Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn dân tộc thiểu số qua việc làm quen với tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.77 KB, 29 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN
DÂN TỘC THIỂU SỐ QUA VIỆC LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC"

1


PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp hữu hiệu nhất giúp con người biểu đạt được những
mong muốn, sở thích, tình cảm, cảm xúc… của mình. Một đứa trẻ bắt đầu phát triển ngôn
ngữ thậm chí trước khi có trẻ dùng từ ngữ như khóc hay khi muốn đòi một gì đó khi còn
nhỏ. Việc chậm phát triển kỹ năng ngôn ngữ có thể ảnh hưởng không tốt đến trẻ cũng
như thiếu hụt khả năng truyền tải thông tin sau này. Vì vậy phát triển ngôn ngữ rất quan
trọng đối với trẻ nhỏ trong việc trao đổi thông tin chính xác với bạn bè, với người khác
theo cách có ý nghĩa nhất đặc biệt là đối với trẻ dân tộc thiểu số việc phát triển ngôn ngữ
sẽ giúp trẻ dễ hòa nhập trong giao tiếp và thu nhận thông tin kiến thức. Có nhiều cách
biểu đạt ngôn ngữ nhưng thông qua tác phẩm văn học thì việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
sẽ là con đường ngắn nhất và nhanh nhất bởi lẽ:
“Tác phẩm văn học - nhựa sống tâm hồn trẻ thơ’’. Văn học là nghệ thuật ngôn từ, là hình
thức nghệ thuật sử dụng ngôn từ làm chất liệu để chiếm lĩnh tái hiện thế giới. Qua những
tác phẩm văn học thế giới tràn đầy âm thanh màu sắc, hình khối ngôn ngữ đã dần được
hiện lên trong trí tưởng tượng về cuộc sống gần gũi quen thuộc của trẻ. Ngôn ngữ chính
là phương tiện quan trọng để phát triển trí tuệ giúp cho việc tiếp thu kiến thức học tập tốt
ở tiểu học và các cấp học sau này. Đó là nền tảng để hiểu về thế giới văn học và tiếp nhận
nhiều tri thức mới. Vì vậy cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là một trong những nội
dung quan trọng cho trẻ Mẫu giáo. Đối với trẻ Mẫu giáo khi làm quen với tác phẩm văn
học (qua sự truyền thụ của giáo viên) giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, ngôn ngữ, phát
triển tình cảm và kỹ năng xã hội, rèn luyện được khả năng chú ý, tái tạo và đặc biệt phát


triển khả năng tưởng tượng sáng tạo. Ngoài ra việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn
học còn phát triển tư duy trực quan hành động và đặc biệt phát triển ngôn ngữ mạch lạc
cho trẻ. Khi trẻ làm quen với tác phẩm văn học tạo nền tảng để giúp trẻ thể hiện sự tự tin
thể hiện tình cảm, cảm xúc của mình trước sự vật, hiện tượng xung quanh và diễn đạt rõ
ràng, giao tiếp có văn hóa trong cuộc sống hằng ngày. Qua đó trẻ phát triển một cách toàn
diện hơn cả về tâm lý và sinh lý.
Tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ quốc gia, là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà
trường, việc chuẩn bị cho trẻ vào học lớp Một ở trường phổ thông là một trong những
mục tiêu giáo dục toàn diện của giáo dục mầm non. Trong đó việc chuẩn bị ngôn ngữ
tiếng Việt là vấn đề vô cùng quan trọng, bởi vì ngôn ngữ có chức năng làm công cụ tư
duy, công cụ biểu đạt tư tưởng, tình cảm và là phương tiện giao tiếp của các thành viên
trong xã hội.
2


Trong thực tế cho thấy phần lớn trẻ em dân tộc thiểu số trước khi tới trường lớp
mầm non đều sống trong môi trường tiếng mẹ đẻ, ít có môi trường giao tiếp tiếng Việt,
đến trường trẻ vẫn thích giao tiếp với nhau bằng tiếng mẹ đẻ, thậm trí trong hoạt động vui
chơi, học tập hàng ngày, do đó trẻ dân tộc thiểu số vẫn còn nhút nhát chưa mạnh dạn tự
tin trong khi giao tiếp với bạn bè người kinh. Vì vậy tôi gặp rất nhiều khó khăn trong khi
tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
Hướng dẫn giáo viên chuẩn bị tiếng việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số đã được
sở Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo thực hiện trong nhiều năm qua đã chỉ rõ tầm quan trọng
của ngôn ngữ tiếng việt cho trẻ. Với đặc điểm ở lớp mẫu giáo 5 tuổi việc phát triển ngôn
ngữ cho trẻ tốt nhất là cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Trên cơ sở chỉ đạo, triển
khai, quan tâm giúp đỡ của Phòng Giáo dục huyện Sông Lô và sự hướng dẫn trực tiếp
của Ban giám hiệu nhà trường. Qua thực tiễn đặc điểm tình hình lớp 5 tuổi A4 do tôi phụ
trách, có 51,4% là trẻ dân tộc thiểu số khả năng giao tiếp, của trẻ dân tộc còn nhiều bất
cập.Cùng với sự tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, tôi đã tích lũy đúc rút được
một số kiến thức và đã bắt tay vào nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn

ngữ cho trẻ Mẫu giáo lớn dân tộc thiểu số qua việc làm quen với tác phẩm văn học”
làm sáng kiến kinh nghiệm của mình với mục đích đem đến cho trẻ dân tộc những giờ
làm quen với tác phẩm văn học thật hấp dẫn và thú vị, nhằm nâng cao khả năng giao tiếp
tốt nhất, có vốn từ, kỹ năng nói, khả năng hiểu và diễn đạt, đặc biệt sẽ gây được ấn tượng
mạnh, ghi nhớ có chủ đích của trẻ để trẻ phát huy được tính tái tạo, tính tưởng tưởng sáng
tạo theo logic khoa học. Và đây cũng là tiêu chí mà tôi đưa ra cho bản thân để tự khắc
phục và hướng tới thực hiện có hiệu quả.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo lớn dân tộc thiểu số
qua việc làm quen với tác phẩm văn học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Mầm non,
hòa nhập trẻ dân tộc.
1.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một số vấn đề khi cho trẻ dân tộc làm quen với tác phẩm văn học trong trường Mầm non.
Thực trạng phát triển ngôn ngữ khi cho trẻ Mẫu giáo lớn, trẻ dân tộc làm quen với tác
phẩm văn học trong trường Mầm non Quang Yên.
Nghiên cứu để tìm ra nhiều biện pháp khác nhau phù hợp với từng chủ đề để dạy trẻ, giúp
trẻ hứng thú trong tiết học nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo lớn và trẻ dân tộc
khi làm quen với tác phẩm văn học.

3


Đề xuất những biện pháp chỉ đạo và dạy học môn làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ
Mẫu giáo, trẻ dân tộc thiểu số học tiếng Việt ở trường Mầm non Quang Yên.
1.4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu 37 trẻ Mẫu giáo lớn lớp 5 tuổi A4 (trong đó có 19 trẻ em là dân tộc tiểu số)
Trường mầm non Quang Yên- Sông Lô- Vĩnh phúc.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo dân tộc thiểu số qua việc làm quen với tác phẩm
văn học.
1.5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu (phân tích, tổng hợp tài liệu Internet, tập san, sách báo có liên
quan đến đề tài).
Phương pháp điều tra giáo dục.
Phương pháp quan sát sư phạm.
Phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp.
Phương pháp thực hành, thực nghiệm sư phạm.
Phương pháp sử dụng công nghệ thông tin.
Phương pháp kiểm tra đánh giá.
Phương pháp thực hành nghệ thuật.
1.6. Giới hạn về không gian của phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chỉ tập trung tìm ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu
giáo dân tộc thiểu số tại lớp 5 tuổi A4 trường Mầm non Quang Yên - huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc.
1.7. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
Từ tháng 8/2012, tôi đã quan sát, trao đổi, theo dõi đánh giá và nắm bắt được đặc điểm
tình hình tâm, sinh lý của trẻ đặc biệt là về quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ dân tộc,
tôi đã bắt tay vào công việc nghiên cứu tài liệu, học hỏi kiến thức qua đồng nghiệp và các
phương tiện thông tin đại chúng, tiếp tục theo dõi trẻ và tìm ra một số biện pháp mới để
nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số làm quen với tác phẩm
văn học.
Tháng 9/2013 áp dụng, triển khai các biện pháp nghiên cứu và thực hiện tại lớp 5 tuổi A4
trường Mầm non Quang Yên.
4


