Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Luận văn giải pháp nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của công ty sản xuất XNK dệt may trên thị trường EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.45 KB, 88 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Chuyên đề thực tập chuyên ngành với đề tài: "Giải
pháp nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của
công ty Sản xuất - Xuất nhập khẩu Dệt may trên thị
trường EU" là công trình nghiên cứu của em với sự
hướng dẫn tận tình của TS. Tạ Văn Lợi. Chuyên đề
không sao chép từ bất kỳ một Chuyên đề thực tập hay
khóa luận tốt nghiệp nào mà các tài liệu đó chỉ được sử
dụng là tài liệu tham khảo. Các số liệu, tài liệu sử dụng
trong chuyên đề đều trung thực và có nguồn gốc rõ
ràng.
Nếu những điều trên đây không đúng sự thật, em
xin chịu trách nhiệm hoàn toàn.

1


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH, SỨC CẠNH
TRANH CỦA HÀNG HOÁ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO SỨC
CẠNH TRANH MẶT HÀNG MAY CỦA CÔNG TY SẢN XUẤT-XUẤT
NHẬP KHẨU DỆT MAY TRÊN THỊ TRƯỜNG EU ......................................

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy sản xuất và quản trị của công ty....................34


2


LỜI MỞ ĐẦU
Hàng may mặc của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may là một trong
những mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao so với nhiều mặt hàng khác. Trong
nhiều năm, hàng may mặc xuất khẩu trở thành mặt hàng mũi nhọn trong xuất
khẩu hàng hoá của công ty, hàng may mặc luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của công ty.
Thị trường EU là một trong những thị trường chiếm vị trí quan trọng trong
hoạt động thương mại của công ty. EU được xem là một trong những thị trường
trọng điểm đối với mặt hàng may mặc xuất khẩu của công ty do EU mở rộng từ
15 quốc gia thành viên lên 25 quốc gia, là thị trường đông dân cư, mức chi tiêu
cho hàng may mặc lớn. EU là một thị trường rộng lớn, đa dạng có nhiều triển
vọng cho hàng xuất khẩu của công ty... nhưng cũng là một thị trường "sang
trọng" và "khó tính". Chinh phục thị trường này là một điều không dễ, nhất là
khi công ty phải cạnh tranh với hàng may mặc của Trung Quốc, một cường quốc
về các mặt hàng xuất khẩu.
Tuy nhiên, trong nhiều năm kim ngạch và thị phần xuất khẩu hàng may
mặc của công ty sang thị trường EU tăng giảm không ổn định. Có nhiều nguyên
nhân gây ra, trong đó nguyên nhân nổi bật là khả năng cạnh tranh hàng may mặc
của công ty trên thị trường này có chiều hướng suy giảm do phải cạnh tranh với
quá nhiều đối thủ.
Để góp phần vào việc nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty
trên thị trường quốc tế nói chung và thị trường EU nói riêng nhất là trong bối
cảnh Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO. Vì vậy, em đã
quyết định chọn đề tài: “ Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may
của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may trên thị trường EU”.
* Mục đích nghiên cứu.
Hệ thống hoá về lý thuyết cạnh tranh, sức cạnh tranh nói chung và hàng

may mặc nói riêng. Đồng thời, nêu lên thực trạng sức cạnh tranh hàng may của
công ty trên thị trường EU, từ đó đưa ra các giải pháp để nâng cao sức cạnh
3


tranh hàng may của công ty trên thị trường EU.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu là lý luận và thực tiễn sức cạnh tranh hàng may
của công ty trên thị trường EU.
- Phạm vi nghiên cứu là tập trung vào thực trạng sức cạnh tranh hàng may
mặc của công ty trên thị trường EU và các giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh
của hàng may mặc cho công ty trên thị trường, đồng thời đưa ra một số kiến
nghị đối với chính phủ và các bộ ngành liên quan.
- Thời gian nghiên cứu là từ năm 2003 đến năm 2006.
* Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng, phương pháp thống
kê, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh.
* Bố cục của chuyên đề.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bảng biểu, danh mục tài liệu
tham khảo và mục lục chuyên đề chia làm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về cạnh tranh, sức cạnh tranh của hàng hoá
và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của công ty Sản
xuất-Xuất nhập khẩu dệt may trên thị trường EU
Chương II: Thực trạng nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của
công ty trên thị trường EU
Chương III: Phương hướng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng
may của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may trên thị trường EU

4



CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH, SỨC CẠNH
TRANH CỦA HÀNG HOÁ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO SỨC
CẠNH TRANH MẶT HÀNG MAY CỦA CÔNG TY SẢN XUẤT-XUẤT
NHẬP KHẨU DỆT MAY TRÊN THỊ TRƯỜNG EU
1.1 Cạnh tranh hàng hoá
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh hàng hoá
Cạnh tranh hàng hóa là hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản
xuất hàng hoá dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhằm giành
giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
Theo như các nhà kinh tế đã phân tích thì cơ sở của cạnh tranh là chế độ
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chế độ này đẻ ra cạnh tranh, chèn ép lẫn
nhau, “cá lớn nuốt cá bé”. Trong nền kinh tề thị trường do có sự sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất cho nên tất yếu có cạnh tranh.
Vậy thì, thực chất của cạnh tranh hàng hoá là sự tranh giành về lợi ích kinh
tế giữa các chủ thể tham gia thị trường. Mỗi chủ thể đều mong muốn có lợi ích
về mình. Người bán thì muốn tối đa hoá lợi nhuận bằng cách bán với giá cao
còn người mua thì muốn tối đa hoá lợi ích của mình bằng cách mua hàng hoá tốt
và rẻ. Giữa người bán diễn ra sự cạnh tranh gay gắt vì mục tiêu lợi nhuận, họ
tìm cách giảm chi phí và giành khách hàng về mình.
Trên những tìm hiểu về cơ sở và thực chất của cạnh tranh các nhà kinh tế
trên thế giới đã kết luận cạnh tranh hàng hoá là quan hệ giữa những người bán
cùng sản xuất, kinh doanh cùng sản xuất một loại hàng hoá. Trong nền kinh tế
hàng hoá cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực của sự phát triển. Mục
tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận tối đa, bảo đảm sự tồn tại và phát
triển của chủ thể tham gia cạnh tranh. Tuy nhiên, điều kiện của thị trường để
thực hiện mục tiêu đó rất hạn chế. Do đó, người sản xuất kinh doanh phải tìm
cách tranh khách hàng bằng các thứ hàng hoá, dịch vụ tốt, giá cả hợp lý và giữ
được uy tín với khách hàng.
Như vậy, cạnh tranh hàng hoá là quy luật khách quan của nền sản xuất

