự nuông chiều, cha mẹ bao bọc mọi việc khiến trẻ hình thành
tính ỷ lại, dực dẫm, sống ích kỷ, lười nhác, không ý thức về trách nhiệm, quen
được phục vụ, hưởng thụ. Đến một lúc nào đó, khi gia đình không thỏa mãn
được hoặc không có điều kiện phục vụ thì con cái trở nên bất mãn, thậm chí thù
ghét bố mẹ, chúng thường bỏ nhà đi bụi, tụ tập với bạn bè hư. Nhiều trẻ trộm
cắp tài sản của chính bố mẹ mình hoặc của người khác để thỏa mãn những nhu
cầu không chính đáng như đua đòi ăn diện, đánh bạc, hút chích…
Ngày nay, với những biến đổi của nền kinh tế hàng hóa và cơ chế thị
trường văn hóa gia đình đang có biểu hiện xuống cấp vì những tác động xấu của
đời sống xã hội. Với ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế đã kích thích nhu cầu ham muốn vật chất, ít chú trọng đời sống tình cảm
tinh thần, tình trạng xung đột gia đình dẫn đến đổ vỡ và ly hôn ngày càng gia
tăng, làm cho gia đình không được bền vững. Do đó chúng ta cần đặc biệt chú
trọng giải quyết vấn đề gốc rễ là giáo dục con trẻ trong gia đình.
Giáo dục gia đình có tác động hình thành nhân cách cho trẻ. Đó là kinh
nghiệm sống của cha mẹ truyền dạy cho con cháu qua hành vi ứng xử trong gia
đình. “Dạy con từ thuở còn thơ”, các bậc cha mẹ cần thường xuyên giáo dục con
trẻ thái độ, cử chỉ, ăn nói lễ phép, tôn kính người trên, tôn sư trọng đạo,
nhường nhịn lẫn nhau để khi trưởng thành con cái biết ơn sinh thành, nuôi
dưỡng, chăm sóc ông bà, cha mẹ.
Cha mẹ cũng cần uốn nắn, phê phán, ngăn chặn thái độ, cử chỉ bất nhã, bất hiếu
của con cái. Kết hợp giữa giáo dục truyền thống và hiện đại, phát huy mặt tích
cực của Nho giáo, Đạo giáo trong quan hệ lễ nghĩa tương kính. Mặt khác, dần
dần xây dựng nếp sống khoa học trong gia đình: rèn cho con nền nếp học tập và
đức tính tốt, như tự suy nghĩ, tìm tòi, sinh hoạt đúng giờ, gọn gàng ngăn nắp.
Cha mẹ cũng cần giáo dục các nội dung văn hóa khác cho trẻ, như văn hóa lao
động, văn hóa sinh hoạt, văn hóa tiêu dùng, văn hóa giao tiếp…Tập luyện cho

con ý thức, thói quen lao động chân tay hàng ngày để nâng cao sức khỏe, loại
trừ thói xấu lười nhác, ỷ lại, dựa dẫm, cẩu thả…qua đó giúp con mình hình thành


nhân cách, sớm ý thức được mình vì mọi người và mọi người vì mình trong gia
đình. Cần có kế hoạch, thời gian dành cho vui chơi, học tập của con phù hợp với
sinh hoạt của gia đình. Về văn hóa tiêu dùng, về tiền bạc và những tiện nghi sinh
hoạt khác, cha mẹ cần giáo dục con ý thức tiết kiệm và quý trọng đồng tiền làm
ra từ lao động chân chính. Các thói xấu như ham tiền, kiếm tìền bằng mọi giá,
đua đòi, ăn chơi cần được sớm ngăn chặn, vì điều này dễ dẫn các em vào con
đường hư hỏng. Giáo dục cho con ý thức, nếp nghĩ, cử chỉ lời nói lễ phép, khiêm
tốn, trang phục, trang sức hợp gia cảnh từng nhà và truyền thống đạo đức của
dân tộc, đó là văn hóa giao tiếp.
Gia đình có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách mỗi con người. Nếu nhân cách của con người bao gồm hai mặt đức và tài,
thì gia đình là nơi nuôi dưỡng đạo đức và gieo mầm tài năng. Các bậc cha mẹ
cần nhận thức đúng trách nhiệm của mình để giữ gìn hạnh phúc gia đình, xây
dựng gia đình văn hóa: no ấm, bình đăng, tiến bộ và hạnh phúc.

