Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Nội dung chọn thực phẩm tươi sạch thì cung cấp cho giáo viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.49 KB, 11 trang )

Nội dung chọn thực phẩm tươi sạch thì cung cấp cho giáo viên, nhân viên
biết:
+ Nếu là thực phẩm sống: Chỉ lựa chọn những thực phẩm còn tươi mới,
không bị dập nát, không có mùi, màu lạ.
+ Nếu là thực phẩm chín: Không mua khi thấy bày bán gần nơi cống rãnh,
bụi bẩn, bùn lầy, nước đọng, để lẫn lộn thực phẩm sống và chín, không có dao thớt
dùng riêng, không có giá kê cao, không có dụng cụ che đậy, màu sắc loè loẹt
không tự nhiên và không có đồ bao gói.
+ Nếu là thực phẩm bao gói sẵn: Không mua khi không có nhãn hàng hoá,
có nhãn mác nhưng không ghi hạn dùng, không ghi rõ nơi sản xuất.
+ Nếu là đồ hộp: Không mua khi hộp không có nhãn mác, không có hạn sử
dụng, không ghi rõ cơ sở sản xuất, hộp phồng, méo, rạn, nứt, han rỉ.
- Thực hiện vệ sinh phòng bệnh trong các nhóm lớp ở trường mầm non như:
+ Vệ sinh môi trường: Vệ sinh không khí, giữ sạch nguồn nước, xử lý chất
thải...
+ Vệ sinh nhóm lớp: Phòng học, đồ dùng, đồ chơi, nhà bếp...
+ Vệ sinh cá nhân: Vệ sinh cá nhân cán bộ, giáo viên, nhân viên trong toàn
trường.
+ Vệ sinh trẻ: thao tác rửa tay, lau mặt, đi tiểu tiện...
Những nội dung trên tôi tổ chức bằng nhiều hình thức khác nhau như giảng
trực tiếp, nghiên cứu tài liệu, thảo luận, dự thực hành...
Tổ chức bồi dưỡng kiến thức, cập nhập thông tin về vệ sinh dinh dưỡng an toàn
thực phẩm thường xuyên cho giáo viên, nhân viên dinh dưỡng trong toàn trường.
Đặc biệt, là tập luyện bồi dưỡng và chỉ đạo thực hiện tốt các công tác
nâng cao chất lượng giáo dục vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh nhóm lớp, cá nhân
và vệ sinh môi trường.
Tạo điều kiện cho giáo viên tham gia học tập các lớp trên chuẩn các lớp tập
huấn bồi dưỡng chuyên môn hè, các lớp bồi dưỡng chuyên đề. Đối với nhân viên
dinh dưỡng phải được tham gia tập huấn vệ sinh an toàn thực phẩm và có giấy
chứng nhận.
Song song với việc tổ chức bồi dưỡng bằng lý thuyết. Bản thân cũng đã chú


trọng bồi dưỡng kỹ năng thực hành cho đội ngũ giáo viên như; Cách lựa chọn thực
phẩm sạch, thực hành chế biến, tổ chức bữa ăn, thực hành vệ sinh cá nhân, sơ cứu
khi trẻ gặp tai nạn, thương tích...
Tổ chức thao giảng mảng dinh dưỡng ngay từ đầu năm. Xây dựng các tiết
dạy mẫu có lòng ghép chủ đề vệ sinh an toàn thực phẩm qua các môn học như tìm
hiểu MTXQ, văn học-chữ viết, tạo hình, thể dục, hoạt động vui chơi... để giáo viên
học tập rút kinh nghiệm để áp dụng trong quá trình chăm sóc trẻ.
Bên cạnh đó, Tôi đã tham mưu với hiệu trưởng phân công những nhân viên
làm nhiệm vụ nuôi dưỡng có kỹ năng tốt, có kinh nghiệm chế biến món ăn cho trẻ