Đến hết tháng 5/2013 ghi chép tổng hợp các số liệu, báo cáo kết quả sáng kiến kinh
nghiệm.
PHẦN 2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
Trong cuộc sống, chúng ta đều phải sử dụng ngôn ngữ để nhận thức thế giới, giao

tiếp với mọi người và tư duy. Phát triển ngôn ngữ là phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc
và viết. Trẻ Mầm non bắt đầu học ngôn ngữ, mà chủ yếu là hình thành và phát triển kỹ
năng nghe, nói, hiểu.
Đối với trẻ Mầm non, ngôn ngữ không phải là một bộ “quy tắc và ngữ pháp” mà
ngôn ngữ là công cụ để trẻ biểu đạt ý nghĩa tình cảm, cảm xúc và mong muốn của mình
với người khác và qua đó người khác hiểu được trẻ. Ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc phát triển tư duy, hình thành và phát triển nhân cách, là công cụ để trẻ
giao tiếp, học tập, vui chơi...Ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển trí
tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ và phát triển thể lực cho trẻ.
Song vị trí của phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mầm non tương đối đặc biệt vì từ sự phát triển
ngôn ngữ sẽ tham gia trực tiếp vào phát triển các lĩnh vực khác. Bởi ngôn ngữ là phương
tiện giao lưu tình cảm, phương tiện để trẻ nhận thức, khám phá tự nhiên và xã hội.
Trên những nét cơ bản đối với trẻ Mẫu giáo dân tộc thiểu số tiếng việt là ngôn ngữ thứ
hai. Quá trình trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số được phát triển ngôn ngữ tiếng việt khác với
quá trình học ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ ở một số đặc điểm như sau: Môi trường ngôn ngữ
của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số chủ yếu là môi trường nhân tạo, bị thu hẹp cả về không
gian lẫn thời gian. Là ngôn ngứ thứ hai nên chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất ở mức
độ nhất định. Sự khác biệt về điều kiện sống và chất lượng cuộc sống của dân tộc thiểu số
có tác động nhất định đối với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số.
Sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc, trong đó có ngôn ngữ, ngôn ngữ dân tộc có
cách phát âm, ngữ điệu, một số từ vựng... làm cho trẻ khó khăn nhất định khi tiếp thu
ngôn ngữ tiếng việt.
Trong quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ở trường Mầm non, tôi nhận thấy
trẻ dân tộc thiểu số vẫn còn hạn chế trong khi giao tiếp, trẻ vẫn còn nhút nhát chưa mạnh
dạn, tự tin khi muốn trình bày ý kiến, mong muốn của mình. Một số trẻ còn nói ngọng,
nói lắp, diễn đạt chưa mạch lạc rõ ràng, nói không đủ câu.
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo lớn dân tộc thiểu số là vô cùng cần thiết, để
chuẩn bị chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ vào lớp 1. Từ những hạn chế trên của trẻ tôi luôn
5



suy nghĩ và trăn trở xem mình phải làm gì và làm như thế nào để nâng cao chất lượng
phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc trong trường Mầm non.
2.2. Thực trạng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn dân tộc thiểu số qua việc
làm quen với tác phẩm văn học.
2.2.1. Đối với giáo viên
Chưa phát huy hết khả năng sáng tạo, linh hoạt trong tổ chức hoạt động phát triển
ngôn ngữ cho trẻ dân tộc, đôi khi còn dập khuôn, máy móc, chưa có kinh nghiệm khi xây
dựng kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
Chưa khái thác hết khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ dân tộc, chưa chú ý đến
việc thể hiện tình cảm, cảm xúc của trẻ dân tộc trong các hoạt động hàng ngày.
Giáo viên có ít thời gian làm đồ chơi sáng tạo để phục vụ cho các hoạt động phát triển
ngôn ngữ của trẻ dân tộc.
Khả năng truyền thụ tác phẩm văn học của giáo viên không đồng đều, một số giáo
viên còn hạn chế khi trò chuyện, đàm thoại kích thích được sự phát triển kỹ năng nghe,
hiểu, nói của trẻ.
2.2.2. Đối với trẻ
Nhận thức của trẻ không đồng đều. Khả năng sáng tạo của trẻ còn hạn chế.
Số trẻ đông, một số trẻ còn quá hiếu động, một số trẻ nhút nhát nên việc rèn kỹ năng cá
nhân ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức. Số trẻ dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao 19 trẻ
chiếm 51,3% tổng số trẻ.
Khả năng giao tiếp của trẻ còn nhiều hạn chế, vốn từ của trẻ chưa phong phú do bất đồng
ngôn ngữ , quá trình trải nghiệm, tiếp xúc với môi trường bên ngoài còn có những hạn
chế nhất định.
Sự khác biệt về văn hóa dân tộc, trong đó khía cạnh ngôn ngữ cũng ảnh hưởng tới việc
học tiếng Việt của trẻ Mẫu giáo dân tộc thiểu số.
Một số trẻ còn nói ngọng, phát âm không chuẩn nên ảnh hưởng tới sự tiếp thu kiến thức
của trẻ.
Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của trẻ dân tộc thiểu số nên chịu ảnh hưởng bởi ngôn ngữ
thứ nhất ở mức độ nhất định, bởi ảnh hưởng sự giao thoa ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ và

những điều kiện xã hội tác động vào việc học ngôn ngữ thứ hai. Để phát triển ngôn ngữ
khi cho trẻ Mẫu giáo dân tộc thiểu số qua việc làm quen với tác phẩm văn học đòi hỏi
giáo viên cần phải linh hoạt, năng động và sáng tạo trong việc xây dựng kế hoạch giáo
6


dục, tổ chức các hình thức, sử dụng phương pháp linh hoạt, chủ động, sáng tạo phù hợp
với đặc điểm của trẻ, giúp trẻ hoạt động tích cực, hứng thú.
2.2.3. Thực trạngphát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo lớn dân tộc thiểu số làm quen
với tác phẩm văn học.
Đầu năm học tôi nghiên cứu và tìm hiểu thấy được các cháu dân tộc thiểu số ít
được sự quan tâm, chăm sóc, khả năng phát triển ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân
tộc (vốn từ, kỹ năng nói, khả năng hiểu và diễn đạt) còn nhiều hạn chế. Tôi nhận thấy một
số giáo viên trong trường chưa tư duy sáng tạo trong việc lập kế hoạch giảng dạy lấy trẻ
làm trung tâm, giáo viên vẫn còn dạy trẻ theo hướng thụ động đa phần vẫn là sự truyền
đạt ở cô nên chưa phát huy được tính tích cực ở trẻ trong quá trình tổ chức, hướng dẫn trẻ
giáo viên thường hay mắc phải một số nhược điểm sau: Giáo viên còn nói nhiều không
phát huy được tính tích cực của trẻ khi tham gia các hoạt động, sử dụng các phương pháp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc, nhất là khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học
còn hạn chế, cô chưa tạo ra được tình huống, chưa thường xuyên đặt ra được câu hỏi
mang tính gợi mở, khuyến khích tư duy của trẻ, tạo cho trẻ có cơ hội được diễn đạt nhiều.
Hình thức tổ chức các hoạt động chưa linh hoạt, sáng tạo và cứng nhắc, dập khuôn, sử
dụng nhiều từ địa phương. Sử dụng đồ dùng trực quan còn lúng túng, chưa khoa học.
Do đặc điểm tâm lý của trẻ dân tộc rất nhút nhát, thiếu tự tin trong giao tiếp, do
môi trường giao tiếp của trẻ còn bó hẹp trong phạm vi gia đình, người thân, mà người
thân của trẻ cũng là dân tộc thiểu số nên khi giao tiếp với nhau chủ yếu bằng tiếng dân
tộc, do đó trẻ không có cơ hội được giao tiếp tiếng việt thường xuyên, chủ yếu trẻ chỉ
được giao tiếp với ngôn ngữ tiếng việt khi ở trường. Trẻ thường mắc một số lỗi như nói
không hết câu, nói không gãy góc, nói chống không, diễn đạt không rõ ràng mạch
lạc...Bên cạnh đó khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học trẻ rất ít giơ tay phát biểu,

mà chủ yếu do cô dùng biện pháp khuyến khích và gọi đích danh tên trẻ, lúc đó trẻ mới
có phản ứng, nhưng câu trả lời của trẻ thường diễn ra không theo ý nghĩa của câu hỏi. Từ
những thực trạng nêu trên để có phương pháp giáo dục phù hợp cho trẻ dân tộc là việc làm
thiết thực để giảm sự chênh lệch về ngôn ngữ giữa trẻ kinh với trẻ dân tộc.
Văn học dành cho trẻ từ lâu đã trở thành dụng cụ hữu hiệu nhất giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ đồng thời qua đó giúp trẻ phát triển về cả mặt nhận thức và tình cảm xã hội cùng với
kỹ năng giao tiếp. Chính vì vậy trẻ nghe đọc tác phẩm văn học (truyện, thơ, ca dao, tục
ngữ…) sẽ giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ và nhiều vốn từ vựng, ngữ pháp phong phú và
đặc biệt trẻ cần được cung cấp kiến thức, kinh nghiệm giao tiếp hằng ngày với bạn bè, và
hàng xóm xung quanh nơi trẻ sinh sống, từ những hoạt động mang ý nghĩa thông qua
giao tiếp sẽ giúp trẻ phát triển toàn diện hơn.
7


Giáo án điện tử sẽ làm cho tiết học sinh động hơn, giúp trẻ hứng thú hơn khi hoạt động
nhưng xin các thầy cô (nhà giáo dục) lưu ý một điều đó là không nên lạm dụng công nghệ
thông tin quá mức khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học vì khi cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học thông qua sự truyền thụ của người kể (cô giáo) trẻ sẽ phát huy khả
năng tư duy tưởng tưởng ra các hình ảnh - nhân vật và mỗi trẻ sẽ có một hình ảnh khác
nhau như vậy khi cho trẻ kể hoặc hình dung rồi miêu tả, vẽ lại hình ảnh… sẽ đa dạng,
phong phú và sinh động. Nhưng nếu khi cô miêu tả một nhân vật nào đó trong tác phẩm
văn học mà cô đưa hình ảnh qua máy tính lên thì tất cả các trẻ sẽ chỉ tập chung vào một
hình ảnh mẫu của cô và lúc này những hình ảnh trong đầu trẻ sẽ bị tan biến hết. Như vậy
sẽ làm cho trẻ tiếp thu kiến thức một cách thụ động.
Dựa vào đặc điểm tình hình lớp, đặc điểm tâm lý, nhận thức của trẻ kinh với trẻ dân
tộc thiểu số tôi đưa ra bảng khảo sát đánh giá so sánh giữa trẻ kinh với trẻ dân tộc kết quả
như sau.
Đối với trẻ dân tộc Kinh: 18 trẻ
Nội dung


Xếp loại
Tốt

Khá

Đạt

- Nghe hiểu nội dung tác 6/18=33,3%
phẩm văn học.

8/18=44,5%

4/18=22,2%

- Nghe và làm theo từ 3 lời 6/18=33,3%
chỉ dẫn liên tiếp trở lên.