5


hàng hoá, nền sản xuất càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng
người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt, kết quả cạnh tranh sẽ
loại bỏ những hàng hoá nào kém chất lượng không được khách hàng chấp nhận
và tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của những hàng hoá có chất lượng
tốt.
1.1.2 Vai trò, chức năng của cạnh tranh hàng hoá
1.1.2.1 Vai trò của cạnh tranh hàng hóa
Trong nền sản xuất hàng hoá, cạnh tranh đóng vai trò to lớn nó buộc con
người sản xuất kinh doanh phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng công
nghệ mới nhạy bén năng động và tổ chức quản lý có hiệu quả. Do đó, cạnh tranh
hàng hoá có những vai trò sau:
Thứ nhất: Cạnh tranh hàng hoá là động lực cho sự phát triển kinh tế, là
cách hữu hiệu nhất tối đa hoá lợi ích của cả doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Một mặt nó loại bỏ những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả ra khỏi thị
trường, mặt khác nó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn tốt có cơ hội
phát triển. Cạnh tranh hàng hoá là sự thay thế các doanh nghiệp sử dụng lãng
phí nguồn lực, gây tổn hại cho nhà nước và xã hội bằng các doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của xã hội.
Thứ hai: Cạnh tranh hàng hoá làm cho tiêu dùng gắn liền với sản xuất, do
cạnh tranh mà ngày nay các doanh nghiệp phải tìm hiểu nghiên cứu nhu cầu để
từ đó đáp ứng nhu cầu một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Sản xuất với năng
suất chất lượng ngày càng tăng giúp người tiêu dùng có thể tiêu dùng những
hàng hoá có chất lượng cao với giá có thể chấp nhận được, chủng loại phong
phú. Khi đó, nhu cầu của người tiêu dùng được đáp ứng ngày một tốt hơn.
Thứ ba: Cạnh tranh hàng hoá buộc các doanh nghiệp phải sử dụng tài
nguyên có hiệu quả hơn và phải áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản
xuất. Chỉ có như thế doanh nghiệp mới có thể giảm chi phí hạ giá thành để giành

thị phần với các đối thủ cạnh tranh. Áp dụng khoa học công nghệ mới không
những cho phép doanh nghiệp sử dụng nguồn lực tối ưu mà còn cho phép hiện
6


đại hoá dây chuyền sản xuất, tăng năng suất góp phần tăng chất lượng hàng hoá.
1.1.2.2 Chức năng của cạnh tranh hàng hoá
Chức năng sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu: Bởi vì cạnh
tranh làm cho tài nguyên chuyển đến những nơi mà chúng được sử dụng với
năng suất cao nhất.
Chức năng khuyến khích tiến bộ khoa học kỹ thuật: Khi người đầu tiên và
duy nhất đưa ra thị trường một loại hàng hoá phù hợp với nguyện vọng của
người mua, thì người đó có vị trí độc quyền và tạo điều kiện kiếm được lợi
nhuận độc quyền trong khoảng thời gian đó. Những người cạnh tranh khác
muốn làm theo giống các nhà sáng chế đó và kết quả là cạnh tranh thúc đẩy tiến
bộ kỹ thuật.
Chức năng thu nhập: Nếu cạnh tranh có hiệu quả sẽ thưởng cho các nhà
cạnh tranh thành công, họ sẽ thu được lợi nhuận cao hơn và vì thế họ có thu
nhập cao hơn.
Chức năng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng: Trong nền kinh tế thị
trường, người tiêu dùng là người cuối cùng quyết định chủng loại, số lượng và
chất lượng hàng hoá cần sản xuất. Xét về lâu dài thì chỉ có những hàng hoá và
dịch vụ mà họ muốn mới có thể bán được và được sản xuất. Chủng loại hàng
hoá phong phú được đưa ra để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng chỉ có thể
có được trong điều kiện có sự cạnh tranh mà thôi.
Chức năng tạo tính linh hoạt của sự điều chỉnh: Cạnh tranh có hiệu quả
không chỉ là công cụ tốt nhất để sử dụng tối ưu tài nguyên mà còn là công cụ rất
năng động, cho phép duy trì sự di chuyển liên tục các nguồn tài nguyên đến nơi
sử dụng có hiệu quả hơn. Nếu tính linh hoạt của sự điều chỉnh này không tồn tại
hoặc bị trục trặc thì nguyên nhân của nó là cơ cấu thị trường không có cạnh

tranh.
Chức năng kiểm soát sức mạnh kinh tế: Nếu cạnh tranh có hiệu quả sẽ hình
thành nên những vị trí độc quyền và lợi nhuận độc quyền chỉ tồn tại trong thời
gian nhất định vì cạnh tranh tác động tới chúng. Khi sự kiểm soát sức mạnh kinh
7


tế vượt quá quy mô nhất định thì sẽ tạo ra sự kiểm soát sức mạnh chính trị.
Chức năng kiểm soát sức mạnh chính trị: Việc chấp nhận cơ chế thị
trường, với tư cách là một nguyên tắc cơ bản đồng nghĩa với việc chính phủ phải
tự hạn chế vai trò hỗ trợ. Trước khi hành động, Chính phủ phải cân nhắc xem có
cần thiết hay không, bởi vì không có lý do gì để Chính phủ can thiệp vào những
nơi cạnh tranh có hiệu quả, theo nghĩa này thì cạnh tranh cũng làm hạn chế sức
mạnh chính trị.
Chức năng tự do lựa chọn và hành động của cá nhân: Sự cạnh tranh có
hiệu quả tạo ra quyền tự do tối đa cho sự lựa chọn và hành động của từng doanh
nghiệp tham gia vào các hoạt động kinh doanh.
1.1.3 Phân loại cạnh tranh hàng hoá
Hiện nay, tuỳ theo các giác độ nghiên cứu mà các nhà kinh tế đã phân loại
cạnh tranh hàng hóa thành các loại rất khác nhau.
1.1.3.1 Căn cứ vào mức độ tích chất cạnh tranh trên thị trường
Nếu căn cứ vào mức độ tích chất của cạnh tranh trên thị trường thì có thể
phân loại cạnh tranh hàng hóa thành các loại cạnh tranh sau:
Thứ nhất: Cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh mà trên thị
trường có nhiều người bán và không có người nào có ưu thế để cung cấp một số
lượng hàng hoá quan trọng mà có thể ảnh hưởng tới giá cả. Các hàng hoá làm ra
được người mua xem là đồng nhất tức là ít có sự khác biệt về quy cách phẩm
chất mẫu mã. Người bán tham gia trên thị trường chỉ có cách thích ứng với giá
cả trên thị trường, họ chủ yếu tìm cách giảm chi phí và sản xuất một mức hàng
hoá đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên.

