Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

SKKN sáng kiến kinh nghiệm mầm non biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4 5 tuổi của trường SOS, đồng hới, quảng bình thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.9 KB, 24 trang )

MỤC LỤC

Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

1

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tập nghiên cứu này. Em đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình của cô Mai Thị Liên Giang dạy môn khám phá khoa học.
Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Mai Thị Liên Giang
người đã hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Kính chúc cô mạnh khỏe công tác tốt.

Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

2

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là riêng tôi. Các kết quả và
số liệu trong đề tài là trung thực và chưa được công bố ở bất kỳ một công trình
nào.
Đồng Hới, 25 tháng 4 năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thị Hằng


Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

3

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vui chơi là hoạt động luôn đi cùng và gắn bó với cuộc sống của con
người từ thuở ấu thơ cho đến khi trưởng thành. Tuy nhiên nội dung và hình thức
chơi ở mỗi giai đoạn, mỗi lứa tuổi có khác nhau song nó cùng chung một mục
đích là thỏa mãn nhu cầu hoạt động của con người trong cuộc sống.
Đối với trẻ mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo, qua chơi trẻ được
phát triển chức năng tâm lý và hình thành nhân cách. Khi chơi cũng là dịp tốt để
trẻ khám phá môi trường xung quanh, qua đó kích thích tính tò mò, khả năng
quan sát, năng lực phán đoán, tí tưởng tượng… của trẻ. Chính vì lẽ đó mà nhiều
nhà giáo dục đã gọi: ”Trò chơi là trường học của cuộc sống”. Trẻ cần chơi như
cần ăn no, mặc êm, cần được yêu thương. Trò chơi nuôi dưỡng tân hồn trẻ mà
không có gì thay thế được. Mỗi dân tộc đều có một kho tàng phong phú trò chơi
trẻ em được tích lũy và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhà tâm lý học
nổi tiếng người Pháp là Henri – Wallon (1879 – 1962), trong khi nghiên cứu tâm
lý trẻ em cũng đã xem trò chơi của trẻ em là một hiện tượng xã hội đáng quan
tâm, mà trò chơi đóng vai theo chủ đề chiếm một vị trí quan trọng đối với sự
phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ.
Các nhà tâm lý học cho rằng, hoạt động vui chơi mà nồng cốt là trò chơi
đóng vai theo chủ đề là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Độ tuổi mẫu giáo
nhỡ là chặng giữa tuổi mẫu giáo. Nó đã vượt qua thời kỳ chuyển tiếp từ độ tuổi
ấu nhi lên để tiến tới một chặng đường phát triển tương đối ổn định. Có thể coi
đây là một thời kỳ phát triển rực rỡ của những nét tâm lý đặc trưng cho tuổi mẫu

giáo.
Như vậy, trường Mần Non là môi trường thuận lợi nhất để trẻ phát triển, ở
đây trẻ không những chăm sóc, giáo dục mà còn được vui chơi để thỏa mãn ước
muốn làm người lớn với khả năng thực tế của mình. Trong khi chơi đứa trẻ học
cách sử dựng đồ vật, đồ chơi do con người sang tạo ra. Học những quy tắc ứng
xử giữa người với người trong xã hội tức là học làm người.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

4

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


Trẻ mẫu giáo có thể tham gia nhiều loại trò chơi như trò chơi đóng vai
theo chủ đề, trò chơi đóng kịch,… Mỗi loại trò chơi có tác dụng phát triển một
mặt nhất định của trẻ. Nhưng trung tâm của hoạt động vui chơi đối với trẻ đóng
vai theo chủ đề là loại trò chơi chủ yếu tạo ra nét đặc trưng trong trò chơi, trong
đời sống tâm lí của trẻ mẫu giáo.
Tại sao trẻ mẫu giáo thích chơi trò chơi đóng vai trò theo chủ đề, bởi qua
chơi trẻ với cuộc sống của người lớn, trẻ muốn tự mình làm mội việc như người
lớn, với khả năng của mình. Do vậy trò chơi nói chung va trò chơi đóng vai theo
chủ đề nói riêng thực sự cần thiết cho trẻ…
Trong khi đó, ở các trường Mầm Non trò chơi đóng vai trò theo chủ đề
chưa thực sự được quan tâm, trò chơi chưa là niềm vui, là niềm hạnh phúc của
trẻ.
Vậy vấn đề cấp thiết hiện nay là phải tăng cường tổ chức hướng dẫn các
trò chơi một cách thường xuyên và nhất là trò chơi đóng vai trò chủ đề, phải có
sự hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể để tạo cho trẻ cảm giác thoái mái, hứng thú, có như
vậy chúng ta mới thực sự tạo cho trẻ niềm vui, niềm hạnh phúc…
Từ lý luận và thức tiễn với khả năng và niềm say mê hứng thú của mình

trong một thời gian hạn hẹp em đã chọn đề tài:
“ Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi của trường SOS, Đồng
Hới, Quảng Bình thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề ”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng tổ chức trò chơi đóng vai trò theo chủ đề cho
trẻ Mẫu Giáo ở một số trường Mầm Non ở Quảng Bình, đề xuất và vận dụng
một số biện pháp tổ chức, hướng dẫn trò chơi đóng vai trò theo chủ đề của trẻ
mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức trò chơi đóng vai theo
chủ cho trẻ.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
3.1: Khách thể nghiên cứu:
Quá trình tổ chức trò chơi đóng vai trò theo chủ đề cho trẻ 4-5 tuổi.

Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

5

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


3.2: Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi thông qua trò chơi đóng
vai theo chủ đề.
4.Giả thuyết khoa học:
Ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi trường Mẫu giáo SOS,Đồng Hới
còn phát triển chậm. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên trong đó
trò chơi đống vai theo chủ đề có vai trò quan trọng. Bằng sự đổi mới nội dung
và phương pháp tổ chức trò chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề, sẽ làm cho ngôn
ngữ của các em nhanh chóng phát triển.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:

5.1: Nghiên cứu cơ sở về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, thông qua
trò chơi đóng vai trò theo chủ đề.
* Tìm hiểu các khái niệm:
Khái niệm trẻ em.
Khái niệm ngôn ngữ.
Khái niệm trò chơi đóng vai theo chủ đề.
Trẻ mẫu giáo nhỡ.
5.2: Khảo sát, phân tích thực trạng về việc tổ chức trò chơi đóng vai
trò theo chủ đề để nâng cao hiệu quả phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
5.3: Nghiên cứu để lựa chọn, sử dụng tổ chức các trò chơi cho trẻ.
6. Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
6.1: Giới hạn nghiên cứu của đề tài về khách thể:
- Đề

tài này được thực hiện trên 20 trẻ Mẫu Giáo 4- 5 tuổi và 10 giáo viên ở trường

SOS, Đồng Hới, Quảng Bình.
6.2: Giới hạn nghiên cứu về nội dung:
- Nghiên

cứu khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ Mẫu 4-5 tuổi và hứng thú của trẻ

trong hoạt động tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề.

Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

6

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55



7. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
7.1: Cơ sở phương pháp luận:
Sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh và phân tích
7.2: Phương pháp nghiên cứu:
7.2.1: Phương pháp quan sát:
Dự tiết dạy của cô giáo, qua đó nắm được vốn từ và khả năng diễn đạt của
trẻ. Quan sát trong hành động và ghi chép trung thành ngôn ngữ của trẻ.
Ví dụ: Cô cho trẻ quan sát ngôi nhà
Giáo viên mang ngôi nhà vào lớp, ngôi nhà được bọc kín. Cô tập trung hết
sức chú ý của trẻ rồi mới lấy ngôi nhà cho trẻ quan sát. Khi đó trẻ gọi chính xác
tên của đồ chơi là ngôi nhà: ngôi nhà màu xanh, cửa sổ màu vàng, nhà có hai
tầng, tác dụng ngôi nhà để ở.
7.2.2: Phương pháp trò chuyện:
Trao đổi, tọa đàm với cô giáo về đề tài nghiên cứu. Trò chuyện với trẻ,
hỏi trẻ một số câu hỏi nhằm làm rõ hơi vốn từ và khả năng diễn đạt của trẻ,
chẳng hạn như: về cảm xúc , hứng thú của trẻ khi trẻ đóng vai.
7.3: Phương pháp thực nghiệm tác động
Đề tài đã sử dụng phương pháp thực nghiệm tác động như sau:
Chia lớp nghiên cứu thành hai nhóm có số lượng trẻ và chất lượng ngôn
ngữ tương đương.
Nhóm thực nghiệm được tác động bằng nội dung và phương pháp tổ chức
trò chơi đóng vai theo chủ đề và phương pháp tổ chức đặc biệt.
Nhóm đối chứng được dạy bằng nội dung và phương pháp tổ chức trò
chơi đóng vai theo chủ đề như trường Mẫu giáo SOS vẫn dạy. Sau một thời gian
thực nghiệm tác động xem sự phát triển ngôn ngữ ở nhóm thực nghiệm và nhóm
đối chứng có sự khác nhau không?
7.4: Phương pháp trắc nghiệm
Sử dụng phương pháp trắc nghiệm để đo vốn từ và khả năng sử dụng cấu

trúc ngữ pháp của trẻ.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

7

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


7.5: Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Người nghiên cứu ghi lại, hệ thống lại những từ ngữ, những kết cấu ngữ
pháp mà trẻ nói ra trong quá trình tham gia trò chơi đóng vai theo chủ đề. Trên
cơ sở đó đưa ra nhận xét về sự phát triển vốn từ cũng như cách phát âm hay khả
năng sử dụng cấu trúc ngữ pháp của trẻ.
8. Đóng góp mới của đề tài:
- Đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và đi sâu tìm hiểu về vấn đề
giáo dục văn hóa ứng xử của trẻ 4 - 5 tuổi thông qua trò chơi đóng vai theo chủ
đề.
- Xây dựng được một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục văn hóa
ứng xử cho trẻ.
9. Thời gian, địa điểm
- Thời gian: Từ tháng 3 năm 2016 đến tháng 5 năm 2017.
- Địa điểm: Tại trường Mẫu Giáo SOS - Đồng Hới - Quảng Bình.
10. Kết cấu của đề tài:
A. Phần mở đầu
B. Nội dung chính
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Khảo sát thực trạng
Chương 3: Thực nghiệm tác động
C. Kết luận và kiến nghị


Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

8

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO TRẺ MẪU GIÁO NHỠ 3-4 TUỔI
THÔNG TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ
1.1: Lịch sử nghiên cứu đề tài:
Việc sử dụng trò chơi trong dạy học không phải là vấn đề mới được đặt ra
mà ngay từ đầu thế kỷ XX, nhà tâm lý học Thụy Sỹ J. Paget đã rất quan tâm đến
phương pháp này “ thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập
“.
Năm 1974, trong tạp chí văn học ở trường Mat- xcơ- va số 2 (trang 53)
B.C. Giê -nhi-xkai- a đã cho rằng “ chúng ta không những phải tạo cho trẻ được
nuôi dưỡng bằng trò chơi “.
Ở Việt Nam cũng có nhiều tác giả quan tâm đến việc sử dụng phương
pháp này trong từng môn học cụ thể. Đó là PGS. TS Nguyễn Ánh Tuyết với
cuốn sách “ Giáo dục mầm non những vấn đề lý luận và thực tiễn “ , hay “ Tâm
lý học trẻ lứa tuổi mầm non “. v.v… Trong những cuốn sách này tác giả đã đề
cập đến vai trò của trò chơi đóng vai theo chủ đề đối với sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ em mọt cách khái quát. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ
thể cách thức xây dựng nội dung chương trình, và phương pháp tổ chức trò chơi
đóng vai theo chủ đề, để qua đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nói chung
và trẻ mẫu giáo nhỡ nói riêng.
1.2: Ngôn ngữ và sự hình thành phát triển ngôn ngữ
1.2.1: Khái niện ngôn ngữ