Ở lứa tuổi nhi đồng gia đình có tác động rất lớn đến hành vi của trẻ biểu hiện cụ
thể là :
+ Gia đình tác động và hình thành nên nhân cách của trẻ.
+ Trẻ em ở lứa tuổi này thường có thói quen bắt chước người lớn đặc biệt la cha
mẹ hoăc anh chị em trong nhà.
+ Việc giáo dục của cha mẹ sẽ tạo ra môi trường tích cực hoặc tiêu cực cho việc
học tập của trẻ.
+ Gia đình còn tác động đến việc hình thành thói quen tốt hay xấu cho trẻ trong
giai đoạn này.
+ Việc giáo dục của gia đình sẽ giúp trẻ bước đầu nhận thức về thế giới xung
quanh về điều tốt và xấu.


Sự tác động của gia đình nhà trường và xã hội đối với hành vi của trẻ:


Trong lý luận cũng như trong thực tiễn giáo dục, sự thống nhất tác động
giáo dục từ nhà trường, gia đình và xã hội được xem là vấn đề có tính nguyên
tắc đảm bảo cho mọi hoạt động giáo dục có điều kiện đạt hiệu quả tốt.
Trong việc tổ chức kết hợp các lực lượng giáo dục, gia đình có vai trò và
tác động vô cùng quan trọng, là trọng tâm của các hoạt động kết hợp. Gia đình
là nơi trẻ được sinh ra, lớn lên và hình thành nhân cách của mình. Ảnh hưởng
giáo dục của gia đình đến với trẻ là sớm nhất. Giáo dục con cái trong gia đình
không phải chỉ là việc riêng tư của bố mẹ, mà còn là trách nhiệm đạo đức và
nghĩa vụ công dân của những người làm cha mẹ. Nó được xác định trong nhiều
văn bản pháp luật ở nước ta hiện nay như trong Hiến pháp (1992), Luật Hôn
nhân và gia đình (1986), Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em (1991)…gắn
với quan hệ máu mủ ruột thịt và tình yêu sâu sắc của cha mẹ với con cái nên
giáo dục gia đình mang tính xúc cảm mạnh mẽ, có khả năng cảm hóa rất lớn.
Tùy vào điều kiện kinh tế, đời sống của mỗi gia đình mà việc tiến hành giáo dục
trong các giai đoạn phát triển của trẻ có các nội dung, hình thức, nhiệm vụ khác
nhau: Khi các em vào trường tiểu học, công việc học tập trở thành nhiệm vụ lao
động chủ yếu. Vì vậy các bậc cha mẹ phải quan tâm tạo điều kiện thuận lợi như
giúp các em rèn luyện các nề nếp thói quen học tập, vệ sinh, mua sắm đồ dùng
học tập đầy đủ…
Có 3 nhân tố chính trong việc giáo dục đạo đức học sinh đó là: gia đình, nhà
trường và xã hội. Mỗi nhân tố đều mang 1 vai trò riêng nhất định:
+ Gia đình : là tế bào của xã hội, là nền tảng của mỗi quốc gia và là chỗ
dựa vững chắc về mặt tinh thần, đồng thời cũng là kim chỉ nam để tránh những
nhận thức lệch lạc từ phía học sinh.
+ Nhà trường : là môi trường giáo dục chuyên nghiệp, không chỉ phát triển về
kiến thức mà còn phải truyền tải cho học sinh những giá trị chuẩn mực của xã

hội để các em trở thành những con người trí thức thật sự cố đời sống tinh thần
phong phú bên cạnh cuộc sống gia đình.
+ Xã hội : là môi trường thực tế, giúp học sinh hoàn thiện một số kĩ năng cuộc
sống, chi phối một phần rất lớn trong suy nghĩ và hành động của học sinh.
Vì vậy, sự phối hợp của 3 nhân tố trên là việc làm hết sức cần thiết để nâng cao
chất lượng giáo dục nhân cách ở học sinh. Giống như chiếc kiềng 3 chân, đơn
giản, vững chắc và không thể thiếu bất kì chân nào.