Thứ hai: Cạnh tranh không hoàn hảo: Là cuộc cạnh tranh trên thị trường
mà phần lớn hàng hoá là không đồng nhất với nhau, mỗi hàng hoá có thể có
nhiều nhãn hiệu khác nhau. Mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín khác
nhau mặc dù khác biệt giữa các hàng hoá là không đáng kể. Người bán lôi kéo
khách hàng về phía mình bằng nhiều cách như quảng cáo, dịch vụ bán hàng, tín
dụng ưu đãi… Đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
8


Thứ ba: Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh trên thị trường mà ở đó chỉ
có một số người bán hàng hoá thuần nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ
số lượng hàng hoá bán ra trên thị trường. Thị trường có sự pha trộn giữa độc
quyền và cạnh tranh gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền. Điều kiện gia nhập
hoặc rút lui khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều cản trở do vốn đầu tư
và do độc quyền bí quyết công nghệ. Trong thị trường này không có cạnh tranh
về giá cả mà một số người bán toàn quyến quyết định giá.
1.1.3.2 Căn cứ vào phạm vi cạnh tranh
Ngoài việc phân loại cạnh tranh hàng hoá căn cứ vào mức độ tích chất
cạnh tranh trên thị trường, các nhà kinh tế còn căn cứ vào phạm vi của cạnh
tranh, nếu căn cứ vào phạm vi của cạnh tranh thì cạnh tranh hàng hoá bao gồm
các loại sau:
Thứ nhất: Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là sự cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm
mục đích tiêu thụ có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch. Biện pháp cạnh tranh
là các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu
cơ của tư bản, nâng cao năng suất lao động nhằm làm cho giá trị cá biệt của
hàng hoá doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu lợi nhuận siêu
ngạch.
Thứ hai: Cạnh tranh giữa các ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp thuộc các ngành khác nhau, nhằm giành nơi đầu tư có lợi nhất. Trong

quá trình cạnh tranh, các doanh nghiệp bị hấp dẫn bởi khách hàng nên đã chuyển
vốn đầu tư từ ngành ít lợi nhuận sang ngành có lợi nhuận cao. Sự điều chỉnh này
sau một thời gian nhất định sẽ hình thành nên sự phân phối hợp lý giữa các
ngành sản xuất và hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành.
1.1.3.3 Căn cứ vào chủ thể tham gia
Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động
sản xuất kinh doanh, giữa các chủ thể này có sự tranh giành lẫn nhau. Vì vậy,
nếu xét theo giác độ này thì cạnh tranh có thể phân thành các loại sau:
9


Thứ nhất: Cạnh tranh giữa người bán với người mua: Là cuộc cạnh tranh
diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. Người bán luôn mong muốn bán hàng hoá
của mình với giá cao nhất, còn người mua lại muốn mua ở mức giá thấp nhất.
Sự cạnh tranh này được thực hiện thông qua quá trình “mặc cả” với giá chấp
nhận là giá thoả thuận giữa người bán và người mua.
Thứ hai: Cạnh tranh giữa những người mua: Là cuộc cạnh tranh trên cơ
sở quy luật cung cầu. Khi cung một loại hàng hoá dịch vụ nào đó nhỏ hơn mức
cầu thì cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra quyết liệt hơn. Gía cả hàng hoá và dịch vụ đó
sẽ tăng nhanh. Kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao, tuy nhiên
người mua lại phải chịu thiệt thòi.
Thứ ba: Cạnh tranh giữa những người bán: Là cuộc cạnh tranh gay go và
quyết liệt nhất. Cuộc cạnh tranh này thường diễn ra trong trường hợp cung lớn
hơn cầu. Khi đó, những người bán sẽ cạnh tranh gay gắt với nhau nhằm làm tăng
lượng hàng hoá tiêu thụ của doanh nghiệp mình. Thực chất cạnh tranh giữa các
chủ doanh nghiệp là sực giành giật các lợi thế trong sản xuất và tiêu thụ hàng
hoá, dịch vụ nhằm thu được lợi nhuận lớn nhất.
1.2 Sức cạnh tranh của hàng hoá
1.2.1 Khái niệm sức cạnh tranh của hàng hoá
Một hàng hoá được coi là có sức cạnh tranh và có thể đứng vững khi có

mức giá thấp hơn hoặc khi cung cấp các hàng hoá tương tự với chất lượng hay
dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn.
Theo lý thuyết thương mại truyền thống, sức cạnh tranh được xem qua lợi
thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất lao động.
Theo M.Porter, sức cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng
lực độc đáo của mình để tạo ra hàng hoá có giá phí thấp và sự khác biệt của
hàng hoá.
Muốn nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp cần phải xác định lợi thế
cạnh tranh của mình. Lợi thế cạnh tranh của hàng hoá được hiểu là những thế
mạnh mà hàng hoá có hoặc có thể huy động để đạt thành công trong cạnh tranh.
10


Trên thực tế có hai nhóm lợi thế cạnh tranh của hàng hoá bao gồm:
Lợi thế về chi phí: Đó là tạo ra những hàng hoá có chi phí thấp hơn đối thủ
cạnh tranh. Các nhân tố sản xuất như đất đai, vốn và lao động thường xem là
nguồn lực để tạo lợi thế cạnh tranh.
Và lợi thế thứ hai là lợi thế về sự khác biệt: Đó là dựa vào sự khác biệt của
hàng hoá làm tăng giá trị cho người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng hàng
hoá hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng hàng hóa. Lợi thế này cho phép
thị trường chấp nhận mức giá thậm chí cao hơn đối thủ cạnh tranh.
Trong lĩnh vực xuất khẩu, sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu là khả
năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng nước ngoài về chất lượng, giá cả, kiểu
dáng, thương hiệu, bao bì về tính độc đáo hay sự khác biệt so với hàng hoá cùng
loại trên thị trường quốc tế. Ngoài các yếu tố về chất lượng, giá cả, kiểu dáng,
thương hiệu...có rất nhiều yếu tố liên quan đến sức cạnh tranh của hàng hoá nữa
như khả năng thâm nhập thị trường mới cũng như khả năng khuyến mãi, lôi kéo
khách hàng và phương thức kinh doanh ngày càng phong phú hơn.
1.2.2 Phân biệt sức cạnh tranh của hàng hoá và năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp

Một trong những chìa khoá để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong
những năm tới chính là phải chú ý tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng một doanh
nghiệp tồn tại trong kinh doanh và đạt được một số kết quả mong muốn dưới
dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng các hàng hoá cũng như năng lực
của doanh nghiệp để khai thác các cơ hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh các
thị trường mới.
Trong quá trình kinh doanh có nhiều yếu tố tác động tới năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp như các yếu tố do doanh nghiệp chi phối đó là chiến
lược cạnh tranh, đào tạo lao động và công tác Maketing… Ngoài ra, còn có các
yếu tố thuộc môi trường ngoài doanh nghiệp như đối thủ cạnh tranh, chính sách
đầu tư, chính sách thương mại của đối thủ…
11


Một doanh nghiệp có thể sản xuất kinh doanh một hay nhiều loại hàng hoá,
vì vậy nói đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là phải nói đến sức cạnh
tranh của hàng hóa.
Sức cạnh tranh của hàng hoá được nhận biết qua lợi thế cạnh tranh của
hàng hoá đó với các hàng hoá khác cùng loại. Lợi thế của hàng hoá bao gồm
nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài tác động đến. Đó là giá cả, chất lượng, hình
thức, chủng loại hàng hoá…Doanh nghiệp được đánh giá là tạo ra hàng hoá có
sức cạnh tranh khi hàng hoá đó có chi phí/ 1đơn vị thấp hơn, hàng hoá có chất
lượng cao hơn so với đối thủ cạnh tranh. Còn nếu so sánh với các hàng hoá cùng
loại mà doanh nghiệp nhập khẩu thì yếu tố lợi thế cạnh tranh được thể hiện
không chỉ qua giá bán, chất lượng hàng hoá mà còn là thương hiệu, nguồn gốc
xuất xứ của hàng hóa.
Qua các khái niệm trên, có thể thấy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
và sức cạnh tranh của hàng hoá có mối quan hệ mật thiết, phụ thuộc vào nhau,
tạo điều kiện cho nhau phát triển. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao

phải có hàng hoá có sức cạnh tranh vì biểu hiện năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là tạo ra những hàng hoá có sức hút lớn với người tiêu dùng. Như
vậy,sức cạnh tranh của hàng hoá là cốt lõi năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Còn một hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường nhất là trong môi
trường quốc tế như hiện nay, thì cả doanh nghiệp và Chính phủ cùng phải phát
hiện, nuôi dưỡng, phát huy các lợi thế của hàng hoá đó.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hàng hoá
Hàng hoá là sản phẩm trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, vì vậy, các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng
là những nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hàng hóa.
1.2.3.1 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội thì môi trường bên ngoài doanh
nghiệp luôn luôn biến đổi và đã ảnh hưởng không nhỏ đến sức cạnh tranh của
hàng hoá của doanh nghiệp. Những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp có thể là
12


các nhân tố thuộc tầm vĩ mô ngoài ngành mà doanh nghiệp tham gia kinh doanh,
cũng có thể là các nhân tố thuộc môi trường vi mô trong nội bộ ngành nghề lĩnh
vực mà doanh nghiệp tham gia kinh doanh.
Thứ nhất: Các nhân tố vĩ mô
Tăng trưởng kinh tế là nhân tố tác động trực tiếp đến sức mua của xã hội,
tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất.
Tài chính-tín dụng có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và sức
cạnh tranh của hàng hoá, tăng trưởng nhanh phụ thuộc vào khả năng của khu
vực tài chính trong việc huy động và phân bổ có hiệu quả tín dụng vào sản xuất
hàng hoá. Ngoài ra, lãi suất tín dụng cũng ảnh hưởng đến khả năng vay mượn
của các cơ sở, doanh nghiệp sản xuất hàng hoá.
Đầu tư mang lại động lực chủ yếu cho nâng cao sức cạnh tranh của các
hàng hoá. Đầu tư là yếu tố rất quan trọng có tích chất quyết định đến việc đẩy

nhanh tốc độ tăng sản xuất hàng hoá.
Mở cửa thương mại đòi hỏi nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, tăng
xuất khẩu và tiến hành dỡ bỏ hàng rào nhập khẩu.
Tiến bộ khoa học và kỹ thuật ảnh hưởng mạnh mẽ đến chi phí sản xuất và
chất lượng sản phẩm hàng hoá.
Các chính sách vĩ mô trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, ứng dụng
khoa học công nghệ và huy động vốn tài chính cần thiết cho nâng cao sức cạnh
tranh và phát triển hàng hoá.
Vị trí địa lý đóng vai trò quan trọng trong nâng cao sức cạnh tranh, mở
rộng thị trường của hàng hoá do giảm chi phí vận chuyển, tăng giao lưu với
nước ngoài.
Phát triển nguồn nhân lực tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hoá.
Bối cảnh quốc tế như xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá đang gia tăng
trở thành đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới sẽ tạo ra những thuận lợi,
những cơ hội cũng như những thách thức cho việc cạnh tranh của hàng hoá.
13


Thứ hai: Các nhân tố vi mô
Theo các trường phái kinh tế trước đây thì các nhà nghiên cứu coi các nhân
tố ảnh hưởng đến cạnh tranh bao gồm chủ thể là chính phủ, doanh nghiệp, cá
nhân tham gia cạnh tranh. Nhưng theo M. Porter thì có 5 lực lượng tác động đến
cạnh tranh của doanh nghiệp đó là các nhân tố cạnh tranh liên quan đến cùng
một ngành của doanh nghiệp như về khách hàng, nhà cung ứng, hay đối thủ
cạnh tranh trực tiếp đang và sẽ tham gia vào lĩnh vực kinh doanh của doanh
nghiệp như đối thủ cạnh tranh tiềm tàng, đối thủ cạnh tranh hiện tại và các sản
phẩm thay thế. Để tìm hiểu về các nhân tố này ảnh hưởng như thế nào đến sức
cạnh tranh của hàng hoá chúng ta đi phân tích mô hình 5 nhân tố của M.Porter
Mô hình cạnh tranh 5 nhân tố của M. Porter