kốm kp nhng nhõn viờn cha cú kinh nghim thc hin tt cụng tỏc dinh
dng tr.
Thụng qua cỏc hỡnh thc bi dng ú m mi mt cỏn b, giỏo viờn, nhõn
viờn trong trng nm c nhng ni dung cn thit trong cụng tỏc chm súc sc
kho, v sinh mụi trng, v sinh ATTP trong trng mm non v cng ng, góp
phần giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dỡng trong năm học.
2.2.2. Chỳ trng cụng tỏc v sinh khu vc bp, dựng dng c nh bp
v v sinh mụi trng, v sinh i vi cụ nuụi, giỏo viờn ti lp v v sinh cỏ
nhõn cho tr.
- V sinh khu vc bp: Thc hin nguyờn tc bp mt chiu nhm trỏnh
khụng thc phm sng, cha lm sch v thc n chớn, sch chung mt li i.
Sp xp v trớ cỏc khu vc sao cho thun tin, gn gng trỏnh lỳc nu
nng phi ng lờn, ngi xung hoc i li nhiu ln, ng thi trỏnh c cỏc
loi cụn trựng, chut vo bp. Cỏc khu vc hot ng ca bp phi cú bin rừ
rng: Ni tip nhn thc phm, khu s ch thc phm, khu tinh ch, khu nu chớn,
khu ch bin thc phm chớn, khu chia n.
Nh bp cú bng phõn cụng trong ngy: Ngi nu chớnh, ngi nu ph,
ngi tip phm, s ch thc phm, v sinh dng c.
Bp n cú bng thc n theo tun, bng nh lng sut n hng ngy v

cụng khai ti chớnh c th rừ rng.
Ch o nhõn viờn dinh dng thc hin nghiờm tỳc khõu v sinh nh bp
theo lch hng ngy, tun v thỏng.
Vớ d: Hng ngy, khi nu nng xong phi dn dp, sp xp dựng, dng
c vo ỳng ni quy nh, lau chựi quột dn sch s, m qut thụng giú, m cỏc
ca s thụng giú cho khụ, thoỏng nh bp trc khi úng ca ra v.
- V sinh dựng, dng c nh bp:
Chộn bỏt v ni thc n phi thoỏng cú li ngn khụng cho rui,
nhng, mui, chut u hoc n vo.
Chộn bỏt hng ngy phi c lau sch, ch ỳp bỏt, thỡa tr phi khụ rỏo,
khụng ỳp trc tip xung bn hoc xung t. Bỏt thỡa ca tr dựng bng inox,
khụng dựng loi nha tỏi sinh v phi c hp trỏng nc sụi trc khi n.
Cú y dng c ch bin thc n sng, chớn riờng, dng c dựng xong
phi c ra sch phi khụ, trc khi dựng phi ra li.
Vớ d: Bỏt, da, a, thỡa phi c ra sch gi khụ, ng ng thỡa a
phi thoỏng khụ sch. Cỏc dng c nh soong, ni phi c ra sch, sau ú phi
treo ct ỳng ni quy nh.
Thc n nu chớn c chia vo cỏc dng c bng inox, khụng dựng loi
nha tỏi sinh, cú np y hoc phi cú lũng bn trỏnh rui nhng bõu vo nhim
bn, tuyt i khụng dựng vi che y, ph trc tip lờn thc n.


Chậu rửa, giá kệ úp dụng cụ: rổ rá, thớt, soong nồi phải được kê cao ráo,
thông thoáng và thoát nước.
Bàn chế biến và chia thức ăn được làm bằng inox và đá sạch để không thấm
nước và dễ cọ rửa.
- Vệ sinh môi trường:
Rác và thức ăn hàng ngày phải đổ vào đúng nơi quy định, rác ngày nào phải
xử lý ngày đó không để đến hôm sau mới xử lý gây mất vệ sinh và thu hút chuột,
dán tới. Thùng rác có nắp đậy sạch sẽ, tuyệt đối không để rác rơi vãi ra xung quanh