Ngôn ngữ là một hệ thống thông tin đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ
bản và quan trọng nhất của các thành viên trong cộng đồng người. Ngôn ngữ
đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn hóa
– lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tùy theo hoàn cảnh lịnh sử mà sự hình thành dân tộc và ngôn ngữ dân tộc
mỗi nơi, mỗi thời kỳ một khác, theo những con đường khác nhau. Mác và
Awngghen đã viết: “ Trong bất cứ ngôn ngữ phát triển nào hiện nay, cái nguyên
Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

9

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


nhân khiến cho một ngôn ngữ phát sinh một cách tự phát, được nâng lên thành
ngôn ngữ dân tộc, thì một phần là do ngôn ngữ đó được phát triển một cách lịch
sử từ chỗ nó được chuẩn bị đầy đủ về tư liệu, như ngôn ngữ La Mã và
Giescmani chẳng hạn, một phần là do sự giao dịch và hỗn hợp của các dân tộc,
như tiếng Anh chẳng hạn: một phần nữa là do các phương ngữ tập trung thành
ngôn ngữ dân tộc thống nhất và sự tập trung đó lại do sự tập trung đó lại do sự
tập trung kinh tế, chính trị quyết định “.
1.2.2: Các bộ phận và đơn vị của ngôn ngữ
a. Các bộ phận của ngôn ngữ
Ba bộ phận câu thành của ngôn ngữ là từ vựng, ngữ âm và ngữ pháp.
Trong kết cấu ngôn ngữ, từ vựng thuộc vào ngoại biên về nghĩa vì nó trực tiếp
gọi tên các sự vật, hiện tượng của thực tế, còn ngữ âm phụ thuộc vào ngoại biên
về chất liệu vì nó trực tiếp được tích lũy bởi giác quan con người. So với ngữ âm
và từ vựng thì ngữ pháp luôn luôn là gián tiếp không có tinh thần cụ thể. Nó chỉ
liên hệ với thực tế thông qua từ vựng, chỉ lĩnh hội được thông qua ngữ âm.Vì
vậy, ngữ pháp chiếm vị trí trung tâm trong kết cấu ngôn ngữ.

b. Các đơn vị của ngôn ngữ
* Âm vị: Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất mà người ta có thể phát âm ra
được trong chuỗi lời nói.
Ví dụ: Các âm [b], [t], [v].v. v…, hoàn toàn không thể chia nhỏ chúng
hơn.
Âm vị có chức năng nhận cảm và chức năng phân biệt nghĩa.
Ví dụ: “ bào” có nghĩa là một dụng cụ của thơ mộc đề làm mòn nhẫn gỗ,
còn “ vào” có nghĩa là “ một hành động đi từ ngoài tới trong “. Cái làm ta phân
biệt được hai nghĩa đó không phải do bộ phận bộ phận ngữ âm trùng nhau giữa
hai từ là [-ảo] mà do sự đối lập giữa âm [b] và âm [v] tạo nên.
* Hình vị là một hoặc chuỗi kết hợp một vài âm vị, biểu thị một khái
niệm. Nó là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa. Chức năng của hình vị là chức năng ngữ
nghĩa. Ví dụ kết hợp “quốc gia“ trong tiếng Việt gồm hai hình vị: “quốc” là “
nước” và “gia” là “nhà”.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

10

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


* Từ là chuỗi kết hợp của một hoặc một vài hình vị mang chức năng gọi
tên và chức năng ngữ nghĩa. Ví dụ các từ: Tủ, ghế, đi, cười.v.v…
* Câu là chuỗi kết hợp của một hay nhiều từ, chức năng gọi tên và chức
năng thông báo.
Các đơn vị của ngôn ngữ là âm vị, hình vị, từ, câu, ngữ đoạn, văn
bản.v.v… bất cứ thứ tiếng (ngôn ngữ) nào, cũng chứa đựng hai phạm trù: Phạm
trù ngữ pháp và phạm trù logic. Phạm trù ngữ pháp là một hệ thống các quy định
việc thành tập từ và câu cũng như quy định sự phát âm, phạm trù này ở các thứ
tiếng khác nhau là khác nhau. Phạm trù logic là quy luật, vì vậy tuy dung các thứ