Sản phẩm thay
thế

Nhà cung ứng

Đối thủ cạnh
tranh hiện tại

Khách hàng

Đối thủ tiềm tàng
Nguồn: Giáo trình quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
FDI( tập 2)
Đối thủ cạnh tranh hiện tại
Các đối thủ cạnh tranh hiện tại là những công ty, doanh nghiệp đang hoạt
động kinh doanh trong một ngành công nghiệp nhất định, những công ty, doanh
nghiệp này đã vượt qua được những rào cản để xâm nhập vào ngành hoặc những
hãng muốn rút lui khỏi ngành nhưng chưa có cơ hội.
Khi phân tích các đối thủ cạnh tranh hiện tại, chúng ta cần tìm hiểu được
bốn vấn đề cơ bản sau: (1) mục đích tương lai, (2) các nhận định, (3) các tiềm
14


năng và (4) chiến lược hiện tại của đối thủ cạnh tranh.
Mục đích tương lai của đối thủ cạnh tranh: Khi hiểu được mục tiêu của
đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp có thể dự đoán được mức độ hài lòng của họ
về vị trí hiện tại, những khả năng thay đổi chiến lược cạnh tranh của họ, sự phản
ứng của họ trước những thay đổi về môi trường và mức độ quan trọng của các
sáng kiến mà họ đưa ra.
Các mục tiêu của các đối thủ cạnh tranh cần xem xét là các mục tiêu về tài

chính, về tổ chức, về sản xuất, về thị trường, về nghiên cứu và phát triển, các
mục tiêu khác,…
Trong trường hợp các đối thủ cạnh tranh hiện tại là những công ty con,
hoặc chi nhánh của các công ty lớn khác thì chúng ta cần tìm hiểu thêm các mục
tiêu của các công ty mẹ mà chúng phụ thuộc.
Những nhận định của đối thủ cạnh tranh: Những nhận định của đối thủ
cạnh tranh là những quan điểm và thái độ của họ về môi trường bên ngoài và
cách ứng xư của họ đối với môi trường bên ngoài. Việc tìm hiểu những nhận
định này rất có ý nghĩa cho việc hoạch định chương trình kinh doanh, vì đâu là
cơ sở để các đối thủ đưa ra các biện pháp cạnh tranh của riêng mình. Nếu chúng
ta hiểu đúng những nhận định của đối thủ cạnh tranh, thì chúng ta có thể dự khá
chính xác được những phản ứng của họ.
Chiến lược hiện tại của đối thủ cạnh tranh: Cần phải tìm hiểu chiến lược
hiện tại của từng đối thủ cạnh tranh, cho dù rõ ràng hay không rõ ràng. Điều
quan trọng là phải biết được các đối thủ cạnh tranh đang tham gia cạnh tranh
như thế nào. Vì vậy, cần xem xét các chính sách cơ bản của từng đối thủ cạnh
tranh trong từng lĩnh vực hoạt động và xem xét họ tìm cách liên kết các bộ phận
chức năng như thế nào.
Tiềm năng của đối thủ cạnh tranh: Tìm hiểu tiềm năng của đối thủ cạnh
tranh tức là tìm hiểu những điểm mạnh, điểm yếu, những cơ hội và thách thức
của từng đối thủ cạnh tranh.
Các lĩnh vực cần tìm hiểu về tiềm năng của đối thủ cạnh tranh bao gồm
15


chủng loại sản phẩm, chính sách marketing, tiềm lực tài chính, nguồn nhân lực
và trình độ quản lý, khả năng về công nghệ, những cơ hội đầu tư, các quan hệ xã
hội của đối thủ,…
Những điểm mạnh, điểm yếu; cơ hội và thách thức phản ánh khả năng
thích nghi của đối thủ cạnh tranh trước những thay đổi của môi trường kinh

doanh. Nếu đối thủ cạnh tranh nào có nhiều điểm mạnh hay cơ hội thì khả năng
thíhc nghi của họ với những thay đổi của môi trường kinh doanh càng lớn và
ngược lại.
Khách hàng
Thực tế cho thấy rằng tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
đều nhằm làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Nếu doanh nghiệp nào càng
đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng so với các đối thủ cạnh tranh thì họ
càng nhận được sự ủng hộ và sự trung thành từ phía khách hàng.
Về mặt lý thuyết, lợi ích của khách hàng và của nhà sản xuất thường mâu
thuẫn với nhau. Khách hàng mong muốn có được những chủng loại hàng hóa và
dịch vụ với chất lượng tốt nhất và giá cả thấp nhất. Còn nhà sản xuất lại mong
muốn khách hàng trả cho những hàng hóa của họ mức giá cao.
Trong điều kiện một ngành có sự cạnh tranh gay gắt thì vai trò của khách
hàng càng trở nên quan trọng và cần được ưu tiên hơn. Một doanh nghiệp không
thể thỏa mãn được tất cả nhu cầu của các loại khách hàng. Cho nên, nhất thiết
các doanh nghiệp phải phân loại khách hàng thành các nhóm khác nhau. Trên cơ
sở đó mới tiến hành phân tích và đưa ra các chính sách thích hợp để thu hút
ngày càng nhiều khách hàng về phía mình.
Các nhà cung ứng
Các nhà cung ứng bao gồm các nhà cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt
động của một số công ty, như các nhà cung cấp vốn, nguyên vật liệu cho sản
xuất, nhân công, … Các nhà cung ứng có thể gây một áp lực khá mạnh tới hoạt
động của công ty. Cho nên, việc phân tích và tìm hiểu các nhà cung ứng là vấn
đề quan trọng trong quá trình phân tích cạnh tranh.
16


Các nhà cung cấp nguyên, vật liệu cho sản xuất: Những nhà cung ứng này
có thể vắt kiệt lợi nhuận của các hãng bằng cách tăng giá cung ứng hoặc giảm
mạnh chất lượng các yếu tố cung ứng. Yếu tố làm tăng thế mạnh của các nhà