và nước thải rò rỉ ra ngoài, rác thải để xa nơi chế biến. Cống rảnh khu vực sân rửa
thực phẩm, nhà bếp luôn được thông thoáng, không ứ động.
Bên cạnh vệ sinh môi trường luôn sạch sẽ, tôi đã chú trọng việc xây dựng
môi trường xanh sạch đẹp, là một trong các tiêu chí hưởng ứng phong trào xây
dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Nhà trường đã phát động đến
toàn thể cán bộ viên chức, các bậc cha mẹ học sinh và các cháu cùng nhau xây
dựng môi trường sư phạm xanh-sạch-đẹp. Đây là phong trào đã được cán bộ viên
chức và toàn thể cha mẹ học sinh, các cháu học sinh đồng tình hưởng ứng, cho nên
cảnh quan môi trường, lớp học luôn xanh mát. Bảo vệ chăm sóc tạo cảnh quan môi
trường, bỏ rác đúng nơi quy định trong sân trường, đồ chơi đẹp-sạch-an toàn và
lành mạnh đó là những gì tất cả cán bộ giáo viên, cha mẹ học sinh và học sinh đã
hưởng ứng tốt phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
- Vệ sinh đối với cô nuôi, nhân viên nhà bếp:
Nhân viên dinh dưỡng đã được học và có chứng chỉ bồi dưỡng những kiến
thức về vệ sinh an toàn thực phẩm, qua đó nắm rõ trách nhiệm của mình là phải
đảm bảo nuôi dưỡng trẻ khoẻ mạnh và an toàn.
Chỉ đạo nhân viên dinh dưỡng thực hiện nghiêm túc khâu vệ sinh cá nhân
trong quá trình chế biến ăn cho trẻ như: mặc quần áo đồng phục ở trường, mang
tạp dề, đầu tóc gọn gàng, móng tay, móng chân cắt ngắn, sạch sẽ. Rửa tay bằng xà
phòng trước và sau khi chế biến thức ăn cho trẻ, khi tay bẩn, sau khi đi vệ sinh, qua
mỗi công đoạn chế biến. Có khăn lau tay riêng và được giặt phơi khô hàng ngày.
Phải tuân thủ đúng quy trình sử dụng dụng cụ chế biến thức ăn theo một
chiều, không tuỳ tiện sử dụng đồ dùng, dụng cụ đựng, chế biến thực phẩm sống,
chín lẫn lộn. Không được ho, khạc nhổ khi chế biến thức ăn cho trẻ, khi nếm thức
ăn còn thừa phải đổ đi.
Khi chia ăn cho trẻ phải đeo khẩu trang và chia bằng dụng cụ, không dùng
tay bốc, chia thức ăn. Thực hiện nghiêm túc việc cân, đoong chia thức ăn cho trẻ
đảm bảo định lượng.
Nhân viên nhà bếp 6 tháng phải khám sức khoẻ định kỳ, được bố trí nơi thay
quần áo và vệ sinh riêng, không dùng chung với khu chế biến thức ăn cho trẻ.

- Vệ sinh cá nhân đối với giáo viên và cô phụ tại lớp:


Chỉ đạo các giáo viên rửa tay bằng xà phòng trước khi chia ăn và cho trẻ ăn,
sau khi đi vệ sinh. Đầu tóc, quần áo gọn gàng, đeo khẩu trang khi chia thức ăn và
cho trẻ ăn, có dụng cụ chia thức ăn riêng, không dùng tay bốc. Chuẩn bị đủ bàn
ghế, khăn ướt lau tay, dĩa đựng thức ăn rơi vãi cho trẻ. Định kỳ 6 tháng cũng khám
sức khoẻ có xét nghiệm như nhân viên dinh dưỡng.
- Vệ sinh cá nhân trẻ:
+ Tăng cường kiểm tra các nhóm lớp thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt
trong ngày phù hợp với từng độ tuổi, chú trọng công tác chăm sóc nuôi dưỡng và
các thời điểm vệ sinh cho trẻ.
Ví dụ: Trẻ phải được rửa tay trước khi ăn bằng xà phòng dưới vòi nước
chảy, rửa xong lau khô. Dạy trẻ biết rửa tay sau khi đi vệ sinh và khi tay bẩn, nhắc
nhở cha mẹ trẻ hàng tuần cắt móng tay, móng chân cho trẻ.
+ Dạy trẻ có thói quen biết giữ vệ sinh ăn uống:
Ví dụ: Ăn chín, uống sôi, ăn chậm, nhai kỹ, ăn uống từ tốn, tránh rơi vãi, khi
thức ăn rơi vãi nhặt bỏ vào nơi quy định. Trẻ ăn xong biết đánh răng, súc miệng
sạch sẽ, uống nước.
2.2.3. Tăng cường công tác chỉ đạo, giám sát, kiểm tra đối với công tác
chăm sóc nuôi dưỡng, chú trọng kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm ở nhà bếp.
a. Chọn nguồn thực phẩm sạch:
Để có nguồn thực phẩm sạch, tôi đã tham mưu với đ/c hiệu trưởng và cùng
với nhân viên dinh dưỡng tổ chức ký hợp đồng với các cơ sở nuôi, trồng bán thực
phẩm sạch, có biên bản hợp đồng đảm bảo tính pháp lý.
Hợp đồng cung ứng thực phẩm sạch cần có những giao kèo chặt chẽ từ khâu
vận chuyển thực phẩm đến khâu giao nhận thực phẩm tại bếp ăn của nhà trường,
cung ứng phải đảm bảo kịp thời, đủ định lượng và chất lượng;
Ví dụ: Thực phẩm phải tươi, ngon, sạch sẽ, không bị dập nát, khô héo hoặc
ôi thiu…, các dụng cụ đựng thực phẩm nên là các thùng hộp nhựa cứng, thưa, trơn,