tiếng khác nhau, nhưng các dân tộc khác nhau vẫn hiểu được nhau.
Tóm lại, ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu đặc biệt, dùng làm phương
tiện giao tiếp và là công cụ tư duy.
1.2.3: Chức năng của ngôn ngữ
a. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người.
Không ai có thể phủ nhận ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người.
Ngay cả những bộ lạc lạc hậu nhất mà người ta mới phát hiện ra, cũng dùng
ngôn ngữ để nói chuyện với nhau.Ngoài ngôn ngữ, con người còn có những
phương tiện giao tiếp khác như: cử chỉ, các loại dấu hiệu, ký hiệu khác nhau (ký
hiệu toán học, đèn tín hiệu giao thông .v.v…), những kết hợp âm thanh của âm
nhạc, những kết hợp màu sắc của hội họa.v.v… nhưng ngôn ngữ là phương tiện
trọng yếu nhất của con người.
Chính nhờ ngôn ngữ mà con người có thể hiểu ngau trong quá trình sinh
hoạt và lao động, mà người ta có thể diễn đạt và làm cho người khác hiểu được
tư tưởng, tình cảm, trạng thái và nguyện vọng của mình.Có hiểu biết lẫn nhau,
con người mới có thể đồng tâm hiệp lực chinh phục thiên nhiên, chinh phục xã
hội, làm cho xã hội ngày càng tiến lên.
b. Ngôn ngữ là phương tiện tư duy
Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ gắn liền với chức năng thể hiện tư duy
của nó, bởi vì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ chỉ có thể giúp ta trao đổi tư tưởng,
tình cảm với nhau, do đó hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau tổ chức công tác
chung trên mọi lĩnh vực hoạt động nếu bản than ngôn ngữ tàng trữ kinh nghiệm,
những tư tưởng và tình cảm của con người.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

11

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55



Chức năng thể hiện tư duy của ngôn ngữ thể hiện ở hai khía cạnh:
+ Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không có từ nào, câu nào
mà lại không biểu hiện khái niện hay tư tưởng . Ngược lại, không có ý nghĩ, tư
tưởng nào không tồn tại dưới dạng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là biểu hiện thực tế của
tư tưởng.
+ Ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư tưởng. Mọi ý
nghĩ, tư tưởng chỉ trở nên rõ ràng khi biểu hiện bằng ngôn ngữ. Không có ngôn
ngữ thì không có tư duy và ngược lại không có tư duy thì không có ngôn ngữ chỉ
là những âm thanh trống rỗng, thực chất là không có ngôn ngữ.
1.2.4: Vai trò của ngôn ngữ đối với tư duy và giao tiếp của con người
a. Ngôn ngữ là công cụ để phát triển tư duy, nhận thức
Quá trình hình thành của trẻ bên cạnh thể chất là trí tuệ. Công cụ để phát
triển tư duy, trí tuệ chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là hiện thực ( sự hiện
hữu) của tư duy.
Ngôn ngữ là công cụ để học tập, vui chơi: Đây là những hoạt động chủ
yếu của trường mầm non. Giống như việc dạy trẻ tiếng mẹ đẻ ở các cấp học
khác, phát triển lời nói cho trẻ ở trường mầm non thực hiện mục tiêu “kép” . Đó
là, trẻ học để biết tiếng mẹ đẻ đồng thời sử dụng nó như một công cụ để vui
chơi, học tập. Như vậy, ngôn ngữ cần cho tất cả các hoạt động và ngược lại, mọi
hoạt động tạo cho ngôn ngữ trẻ phát triển.
b. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp
“ Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng. Giao tiếp là một
đặc trưng quan trọng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất” (Lêni). Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể hiểu được nhau, cùng
nhau hành động vì những mục đích chung. Không có ngôn ngữ, không thể giao
tiếp được, thậm chí không thể tồn tại được, nhất là trẻ em, một sinh thể yếu ớt
rất cần sự chăm sóc, bảo vệ của người lớn.
Ngôn ngữ là một công cụ hiện hữu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện
vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển.
Giáo dục trẻ là một điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và

trong hoạt động hình thành nhân cách trẻ.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

12

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


1.3: Sự hình thành, phát triển ngôn ngữ của cá nhân
1.3.1: Ngôn ngữ nói
Bắt đầu từ tháng 12 trở đi, ở trẻ xuất hiện những âm bập bẹ có ý nghĩa
đầu tiên và ngay lập tức trẻ huy động chúng vào giao tiếp với người lớn. Các âm
bập bẹ nhanh chóng mất đi nhường chỗ xho các từ tham gia vào cáu tạo câu sử
dụng trong giao tiếp. Những từ đàu tiên xuất hiện, các kiểu câu đơn giản gồm
hai từ dến ba từ khiến cho khả năng giao tiếp của trẻ tang lên. Trẻ tích cực hơn
trong giao tiếp và sử dụng ngôn ngũ để giao tiếp. Nhu cầu giao tiếp tăng lên thúc
đẩy hoạt động giao tiếp ngông ngữ; kết quả là cá kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ
được hình thành.
1.3.2: Ngôn ngữ viết
Trẻ luyện viết là hoạt động tập hứng thú và tự giác. Chính vì vậy, khi dạy
viết cho trẻ quan trọng nhất là giải thích để trẻ hiểu được mục đích của việc
luyện viết (lưu ý trẻ mẫu giáo chưa tiến hành hoạt động học tập). Giáo viên mầm
non chỉ khuyến khích cho trẻ nhận thức được trầm quan trọng của chữ viết. Trẻ
sẽ tự giác ngồi vào vẽ chữ. Khi trẻ bắt đầu có hứng thú với chữ viết nên chuản bị
dụng cụ để giúp trẻ luyện viết tại góc luyện viết (bút chì, bút màu, bút vẽ.v.v…).
1.4: Trẻ mẫu giáo
1.4.1: Khái niệm trẻ em
Theo quan niệm cổ: “ Trẻ em là người lớn thu nhỏ lại ”.
Ở thế kỷ XYIII, nhà giáo dục, nhà văn viết học J.J. Korutxô quan niệm: “
Trẻ em không là người lớn thu nhỏ lại. Trẻ em là trẻ em phát triển theo quy luật

riêng của trẻ em. Người lớn không thể hiểu được tâm lý trẻ em và không nên can
thiệp vào sự phát triển của trẻ em “.
Quan niệm khoa học về trẻ em:
Trẻ em là một thực thể đang phát triển, là một thực thể tự vận động theo
quy luật của bản thân nó. Người lớn là hình thức phủ định của trẻ em, là giai
đoạn phát triển mới của đời sống cá thể. Sự vận động tất yếu của trẻ em đo quá
trình phát triển bên trong của nó, sự tự phủ định bản thân mình để chuyển hóa
sang một trình độ mới khác về chất – trở thành người lớn – Nên Người.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