* Ví dụ 1 : (thiếu yếu tố gia đình) Việc chấp hành trật tự an toàn giao thông học
đường.
Đã có sự kết hợp khá tốt giữa nhà trường và xã hội trong việc thực hiện an toàn
giao thông học đường. Học sinh được học luật giao thông từ cấp 1 và được liên
tục cập nhật, bổ sung thông tin. Xã hội bảo vệ học sinh bằng những luật như đội
mũ bảo hiểm và không được đi xe phân khối lớn. Việc thi hành pháp luật cũng
đã được tiến hành gắt gao với sự kết hợp của nhà trường và xã hội. Tuy nhiên,
không ít phụ huynh vẫn cho con đến trường bằng xe phân khối lớn, bất chấp và
lách luật bằng cách gửi xe ở những bãi xe xung quanh trường. Đây là ví dụ điển
hình cho việc gia đình không phối hợp với nhà trường và xã hội.
* Ví dụ 2 : (nhà trường) Việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.
Đôi khi các bậc cha mẹ rất muốn cho con mình được bồi dưỡng thêm những khả
năng giao tiếp cuộc sống để khi bước vào đời không phải ngỡ ngàng, thiệt thòi.
Xã hội cũng đã tạo rất nhiều điều kiện cho các em học sinh có thể tham gia như
tạo các nhà văn hoá, các tổ chức đoàn đội của phường. Tuy nhiên, với lịch học
dày đặc, học ngày học đêm, học thêm chủ nhật như hiện nay thì việc bồi dưỡng
kĩ năng sống dường như là bất khả thi.
* Ví dụ 3 : (xã hội) Nhu cầu của học sinh.
Trong khi gia đình và nhà trường cố gắng hướng học sinh đến một tâm hồn
trong sáng, cao đẹp, sống hết mình vì mọi người thì xã hội vô hình lại nhấn mạnh
đến bằng cấp, địa vị, quyền lực, tiện nghi, sự giàu có. Điều này gây ảnh hưởng

rất lớn đến những quan niệm sống của học sinh mà đôi khi cả gia đình và nhà
trường cũng không thể uốn nắn lại được.
Nói chung, bất kì sự không phối hợp hay phối hợp thiếu nhịp nhàng nào giữa 3
nhân tố sẽ gây cản trở rất lớn cho quá trình giáo dục đạo đức học sinh.
Những bất cập cần được giải quyết trong việc giáo dục đạo đức học sinh.
Trong tình hình hiện nay, sự phối hợp giữa 3 nhân tố đã ít nhiều vấp phải những
cản trở nhất định do chính bất cập của nhân tố đó tạo ra.