nhẵn để các thực phẩm khi vận chuyển không bị dập nát, khi rửa làm vệ sinh
thùng, hộp được dễ dàng, sạch sẽ.
Đối với những cơ sở sản xuất nuôi trồng chưa có giấy chứng nhận vệ sinh an
toàn thực phẩm thì việc ký hợp đồng thực phẩm cần có sự xem xét thống nhất giữa
nhà trường và phụ huynh nhằm đảm bảo nguồn thực phẩm an toàn cho trẻ.
Đối với những nơi không thể hợp đồng mua thực phẩm sạch tận gốc nuôi
trồng sản xuất, thì nhà trường ký hợp đồng mua thực phẩm sạch với các quầy hàng
có uy tín ở địa phương, các quầy hàng của phụ huynh có con em học tại trường.
- Chỉ đạo nhân viên dinh dưỡng phát triển mô hình VAC của nhà trường:
Bản thân luôn chú trọng phát triển mô hình vườn “Vườn rau của bé”, một
mặt vừa khoanh luống trồng các loại rau phù hợp với địa phương, phù hợp với độ
tuổi của trẻ, một mặt phải xây dựng đường đi lối lại giúp trẻ quan sát, tham quan
và có thể chăm sóc được vườn rau cùng với cô giáo.


Ngoài ra, xung quanh trường còn có vườn rau sạch làm bằng các lốp xe ô tô
củ cho cô và trẻ cùng chăm bón. Vườn rau này cũng là nguồn cung cấp rau lớn
nhất cho nhà bếp và thật sự là vườn rau sạch để có những bữa canh thật an toàn và
ngon miệng cho trẻ.
Tuyên truyền vận động cộng đồng nuôi trồng, sản xuất thực phẩm sạch để
cung ứng cho nhà trường, vận động các gia đình có con gửi ở trường hoặc các hộ
gia đình xung quanh trường nuôi trồng thực phẩm sạch để cung ứng cho bếp ăn
nhà trường.
Nghiêm túc thực hiện việc ký kết hợp đồng với các nhà cung cấp thực phẩm.
Bản hợp đồng thực phẩm có xác nhận của hiệu trưởng nhà trường, đại diện hội phụ
huynh, nhân viên dinh dưỡng và nhà cung cấp thực phẩm.
Phối hợp với Y tế địa phương và cơ quan quản lý nông nghiệp tuyên truyền
tác hại của việc sử dụng các loại hoá chất trong nuôi trồng sản xuất và bảo quản
thực phẩm cho các hộ nông dân.
b. Chỉ đạo công tác tiếp phẩm và giao nhận thực phẩm.

Chỉ đạo nhân viên nhà bếp tuyệt đối không mua thực phẩm không rõ nguồn
gốc, quá hạn sử dụng (đối với những thức ăn chế biến sẵn) không mua thực phẩm
đã qua sơ chế, chế biến nhưng không rõ nguồn gốc, nơi sản xuất, giấy phép đăng
ký chất lượng…Đặc biệt, không mua thực phẩm không đảm bảo chất lượng như
rau không xanh tươi, cá thịt không tươi…
Nhân viên nhà bếp khi tiếp nhận thực phẩm có sổ ghi nhận thực phẩm về
định lượng và tình trạng thực phẩm. Những thực phẩm bị dập nát có dấu hiệu
không tươi, nghi ngờ hỏng, không đảm bảo chất lượng, không đúng với hợp đồng
thì không được tiếp nhận và chế biến dùng cho trẻ. Các phẩm màu phụ gia thực
phẩm không rõ nguồn gốc, không nằm trong danh mục cho phép của Bộ Y tế thì
không được dùng trong trường mầm non.
Khi giao nhận thực phẩm, ngoài nhân viên nhà bếp còn có đại diện của nhà
trường, nhân viên y tế cùng kiểm tra thực phẩm.
Thực hiện nghiêm túc kiểm thực 3 bước (kiểm tra trước khi nhận thực phẩm,
Trước khi nấu và kiểm tra trước khi ăn).
Khâu bảo quản lưu giữ tại kho và tủ lạnh của bếp ăn nhà trường đảm bảo vệ
sinh, không để thực phẩm quá hạn, ẩm mốc, kém chất lượng. Các hộp đựng hoặc
chai, lọ đựng gia vị, thực phẩm phải có nhãn tên, không cất giữ chung với các loại
hoá chất diệt côn trùng, xà phòng, xăng dầu hoả với kho thực phẩm.
c. Chỉ đạo chế biến và bảo quản thực phẩm.
Nhân viên dinh dưỡng chế biến thực phẩm phải đảm bảo chất lượng ngon,
đẹp, phù hợp với trẻ, đảm bảo an toàn.
Thức ăn phải được chế biến nấu chín
kỷ, nấu xong cho trẻ ăn ngay.
Thực hiện nghiêm túc quy định về lưu mẫu thức ăn: Hàng ngày, nhân viên
dinh dưỡng phải lưu mẫu thức ăn theo đúng quy định 24 h. Mẫu thức ăn phải được