13

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


1.4.2: Sự phát triển vốn từ của trẻ
Năng lực tư duy trừu tượng gắn liền với sự phát triển vốn từ. Được biết
rằng từ 5 đến 9 tuổi vùng trán trên võ đại não đã tham gia tích cực vào sự phát
triển lời nói, chữ viết. Vốn từ của trẻ được phát triển thuận lợi. Từ 1,5 tuổi trở đi
trẻ đã biết mở rộng phạm vi áp dụng vốn từ của mình vào những đối tượng khác.
Theo nghiên cứu của Casouy (1977), Dollaghan (1985) trẻ 18 tháng mới
biết được khoảng 50 từ nhưng đến khi từ 3-6 tuổi đã có thể tích lũy được 800014000 từ, trung bình 5- 8 từ/ ngày.
Điều đó cho ta thấy nếu trẻ em ở nước ta được đến trường sớm và được
các cô giáo có trình độ đạt chuẩn chăm sóc và giáo dục thì chắc chắn ngôn ngữ
sẽ tạo điều kiện căn bản cho trẻ vào lớp 1.
1.4.3: Đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo nhỡ
Để xử lý tình huống xảy ra trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ là tất cả
một nghệ thuật, nhất là khi trẻ em còn ở độ tuổi thơ dại. Chính vì vậy để vận
dụng khả năng sư phạm của mình trong việc giải quyết tốt các tình huống xảy ra
giáo viên ở các trường mẫu giáo ngoài tình yêu nghề, yêu trẻ; tinh thần trách

nhiệm cao, sự cần mẫn, kiên trì còn cần phải có sự hiểu biết nhất định về đặc
điểm tâm lý của trẻ.
Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ đặc điểm đầu tiên là đặc điểm về hoạt động vui
chơi. Ở độ tuổi nào con người cũng đều tham gia vào hoạt động vui chơi, nhưng
chỉ ở tuổi mẫu giáo mà ở chính giữa cái tuổi ấy (tứ là tuổi mẫu giáo nhỡ) thì
hoạt động vui chơi mới mang đầy đủ ý nghĩa của nó nhất, cũng tức là nó đạt tới
dạng chính thức và biểu hiện đầy đủ nhất đặc điểm của hoạt động vui chơi,
nhiều hơn cả là trò chơi đóng vai theo chủ đề. Do đã có ít nhiều vốn kinh
nghiệm về cuộc sống nên trẻ mẫu giáo nhỡ đã có thể tự lựa chọn chủ đề và nội
dung chơi cũng như cần có bạn chơi “ tâm đâu ý hợp “ để vui chơi bền hơn, vui
hơn.
Đặc điểm thứ hai của trẻ mẫu giáo nhỡ là sự phát triển mạnh tư duy trực
quan hình tượng và có khả năng suy luận.

Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

14

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


Tiếp theo là sự phát triển đời sống tình cảm. Trong lứa tuổi ấu nhi cũng
như lứa tuổi mẫu giáo thì tình cảm thống trị tất cả các mặt trong hoạt động tâm
lý của trẻ; nhưng đặc biệt ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ thì đời sống tình cảm của trẻ
có một bước chuyển biến mạnh mẽ, vừa phong phú vừa sâu sắc hơn so với lứa
tuổi trước đó.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, nhất là mẫu giáo nhỡ, tình cảm của trẻ phát triển
mạnh liệt, đặc biệt là tính đồng cảm và tính dễ xúc cảm đối với con người và
cảnh vật xung quanh. Đây là thời điểm rất thuận lợi để giáo dục long nhân ái cho
trẻ.

1.4.4: Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ
Từ 4- 5 tuổi là thời điểm quan trọng để dạy trẻ nói, cho nên ở trường mầm
non, các cô nuôi dạy trẻ cần tranh thủ lúc này để dạy trẻ nói. Không chỉ dạy trẻ
nói rõ ràng, nói đúng câu mà phải dạy cho trẻ cả những lời nói đẹp, những cách
ứng xử đẹp với mọi người xung quanh.
Trong giao tiếp hàng ngày cô nên thường xuyên nói chuyện với trẻ, đặt
câu hỏi để gợi ý trẻ kể về các sự kiện diễn ra trong ngày, hay tổ chức các trò
chơi đóng vai theo chủ đề mà trẻ đang được học.
Ví dụ: Trò chơi “ Lớp mẫu giáo của bé” trong chủ đề “ Trường mầm non
của bé “. Trò chơi “ Bác sĩ “ trong chủ đề “ Nghề nghiệp” .
Vốn từ của trẻ mẫu giáo nhỡ tăng nhanh, trẻ hiểu được nghĩa và dung từ
đã chính xác hơn trẻ ở độ tuổi mẫu giáo bé; đã sử dụng được nhiều mẫu câu đơn
giản, đúng ngữ pháp; có thể kể một số truyện ngắn một cách tuần tự; có thể kể
chuyện theo tranh; đóng vai mô phỏng công việc của người lớn.v.v…Mặc âm
thanh của lời nói cũng nhanh chóng phát triển. Trẻ lĩnh hội được và phát âm
đúng nhiều âm vị: phát âm từ, câu rõ nét hơn, trẻ bắt đầu biết điều chỉnh tốc độ,
cường độ giọng nói.
Ở giai đoạn trước, sử dụng rộng rãi biện pháp bắt chước thì ở giai đoạn
này giáo viên sử dụng các biện pháp để trẻ tập phát âm ( sử dụng các bài tập –
trò chơi ). Tuần tự cho trẻ phát âm tất cả các âm vị trong tiếng Việt. Các âm vị
khó nên được chú ý hơn như: S, tr, r, x, ch, l.v.v…
Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