* Đối với gia đình :
+ Một số gia đình không hề quan tâm hoặc quan tâm học sinh không đúng cách.
Thả lỏng hoàn toàn hay cách giáo dục muốn con thành công hơn thành nhân
đều dẫn đến kết quả không tốt.
+ Cách khắc phục : các bậc phụ huynh cần dành ra nhiều thời gian hơn cho việc
dạy con nên người, không nên chỉ chạy theo các giá trị hiện thực như học vấn
hay tiền bạc mà còn phải chỉ cho con thấy những giá trị của tâm hồn.
* Đối với nhà trường:
+ Hiện nay, khi một học sinh có biểu hiện sai trái về đạo đức thì xã hội phê phán
rằng bộ môn GDCD đã không hoàn thành trách nhiệm của mình. Nhưng ít ai nghĩ
được rằng, vấn đề chính cần giải quyết lại nằm trong nội dung chương trình.
Cuốn sách được xem là chuẩn mực của Việt Nam hiện nay thì lại đặt nặng, nhồi
nhét quá nhiều về những lý thuyết sáo rỗng xa rời thực tế. Chương trình phổ
thông chỉ chú trọng đến những bài học tư tưởng chính trị lớn lao mà lại vô tình
bỏ quên những điều rất đời thường, biết sống và biết tôn trọng người khác
những giá trị đạo đức của một con người. Trong nhà trường môn GDCD chỉ được
coi là thứ yếu.
+ Cách khắc phục : Không có bất kì phương pháp nào hay hơn là phải thay đổi
phương pháp giáo dục của môn GDCD. Chương trình phải thật sự có ích cho HS,
là một hành trang đầy đủ để học sinh có thể tự tin bước vào cuộc đời. Đừng để
xảy ra tình trạng 100% HS trả lời bài thi em sẽ nhặt rác lên khi thấy hay em sẽ

dẫn cụ già qua đường nhưng rác thì đầy sân trường và đâu đó lại có chiếc áo
trắng vô tâm băng nhanh sang đường bỏ lại cụ già choáng ngợp giữa dòng xe giờ
tan tầm.
* Đối với xã hội :
+ Thế hệ sau không có một khuôn mẫu đạo đức để noi theo. Làm sao có thể áp
dụng bài học an toàn giao thông vào thực tế khi một đứa trẻ thường xuyên thấy
ba mẹ vượt đèn đỏ ? Và phải giáo dục đạo đức cho học sinh thế nào khi có
những kẻ sai phạm rành rành nhưng vẫn thoát tội ? Chính vì tiếp nhận quá nhiều
thông tin tiêu cực nên học sinh sẽ bị hoang mang trong việc định hình nhân
cách, hay tệ hơn là sẽ có những định hướng lệch lạc.


+ Cách khắc phục : Muốn giáo dục một ai đó, trước tiên phải giáo dục được
chính mình. Thế hệ trước luôn phải có ý thức rằng mình là một tấm gương để
thế hệ trẻ noi theo. Làm được như thế xem như đã thành công một phần không
nhỏ trên con đường giáo dục nhân cách cho học sinh.
Tóm lại, thế hệ trẻ là tương lai của đất nước nên giáo dục đạo đức cho giới trẻ là
cách chúng ta đào tạo ra những công dân tốt cho tổ quốc, là cách đầu tư tốt
nhất cho tương lai của một đất nước. Giáo dục thế hệ trẻ ngay từ trong gia đình
và trên ghế nhà trường luôn là điểm khởi đầu để một xã hội chuyển mình phát
triển bền vững.

b. Về phía trường học


Giai đoạn nhi đồng, thiếu nhi
Là độ tuổi từ 6-11 tuổi. Độ tuổi này rất háo hức để đón nhận những điều mới
mẻ.




Tác động của trường học đến hành vi của trẻ
- Trường học:
+ Trường học là môi trường vô cùng cần thiết và bắt buộc đối với mỗi con người.
Từ khi sinh ra và lớn lên, mỗi người đều phải trải qua các cấp bậc học khác nhau:
mẫu giáo – tiểu học – trung học cơ sở – trung học phổ thông và đại học (nếu có).
+ Trường học là môi trường vô cùng cần thiết trong việc giáo dục con người,
nhất là đối với trẻ em. Trẻ em sẽ từ đó mà lớn dần lên.
+ Bên cạnh những mặt tích cực chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng thì ở
trường học vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định.
- Tác động của trường học đến hành vi của lứa tuổi nhi đồng:
*Về mặt tích cực:
+ Trường học ở giai đoạn này bước đầu hình thành cho trẻ những kĩ năng cơ
bản: nghe, nói, đọc, viết để trẻ xây dựng nền tảng cho việc đón nhận tri thức.