7/18=38,9% 5/18=27,8%

- Mạch lạc, rõ ràng, nói đủ 4/18=22,2%
câu, không nói lắp, nói
ngọng.

9/18=50%

5/18=27,8%

- Tự tin khi giao tiếp, biết kể 4/18=22,2%
lại trình tự sự việc một cách
mạch lạc.


9/18=50%

5/18=27,8%

- Biết kể chuyện theo tranh, 3/18=16,6%
đọc sách qua hình vẽ

5/18=27,8% 10/18=55,6%

Đối với trẻ dân tộc thiểu số: 19 trẻ
8


Nội dung

Xếp loại
Tốt

Khá

Đạt

- Nghe hiểu nội dung tác 2/19=10,5%
phẩm văn học.

4/19=21%

13/19=68,5
%


- Nghe và làm theo từ 3 lời 2/19=10,5%
chỉ dẫn liên tiếp trở lên.

7/19=36,8
%

10/19=52,6
%

- Mạch lạc, rõ ràng, nói đủ 3/19=15,8%
câu, không nói lắp, nói
ngọng.

7/19=36,8
%

9/19=47,4%

- Tự tin khi giao tiếp, biết 3/19=15,8%
kể lại trình tự sự việc một
cách mạch lạc.

7/19=36,8
%

9/19=47,4%

- Biết kể chuyện theo tranh, 2/19=10,5%
đọc sách qua hình vẽ


7/19=36,8
%

10/19=52,6
%

Sau khi khảo sát tôi thấy tỷ lệ trẻ Kinh tỷ lệ “tốt”, “khá” ở mức độ cao hơn đối với trẻ
dân tộc thiểu số.
Từ những kết quả trên tôi nhận thấy rằng nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Mẫu giáo dân tộc thiểu số qua việc làm quen với tác phẩm văn học là rất cần thiết. Nên
tôi đã nghiên cứu, và đưa ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo dân
tộc thiểu số qua việc làm quen với tác phẩm văn học. Tôi xin mạnh dạn đưa ra để các
quý đồng nghiệp cùng tham khảo.
2.3. Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo dân tộc thiểu số qua
làm quen với tác phẩm văn học.
2.3.1. Biện pháp 1: Bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao trình độ nhận thức cho bản
thân.
Giúp cho bản thân có kiến thức, kỹ năng, tổ chức hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ
cho trẻ, nhất là bồi dưỡng lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số.
9


Tìm hiểu đặc điểm tâm - sinh lý của trẻ dân tộc thiểu số theo lứa tuổi. Học tập ngôn ngữ
của dân tộc thiểu số (Cao Lan) để hiểu được nhu cầu, mong muốn của trẻ khi trẻ chưa
biết thể hiện qua ngôn ngữ Tiếng Việt nhằm giúp đỡ trẻ.
Nắm chắc mục tiêu, nội dung, kết quả mong đợi trong chương trình giáo dục Mẫu giáo
nói chung và mục tiêu, nội dung, kết quả mong đợi của từng độ tuổi nói riêng, trong lĩnh
vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn dân tộc thiểu số.
Căn cứ mục tiêu, nội dung, kết quả mong đợi của từng độ tuổi trong lĩnh vực phát triển

ngôn ngữ và cho trẻ dân tộc thiểu số tôi chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động, hình
thức thức tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ, lựa chọn phương pháp giáo
dục lấy trẻ làm trung tâm sao cho phù hợp hiệu quả, phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của trẻ. Tổ chức tốt môi trường vật chất và môi trường xã hội, tạo cơ hội
cho trẻ được thực hành trải nghiệm, ứng dụng vào đời sống thực tiễn của trẻ. Ngoài ra tôi
còn thường xuyên theo dõi sự phát triển của trẻ dân tộc thiểu số qua phiếu theo dõi sau
mỗi chủ đề kết thúc, từ đó để điều chỉnh kế hoạch giáo dục cho phù hơp với từng đối
tượng trẻ.
Thường xuyên nghiên cứu tài liệu về giáo dục Mần non, chương trình giáo dục
Mần non nhất là sách hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục các độ tuổi, bồi dưỡng
thường xuyên, đặc biệt là tài liệu hướng dẫn giáo viên chuẩn bị tiếng việt cho trẻ mẫu
giáo vùng dân tộc thiểu số, để hiểu được mục đích, yêu cầu của chương trình.
Hàng tháng lên kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng về những mặt còn hạn chế của bản
thân như: Thiết kế một hoạt động phát triển ngôn ngữ. Tôi luôn phải đọc kỹ tác phẩm,
phân tích kỹ nội dung của tác phẩm, đưa ra bài học gì qua tác phẩm, qua tác phẩm giáo
dục trẻ những nội dung gì, từ đó tôi đưa ra mục tiêu của hoạt động. Tôi tìm và chọn
những phương tiện hỗ trợ cho việc đưa tác phẩm đến với trẻ một cách dễ hiểu và hứng
thú nhất sau đó tôi tiến hành làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động. Từ mục đích,
yêu cầu, chuẩn bị như trên tôi chọn những phương pháp hỗ trợ để tiến hành một hoạt
động nhẹ nhàng mà gây được hứng thú cho trẻ bằng các phương tiện hỗ trợ như máy vi
tính, trò chơi, trao đổi, giao lưu tình cảm, cảm xúc với trẻ, gần gũi hơn với những trẻ dân
tộc thiểu số để trẻ tin tưởng và yên tâm vào cô ...Trẻ được lĩnh hội kiến thức với tâm
trạng vui vẻ phấn khởi như vừa trải qua một cuộc vui chơi đầy hấp dẫn.
Cần sử dụng ngôn từ gãy gọn, không dùng tiếng địa phương khi truyền thụ cho trẻ,
để không mắc phải những lỗi trên, tôi đã khắc phục bằng cách nhờ giáo viên chung lớp
quay video lại tiết dạy của mình, tôi dùng dây dẫn kết nối với máy vi tính sau đó xem lai
toàn bộ hoạt động của mình. Những từ ngữ chưa mềm mại, chưa thuyết phục, chưa

10



truyền cảm tôi tự luyện tập ở mọi lúc mọi nơi và đã sửa được một số lỗi như dùng từ địa
phương, nói chưa truyền cảm đã được đồng nghiệp đánh giá cao.
Khi đã hiểu biết đặc điểm tâm – sinh lý của trẻ dân tộc thiểu số kết hợp với kiến
thức, trình độ chuyên môn, nắm chắc các phương pháp, linh hoạt trong khi tổ chức đã
giúp trẻ dân tộc thiểu số hứng thú hơn và thích được trình bày mong muốn của mình với
tôi và các bạn trong lớp như: Thích được tự mình kể chuyện, đọc thơ, liên hệ kể về hoàn
cảnh sống hàng ngày của trẻ khi ở nhà.
2.3.2. Biện pháp 2: Linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động có chủ đích.
Hoạt động có chủ đích là hình thức cơ bản và chủ yếu, tôi là người trực tiếp hướng
dẫn, gợi mở giúp trẻ thu nhận kiến thức, kỹ năng, thái độ một cách có hệ thống lôgíc khi
cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
Để hoạt động có chủ đích đi vào tâm hồn trẻ một cách sống động, không khô khan,
cứng nhắc thì tôi thực sự phải có một tài nghệ dẫn dắt. Hoạt động học làm quen với tác
phẩm văn học đưa trẻ đến thế giới cổ tích, cuộc sống xung quanh (thơ, truyện, đồng dao)
đến với trẻ bằng nhiều phương pháp, hình thức khác nhau. Các phương pháp, hình thức
đó gắn liền với nhau một cách chặt chẽ. Mỗi phương pháp, hình thức đều có ưu thế và
hạn chế nhất định. Vì vậy khi dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học bản thân tôi lựa
chọn các phương pháp, hình thức phù hợp với yêu cầu của từng tiết dạy, để thu hút sự tập
trung chú ý tạo hứng thú của trẻ trong tiết học, giúp cho giờ học đạt hiệu quả cao.
Cụ thể: Tôi đưa trẻ vào trung tâm của quá trình hoạt động. Phát huy tính tích cực của trẻ.
Dạy trẻ theo hướng lồng ghép tích hợp.
Tôi dùng câu hỏi gợi mở để dẫn dắt trẻ, cho trẻ được thực hành trải nghiệm: đọc thơ,
diễn kịch, trả lời câu hỏi của cô nhiều lần, cho trẻ được thảo luận nhóm, thảo luận vai
chơi, giao tiếp và trình bày những nhận xét của bản thân mình về các nhân vật, tác phẩm
văn học.
Ví dụ: Khi cho trẻ tự kể chuyện và hướng dẫn trẻ tập kể chuyện, tôi đã cho trẻ kể
chuyện bằng nhiều cách khác nhau như: Tôi kể một đoạn rồi cho trẻ kể tiếp cho đến khi
kết thúc câu chuyện; tôi cho trẻ kể chuyện theo tranh về một câu chuyện dựa trên yếu tố
trực quan; kể chuyện sáng tạo dựa trên ý tưởng, vốn kinh nghiệm, sự tưởng tượng sáng

tạo của cá nhân trẻ. Tôi thực hiện theo các bước sau:
Trò chuyện với trẻ để giúp trẻ chọn ý tưởng và nội dung câu chuyện.
Đàm thoại với trẻ nhằm khơi gợi các hình ảnh liên quan đến nội dung câu chuyện.
Cho trẻ tập kể chuyện: Tôi gọi từng trẻ lên kể vì mỗi trẻ có một cách kể chuyện riêng và
đặt tên cho câu chuyện của mình.
11