15

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


Ở tuổi mẫu giáo nhỡ, trẻ phải nắm được vốn từ cần thiết đủ để cho chúng
giáo tiếp với bạn bè, người lớn,tiếp thu các tri thức trong trường mầm non, xem

các chương trình truyền hình, truyền thanh.v.v… Vì thế, Giáo dục học mẫu giáo
coi việc hình thành vốn từ là nhiệm vụ quan trọng trong nội dung giáo dục trẻ.
1.5: Trò chơi đóng vai theo chủ đề
1.5.1: Khái niệm
Trò chơi đóng vai theo chủ đề là moohifnh quan hệ xã hội của người lớn
và là phương tiện định hướng cho trẻ vào mối quan hệ đó. Hay nói cách khác,
trò chơi đóng vai theo chủ đề là trẻ ướm thử mình vào vị trí của người nào đó và
bắt chước những hành động của người nào đó.
1.5.2: Đặc điểm của trò chơi đóng vai theo chủ đề
Trò chơi đóng vai theo chủ đề là do trẻ tự nghĩ ra ( tự nghĩ ra dự định
chơi, lập kế hoạch chơi, chọn bạn chơi, phân vai chơi và tìm kiếm phương tiện
phù hợp dự định chơi ban đầu, v.v…), trẻ luôn đứng ở vị trí chủ thể để hành
động ( chủ động thiết lập mối quan hệ với bạn cùng chơi, phát triển trò
chơi.v.v…).
Trò chơi đóng vai trò theo chủ đề bao giờ cũng có các vai, có chủ đề, có
nội dung và các mối quan hệ ( quan hệ thực và quan hệ chơi ), có hoàn cảnh
tưởng tượng. Tất cả các thành tố này liên quan mật thiết với nhau bổ sung cho
nhau. Nếu thiếu một trong hai thành tố trên thì lúc ấy không còn là trò chơi đóng
vai theo chủ đề nữa.
Trò chơi đóng vai theo chủ đề mang tính tự nguyện, tính sáng tạo, tính tự
lập cao hơn so với một số trò chơi khác.
1.5.3: Cấu trúc của trò chơi đóng vai theo chủ đề
Cấu trúc là yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố.
a. Chủ

đề và nội dung chơi
Chủ đề của trò chơi là mảng hiện thực được trẻ em phản ánh vào trong trò

chơi ( chủ đề dạy học, chủ đề gia đình,v.v…)
Nội dung là hoạt động của người lớn được trẻ em nhận thức và được tái

tạo lại trong trò chơi.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

16

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


Nội dung trò chơi được phức tạp dần theo trình độ phát triển của trẻ.
+ Ở trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi ): Trẻ tái tạo những hành động của người
lớn.
+ Ở trẻ mẫu giáo nhỡ ( 4-5 tuổi): Có thêm nội dung mới đó là mối quan
hệ giữa người với người trong quá trình hoạt động chung.
+ Ở trẻ mẫu giáo lớn ( 5-6 tuổi) : Ngoài hai nội dung trên trẻ tái tạo mối
quan hệ bên trong cả về tình cảm, đạo đức,v.v…
b. Vai

chơi và hành động chơi
Vai chơi là một yếu tố quan trọng tạo nên trò chơi.
Hành động chơi đó là những hành động mà trẻ em nhận thức được những

hành động của người lớn.
c. Các

quan hệ của trẻ trong trò chơi
Trong trò chơi có hai mối quan hệ:
+ Quan hệ thực: Quan hệ giữa trẻ em và người khác trong quan hệ chơi.
+ Quan hệ chơi: Đó là mối quan hệ giữa các vai chơi, sức sống của trò

chơi phụ thuộc vào sự thiết lập và vận hành mối quan hệ giữa các vai chơi.

d. Đồ

chơi và hoàn cảnh chơi
Đồ chơi là vật thay thế cho vật thật. Có hai loại đồ chơi đó là:
+ Đồ chơi người lớn làm cho trẻ.
+ Đồ chơi do trẻ tự làm ra: Trẻ lấy vật này để thay thế cho vật khác ( lá-

tiền).
Trong bốn yêu tố trên thì chủ đề và nội dung chơi quyết định tất cả các
yếu tố sau.
Người lớn cần tôn trọng tính tự nguyện, tính tự chủ của trẻ trong khi chơi.
Giáo viên mầm non nên căn cứ vào nội dung giáo dục để thiết kế thành các trò
chơi cho trẻ, vừa để thỏa mãn nhu cầu của trẻ, vừa đảm bảo mục tiêu giáo dục,
giúp trẻ lựa chọn được chủ đề, nội dung chơi đích thực, giúp trẻ phân vai và
thiết lập các mối quan hệ trong trò chơi. Cần tạo ra những tình huống trong trò
chơi để trẻ lựa chọn thực hiện kiểu ứng xử phù hợp. Cần giúp trẻ tao ra những
mối quan hệ tinh thần tôn trọng bình đẳng của trẻ trong trò chơi.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

17

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


1.5.4: Vai trò của trò chơi đóng vai theo chủ đề đối với trẻ mẫu giáo
Những phẩm chất tâm lý và những đặc điểm nhân cách của trẻ mẫu giáo
được phát triển mạnh mẽ nhất là trong hoạt động vui chơi.
a. Hoạt