+ Trường học còn là nơi giáo dục, dạy dỗ trẻ những quy tắc ứng xử, những
chuẩn mực đạo đức cơ bản để trẻ hoàn thiện hơn về các kĩ năng giao tiếp, ứng
xử với mọi người xung quanh.
Ví dụ: Khi gặp thầy cô hay gặp người lớn tuổi các em đều sẽ lễ phép chào hỏi.
+ Trường học cũng là nơi trẻ vui chơi và tiếp xúc với bạn bè cùng trang lứa. Lúc
này trong tâm hồn trẻ sẽ xuất hiện thêm những khái niệm mới: “bạn cùng lớp”,
“bạn khác lớp”, “bạn trai”, “bạn gái”,…
+Trường học cũng là nơi hình thành cho trẻ những ý thức về thì giác: không xả
rác bừa bãi, tự giác bảo vệ tài sản chung,…

*Về mặt tiêu cực
+ Nếu như một gia đình hạnh phúc sẽ giúp trẻ hình thành những phẩm chất tốt
như biết yêu thương mọi người, biết quan tâm, biết chia sẻ,…và ngược lại thì ở
trường học cũng như vậy. Nếu môi trường học đường chỉ gây cho trẻ những sợ

hãi và căng thẳng sẽ khiến cho tâm hồn trẻ bị vẩn đục, là nguyên nhân gây ra
những vấn đề liên quan đến bạo lực học đường hay cũng chính là vấn đề về
hành vi ứng xử của trẻ.
+ Về phía giáo dục và nhà trường:


Nếu nhà trường có cách giáo dục hiệu quả thì trẻ sẽ được phát triển một cách
toàn diện. Còn nếu như cách giáo dục của nhà trường chưa hiệu quả thì trẻ sẽ
không được phát triển một cách toàn diện.



Chính vì lứa tuổi nhi đồng là lứa tuổi đang ở giai đoạn sẵn sàng học những điều
mới, do đó trẻ rất dễ có những hiện tượng bắt chước hay học theo những điều
người lớn nói, người lớn làm. Do vậy, nếu như thầy cô giáo không là một tấm
gương tốt cho trẻ noi theo thì trẻ rất dễ học thoe những thói xấu. Suy cho cùng,
ở môi trường học đường, thầy cô phải là một tấm gương tốt để cho trẻ noi theo.
Chúng ta vẫn thường hay ví trường học chính là ngôi nhà thứ 2 trong cuộc
đời mỗi con người, vì thế thầy cô cũng giống như những người cha người mẹ đối
với trẻ, sẽ có một tầm ảnh hưởng rất lớn tới trẻ. Chính vì vậy, nếu như thầy cô
dạy trẻ không đúng hoặc có những hành vi lệch chuẩn, thái quá như quát mắng,


đánh đập hay thậm chí là nhiếc móc, đe dọa,… thì chắc chắn sẽ làm cho trẻ bị
tổn thương về mặt tinh thần cũng như thể xác. Như vậy sẽ khiến trẻ có xu
hướng hành động bạo lực đối với mọi người xung quanh nếu bị những áp lực
trên.Mặt khác, nếu thầy cô không quan tâm đến trẻ sẽ dễ khiến cho trẻ cảm
thấy tự ti, sợ sệt, mặc cảm,… nhất là đối với những trẻ có hoàn cảnh đặc biệt
(trẻ em nghèo, trẻ em bị trầm cảm, trẻ nhiễm HIV,…
Tất cả những điều trên cho ta thấy thầy cô đóng vai trò vô cùng quan

trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cũng như trí tuệ của
lứa tuổi nhi đồng.
+ Về phía bạn bè xung quanh:


Trẻ rất dễ bắt chước, học theo những câu nói, những hành động, thói quan xấu
của các bạn xung quanh như nói tục chửi bậy, vứt rác bừa bãi,…



“Học thầy không tày học bạn”. Bạn bè vừa là nơi gắn kết nhưng cũng là nơi nảy
sinh những xung đột như đánh nhau, chửi nhau,.. Do vậy nếu trẻ tiếp xúc với
những người bạn xấu sẽ khiến trẻ bị ảnh hưởng, lây nhiễm và học theo những
thói xấu ấy.