Tôi kể sáng tạo nhưng không áp đặt cách kể của cô theo khuôn mẫu đối với trẻ.
Tôi khen ngợi, động viên, khuyến khích tất cả các trẻ tham gia vào hoạt động kể
chuyện.
Từ đó trẻ đưa ra bài học kinh nghiệm cho bản thân, diễn đạt nhu cầu mong muốn
của mình với bạn và cô giáo. Tôi thường xuyên quan tâm trao đổi, trò chuyện nhiều hơn
với trẻ dân tộc thiểu số liên hệ từ tác phẩm văn học với cuộc sống hàng ngày của trẻ,
động viên, khuyến khích trẻ bằng lời nói, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ nhẹ nhàng, thân
thương mà gần gũi.
Một yêu cầu đặt ra đối với tôi khi cho trẻ dân tộc thiểu số "Làm quen với tác phẩm văn
học" là các kiến thức khi truyền thụ đến trẻ phải hết sức ngắn gọn, tuyệt đối tránh hình
thức, dập khuôn, luôn sáng tạo đổi mới câu từ phù hợp vì thế trước khi thực hiện một tiết
dạy "Làm quen với tác phẩm văn học " tôi phải chuẩn bị đồ dùng, soạn bài và nghiên cứu
kỹ bài soạn. Nắm rõ yêu cầu của bài dạy chọn trò chơi phù hợp với nguyên tắc với chủ
đề. Chuẩn bị tâm thế bằng cách tôi luyện đọc, kể tác phẩm văn học nhiều lần để câu từ
luôn chính xác, rõ ràng, giúp trẻ dễ hiểu, nhập tâm vào tác phẩm để truyền tình cảm của
mình tới tất cả các học sinh trong lớp, đặt ra những tình huống sư phạm và nghiên cứu
tìm ra biện pháp giải quyết hữu hiệu nhất để trẻ vừa giải quyết được thắc mắc của bản
thân mà không cảm thấy khó chịu, ghi nhớ kiến thức.
Ví dụ: Với tiết dạy kể chuyện sáng tạo. Tôi lựa chọn nội dung tác phẩm cho phù
hợp, chuẩn bị đồ dùng khi trẻ tham gia kể sáng tạo: mũ, trang phục... để trẻ được nhập
vai mình vào các nhân vật trong truyện kể lại bằng ngôn ngữ, hành động cho cô và các
bạn cùng nghe.

Với tiết thơ: Tôi chuẩn bị bài thơ với tranh, hình ảnh động sáng tạo cho trẻ làm quen.
Đầu tiên tôi đọc thơ diễn cảm cho trẻ nghe nhiều lần, cho trẻ đọc đi đọc lại nhiều lần theo
tổ, nhóm, cá nhân dưới nhiều hình thức: Luôn phiên theo tổ, to, nhỏ, nối tiếp... Trong quá
trình trẻ đọc tôi chú ý lắng nghe, quan sát, khen ngợi, động viên trẻ. Chú ý đến trẻ dân tộc
thiểu số: quan tâm trẻ, trao đổi, cho trẻ đọc đi đọc lại nhiều lần trước lớp, sửa sai cho trẻ.
Bài ca dao, đồng dao: Tôi chọn những bài phù hợp với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày,
gần gũi với trẻ như “Xỉa cá mè” sau khi tôi cùng trẻ đọc nhiều lần khi trẻ đã thuộc, tôi chỉ
dùng nguyên hình ảnh rồi cho trẻ đọc theo trình tự hình ảnh đó hoặc cho trẻ vừa đọc vừa
gắn hình ảnh tương ứng và trình bày cảm xúc, thái độ của mình với tác phẩm văn học ấy.
Lấy hình ảnh sinh động từ mạng, sách báo làm đồ dùng dạy học cho trẻ để tăng tính
hứng thú cho trẻ. Qua đó cũng phát huy được tính tái tạo và sáng tạo của trẻ khi cho trẻ
kể chuyện sáng tạo. Để tạo hứng thú cho trẻ đạt hiệu quả cao tôi rèn luyện nghệ thuật lên
lớp mọi lúc mọi nơi để ngôn ngữ diễn đạt ngắn gọn, mềm mại, chính xác để hấp dẫn trẻ
12


vào tiết học. Trước khi vào bài tôi thường kể chuyện (dựa trên chủ đề) hoặc sáng tác thơ,
vè hay những trò chơi nhằm cuốn hút trẻ vào thực tế để trẻ dễ nhớ, dễ hiểu tránh gò bó.
Qua những tiết hoạt động có chủ đích như vậy: Trẻ dân tộc thiểu số rất hứng thú,
sôi nổi tham gia trả lời câu hỏi của tôi đưa ra, đồng thời trẻ đã biết sử dụng câu hỏi của
mình để giải quyết những thắc mắc của bản thân, thích được thể hiện tình cảm, cảm xúc
của mình với tác phẩm văn học: “con thích nhân vật Cô Út vì cô Út có hiếu với mẹ”...
Trẻ đã biết kết hợp thảo luận, trao đổi với các bạn trong nhóm của mình: “mình thích
hoặc không thích nhân vật này vì nhân vật này có hiếu hay nhân vật này không yêu
thương mẹ...”
2.3.3. Biện pháp 3: Khảo sát kỹ năng quan sát, nghe, nói, đọc của trẻ.
Khảo sát kỹ năng quan sát, nghe, nói, đọc, để có kế hoạch bổ xung, rèn luyện cho
trẻ thường xuyên trong ngày, trong các hoạt động để trẻ được quan sát, nghe, nói, đọc
một cách đầy đủ. Từ kết quả khảo sát đó tôi có kế hoạch xây dựng hệ thống kiến thức,
câu hỏi sắp xếp thời gian bồi dưỡng cho những trẻ chưa đạt yêu cầu.

Sau mỗi chủ đề kết thúc, tôi tổ chức khảo sát, đánh giá trẻ theo các bài tập với các
kỹ năng quan sát, nghe, nói đọc
Kỹ năng nghe và quan sát: Thì khi đàm thoại, giao tiếp với trẻ tôi dùng những lời nói nhẹ
nhàng, sinh động, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của trẻ giúp trẻ dễ hiểu và hình dung
ra vấn đề và có câu trả lời sẽ nhanh và chính xác hơn. Thường xuyên giao tiếp, trao đổi
gần gũi với trẻ về cuộc sống hàng ngày đồng thời cung cấp thêm vốn từ cho trẻ. Đặt
nhiều câu hỏi đặc biệt là những câu hỏi gợi mở như: Ví dụ: Trong câu chuyện “Tích
Chu”, tôi đưa ra lời gọi của bà khi bà bị ốm “Tích Chu ơi lấy cho bà ngụm nước, bà khát
quá” hỏi trẻ: Tiếng gọi này của ai? Trong câu chuyện gì? vì sao con biết? và cho trẻ tập
diễn đạt lại giọng điệu, lời nói của bà. Những câu hỏi về so sánh như “hai bức tranh này/
hai nhân vật này giống và khác nhau ở chỗ nào?” và giành thời gian khuyến khích để trẻ
hứng thú tham gia trả lời. Khuyến khích trẻ đặt câu hỏi, trân trọng câu hỏi và câu trả lời
của trẻ.
Giao bài tập cho trẻ bằng cách cho trẻ nghe một câu truyện, bài thơ trên đĩa máy vi tính
(chỉ có lời, không có hình hoặc chỉ có hình mà không có lời) rồi đưa ra câu hỏi về tác
phẩm văn học đó như: Cô con mình vừa được xem phim gì? Phim đó có những nhân vật
nào? Trong câu chuyện gì? Rồi tiến hành cho trẻ kể/ đọc tác phẩm văn học đó.
Ví dụ: Tôi cho trẻ xem hình ảnh Chị Tấm đang cho bống ăn thì trẻ sẽ liên tưởng đến câu
chuyện “Tấm Cám” và kể lại câu chuyện đó.

13


Hoặc tôi trích dẫn một đoạn lời kể trong truyện “Tấm Cám” như “bống bống bang bang
lên ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta...” trẻ sẽ nhớ lại nội dung câu chuyện đó và cho trẻ cùng
kể lại truyện.
Sau khi khảo sát như vậy tôi thấy trong lớp vẫn còn những trẻ chỉ được ở mức “đạt” tôi
lại tiến hành bố trí thời gian, không gian và xây dựng kế hoạch, kiến thức bồi dưỡng thêm
cho trẻ như vào các buổi chiều, giờ đón - trả trẻ để củng cố thêm kiến thức và vốn từ cho
trẻ.

Tôi còn dùng những hình ảnh sinh động để cuốn hút sự chú ý để kiểm tra trẻ: Những hình
ảnh về chủ đề, về tác phẩm văn học mà trẻ đã làm quen trên máy tính, tranh ảnh qua đó
đàm thoại với trẻ để trẻ được khám phá và phát triển thêm vốn từ ngữ. Tôi thường xuyên
làm những động tác vui, buồn... thể hiện bằng nét mặt, cử chỉ rồi cho trẻ nhận xét, đoán
xem đó là thể hiện tình cảm như thế nào và cho trẻ bắt chước làm lại có thể kèm theo một
số lời nhận xét, tả lại quá trình mà con làm như thế nào. Cho trẻ quan sát hình ảnh có tính
hệ thống: từ gần đến xa và cho trẻ nhận xét về hình ảnh đó: hình ảnh ở gần - to hơn, hình
ảnh ở xa - nhỏ hơn.
Gây sự chú ý của trẻ bằng các hình ảnh sinh động, hấp dẫn trên máy vi tính, tranh ảnh,
sách, báo, lô tô, đặc biệt là những hình ảnh động để trẻ tập trung chú ý quan sát. Cho trẻ
nghe, xem tranh ảnh, xem nhiều phim (tác phẩm văn học dưới hình thức phim) từ đó trẻ
quan sát được các cử chỉ điệu bộ khác nhau theo từng tình huống qua đó đàm thoại với
trẻ để trẻ vừa phát triển ngôn ngữ: trẻ học câu, từ rất nhanh lại tăng nghe hiểu và khả
năng tư duy sáng tạo.
Tôi thường cho trẻ đọc các bài thơ dưới nhiều hình thức: đọc đồng dao, đọc to- nhỏ, đọc
luôn phiên theo tổ từ đó trẻ nghe được các âm thanh, ngữ điệu, giọng nói khác nhau và độ
to, nhỏ, nhanh, chậm của giọng nói, giọng đọc.Tôi thường xuyên mở rộng và liên hệ với
thực tế cuộc sống hàng ngày gần gũi với trẻ để trẻ tăng khả năng giao tiếp với cuộc sống
xã hội.
Tôi thường sưu tầm những bộ phim, hình ảnh, làm giáo án điện tử trên máy tính cho trẻ
xem, trẻ khám phá kích thích sự tò mò ham hiểu biết của trẻ.
Kỹ năng nói - đọc: Giúp trẻ nói - đọc mạch lạc, rõ ràng, tròn vành, rõ chữ, nói đủ câu,
không nói lắp, nói ngọng, dạy trẻ hiểu mối quan hệ giữa lời nói và chữ viết bằng nhiều
cách khác nhau: Tôi chú ý quan sát, lắng nghe khi trẻ thể hiện tác phẩm, nhận ra điểm sai
và sửa cho trẻ bằng cách cho trẻ đọc đi đọc lại nhiều lần. Ví dụ như trong lớp có cháu
Quốc Cường nói ngọng âm n thành âm l. Khi đó tôi thường cho cháu đọc những bài thơ
có nhiều âm n và mỗi lần cháu đọc sai, tôi lại đọc lại hoặc cho bạn khác không bị ngọng
14