động vui chơi ảnh hưởng mạnh tới sự hình thành tính chủ định của quá trình


tâm lý. Nếu đứa trẻ không chú ý và nhớ những điều kiện của trò chơi thì nó sẽ
hành động tự do dẫn đến nguy cơ bị các bạn cùng chơi không chơi cùng. Để trò
chơi được thành công buộc đứa trẻ phải tập trung chú ý và ghi nhớ một cách chủ
định.
b. Sự phát triển tư duy
Trong hoạt động vui chơi, đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ
phải nhập vai và thực hiện các vai chơi vói vật thay thế trong khi hành động với
vật thay thế trẻ suy nghĩ về đồ vật thực. Trẻ phải dựa vào các hình ảnh đã biết
để thực hiện vai chơi của mình.
Ví dụ: Cô giáo thường có các hoạt động như: dạy trẻ đọc thơ, dạy hát,
múa,v.v… Từ đó hành động của trẻ bắt đầu rút gọn và mang tính khái quát và
chuyển dần dần vào trong đầu. Trẻ bắt chước những việc làm của cô giáo.
c. Sự phát triển tưởng tượng
Tưởng tượng là một quá trình nhận thức, xây dựng hình ảnh mới dựng
vào những hình ảnh đã biết.
Trong quá trình chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề trẻ phải thực hiện các
hành động của các vai chơi mà phụ thuộc vào vật thay thế. Từ đó trẻ buộc phải
tưởng tượng ra hành động chơi. Như vậy hoạt động vui chơi quyết định sự hình
thành và phát triển tưởng tượng ở lứa tuổi này.
d. Sự phát triển ngôn ngữ
Tình huống chơi đòi hỏi mỗi đứa trẻ tham gia vào trò chơi phải có một
trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất định. Nếu trẻ không diễn đạt được mạch
lạc nguyện vọng và ý kiến của mình đối với trò chơi, nếu không hiểu được
những lời chỉ dẫn hay bàn bạc của các bạn cùng chơi thì nó không thể chơi, trẻ
phải phát triển ngôn ngữ một cách rõ rang mạch lạc.
e. Sự

phát triển tình cảm
Tình cảm được nảy sinh từ mối quan hệ giữa người với người, trong trò


chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ phải tham gia vào hai mối quan hệ : quan hệ thực
Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

18

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


và quan hệ chơi. Trẻ nhập vai vào mối quan hệ đó, từ đó tình cảm này được sinh
thành và phát triển.
f. Sự phát triển ý chí
Tính mục đích, tính tự chủ, tính kiên trì đây là các phẩm chất của ý chí
được hình thành và phát triển mạnh trong khi chơi.
Vậy đây là hoạt động chủ đạo quyết định sự phát triển tâm lý của trẻ mẫu
giáo.
1.5.5: Khả năng nghe hiểu lời nói
Tính giác là cơ quan phân tích giúp cho việc hấp thu âm thanh của ngôn
ngữ. Cùng với sự phát triển của trẻ, dần dần sẽ phát triển sự chú ý lắng nghe, tri
giác âm thanh của ngôn ngữ.
Khả năng nghe hình thành sớm ở hai, ba tuần đầu, trẻ đã iết phản ứng
ngôn ngữ.
Ở mẫu giáo nhỡ, sự tri giác bằng thính giác đang phát triển mạnh mẽ khi
trẻ được tiếp xúc với môi trường xung quanh, xem vô tuyến, nghe đài truyền
thanh, nghe đĩa, v.v… Giáo viên nên tổ chức “ những phút im lặng “, “ biến
những phút này thành các bài tập”, “ ai nghe rõ hơn”, “đoán câu nói”,v.v.. Giáo
viên dạy trẻ (4-5 tuổi) hiểu được người khác nói và phân biệt các giọng nói,
giọng điệu khác nhau. Trẻ nghe và hiểu được những từ, những câu, nghe hiểu
các nội dung các lời nói. Trẻ hiểu những câu chuyện, bài hát, bài thơ phù hợp
với lứa tuổi, biết thể hiện thái độ thích hợp khi nghe.

1.5.6: Phương pháp tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề
Trò chơi đóng vai theo chủ đề thực chất là sự mô phỏng của trẻ em về đời
sống xã hội của người lớn bằng việc ướm thử mình vào những người nào đó
trong xã hội rồi bắt chước hành động của họ để thực hiện chức năng xã hội như
một sự tập dượt làm người lớn. Do đó, việc tổ chức cho trẻ chơi trò chơi đóng
vai theo chủ đề là tạo điều kiện để trẻ được thỏa mãn nguyện vọng là muốn làm
người lớn, từ đó cần định ra các biện pháp có tác động tích cực đối với sự phát
triển của trẻ khi chúng chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề. Khi tổ chức cho trẻ
chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề giáo viên cần lưu ý mấy điểm sau:
a. Giáo viên cần hướng dẫn cho trẻ biết nhập vai

Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

19

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55


Những hành động mà trẻ thường bắt chước người lớn như : bế em bé, cho
em ăn, ru cho em ngủ..v.v… Nhưng có trẻ khi làm hành động mà không biết
mình đang làm gì. Trong trò chơi đóng vai theo chủ đề thì đóng vai là khâu then
chốt của trò chơi, do đó trong việc tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề cho trẻ,
giáo viên cần câu hỏi cho trẻ biết mình đóng là ai và đang làm gì bằng những
câu hỏi như: Bác sĩ thường làm gì? Bác đang tiêm cho ai?.v.v… Qua đó trẻ tiếp
thu được cách ứng xử giữa người với người trong cuộc sống.
b. Cần