lấy khi vừa nấu xong chuẩn bị chia ăn cho trẻ. Hộp đựng mẫu thức ăn được rửa
sạch và nhúng nước sôi sát trùng trước khi đưa thức ăn vào lưu giữ. Thức ăn lấy

mẫu cho vào lọ bằng sứ có nắp đậy, để 15-20 p cho nguội sau đó đưa vào lưu giữ
trong tủ lạnh (lưu ở ngăn mát) 24 h mới bỏ đi. Mỗi loại thức ăn phải để trong một
hộp riêng, có đủ lượng thức ăn tối thiểu (thức ăn đặc khoảng 150g, lỏng 250ml).
Khi lưu mẫu cần ghi đầy đủ ngày, giờ, tên người lấy mẫu thức ăn và niêm phong
cẩn thận. Trong tủ lạnh chỉ để lưu mẫu thực phẩm, tuyệt đối không để chung với
các loại thực phẩm khác.
Hàng tháng, ban giám hiệu kiểm tra thường xuyên việc chế biến và lưu mẫu
thực, góp ý điều chỉnh kịp thời những sai sót sau khi kiểm tra. Cuối tháng có nhận
xét ưu điểm, tồn tại và đề ra hướng khắc phục tồn tại để nhân viên dinh dưỡng
khắc phục sửa chữa và thực hiện tốt tháng tới.
2.2.4. Chỉ đạo theo dõi biểu đồ, khám sức khoẻ, quản lý công tác tiêm
chủng mở rộng và các dịch bệnh khác:
Việc theo dõi biểu đồ, khám sức khoẻ, quản lý công tác tiêm chủng mở rộng,
phòng chống dịch bệnh là việc không thể thiếu trong trường mầm non. Vì vậy, bản
thân đã tham mưu với hiệu trưởng xây dựng kế hoạch, chỉ đạo nhân viên y tế thực
hiện nghiêm túc việc theo dõi sức khoẻ bằng biểu đồ phát triển về cân nặng và
chiều cao.
Thực hiện nghiêm túc việc chuyển biểu đồ cho trẻ theo từng độ tuổi tức là
theo dõi liên tục (nhà trẻ - mẫu giáo bé - mẫu giáo nhỡ - mẫu giáo lớn). Thực hiện
đúng tin thần của cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung.
Quản lý tiêm chủng, giám sát dịch bệnh trong nhà trường. Nhân viên y tế
nắm vững lịch tiêm chủng hiện nay của các loại vác xin, kế hoạch tiêm phòng Sởi
mũi II, phòng sởi Rubella...và giám sát các bệnh truyền nhiễm trong chương trình
tiêm chủng Quốc gia.
Chỉ đạo nhân viên văn phòng xử lý và chuyển tải kịp thời các công văn liên
quan đến các dịch bệnh đối với cộng đồng như:
Công văn số 807/GD-ĐT ngày 12/9/2014 về việc triển khai chiến dịch tiêm
vắc xin Sởi-Rubella trong trường học; Công văn số 1315/NVY-SYT ngày
30/9/2014 về việc tăng cường phòng, chống dịch đau mắt đỏ trên địa bàn;
Công văn 886/GD-ĐT ngày 08/10/2014 về việc triển khai thực hiện Kế

hoạch số 328/KH-YTDP về giám sát VSATTP bếp ăn tập thể tại các trường học;
Công văn số 270/ATTP ngày 26/11/2014 về việc hướng dẫn thực hiện chế
độ kiểm thực 3 bước; Công văn số 69/UBND-YT ngày 16/01/2015 về việc triển
khai công tác đảm bảo VSATTP trong dịp tết Nguyên đán;
Công văn số 331/GD ngày 07/5/2015 về việc tổ chức hưởng ứng “Tuần lễ
tiêm chủng” năm 2015, tăng cường phòng chống dịch sốt xuất huyết và bệnh tay
chân miệng;