đọc lại câu đó, hỏi cháu cô và bạn đọc khác con ở chỗ nào, câu nào và cho cháu đọc lại
câu đó, cứ nhiều lần như vậy cháu sẽ khắc phục được và không bị nói ngọng nữa.
Bổ sung vốn từ ngữ cho trẻ, tạo cho trẻ có thói quen nói đầy đủ câu, rõ ý
Ví dụ: Khi học xong tác phẩm “ ba cô gái” cô hỏi trẻ: “Qua câu truyện con yêu quý và
học tập ai” thì trẻ sẽ trả lời “ cô Út” như vậy vẫn chưa đủ câu, để giúp trẻ tôi lại hỏi
ngược lại lần nữa: “ ai yêu quý và học tập cô Út nhỉ” lúc này trẻ sẽ có câu trả lời đầy đủ
và rõ ràng đó là: “con yêu quý và học tập cô Út ạ”. Cô thường xuyên trao đổi, gần gũi
chia sẻ với trẻ về cuộc sống hàng ngày của trẻ, tạo điều kiện để trẻ chia sẻ với bạn bày tỏ
thái độ tình cảm của mình với các nhân vật
Tôi đặt ra các câu hỏi nguyên nhân - kết quả: Tại sao? Để làm gì? Như thế nào? Vì sao
con biết? Và những câu hỏi so sánh như: tại sao? Có điểm gì giống và khác nhau? Để trẻ
tư duy lôgic và và có câu trả lời chính xác hơn, rõ ràng hơn.
Khuyến khích trẻ tham gia biểu diễn hay đóng kịch thể hiện tình cảm của mình với nhiên
nhiên, con người, cuộc sống. Từ đó trẻ biết bày tỏ tình cảm, nhu cầu và kinh nghiệm của
bản thân rõ ràng dễ hiểu bằng những câu đơn, câu ghép khác nhau. Trẻ biết trả lời những
câu hỏi về nguyên nhân, so sánh: Tại vì, có điểm giống và khác nhau ở chỗ, ở điểm... Và
cũng biết đặt các câu hỏi: Tại sao? Như thế nào? Để làm gì?... Biết sử dụng các từ biểu
cảm, có hình ảnh. Tự tin khi giao tiếp. Nói và thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp
với yêu cầu, hoàn cảnh giao tiếp.
Tôi sưu tầm hay xây dựng những tác phẩm văn học như: Một tác phẩm chỉ có hình ảnh
mà không có lời để cho trẻ kể lại theo diễn biến trình tự tương ứng với những hình ảnh
trong tranh, hoặc có cả hình ảnh cả lời kể của cô nhưng thiếu mất một đoạn nào đó của
tác phẩm để cho trẻ kể lại đoạn còn thiếu đó... Cho trẻ tự đọc thơ, truyện, ca dao, đồng
dao, câu đố…kể lại sự việc một cách rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu, diễn cảm, kể chuyện
sáng tạo theo đồ vật, theo tranh, theo chủ đề và kinh nghiệm của bản thân. Tôi là người
dẫn truyện rồi cho trẻ đọc kể lại theo trình tự của tác phẩm văn học từ đầu đến cuối, từ
trên xuống dưới. Biết cách ngắt giọng, ngừng nghỉ đúng chỗ, đúng lúc, biết cách đọc từ
trái sang phải, khi đọc ngồi ngay ngắn hướng tâm thế vào tác phẩm văn học. Động viên
khen ngợi và khuyến khích khi trẻ bày tỏ nhu cầu mong muốn của mình, kể lại sự việc có
trình tự. Tổ chức cho trẻ những buổi tập đóng kịch để giúp trẻ nhập tâm của mình vào

trong nhân vật của tác phẩm văn học, thể hiện qua lời nói, hành động, để phân biệt được
rõ cảm xúc. Việc rèn luyện những kỹ năng đó giúp trẻ không những thuộc tên tác phẩm,
tác giả khi làm quen với tác phẩm văn học mà trẻ còn hiểu được nội dung và từ đó bộc lộ
tình cảm, cảm xúc của bản thân khi cảm thụ tác phẩm văn học thể hiện qua ngữ điệu lời
nói, cử chỉ điệu bộ, và giáo dục trẻ, trẻ rút ra bài học kinh nghiệm đồng thời phát triển
15


tính tái tạo và sáng tạo thông qua giờ tạo hình: Cho trẻ vẽ nhân vật trong truyện, kể
chuyện sáng tạo, đóng kịch...
Nhờ có kỹ năng quan sát, nghe, nói - đọc trẻ sẽ biết thể hiện tối đa nhất về tình cảm của
mình cho tác phẩm văn học bộc lộ lên qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, lời nói. Đây cũng
chính là những bước để tôi nắm bắt được đặc điểm tâm, sinh lý của từng trẻ, trẻ dân tộc
thiểu số trong lớp từ đó tôi đưa ra những biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ và chủ động
điều chỉnh linh hoạt, sáng tạo, phù hợp.
2.3.4. Biện pháp 4: Tạo môi trường ngôn ngữ phong phú, đa dạng.
Môi trường giáo dục trong lớp có tác dụng tốt đến quá trình chăm sóc giáo dục trẻ, có tác
động mạnh mẽ và trực tiếp tới tâm, sinh lý của trẻ. Để trẻ được làm quen với tác phẩm
văn học ở mọi lúc mọi nơi, tôi luôn tạo môi trường trong và ngoài lớp thân thiện nhất,
đẹp và sinh động để cuốn hút trẻ.
Ở lớp trang trí các góc bằng chính sản phẩm của cô và của trẻ phù hợp với chủ đề. Đặc
biệt là ở góc phân vai tạo những hình ảnh đẹp tượng trưng cho trẻ nhập vai mình vào các
nhân vật trong tác phẩm để trẻ được thể hiện mình qua sự tái tạo các hình ảnh nhân vật và
phát triển được tính sáng tạo. Ví dụ : Cắt, xé, dán, vẽ, nặn những nhân vật chính trong tác
phẩm văn học trang trí vào các góc trong lớp đặc biệt là góc phân vai và cho trẻ kể lại câu
truyện qua những hình ảnh mà trẻ vừa làm được.
Tạo tình huống, môi trường ngôn ngữ trong lớp gần gũi với trẻ .Tôi luôn khuyến khích
những bạn người Kinh tham gia trao đổi giao tiếp với bạn dân tộc thiểu số. Khi cho trẻ
chơi theo nhóm thì tôi cho xen kẽ, kết hợp 1 hoặc 2 bạn người Kinh với 1 bạn người dân
tộc thiểu số để trong khi trẻ hoạt động được tiếp xúc nhiều với Tiếng Việt, tạo cơ hội để

trẻ được giao tiếp, thảo luận, bày tỏ ý kiến nhiều nhất.
Trang trí khu vườn cổ tích bằng những hình ảnh nhân vật trong truyện cổ tích như hình
ảnh truyện “Tấm Cám”, “Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn”, “Nàng tiên cá”, “Sự tích hoa
hồng”.... phù hợp với từng chủ đề để trang trí khi cho trẻ khám phá trẻ sẽ hứng thú tham
gia hoạt động đóng vai các nhân vật để kể lại truyện.
Tạo môi trường giao tiếp bằng ngôn ngữ cho trẻ: Tôi thường xuyên giao tiếp, trao
đổi, trò chuyện với trẻ chú ý đến trẻ dân tộc thiểu số thông qua các hoạt động ở mọi lúc,
mọi nơi về những chủ đề gần gũi với cuộc sống.
Ví dụ: Tôi thường xuyên trò chuyện với trẻ vào các thời điểm đón trẻ, giờ chơi, giờ sinh
hoạt, lúc rảnh rỗi nhằm tìm hiểu nhu cầu, hứng thú, tâm trạng, tình cảm của trẻ về bản
thân, sự vật hiện tượng xung quanh như thời tiết hôm nay như thế nào? Con cảm thấy