cung ứng cũng tương tự như yếu tố làm tăng thế mạnh cảu khách hàng. Ví dụ
như yếu tố số lượng người cung cấp ít, không có mặt hàng thay thế khác và
không có nhà cung ứng chào bán sản phẩm có tính khác biệt. Nếu nhà cung ứng
có được điều kiện thuận lợi như vậy thì các doanh nghiệp mua hàng cần cải
thiện quan hệ của họ thông qua việc tác động vào các yếu tố nói trên.
Các nhà cung cấp tài chính : Hầu hết các doanh nghiệp đều phải sử dụng
vốn vay từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước, hoặc từ dân cư. Hình thức
huy động vốn rất đa dạng có thể thông qua vay, qua phát hành cổ phiếu, trái
phiếu. Khi phân tích về các nhà cung cấp tài chính, trước hết cần xác định vị thế
của mình trong cộng đồng ngành, lĩnh vực đang kinh doanh.
Các nhà cung cấp lao động: Nguồn cung lao động cũng là một thành phần
chủ yêu trong phân tích cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả năng thu hút và giữ
được lòng trung thành của các nhân viên có trình độ và năng lực là tiền đề đảm
bảo cho sự thành công của doanh nghiệp. Các yếu tố cần xem xét là trình độ đào
tạo về năng lực quản lý và tay nghề của người lao động, những đòi hỏi về tiền
lương, tiền công và các chi phí khác để có đựợc những lao động đó.
Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng
Khi một ngành có sự gia tăng thêm số lượng các đối thủ cạnh tranh mới
thì hệ quả có thể là tỷ suất lợi nhuận bị giảm và tăng thêm mức độ cạnh tranh.
Các đối thủ cạnh tranh mới tham gia vào thị trừơng sau, nên họ có khả năng ứng
dụng những thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Sự xuất hiện của một đối
thủ cạnh tranh mới trong ngành thường thông qua việc mua lại các doanh nghiệp
đang hoạt động, nhưng đang có ý định rút lui khỏi ngành.
Không phải bao giờ cũng gặp phải các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng,
nhưng khi đối thủ cạnh tranh mới xuất hiện thì vị thế cạnh tranh của doanh
nghiệp sẽ thay đổi. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải tự tạo ra một hàng rào ngăn
17


cản sự xâm nhập của các đối thủ mới. Những hàng rào này là lợi thế sản xuất

theo quy mô, đa dạng hóa sản phẩm, sự đòi hỏi có nguồn tài chính lớn, chi phí
chuyển đổi mặt hàng cao, khả năng hạn chế xâm nhập các kênh tiêu thụ.
Sản phẩm thay thế
Sức ép do xuất hiện sản phẩm thay thế làm hạn chế lợi nhuận tiềm năng
của ngành do mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý đến các sản
phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh nghiệp có thể bị tụt lại ở các thị trường nhỏ bé. Vì
vậy, các hãng không ngừng nghiên cứu và tung ra các mặt hàng thay thế.
Phần lớn các sản phẩm thay thế là kết quả của sự phát triển bùng nổ về
công nghệ trong vài thập kỷ trở lại đây. Muốn đạt được thành công, các hãng
phải luôn ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất.
1.2.3.3 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Ngoài các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh
nghiệp thì các nhân tố thuộc bên trong doanh nghiệp cũng ảnh hưởng không nhỏ
tới sức cạnh tranh của hàng hoá. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp bao gồm
nguồn nhân lực, năng lực tài chính, năng lực về vật chất kỹ thuật, trình độ tổ
chức quản lý và một loạt các hoạt động Maketing, mạng lưới phân phối để đưa
sản phẩm tới khách hàng một cách tốt nhất.
Thứ nhất: Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp được chia làm ba cấp:
- Quản trị viên cấp cao: Gồm ban giám đốc và các trưởng phó phòng ban.
Đây là đội ngũ có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh. Nếu họ có
trình độ quản lý cao, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường, có
khả năng đánh giá và quan hệ đối ngoại tốt thì doanh nghiệp đó sẽ có sức cạnh
tranh cao và ngược lại.
- Quản trị viên cấp trung gian: Là đội ngũ trực tiếp quản lý sản xuất hàng
hoá đòi hỏi phải có kinh nghiệm công tác, khả năng ra quyết định điều hành
công tác.
- Đội ngũ quản trị viên cấp cơ sở: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
18



chịu sự chi phối của đội ngũ này thông qua các yếu tố: năng suất lao động, trình
độ tay nghề, ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động, sự sáng tạo…bởi vì các yếu tố
này chi phối tới việc nâng cao chất lượng hàng hoá, giảm giá thành cũng như tạo
thêm tính ưu việt, độc đáo, mới lạ của hàng hoá.
Thứ hai: Năng lực tài chính
Khả năng tài chính được hiểu là quy mô tài chính của doanh nghiệp và tình
hình hoạt động. Các chỉ tiêu tài chính hàng năm như tỷ lệ thu hồi vốn, khả năng
thanh toán… Nếu một doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, khả năng huy
động vốn lớn sẽ cho phép doanh nghiệp có nhiều vốn để mở rộng sản xuất kinh
doanh, đổi mới công nghệ máy móc thiết bị, tăng khả năng hợp tác đầu tư về
liên doanh liên kết. Tình hình sử dụng vốn cũng sẽ quyết định chi phí về vốn
của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
Thứ ba: Năng lực về vật chất kỹ thuật
Năng lực về vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp tồn tại ở nhiều phương
diện, trước tiên phải kể tới là trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của doanh
nghiệp và khả năng có được các công nghệ tiên tiến đó. Thứ hai năng lực về vật
chất kỹ thuật của doanh nghiệp thể hiện qua quy mô và năng lực sản xuất của
doanh nghiệp. Nếu quy mô và năng lực sản xuất lớn sẽ giúp doanh nghiệp tạo ra
khối lượng hàng hoá lớn hơn từ đó giảm giá thành tạo ra nhiều cơ hội tiếp xúc
với khách hàng hơn, khi đó doanh nghiệp hiểu rõ nhu cầu của khách hàng và
dần dần chiếm lĩnh hoặc giữ vững thị trường trên nhiều lĩnh vực khác nhau tránh
sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh.
Vì vậy, để đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải
có được những công nghệ tiên tiến hiện đại, đồng thời có được quy mô sản xuất
và mức sử dụng công suất ít nhất bằng công suất thiết kế để tránh lãng phí nếu
không lúc đó chi phí cố định vào giá thành cao từ đó làm giảm sức cạnh tranh
của hàng hoá.
Thứ tư: Trình độ tổ chức quản lý
Trình độ tổ chức quản lý thể hiện thông qua cơ cấu tổ chức, bộ máy quản