Công văn số 332/GD-ĐT về việc thực hiện Kế hoạch triển khai "Tháng hành
động vì an toàn thực phẩm" năm 2015... đến tất cả cán bộ giáo viên, nhân viên
trong toàn trường được biết để có các biện pháp, kế hoạch phù hợp với nhóm lớp
của mình. Qua đó càng nâng cao nhận thức của đội ngũ về công tác chăm sóc nuôi
dưỡng trẻ và VSATTP ở trường mầm non.
2.2.5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối với các ban ngành và phụ
huynh, lồng ghép nội dung VSATTP vào các hoạt động trong ngày của trẻ.
Chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên, nhân viên thường xuyên làm tốt công tác
tuyên truyền với các ban ngành và phụ huynh về công tác chăm sóc nuôi dưỡng
giáo dục trẻ, thông qua những hình thức như: Tuyên truyền qua loa truyền thanh
địa phương, các buổi họp phụ huynh, các hội thi, qua góc tuyên truyền giáo dục
các bậc cha mẹ của lớp và nhà trường. Phối hợp với các ban ngành và phụ huynh
để triển khai các công văn khẩn cấp của Trung ương, địa phương về dịch bệnh theo
mùa, tuyên truyền tháng vệ sinh an toàn thực phẩm, tuyên truyền cho phụ huynh
nhận thức, thực hiện 10 lời khuyên dinh dưỡng hợp lý cho các bậc cha mẹ trong
việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ.
Tổ chức cho phụ huynh tham quan bếp ăn, hướng dẫn cách chế biến thức ăn,
tham quan giờ ăn của trẻ cũng như tham quan họat động bé tập làm nội trợ. Hàng
tháng yêu cầu phụ huynh kết hợp với nhà trường kiểm tra nhà bếp 1-2 lần về thuchi trong ngày, cách chế biến, VSAT thực phẩm, cân đong ...
Phụ huynh phải nhận thức thấy rõ việc ăn uống là một nhu cầu cấp bách
hàng ngày của trẻ. Ăn uống theo đúng yêu cầu dinh dưỡng thì thể lực, trí tuệ phát

triển tốt, giúp gia đình đạt được ước mơ con cái khoẻ mạnh, thông minh, học giỏi.
Bên cạnh đó, chỉ đạo giáo viên đưa nội dung giáo dục môi trường, vệ sinh an
toàn thực phẩm vào các giờ hoạt động, nhằm giúp trẻ tích cực tham gia giữ vệ sinh
đảm bảo an toàn thực phẩm như: lao động tự phục vụ, giữ vệ sinh môi trường, rèn
thói quen vệ sinh cá nhân và các hành vi văn minh nơi công cộng, tạo môi trường
thân thiện trong trường lớp mầm non.
Ví dụ: Tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng sức khỏe vào các chủ đề
Bản bản thân, gia đình... Ở các chủ đề này chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích
hợp những nội dung sau:
- Làm quen với các món ăn tại trường, tập ăn hết suất, rèn luyện hành vi văn
minh trong ăn uống: Biết mời cô và các bạn trước khi ăn; ngồi ăn ngay ngắn,
không co chân lên ghế; cầm thìa bằng tay phải tự xúc ăn gọn gàng, tránh đổ vãi, ăn
từ tốn, nhai kỹ, không nói chuyện và đùa nghịch trong khi ăn.
- Tập tự phục vụ trong sinh hoạt hàng ngày tại trường: Tự cất, dọn đồ dùng
ăn uống sau khi ăn, lấy gối lên giường đi ngủ.
- Tập luyện thói quen tốt về vệ sinh cá nhân, đi vệ sinh đúng nơi qui
định. Giữ gìn vệ sinh môi trường như không khạc nhổ nơi công cộng, vứt rác
đúng nơi qui định.


Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động góc qua trò chơi “Bán hàng” chủ đề "Gia
đình, thế giới thực vật" khi mua hàng các cháu phải biết chọn thực phẩm tươi ngon,
thực phẩm không bị rập nát. Qua trò chơi “Nấu ăn” các cháu biết rửa tay và vệ
sinh đồ dùng, rửa sạch thực phẩm trước khi chế biến, phải biết ăn chín uống sôi.
Hoặc đối với chủ đề "Thế giới thực vật" cho trẻ làm quen các loại rau, quả
thông qua trò chơi học tập “Phân nhóm thực phẩm” thì cần phải chuẩn bị những lô
tô về các loại rau ăn củ, rau ăn quả, rau ăn lá và trò chơi“Thi xem ai nhanh” yêu
cầu trẻ lấy đúng và xếp nhanh, phân loại nhóm chất dinh dưỡng theo yêu cầu của
cô giáo. Qua các trò chơi giúp trẻ nhận biết và nhớ lâu các nhóm thực phẩm trẻ biết
nhóm nào nên ăn nhiều và nhóm nào ăn hạn chế.

Kết quả kiểm tra bếp ăn tại các trường học do Đoàn công tác liên ngành Sở
GD&ĐT, Sở Y tế Hà Nội cho thấy, vẫn còn tình trạng nhà trường vi phạm
quy định tổ chức bếp ăn bán trú cho học sinh. Một số trường còn thiếu các
điều kiện đảm bảo về an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP).
Phạt "công ty cá thối" tuồn thực phẩm bẩn vào trường học
Vụ tuồn thịt thối vào trường học: 12kg da heo thối suýt cho trẻ ăn

Bữa ăn bán trú trong nhà trường luôn là sự quan tâm của các bậc phụ huynh.
Ảnh: TL
“Nếu thấy có mùi lạ thì đừng ăn”
Năm học mới đã bắt đầu được hơn 1 tháng, tuy nhiên với nhiều phụ huynh ở Hà
Nội, ngoài chuyện học tập của con, họ vẫn luôn canh cánh mối lo về chuyện ăn


uống của con ở trường, nhất là những gia đình có con học bán trú ở trường mầm
non, tiểu học. Phụ huynh hầu hết đều lo ngại nguồn gốc, chất lượng thực phẩm, giá
cả, liều lượng suất ăn… bởi bếp ăn bán trú liên quan đến sức khỏe của học sinh,
nhưng cũng là mảnh đất “béo bở” khiến nhiều trường có thể vì vụ lợi mà cắt xén,
dùng thực phẩm hết hạn sử dụng, không rõ nguồn gốc...
Chia sẻ về mối lo chuyện ăn uống của con tại trường, chị Nguyễn Thị Hà (KTT
Nam Đồng) có con học mầm non cho biết: “Con đi học mà tôi vẫn chưa thể yên
tâm chuyện ăn uống của con, mặc dù hàng năm tiền ăn đều tăng, nhà trường cũng
đều hứa đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm... Thế nhưng, có nhiều hôm hỏi con về
chuyện ăn uống, con kể ra món nọ, món kia rồi nói là thức ăn có mùi lạ, không
giống như mẹ làm ở nhà... Cũng chỉ biết dặn con là nếu cảm thấy món ăn khác lạ là
không được ăn, về nhà mẹ cho ăn bù sau”.
Chị Thanh Hương (quận Hoàng Mai) có con học tiểu học cho biết: “Cả tôi và
chồng đều đi làm bận rộn cả ngày, không có thời gian nấu bữa trưa cho con nên
phải đăng kí cho con ăn bán trú ở trường. Nhưng con ăn ở trường thì tôi sợ nhất là
bị đau bụng, ăn phải thực phẩm không đảm bảo ATVSTP. Nhiều lần muốn qua

thăm bếp ăn của con, nhưng vào giờ này phụ huynh không được vào trường. Thiết
nghĩ, nhà trường có thể tăng tiền ăn nhưng phải đảm bảo dinh dưỡng, an toàn cho
các cháu”.
Những băn khoăn, lo lắng của các phụ huynh không phải là không có cơ sở, bởi
mỗi năm đều xảy ra những vụ việc liên quan tới bếp ăn nhà trường. Đơn cử, vừa
qua đồng loạt 10 trường tiểu học cùng ký hợp đồng cung cấp bữa ăn bán trú với
Công ty Nhật Phú Hào tại tỉnh Bình Dương đều bị kiểm tra đột xuất sau vụ phụ
huynh của một trường phát hiện hơn 80kg thịt và cá đã bốc mùi, chảy nước được
đưa vào chế biến thức ăn cho học sinh. Thời gian qua, một vài trường học ở Hà
Nội cũng đã bị học sinh “tố” bớt xét khẩu phần ăn, cung cấp thực phẩm không đảm
bảo nấu ăn cho học sinh ăn...
Tiểm ẩn nhiều nguy cơ ngộ độc
Báo cáo tại Hội nghị chuyên đề ATVSTP và phòng chống dịch bệnh trong nhà
trường do Sở GD&ĐT Hà Nội phối hợp với Sở Y tế vừa tổ chức cho thấy, Hà Nội
là địa phương có số lượng học sinh đông nhất cả nước và có tỷ lệ học sinh ăn bán
trú khá cao. Toàn thành phố có 1.410 trường có bếp ăn tập thể, cung cấp trung bình
1.410.000 suất ăn/ngày. Trong đó có 1.087 trường tự tổ chức nấu ăn, 323 trường
liên kết ký hợp đồng với cơ sở dịch vụ nấu ăn ngoài…