16


mình như thế nào? Những đồ vật này có công dụng gì? Cái này có thể dùng vào những
việc gì?
Động viên khuyến khích trẻ tham gia trò chuyện với cô và bạn, tổ chức trò chơi
ngôn ngữ cho trẻ, trò chơi kết hợp vận động với lời ca, lời đồng dao đưa trẻ vào hoạt
động bằng cách bắt chước vần điệu và nhịp điệu ngôn ngữ. Thường xuyên tập cho trẻ
nghe và phân biệt âm thanh từ các giọng khác nhau: Giọng của cô, của từng bạn, âm
thanh của của các đồ vật khác nhau. Tổ chức các hoạt động có sử dụng văn hóa địa
phương: Nghe, kể chuyện dân gian, hò, vè... của dân tộc bằng Tiếng Việt.
Chụp lại những khoảnh khắc của cô và trẻ trong khi chơi, dạo chơi hay đóng kịch kể lại
truyện, khi trẻ được thực hành trải nghiệm, làm hình ảnh trang trí dán vào tường trong
lớp học để khi trẻ được tham gia trẻ nhận thấy sự tự tin, hào hứng, phấn khởi, gần gũi,
thân quen. Trên các mảng tường, tại các góc lớp tôi trang trí nhiều hình ảnh đẹp, sinh
động phù hợp với từng chủ đề và mỗi hình ảnh đó đều được gắn tên gọi để trẻ được làm
quen, khám phá: phát âm, tìm chữ, gắn thẻ chữ…
Từ những hình ảnh tôi trang trí trong và ngoài lớp khi trẻ nhìn vào trẻ nói được bằng

ngôn ngữ Tiếng Việt đó là ai trong tác phẩm nào, và kể lại được tác phẩm ấy bằng ngôn
ngữ Tiếng Việt, đồng thời trẻ đã biết thể hiện cảm xúc, tình cảm của mình với các nhân
vật ấy bằng cách tâm sự với tôi và các bạn.
2.3.5. Biện pháp 5: Tích hợp qua các hoạt động khác.
Theo yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non hiện nay, việc tổ chức cho trẻ dân tộc làm quen
với tác phẩm văn học cần phải đặt trong mối liên hệ với các hoạt động khác cùng chủ đề,
phải tổ chức theo tính tích hợp, nhằm kích thích tính tích cực và huy động được nhiều
kinh nghiệm sống của trẻ.
Để thực hiện được yêu cầu này, tôi dựa trên khả năng, đặc điểm tâm - sinh lý của trẻ dân
tộc thiểu số, khả năng của chính mình và những điều kiện cụ thể của trường, lớp, địa
phương để lựa chọn hướng tích hợp mang lại hiệu quả nhất.
Tích hợp môn âm nhạc : Tôi thường chọn những bài thơ, câu chuyện ngắn phù hợp với
nội dung bài hát. Cho trẻ đọc thơ, kể cho trẻ nghe những mẩu chuyện ngắn trong phần tạo
hứng thú và cũng có thể ở phần kết thúc nếu phù hợp.Ví dụ như khi cho trẻ hát theo nhạc
bài hát “Màu hoa” cho trẻ làm quen với tác phẩm thơ “Bó hoa tặng cô”.
Tích hợp môn tìm hiểu môi trường xung quanh: Môi trường xung quanh trẻ rất đa dạng
và phong phú, ví dụ khi cho trẻ “tìm hiểu về một số con vật nuôi trong gia đình” tôi sử
dụng những câu đố về con vật đó cho trẻ đoán qua đó trẻ cũng được phát triển vốn từ của
mình...
17


Tích hợp môn làm quen với toán: Trong khi cho trẻ làm quen với toán tôi sử dụng các
nhân vật trong tác phẩm, gắn số thẻ tương ứng. Hoặc trong câu truyện đó. Đặt ra các câu
hỏi khác nhau như: Trong truyện có mấy nhân vật, có mấy người con, có mấy anh em?
Như vậy trẻ sẽ phải nhẩm và đếm số người trong tác phẩm đó và trả lời.
Tích hợp bộ môn tạo hình: Sau khi trẻ đã hoạt động nhiều thì môn tạo hình rất phù hợp
với trạng thái tĩnh. Tôi cho trẻ tô màu các nhân vật đó theo yêu cầu của cô hoặc trẻ được
cắt ra dán, xé dán các làm bộ sưu tập người tốt, người xấu. Tôi dùng câu hỏi gợi mở yêu
cầu trẻ nhẹ nhàng hình dung tưởng tượng và vẽ, phác họa chân dung về các nhân vật

trong tác phẩm.
Với mong muốn nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ dân tộc phát triển ngôn ngữ qua việc
làm quen với tác phẩm văn học, tôi cần phải cố gắng tranh thủ tận dụng triệt để và hiệu
quả các hoạt động trong ngày để trẻ làm quen một cách hợp lý và khoa học nhất.
Giờ đón - trả trẻ: Có thể cho trẻ đọc đồng dao, trò chuyện, đàm thoại bằng những câu hỏi
gần gũi, đơn giản với trẻ. Khuyến khích trẻ kể lại sự việc ngày hôm qua, khi về nhà có
những vui, buồn như thế nào cho cô và các bạn cùng nghe.
Hoạt động chung có mục đích ( học ): Ngoài tiết dạy cho trẻ làm quen với tác phẩm
văn học với tất cả các môn học khác nếu có thể đều lồng ghép thêm tác phẩm văn học
vào sao cho phù hợp với bài dạy.
Hoạt động góc : Tôi cùng trẻ làm ra các sản phẩm về chủ đề rồi gắn những hình ảnh sinh
động của tác phẩm văn học về chủ đề, chủ điểm đó để cho trẻ quan sát, khám phá, tìm tòi
và hứng thú để thể hiện, biểu diễn tác phẩm đúng theo trình tự hình ảnh. Đặc biệt là ở góc
phân vai cô gắn những hình ảnh sáng tạo về các nhân vật trong tác phẩm nào đó rồi cho
trẻ quan sát phát hiện và tìm ra đó là nhân vật nào trong tác phẩm gì rồi dùng lời nói hành
động cử chỉ kể lại tác phẩm đó hoặc kể lại những lời nói cử chỉ của nhân vật đó tôi có thể
là người dẫn truyện để hướng dẫn, giúp đỡ, động viên trẻ thực hiện.
Ví dụ : Góc phân vai tôi cho trẻ đóng kịch một tác phẩm văn học ví dụ như tuyện
“Tích Chu” chủ đề gia đình.Tôi hướng dẫn trẻ biết thỏa thuận chơi, nhận vai chơi thảo
luận nhóm, đoàn kết giúp đỡ bạn, liên kết, giao tiếp, thảo luận trong nhóm chơi, góc chơi
và giữa các góc với nhau.
Ví dụ: Góc xây dựng tôi tổ chức cho trẻ lắp ghép, xây dựng suối Tiên, đường đến
suối Tiên, ngôi nhà, khu vườn của bà và Tích Chu.
Ví dụ: Góc thư viện - học tập, cho trẻ xem tranh ảnh về câu truyện, hình ảnh các
nhân vật trong truyện “Tích Chu”, lô tô về gia đình: ông bà, các cháu... Làm bộ sưu tập
về gia đình.
18


Ví dụ: Góc nghệ thuật, tổ chức hướng dẫn cho trẻ nặn, vẽ, cắt - xé - dán, tô màu các

nhân vật trong tác phẩm: Tích Chu, bà, cô Tiên. Múa hát những bài hát về chủ đề, ca ngợi
về bà: “cháu yêu bà”, “cả nhà thương nhau”...
Ví dụ: Góc thiên nhiên, tôi cùng trẻ tạo hình ảnh bà, Tích Chu bằng cách xếp hình
từ cây, que, lá khô, sỏi. Vẽ hình ảnh, chân dung bà, Tích Chu, Cô Tiên trên cát. Khi thực
hiện xong tôi cho trẻ kể lại truyện theo trình tự diễn biến, miêu tả các nhân vật bằng ngôn
ngữ.
Hoạt động ngoài trời, tôi cho trẻ quan sát và kể lại hoặc đọc các tác phẩm văn học thông
qua hoạt động quan sát, đàm thoại, nhận xétMuốn trẻ học được bài hiệu quả nhanh và
nhớ lâu, nếu trẻ được trực tiếp tham gia vào các hoạt động đó. Tôi sưu tầm, sáng tác một
số trò chơi khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tăng hứng thú, cung cấp củng cố
kiến thức, kỹ năng cho trẻ.
Trẻ Mầm non “ học bằng chơi, chơi mà học”. Muốn trẻ học được bài hiệu quả nhanh và
nhớ lâu, nếu trẻ được trực tiếp tham gia vào các hoạt động đó. Giáo viên cần phải sưu
tầm, sáng tác một số trò chơi khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tăng hứng thú,
cung cấp củng cố kiến thức kỹ năng cho trẻ.
Tôi đóng vai trò là người hướng dẫn trẻ, hoặc có thể cũng làm một trong những vai chơi
trong nhóm để chơi cùng trẻ.
Ví dụ Trò chơi: “đóng kịch” Cách chơi: Trẻ giả làm các nhân vật trong tác phẩm
văn học rồi kể lại truyện thể hiện bằng cử chỉ, nét mặt điệu bộ… theo đúng trình tự của
từng nhân vật.
Trò chơi “ghép tranh” (Tôi chuẩn bị sẵn các miếng ghép thể hiện trình tự tác phẩm
văn hoc). Cách chơi: Trẻ xếp miếng ghép theo trình tự diễn biến của tác phẩm văn học.
Luật chơi: Sau thời gian là 1 bản nhạc, nếu đội nào xếp nhanh và đúng sẽ là đội chiến
thắng. Nếu đội nào ghép sai miếng ghép tức là sai trình tự diễn biến của tác phẩm sẽ
không được tính điểm.
Trò chơi: “bé tập làm phim”. Cách chơi: Lần lượt trẻ lên sắp xếp theo trình tự diễn
biến tác phẩm ở trên máy tính bằng cách chọn tấm hình nào thì sẽ kích chuột vào hình đó
nếu đúng trình tự thì tấm hình đó tự động di chuyển lên trên và máy tính sẽ tự động báo
khen, khuyến khích trẻ. Luật chơi: Nếu lựa chọn tấm hình mà không đúng trình tự diễn
biến của tác phẩm thì khi kích chuột vào miếng hình đó sẽ không di chuyển và máy sẽ