19


trị, hệ thống thông tin quản lý, bầu không khí và đặc biệt là nề nếp hoạt động
của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp biết tập hợp sức mạnh đơn lẻ của các
thành viên và biến thành sức mạnh tổng hợp thì doanh nghiệp đó sẽ vững mạnh.
Đây là đòi hỏi của nhà quản trị cấp cao, để tạo ra một cơ cấu tốt. Một cơ cấu tốt
đồng nghĩa với việc có được một cơ cấu phòng ban hợp lý, quyền hạn và trách
nhiệm được xác định rõ ràng. Bên cạnh đó, ở mỗi phòng ban việc thực hiện tốt
nề nếp tổ chức cũng ảnh hưởng rất lớn tới phương thức thông qua quyết định
của nhà quản trị, quan điểm của họ đối với các chiến lược của doanh nghiệp.
Một nề nếp tốt có thể dẫn dắt mọi người tích cực hơn trong công việc và lôi kéo
họ vào quá trình đạt tới mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Thứ năm: Hoạt đông Marketing
Nhiệm vụ chính của Marketing là phát triển các nhu cầu thị hiếu, nhu cầu
thị trường và hoạch định các chiến lược hữu hiệu về sản phẩm, giá cả, phân
phối phù hợp với thị trường mà doanh nghiệp đang vươn tới. Từ đó, xây dựng
mạng lưới phân phối phù hợp để đưa hàng hóa tới người tiêu dùng một cách
nhanh nhất.
Thứ sáu: Mạng lưới phân phối
Để tiêu thụ hàng hoá, doanh nghiệp cần lựa chọn các kênh phân phối, từ đó
có các chính sách phân phối sản phẩm hợp lý, hiệu quả đúng nhu cầu của khách
hàng. Tuỳ vào chủng loại hàng hoá mà doanh nghiệp xây dựng cho mình kênh
phân phối riêng cho phù hợp.
1.2.4 Các chỉ tiêu phản ánh sức cạnh tranh của hàng hoá
1.2.4.1 Nhóm chỉ tiêu định tính
Chất lượng
Chất lượng hàng hoá là hệ thống nội tại của hàng hoá được xác định bằng
thông số kỹ thuật có thể được đo lường hoặc so sánh được nhằm thoả mãn yêu
cầu của người tiêu dùng. Chất lượng hàng hoá được hình thành từ khâu thiết kế

đến khâu sản xuất và ngay sau khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều
yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề của người lao
20


động.
Sở dĩ chất lượng hàng hoá quyết định sức cạnh tranh hàng hoá bởi vì khi
chất lượng hàng hoá tăng lên sẽ tăng giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá đó,
và khi mà chất lượng hàng hoá được nâng cao dẫn tới tăng tốc độ tiêu thụ hàng
hoá, tăng khối lượng hàng hoá bán ra và kéo dài chu kỳ sống của hàng hoá, từ
đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đồng thời khi hàng hoá có chất lượng cao
dẫn tới tăng uy tín của doanh nghiệp từ đó mở rộng thị phần doanh nghiệp góp
phần tăng sức cạnh tranh của hàng hoá.
Vì vậy, chất lượng hàng hoá là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với một
doanh nghiệp bởi vì, chất lượng hàng hoá thấp đồng nghĩa với việc giảm uy tín,
mất khách hàng và nhanh chóng phá sản. Điều này quan trọng hơn đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ vì họ phải đương đầu với các công ty đa quốc gia có
vốn lớn, có tiềm lực về công nghệ khoa học và uy tín từ rất lâu.
Mức độ hấp dẫn
Mức độ hấp dẫn tạo ra sức cạnh tranh cuả hàng hoá vì nó mang lại những
đặc thù riêng biệt của hàng hoá này so với hàng hoá khác. Trong cuộc sống hiện
đại, hàng hóa không chỉ dừng lại ở mức cung cấp cho người sử dụng những
chức năng sử dụng thuần tuý mà còn đáp ứng những yêu cầu cao hơn, đó là mỗi
hàng hoá phải thể hiện những giá trị về thẩm mỹ, giá trị về cái đẹp… và mục
đích của người sử dụng. Sự phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội làm nhu cầu
con người càng đa dạng, hàng hoá phải đáp ứng được tính đa dạng trong nhu cầu
đó thể hiện những giá trị, yếu tố trong cuộc sống của khách hàng. Chính sự khác
biệt của hàng hoá này so với hàng hoá khác đã đem lại những giá trị khác nhau
cho những hàng hoá khác nhau. Sự khác biệt này tạo ra sức cạnh tranh rất lớn
cho hàng hoá.

Uy tín thương hiệu
Uy tín thương hiệu được hình thành dựa trên chất lượng, giá trị sử dụng
của hàng hoá, các dịch vụ sau bán hàng, thời gian giao hàng,… Một thương hiệu
có uy tín với khách hàng thì đồng nghĩa với việc có lợi thế trong cạnh tranh.
21


Khách hàng khi đó tin rằng họ đang tiêu dùng một hàng hoá có chất lượng cao,
dịch vụ sau bán hàng tốt…Do đó, hàng hoá đưa ra thị trường có thể nhanh
chóng thu hút được người tiêu dùng. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp giảm một
phần chi phí cho việc thu hút khách hàng, khách hàng sẽ trung thành với thương
hiệu hàng hoá hơn.
1.2.4.2 Nhóm chỉ tiêu định lượng


Gía thành, giá cả

Gía thành hàng hoá là giá trị của tất cả các yếu tố đầu vào hình thành nên
hàng hoá như chi phí nguyên vật liệu, chi phí lương công nhân sản xuất… trên
cơ sở đó xác định giá cả của hàng hoá.
Gía thành sản phẩm Z = Z1 + Z2 +..............+ Zn
Trong công thức trên Z1, Z2, ........., Zn là chi phí sản xuất của các bộ phận,
chi tiết tạo nên sản phẩm hay tổng các giai đoạn, các bộ phận sản xuất tạo nên
một thành phẩm.
Muốn giá cả thấp doanh nghiệp phải tìm cách hạ giá thành tức là phải tận
dụng hợp lý các nguồn lực sẵn có, đồng thời đổi mới thiết bị và công nghệ sản
xuất, nâng cao hiệu quả quản lý… có như vậy mới hạ giá thành từ đó nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hoá.
Gía cả của hàng hoá trên thị trường hình thành thông qua quan hệ cung cầu
tức là thông qua sự thoả thuận giữa người mua người bán để đi tới mức giá mà

hai bên đều thấy có lợi và chấp nhận được.
Gía bán = Gía thành xuất xưởng + Chi phí vận chuyển + Chi phí quảng cáo
+ Lợi nhuận dự kiến
Trong nền kinh tế thị trường khách hàng có quyền lựa chọn cho mình
những hàng hoá tốt nhất và cùng một loại hàng hoá thì chắc chắn họ sẽ lựa chọn
hàng hoá có giá thấp nhất. Vì vậy, giá là công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị
trường, doanh nghiệp có thể định giá thấp hơn, cao hơn hoặc bằng với giá thị
trường. Để chiếm ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn
các chính sách giá thích hợp cho từng loại hàng hoá, từng giai đoạn trong chu kỳ
22