c. Nhóm
Tròn 6 tuổi, trẻ bước vào lớp 1, bắt đầu cấp học đầu tiên của cuộc đời đó
chính là cấp Tiếu học. Trẻ không được phép nũng nịu, đòi cha mẹ chiều chuộng
theo ý mình mà phải đến trường, đến lớp để học chữ, học những tri thức cơ bản
đầu tiên của cuộc đời. Đến với cấp Tiểu học cũng chính là trẻ đang bước vào một
môi trường hoàn toàn mới, khác xa với gia đình quen thuộc mà hàng ngày các
em vẫn tiếp xúc và được bao bọc.
Nhi đồng là lứa tuổi đặt nền móng cho cả quãng đời đi học. Các em bước
đầu có tâm lí háo hức, vui vẻ khi có quần áo mới, sách vở mới, cặp sách mới,…
Các em đến lớp đúng giờ, ăn mặc sạch sẽ, sách bút gọn gàng, ngồi học nghiêm
túc,… Các em biết nghe lời thầy cô giáo, chăm chú nghe giảng để đón nhận
những bài học đầu tiên từ thầy cô của mình. Các em học cách sinh hoạt chung
cùng với bạn bè, làm quen với việc giao tiếp. Chính vì vậy các em đã có những sự
thay đổi:



- Chuyển từ tư duy tình cảm duy lý (mẹ, gia đình) bước sang tư duy trừu tượng,
khách quan. Từ cách đi đứng nói năng các em đã phải kiềm chế (thời gian không
đến trường các em vẫn chạy nhảy vui chơi một cách thoải mái và nũng nịu).
- Từ quan hệ ruột thịt đến quan hệ xã hội:
Từ hình mẫu cha mẹ, ông bà chuyển sang hình mẫu thầy cô giáo, Những điều
đúng sai, nên hay không nên làm đều tuân theo nguyên tắc, quy tắc nhất định.
Từ đó các em tự suy nghĩ chấp nhận những giá trị đạo đức, tinh thần do người
lớn truyền đạt lại, bước đầu tự ý thức về bản thân mình.
+ Quan hệ bạn bè:
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ là
quan hệ với bạn bè. Đây là dạng quan hệ bình đẳng (khác với quan hệ cha mẹ,
ông bà, thầy cô: quân hệ có tôn ti trật tự). Các em 6-7 tuổi chưa biết và chưa có
khái niệm sinh hoạt tập thể, chỉ mới là sinh hoạt chũng. Sinh hoạt tập thể phải
có sự phân công, tôn trọng quy định đã đề ra. Khi đã được giao việc thì các em
phải hoàn thành hay chơi thua thì phải chấp nhận làm theo yêu cẩu của các bạn
đưa ra.
+ 6-7 tuổi, quan hệ bạn bè dần dần chiếm một vị trí quan trọng. Bước đầu khi bị
các bạn trêu hay bắt nạt, các em sẽ mách với thầy cô giáo hoặc bố mẹ.
+ 9-10 tuổi, quan hệ bạn bè ở trường lớp thường tự phát hợp thành những
nhóm bạn riêng chơi với nhau. Nhóm đã có quy ước với nhau và thường có một
bạn được coi là “thủ lĩnh”. Các em muốn được sinh hoạt riêng để khẳng định
mình. Đây là biểu hiện cũng như đòi hỏi rất tự nhiên của trẻ. Sau này các em sẽ
có những sự lựa chọn kết thân với bạn bè. Tuổi này tuy cũng lớp nhưng đã phân
biệt trai, gái. Ở tuổi này, các em gái phát triển nhanh hơn về tâm lí so với các em
trai.



Đặc điểm về hành động và môi trường sống


- Hành động của học sinh Tiểu học:
Nếu như ở mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi thì đến độ tuổi
nhi đồng (6-11 tuổi) hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất.


×