báo không được và sẽ phải nhường lượt chơi cho bạn khác.
Trò chơi “kể chuyện theo tranh”. Cách chơi: Khi cô đưa tranh của đoạn nào trong
tác phẩm thì trẻ phải kể lại diễn biến của đoạn đó.Vì vậy bản thân tôi luôn chịu khó tìm
19


tòi sưu tầm và sáng tạo sáng tác ra các trò chơi và biết vận dụng hợp lý các trò chơi ấy
vào các giờ học ở mọi lúc mọi nơi một cách phù hợp sẽ kích thích trẻ ham tìm tòi, học
hỏi, sáng tạo và trẻ sẽ hứng thú hơn khi đến lớp và sẽ sôi nổi khi tham gia các hoạt động.
Đặc biệt hơn nữa là các trò chơi dân gian, với trò chơi dân gian có đặc điểm thường
là các trò chơi có lời: vè, đồng dao, hò… trẻ vừa chơi vừa đọc lời trong trò chơi bằng
Tiếng Việt. Qua đó vốn từ của trẻ ngày càng phát triển phong phú hơn.
Ngoài ra cũng có thể cho trẻ vẽ hình trên cát, xếp hình bằng các cây, que, lá cây rồi trẻ
ghép kể lại thành trình tự một tác phẩm văn học hoàn chỉnh.
Trong giờ ăn, tôi cho trẻ hoặc cùng trẻ giải thích món ăn, dinh dưỡng trong món ăn, cho
trẻ đọc thơ, vè, đồng dao về chủ đề… qua đó rèn kỹ năng trong vệ sinh ăn uống cho trẻ.
Tôi đọc câu đố về các loại món ăn cho trẻ lắng nghe và tìm ra câu trả lời.
Giờ ngủ, trước khi trẻ ngủ tôi có thể kể chuyện, ngâm thơ cho trẻ nghe hoặc hát những
bài hát ru mang âm hưởng nhẹ nhàng dần đưa trẻ vào giấc ngủ.
Hoạt động chiều, cho trẻ múa hát những bài thơ được phổ nhạc sang thành bài hát hoặc
đồng dao hay tổ chức cho trẻ đóng kịch: Trẻ sẽ được trực tiếp nhập vai và trở thành nhân
vật trong tác phẩm văn học như vậy trẻ sẽ phát triển toàn diện hơn.
Qua ngày lễ, ngày hội , thông qua không khí của ngày lễ, ngày hội có thể cho trẻ được
trực tiếp thể hiện các tác phẩm văn học như: kể truyện, đọc thơ… Hoặc cũng có thể kể lại
không khí và trình tự của ngày hội, phát biểu cảm nhận của mình đối với ngày hội đó.
Mọi hoạt động trong ngày của trẻ đều được lồng ghép các tác phẩm văn học, mọi lúc mọi
nơi trẻ dân tộc thiểu số đều được thể hiện bằng ngôn ngữ Tiếng Việt sẽ giúp trẻ tạm thời
quên đi tiếng mẹ đẻ từ đó vốn từ ngữ của trẻ càng được mở rộng và phong phú hơn, trẻ
dần hòa nhập mình vào ngôn ngữ Tiếng Việt. Trẻ nói chính xác câu từ, vành tròn rõ chữ,
không nói ngọng, đầy đủ câu và lễ phép hơn trong khi giao tiếp.

2.3.6. Biện pháp 6: Giáo dục cá nhân trẻ dân tộc tạo niềm tin cho trẻ khi học Tiếng
Việt.
Việc giáo dục cá nhân có tác động tốt đến trẻ. Đặc biệt trong lĩnh vực cho trẻ làm quen
với tác phẩm văn học, giáo dục cá nhân sẽ giúp cô giáo củng cố bổ sung kiến thức, kỹ
năng phát âm và kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Trong quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm
văn học tôi luôn tìm hiểu khả năng, đặc điểm tâm, sinh lý của trẻ. Từ đó xây dựng các
biện pháp giáo dục phù hợp.Trong lớp có 19 trẻ (chiếm 51,4%) trẻ dân tộc khả năng giao
tiếp còn nhiều hạn chế do vốn từ chưa phong phú, do trẻ ít được va chạm với môi trường
bên ngoài, trẻ chưa tự tin vào bản thân, chưa mạnh dạn, và ít giơ tay phát biểu, tôi có
khuyến khích thì cũng chỉ nói nhỏ và không giơ tay. Tôi thường xuyên trao đổi, gần gũi,
20


chia sẻ và quan tâm đến trẻ cung cấp thêm vốn từ cho trẻ bằng những câu đơn giản, câu
ngắn có nội dung gần gũi, dễ hiểu gắn với kinh nghiệm sống của trẻ, hàng ngày tôi lại
tăng dần, mở rộng vốn từ cho trẻ. Đặc biệt tôi hay khen cháu trước lớp khi trẻ làm được
một việc tốt dù rất nhỏ, động viên, khuyến khích để giúp trẻ mạnh dạn tham gia các hoạt
động và học tập, mạnh dạn trình bày những nhu cầu, mong muốn và ý kiến của mình khi
cô hỏi. Tôi thường xuyên nêu gương bạn tốt cho trẻ noi theo. Bên cạnh đó động viên trẻ
trả lời những câu hỏi dễ tăng dần mức độ khó của câu hỏi lên để trẻ phát triển cả khả
năng tư duy và ghi nhớ, khuyến khích trẻ tham gia các hoạt động cùng các bạn và cô
giáo. Tôi luôn quan tâm đến đời sống của trẻ, tìm hiểu bằng cách gần gũi nhiều hơn, trò
chuyện về cuộc sống để trẻ bộc lộ tình cảm của mình bằng ngôn ngữ tiếng việt, tin tưởng
vào tình cảm của tôi giành cho trẻ, giúp trẻ mạnh dạn hơn.
Ngoài ra còn phối, kết hợp với gia đình thường xuyên trò chuyện, chơi cùng trẻ, động
viên trẻ tham gia nhiều hoạt động tập thể khác. Tranh thủ các cơ hội trẻ thể hiện để phát
hiện và cho trẻ nhập mình vào các tác phẩm văn học để trẻ mạnh dạn, tự tin hơn khi thể
hiện mình.Trẻ mạnh dạn và tự tin hơn khi giao tiếp, chơi nhóm và tham gia các hoạt động
làm quen với tác phẩm văn học và cũng như các hoạt động khác. Đặc biệt và bất ngờ hơn
là một số trẻ còn rất sáng tạo trong khi thực hiện.

Trẻ hiếu động thường rất hay nghịch ngợm và đùa nghịch trong giờ học không để ý,
quan tâm đến cô giáo hoạt động, vì thế làm cho trẻ không nhớ được tên tác phẩm, tên tác
giả, tên các nhân vật trong tác phẩm và nội dung của tác phẩm. Với những trẻ hiếu động
như vậy tôi thường cho trẻ tham gia vào các hoạt động tĩnh nhưng có giới hạn thời gian,
trong giờ học chú ý đến trẻ hơn, hay gọi trẻ phát biểu, dùng nhiều hình thức hấp dẫn thu
hút trẻ chú ý hơn. Sau khi thực hiện được một thời gian thì thấy trẻ ít nghịch đi và ham
học hơn, thích giúp đỡ bạn và thích tham gia các trò chơi học tập, nhớ được nội dung và
chủ đề của tác phẩm và tích cách các nhân vật, trong tác phẩm văn học.
Sự gần gũi, yêu thương của cô và hòa đồng với các bạn trẻ yên tâm về cả thể chất và tinh
thần. Tự tin, mạnh dạn giao tiếp, trao đổi ý kiến của mình với mọi người bằng ngôn ngữ
Tiếng Việt.
2.3.7. Biện pháp 7: Ứng dụng công nghệ thông tin.
Trong giai đoạn đổi mới, việc ứng dụng và sử dụng công nghệ thông tin vào công
tác giảng dạy là vô cùng quan trọng, sử dụng công nghệ thông tin giúp cho trẻ có tư duy
trực tiếp để phát huy tính tích cực của trẻ, trẻ hứng thú bao nhiêu thì kết quả đạt được
càng lớn. Nếu lựa chọn đề tài để dạy trẻ trên mọi tiết học mà chỉ có tranh ảnh không thì
trẻ rất dễ bị nhàm chán, chất lượng trẻ chắc chắn sẽ không cao, hơn nữa sẽ không phát
huy được tính tích cực, chủ động, ham hiểu biết của trẻ. Chính vì vậy mà tôi luôn tìm tòi,
21


xây dựng bài giảng có tương tác điện tử, các trò chơi trên máy tính với những hình ảnh
sinh động và ngộ nghĩnh. Đồng thời tôi cũng khám phá những trò chơi trong phần mềm
kidsmart, kixpix và happykids đưa ra cho trẻ chơi và khám phá thêm về cuộc sống xung
quanh trẻ.
Tôi cho trẻ trực tiếp lên thực hiện thao tác như vẽ, tô màu chân dung nhân vật nào đó
trong tác phẩm văn học trên phần mềm kixpix và đánh dấu bài của mình bằng kí hiệu
riêng, khi trẻ thực hiện xong tôi in ra và treo tranh lên góc “tranh đẹp của bé” để trẻ có cơ
hội quan sát, ngắm lại những ý tưởng riêng của mình đồng thời cũng thông báo tới các
bậc phụ huynh về khả năng cảm nhận tác phẩm văn học và trí tái tạo, tưởng tượng, sáng