hướng hành động của người lớn, nhưng những hành động đó còn ngây ngô,

rời rạc. Có cháu đang ru “em bé” ngủ bằng gối thì liền ngay sau đó lại chơi phi

ngựa bằng chiếc gối đó. Điều đó chứng tỏ trẻ chưa biết hướng hành động của
mình vào một chủ đề chơi nhất định. Như vậy trò chơi sẽ khó duy tri.
Bởi vậy, giáo viên cần khéo léo dẫn dắt cho trẻ biết thêm những công việc
mà người lớn thường làm để trẻ có thể chơi có định hướng mà không bị lạc đề.
Ví dụ: Đối với chủ đề “ Bệnh viện”, người lớn cần nói cho trẻ biết ở bệnh
viện có những ai (bác sĩ, cô y tá, người bệnh.v.v…) và công việc của từng người
(bác sĩ khám bệnh, tiêm thuốc, dặn dò bệnh nhân những điều cần thiết với thái
độ ân cần.v.v…) chơi như vậy hành động của trẻ sẽ được xác định rõ ràng hơn.
Đây là bước tiến đáng kể trong sự phát triển đời sống tâm lý trẻ, cần cho hoạt
động học tập và lao động sau này.
c. Biết phối hợp hành động với bạn chơi trong khi chơi
Trẻ chơi tự do sẽ dẫn đến không có những hành động liên kết trong khi
chơi. Trẻ chưa biết hợp tác với nhau hay nói đúng hơn là chưa biết chơi với
nhau, phối hợp với nhau để trò chơi thêm hấp dẫn.
d. Người lớn không bao giờ áp đặt hay dùng mệnh lệnh trong khi hướng dẫn trẻ
chơi.
Vui chơi là một hoạt động độc lập của trẻ nên khi tổ chức trò chơi đóng
vai theo chủ đề cần phát huy cao độ tính tự lực, tự chủ, khuyến khích những
sáng kiến của trẻ trong việc đóng vai, tìm vật thay thế, kích thích trí tưởng tượng
của trẻ trong việc tạo ra nhiều hoàn cảnh chơi mới mẻ.
Giáo viên nên lôi cuốn trẻ vào những trò chơi hấp dẫn, vừa sức và tốt nhất
nên cùng chơi với trẻ để làm mẫu các hành động chơi, trực tiếp tạo ra các tình
huống chơi để giúp trẻ phối hợp với nhau giữa các vai và kịp thời động viên,
Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

20

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55



khuyến khích những trẻ biết chơi đúng, chơi hay và cũng kịp thời uốn nắn
những hành vi sai trái của trẻ, nhất là khi xảy ra xung đột giữa các vai chơi.
Khi hướng dẫn trẻ chơi, người cần khéo léo đưa những quy tắc sống,
những chuẩn mực đạo đức của xã hội người lớn vào trò chơi của trẻ. Lúc đầu chỉ
là sự thỏa thuận, là quy ước với nhau, sau đó mới thành quy tắc và trở thành
luật. Chẳng hạn, đối với trò chơi “ Đi tàu hỏa “, để trò chơi này được tiến hành
trẻ cần thỏa thuận với nhau, hành khách phải mua vé, ngồi đúng ghế; người soát
vé thì đeo băng đỏ; người lái tàu thì phải ngồi đúng toa đầu máy để lái tàu; khi
tàu chạy không được nhảy ra khỏi tàu.v.v…
Trong khi hướng dẫn trẻ hoạt động, giáo viên cũng phải uốn nắn lỗi trong
câu nói của trẻ. Giáo viên có thể đặt ra các câu hỏi để trẻ trả lời bằng những câu
ghép. Câu hỏi có thể đi từ dễ đến khó.
Ví dụ: Tại sao hôn nay Lan không đi học?
Tại sao hôm nay mọi người trong thành phố đềi treo cờ?
Trả lời: Lan không đi học vì Lan bị ốm.
Vì bị ốm nên Lan không đi học.
Lan vì bị ốm nên không đi học.
Đầu tiên trẻ trả lời vế phụ chỉ nguyên nhân (vì Lan ốm ). Sau đó bắt trẻ
nhắc lại câu hoàn chỉnh gồm vế phụ. Giáo viên chú ý giúp trẻ đặt nhiều kiểu câu
bằng cách thay đổi vị trí các vế của câu ghép. Cô luôn luôn chú ý đến lời nói của
trẻ, uốn nắn lỗi ngữ pháp cho trẻ, đưa vào lời nói của trẻ những cấu trúc ngữ
pháp phù hợp với tình huống nói năng.

Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

21

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55



CHƯƠNG II: KHẢO SÁT THỰC TRẠNG
2.1: Thực trạng việc xây dựng nội dung và tổ chức trò chơi đóng vai
theo chủ đề ở các trường mầm non hiện nay
2.1.1: thực trạng lập kế hoạch tổ chức hướng dẫn trẻ chơi trò chơi
đóng vai theo chủ đề
2.1.2: Thực trạng về tạo môi trường cho trẻ
2.1.3: Mức độ tích lũy kinh nghiệm và làm sống lại kinh nghiệm bằng
các biện pháp khác nhau cho trẻ trong trò chơi
2.1.4: Quá trình và tổ chức hướng dẫn trò chơi
2.2: Thực trạng sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ
2.2.1: Khách thể nghiên cứu
2.2.2: Phương pháp điều tra
2.2.3: Kết quả điều tra sự phát âm của trẻ mẫu giáo nhỡ thu được
qua bảng 2 và bảng 3
CHƯƠNG III: THỰC NGHIỆM TÁC ĐỘNG
3.1: Cách thức tiến hành
3.2: Thời gian tiến hành thực nghiệm tác động
3.3: Giáo án thực nghiệm
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị

Sinh viên: Nguyễn Thị Hằng

22

Lớp: ĐHGD Mầm non A - K55




×