Đối với công tác đảm bảo ATVSTP trường học, chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm
2015, 30 quận, huyện, thị xã của Hà Nội đã thành lập đoàn kiểm tra liên ngành Y
tế - Giáo dục, tiến hành kiểm tra 100% các trường. Kết quả, 100% trường học có
bếp ăn bán trú được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điện kiện ATVSTP; 94,5% các
bếp ăn đảm bảo nguyên tắc một chiều; 100% đủ nước sạch dùng trong chế biến
thực phẩm. Tại tuyến thành phố cũng đã tổ chức kiểm tra 42 trường học, trong đó
37/42 trường đảm bảo gần 90% các tiêu chí về ATVSTP.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại như: 11,6% số trường có giấy chứng nhận cơ sở
đủ điều kiện ATVSTP đã hết hạn đang hoàn thiện thủ tục xin cấp lại; 11,7% các
trường có nhân viên phục vụ chưa có phiếu khám sức khỏe; giấy tập huấn đã hết

hạn. 10-12% các trường chưa xuất trình được hóa đơn nguồn gốc thực phẩm rau,
thịt các loại. Bên cạnh đó, 7% cơ sở chưa xuất trình giấy kiểm dịch thú y, thịt gia
súc, gia cầm và sản phẩm từ gia cầm. Khu vực chế biến tại một số trường diện tích
chật hẹp, chưa riêng biệt khu sơ chế và khu nhập nguyên liệu…
Mặc dù trên địa bàn chưa xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm hàng loạt từ bếp ăn trường
học, tuy nhiên theo TS Nguyễn Hiệp Thống - Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Hà Nội,
vấn đề ATVSTP là nội dung được chú trọng hàng đầu đối với công tác quản lý
hoạt động trường học trên địa bàn. “Tuy nhiên, vẫn còn nhiều nguy cơ tiềm ẩn,
không thể chủ quan với việc quản lý các bếp ăn này. Bên cạnh đó, công tác quản lý
cũng gặp một số khó khăn như: Ban giám hiệu một số nhà trường chưa thường
xuyên kiểm tra cơ sở cung cấp suất ăn sẵn, nguồn cung cấp thực phẩm; đoàn kiểm
tra liên ngành trong quá trình kiểm tra, giám sát mới chỉ dừng lại hình thức nhắc
nhở...”.
Cũng theo lãnh đạo Sở GD&ĐT Hà Nội, từ đầu năm học mới, Sở đã thành lập các
đoàn kiểm tra định kỳ về an toàn thực phẩm ở các trường học. Cùng với việc kiểm
tra, Sở còn phối hợp với Chi cục ATVSTP thành phố tập huấn tuyên tuyền cho cán
bộ y tế các trường về kỹ năng phòng chống ngộ độc thực phẩm, đảm bảo bữa ăn
của học sinh bán trú thật sự an toàn, hợp vệ sinh.
Đầu tháng 9/2015, UBND TP Hà Nội đã ban hành kế hoạch số
170/KH-UBND triển khai công tác Y tế học đường năm 2015 2016 trên địa bàn toàn thành phố. Theo đó, yêu cầu kiện toàn Ban
chỉ đạo Y tế học đường các cấp, tăng cường chỉ đạo, kiểm tra
công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường học:
bếp ăn bán trú, căng tin, cơ sở cung cấp suất ăn cho học sinh,
nước uống cho học sinh, các hàng, quán bán thực phẩm khu vực


xung quanh các trường học. Đưa công tác y tế học đường vào chỉ
tiêu đánh giá thi đua hàng năm của các cơ sở giáo dục và các cấp
quản lý giáo dục.




×