tạo của con em mình.
Qua các trò chơi trên máy vi tính như vậy trẻ của lớp tôi hứng thú, say mê học hơn, đồng
thời các thao tác trên máy của trẻ được làm quen và thiết lập, tư duy phát triển mạnh, sự
ghi nhớ các hình ảnh đúng - sai được dễ dàng. Tôi thường xuyên sưu tầm những tài liệu
về các tác phẩm văn học phù hợp với lứa tuổi hợp với sức của trẻ và tôi sử dụng trên đĩa
hình đưa vào máy vi tính và vào các buổi chiều tôi thường mở trên máy vi tính cho trẻ
xem như những bộ phim được chuyển thể từ các tác phẩm văn học, những bài thơ, bài
hát, vè, đồng dao…bên cạnh đó tôi sưu tầm những hình ảnh mang tính giáo dục treo ở
góc tuyên truyền như: Trẻ đang đóng kịch, đang biểu diễn kể chuyện, ngâm thơ... qua
những hình ảnh đó tôi có thể tiến hành ứng dụng dạy trẻ trên tiết học hoặc trong các hoạt
động để khắc sâu kiến thức hơn cho trẻ.
Qua những hình ảnh sinh động trẻ thích được kể chuyện, đọc thơ hơn, lúc nào cũng muốn
mình được làm các nhân vật trong tác phẩm văn học để biểu diễn, kể lại cho mọi người
nghe.
2.3.8. Biện pháp 8: Công tác phối hợp, tuyên truyền với phụ huynh
Khi trẻ đến trường được tôi cho làm quen với tác phẩm văn học thông qua các hoạt động
với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên các kiến thức, kỹ năng mà trẻ thu nhận được
cũng cần phải được ôn luyện tại nhà. Vì vậy để trẻ được học tốt cần có sự phối hợp cộng
tác giữa giáo viên và phụ huynh học sinh. Trong khi đó để công tác tuyên truyền với phụ
huynh một cách khoa học và đạt hiệu quả tốt, tôi đã thực hiện như sau:
Hàng ngày tôi thường xuyên, trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khỏe và học tập của
trẻ để về nhà phụ huynh kết hợp dạy thêm, cho trẻ ôn luyện them bằng cách hỏi trẻ như:
Hôm nay con được chơi trò chơi gì, chơi như thế nào, con được hát bài hát gì?.. con kể,
hát, làm lại cho bố mẹ xem. Ví dụ về chủ đề gai đình thì tôi phối hợp với phụ huynh ôn
kiến thức cho trẻ ở nhà bằng cách tạo ra tình huống như: “Hôm nay là sinh nhật mẹ con
hát tặng cho mẹ bài hát để chúc mừng mẹ nào”....
22


Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen với bài thơ “đàn gà con” ở lớp, thì tôi trao đổi với phụ

huynh về bài thơ đó và gợi ý cho phụ huynh cho trẻ quan sát đàn gà con thật tại nhà và
kết hợp đọc thơ, giáo dục trẻ biết yêu quý những con vật gần gũi. Như vậy trẻ vừa phát
triển them vốn từ, hình ảnh trong trí nhớ của trẻ càng gần gũi và sinh động.
Lên kế hoạch, thông báo chương trình dạy trẻ ghi rõ ràng nội dung giáo dục vào bảng
“cha mẹ cần biết” để phụ huynh theo dõi, ôn luyện thêm cho con em mình khi ở nhà. Đưa
nội dung trẻ đã được học ở lớp, cho phụ huynh về nhà cùng tham khảo và hướng dẫn trẻ.
Giới thiệu các loại sách, vở có tính giáo dục phù hợp với độ tuổi, chương trình tới phụ
huynh. Trao đổi một số nhược điểm của trẻ: cách phát âm, cách thể hiện cử chỉ, điệu bộ,
kỹ năng giao tiếp… để phụ huynh nắm được. Từ đó phụ huynh luôn kết hợp với giáo
viên để hướng dẫn, giúp đỡ trẻ và bên cạnh đó khi tuyên truyền phụ huynh ủng hộ, sưu
tầm nguyên vật liệu, phế thải và các đồ dùng đồ chơi phục vụ chuyên đề cũng dễ dàng và
nhanh hơn, hiệu quả cao hơn.
Khuyến khích phụ huynh trao đổi về đặc điểm, tâm lý, nhu cầu tình cảm của trẻ để tôi
nắm rõ đặc điểm từng trẻ, từ đó giúp tôi lựa chọn và điều chỉnh kế hoạch linh động, sáng
tạo phù hợp với trẻ.
Sự kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh, dân tộc thiểu số, phụ huynh đã nhận thấy
tầm quan trọng của Tiếng Việt, khi ở nhà phụ huynh đã hạn chế nói tiếng mẹ đẻ. Từ môi
trường Tiếng Việt trẻ nói được rõ ràng, mạch lạc, gãy gọn, không nói ngọng, nói lắp, nói
đủ câu và có lễ phép.
2.4. Kết quả nghiên cứu
Dựa trên những nghiên cứu với những biện pháp trên sau một thời gian tôi thấy trẻ có
tiến bộ rõ rệt, kết quả mà tôi thu được cụ thể đó là:
Trẻ đã mạnh dạn, tự tin khi thể hiện, trình bày tác phẩm, thể hiện tình cảm cảm xúc của
mình trước sự vật hiện tượng bằng những câu đơn, câu ghép khác nhau. Diễn đạt được
suy nghĩ, nhu cầu, kinh nghiệm, nhận xét của bản thân theo từng tình huống và đối tượng
thích hợp bằng lời nói. Kể lại sự việc một cách mạch lạc theo tình tiết diễn biến.
Trẻ nói - đọc mạch lạc, rõ ràng vành tròn rõ chữ, nói đủ câu, không bị nói lắp nói ngọng,
trẻ đã hiểu được mối quan hệ giữa lời nói và chữ viết. Đặc biệt và bất ngờ hơn nữa đó là
trẻ nhập tâm vào trong các nhân vật của tác phẩm văn học và đã biết dùng lời nói, cử chỉ,
hành động điệu bộ để thể hiện rõ ràng cảm xúc.

Quan sát được các cử chỉ, điệu bộ, sắc thái: vui, buồn, đồng ý hoặc không đồng ý của
người khác theo từng tình huống khác nhau.
23


Trẻ nghe và phân biệt được các âm thanh, ngữ điệu, giọng nói khác nhau và độ to, nhỏ,
nhanh, chậm của giọng nói, giọng đọc. Biết trả lời những câu hỏi về nguyên nhân , kết
quả, so sánh và đã biết đặt câu hỏi, tại sao, như thế nào, để làm gì? cho người khác. Dùng
cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để thể hiện cảm xúc của mình, phù hợp với yêu cầu và hoàn cảnh
giao tiếp.
Trẻ dân tộc đã biết thể hiện tác phẩm: thơ, đồng dao, ca dao… kể lại sự việc một cách rõ
rang dễ hiểu, kể chuyện sáng tạo theo đồ vật, theo tranh theo chủ đề và kinh nghiệm của
bản thân. Thể hiện tác phẩm văn học theo một trình tự từ trên xuống dưới, từ đầu đến
cuối. Biết cách ngắt giọng, ngừng nghỉ đúng chỗ, đúng lúc, biết đọc từ trái sang phải.
Phụ huynh của trẻ dân tộc đã nhận thức rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ tiếng việt, qua
việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, Đặc biệt hơn nữa là rất phấn khởi khi thấy
con em mình biết thể hiện một tác phẩm văn học có trình tự, thể hiện tình cảm, cảm xúc
của mình vào trong tác phẩm.
Qua việc nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên, tôi đã thu được một số thành
quả cụ thể như sau
*Kết quả của trẻ
Đối với trẻ dân tộc Kinh: 18 trẻ
Nội dung

Xếp loại
Tốt

Khá

Đạt


- Nghe hiểu nội dung tác 10/18=55,6% 7/18=38,9%
phẩm văn học.

1/18=5,5%

- Nghe và làm theo từ 3 lời 9/18=50%
chỉ dẫn liên tiếp trở lên.

1/18=5,5%

8/18=44,5%

- Mạch lạc, rõ ràng, nói đủ
câu, không nói lắp, nói 12/18=66,7% 6/18=33,3%
ngọng.

0

- Tự tin khi giao tiếp, biết 10/18=55,6% 8/18=44,5%
kể lại trình tự sự việc 1 cách
mạch lạc.

0

- Biết kể chuyện theo tranh, 9/18=50%

1/18=5,5%

8/18=44,5%


24


đọc sách qua hình vẽ
Đối với trẻ dân tộc thiểu số: 19 trẻ
Nội dung

Xếp loại
Tốt

Khá

- Nghe hiểu nội dung tác 8/19=42,1%
phẩm văn học.

10/19=52,6% 1/19=5,3%

- Nghe và làm theo từ 3 lời 11/19=57,9% 7/19=36,8%
chỉ dẫn liên tiếp trở lên.
- Mạch lạc, rõ ràng, nói đủ
câu, không nói lắp, nói 9/19=47,4%
ngọng.

Đạt

1/19=5,3%

10/19=52,6% 0


- Tự tin khi giao tiếp, biết 10/19=52,6% 9/19=47,4%
kể lại trình tự sự việc 1 cách
mạch lạc.

0

- Biết kể chuyện theo tranh, 9/19=47,4%
đọc sách qua hình vẽ

2/19=10,5%

8/19=42,1%

Nhìn vào bảng đánh giá, so sánh trên tôi nhận thấy sau khi áp dụng những biện
pháp trên vào việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số. Tôi thấy nội
dung phát triển ngôn ngữ của trẻ dân tộc có tỷ lệ tương đương với nội dung phát triển
ngôn ngữ của trẻ em Kinh.
Bảng so sánh kết quả đánh giá trẻ dân tộc thiểu số đầu năm và cuối năm
Các nội dung

Khảo sát đầu năm
Tốt

- Nghe hiểu nội 2/19

Kết quả cuối năm

Khá

Đạt


Tốt

Khá

Đạt

4/19

13/19

8/19

10/19

1/19
25


×