sống của hàng hoá hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường.
Tốc độ tăng doanh thu
Tốc độ tăng doanh thu là một chỉ tiêu mang tính tuyệt đối thể hiện sức
cạnh tranh của hàng hoá. Hàng hoá mà có sức cạnh tranh lớn sẽ bán được nhiều,
làm tăng doanh thu hơn những hàng hoá có sức cạnh tranh yếu, sẽ bán được ít.
Doanh thu của hàng hoá được tính theo công thức sau:
n
TR= ∑ Pi x Qi
i=1
TR: Doanh thu
Pi : Gía cả của một đơn vị hàng hoá i
Qi : Số lượng hàng hoá i được tiêu thụ
n: Số nhóm hàng hoá được tiêu thụ
Doanh thu của hàng hoá đạt mức cao trên thị trường chứng tỏ được thị
trường chấp nhận, khách hàng ưa chuộng. Sự chấp nhận của khách hàng thể hiện
hàng hoá đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nếu cơ hội lựa chọn là như nhau, thì
doanh thu là tiêu chí phản ánh chính xác mức độ thoả mãn nhu cầu khác nhau
của khách hành đối với hàng hoá. Như vậy, tăng doanh thu nghĩa là hàng hoá

thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, mức độ thoả mãn tốt hơn nhu cầu
khách hàng phản ánh sức cạnh tranh của hàng hoá cao hơn.
Tăng doanh thu của hàng hoá có thể đạt được thông qua tăng giá bán,
trong khi giữ nguyên số lượng hàng may mặc cung ứng trên thị trường. Điều đó
khó có thể xảy ra đối với hàng hóa chưa có thương hiệu nổi tiếng trên thị trường
và trong môi trường tự do hoá thương mại. Hơn nữa, khi tự do hoá thương mại
diễn ra. Xu hướng chung của hàng hoá trên thế giới đều giảm giá bán.
Tăng doanh thu bán hàng bằng cách bán giá thấp hơn và đưa ra thị trường
số lượng hàng hoá lớn hơn, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. Đây
chính là xu hướng chung của các nhà sản xuất và kinh doanh hàng hoá trên thế
giới nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá.
23




Tốc độ tăng thị phần

Thị phần được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán hàng hoá của
doanh nghiệp so với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại
hàng hoá đó trên một thị trường và trong một thời gian nhất định.
Thị phần của doanh nghiệp được tính theo công thức:
Thị phần của
doanh nghiệp

=

Doanh thu bán hàng của doanh nghiệp trong
thời gian nhất định
Tổng doanh thu của các doanh nghiệp trên thị

trường bán loại hàng hoá đó trong
thời gian nhất định

Thị phần càng lớn thì nó biểu hiện hàng hoá của doanh nghiệp được người
tiêu dùng trên thị trường đó chấp nhận càng nhiều. Khi đó, sức cạnh tranh của
hàng hoá đó là lớn. Còn khi chỉ tiêu này nhỏ thì nó biểu hiện hàng hoá đó của
doanh nghiệp có sức cạnh tranh kém. Điều đó, buộc doanh nghiệp phải xem xét
để cải tiến mặt hàng hoặc đưa ra các chính sách sản phẩm khác để nâng cao sức
cạnh tranh cho sản phẩm đó hoặc có thể dừng sản xuất mặt hàng đó nếu không
thể cạnh tranh nổi so với đối thủ.
1.3 Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của công
ty trên thị trường EU
EU là một thị trường quan trọng đối với hàng may mặc xuất khẩu của công
ty. Trong nhiều năm qua, EU luôn chiếm được tỷ trọng lớn trong tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may của công ty. Việc nâng cao sức cạnh tranh hàng
may mặc của công ty trên thị trường EU là rất cần thiết bởi các yếu tố sau:
1.3.1 Tăng doanh thu và thị phần mặt hàng may của công ty trên thị
trường EU
Sức cạnh tranh của hàng may mặc có mối quan hệ chặt chẽ với doanh thu
và thị phần, khi nào doanh thu và thị phần tăng lên thì sức cạnh tranh của hàng
24


may mặc sẽ tăng lên và ngược lại. Trong các năm gần đây, doanh thu và thị
phần hàng may mặc của công ty tăng giảm không ổn định nhất là năm 2004,
2005 doanh thu và thị phần hàng may mặc của công ty trên thị trường EU liên
tục giảm. Việc sút giảm này, nguyên nhân chính là do sức cạnh tranh hàng may
mặc của công ty trên thị trường EU chưa cao so với đối thủ cạnh tranh.
1.3.2 Phát triển các hoạt động sản xuất của công ty
Hàng may mặc của công ty với sức cạnh tranh nhất định chỉ phù hợp với

một thời điểm nào đó khi tiến hành cạnh tranh, trong khi các đối thủ cạnh tranh
thì luôn luôn thay đổi cách thức cạnh tranh của mình điều đó buộc hàng may
mặc của công ty muốn tồn tại được trên thị trường EU thì buộc phải thay đổi
theo như tích cực đầu tư cho máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng hàng may
mặc tạo chất lượng đồng đều cho sản phẩm...Vì vậy, nâng cao sức cạnh tranh
hàng may mặc của công ty trên thị trường EU có tác động ngược trở lại đối với
công ty trong việc sản xuất và kinh doanh.
1.3.3 Thay đổi hình ảnh mặt hàng may của công ty
Hiện nay, hình ảnh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU còn rất
mờ nhạt trong quyết định mua hàng của khách hàng EU. Bên cạnh đó, hàng may
mặc của công ty còn bị hàng may mặc của Trung Quốc lấn át về chất lượng,
mẫu mã, giá cả, sự khác biệt, uy tín thương hiệu… những yếu tố này nếu được
khai thác hiệu quả sẽ làm tăng sức cạnh tranh cho hàng may mặc của công ty
trên thị trường EU. Khi sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị
trường EU tăng lên sẽ làm thay đổi hình ảnh hàng may mặc của công ty trong
tâm trí khách hàng EU theo chiều hướng tích cực hơn.
1.3.4 Khai thác lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của công ty
Nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU
giúp công ty khai thác tốt lợi thế so sánh bởi vì hàng may mặc của công ty có
nhiều lợi thế so sánh hơn một số mặt hàng xuất khẩu khác. Trong nhiều năm
qua, hàng may mặc vẫn là mặt hàng mũi nhọn trong xuất khẩu sản phẩm của
công ty và tỏ ra có khả năng cạnh tranh hơn so với các mặt hàng khác trên thị
25


×