Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Thông tin bất đối xứng, quản trị công ty và hiệu quả hoạt dộng tại các ngân hàng thương mại việt nam (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.28 KB, 12 trang )

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU
1.1

Lý do chọn đề tài
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về quản trị công ty cũng như mối quan
hệ giữa Quản trị công ty (QTCT) với hiệu quả hoạt động của công ty hay mối quan
hệ giữa QTCT với thông tin bất đối xứng.
Các kết quả về các mối quan hệ này cũng hết sức khác nhau. Chẳng hạn, nghiên
cứu của Hermalin và Weisbach (1998, 2003), Bhagat và Black (2002) chỉ ra rằng sự độc
lập ngày càng lớn của ban giám đốc có mối quan hệ đồng biến tới kết quả hoạt động của
công ty khi sự độc lập của ban giám đốc được chọn làm thước đo cho quản trị của công
ty. Nhưng gần đây, Bhagat và Bolton (2008) phát hiện mối quan hệ nghịch biến giữa sự
độc lập của ban giám đốc với kết quả hoạt động của công ty, trong khi quy mô của ban
giám đốc cũng có mối quan hệ nghịch biến với kết quả hoạt động (Bhagat, Carey và
Elson, 1999).
Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa QTCT và thông tin bất đối xứng có sự đồng
thuận cao hơn. Lý thuyết cho thấy, cơ chế QTCT tại các tổ chức ngân hàng lớn bị ảnh
hưởng lớn bởi thông tin bất đối xứng (Raheja, 2005 và Adams và Ferreira, 2007). Bên
cạnh đó, ảnh hưởng của cơ chế quản trị dường như xuất hiện tại các lĩnh vực cụ thể và
không có một cơ chế QTCT nào có thể phù hợp với mọi loại hình công ty (Coles, Daniel
và Naveen, 2008). Vì vậy, việc hiểu rõ vai trò của thông tin bất đối xứng và mối quan hệ
của thông tin bất đối xứng đối với cơ chế QTCT đối với từng lĩnh vực là quan trọng để có
những cơ chế quản trị phù hợp với từng công ty thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Tại Việt Nam gần đây cũng đã có nhiều hơn những nghiên cứu về mối quan hệ
giữa QTCT với hiệu quả hoạt động hay QTCT với thông tin bất đối xứng. Tuy vậy, hầu
như chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến mối quan hệ của ba nhân tố này trong cùng
một nghiên cứu hoặc việc đề cập đến rất mờ nhạt và không rõ ràng.
Chính vì vậy, xuất phát từ thực tế trên, tác giả thấy cần thiết có một nghiên cứu
thực nghiệm nhằm kiểm định mối quan hệ giữa ba nhân tố: thông tin bất đối xứng,
quản trị công ty , hiệu quả hoạt động ngân hàng trên cùng một mô hình, đặc biệt trong
lĩnh vực ngân hàng, một lĩnh vực tài chính có nhiều tính chất đặc thù. Do vậy, tác giả


lựa chọn đề tài “Thông tin bất đối xứng, quản trị công ty và hiệu quả hoạt động tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Luận án có những mục tiêu chính như sau:
Thứ nhất, kiểm định mối quan hệ giữa quản trị công ty với thông tin bất đối
xứng trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Thứ hai, kiểm định môi quan hệ giữa quản trị công ty với hiệu quả hoạt động
của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Thứ ba, kiểm định mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
Thứ tư, Trên cơ sở kiểm định các mối quan hệ, phân tích thực trạng quản trị
công ty tại các NHTMCP, để xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao năng lực quạn
trị, hạn chế thông tin bất đối xứng để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu như đã nêu trên, trong nghiên cứu này của mình, câu
hỏi nghiên cứu của tác giả như sau:
1

- Những yếu tố nào của quản trị công ty ảnh hưởng đến thông tin bất đối xứng
trong ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
- Những yếu tố nào của thông tin bất đối xứng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động của ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam.
- Những yếu tố nào của quản trị công ty ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt hoạt
động của ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam.
1.4 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là mối quan hệ giữa quản trị công ty, thông tin bất đối
xứng và hiệu quả hoạt động của NHTM cổ phần tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Quản trị công ty, thông tin bất đối xứng, hiệu quả hoạt
động của NHTM cổ phần niêm yết trên sàn chứng khoán Hà Nội và TP Hồ chí

Minh từ năm 2006 đến năm 2014.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
- Quá trình nghiên cứu được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu định lượng.
- Mẫu nghiên cứu gồm 16 ngân hàng thương mại được niêm yết trên sàn
chứng khoán Hà Nội và TP Hồ Chí Minh từ năm 2006 đến 2014.
- Các biến được chia thành 04 nhóm: Nhóm thứ nhất, các biến đo lường
quản trị ngân hàng gồm 08 biến. Nhóm thứ hai, các biến đo lường thông tin
bất đối xứng gồm 02 biến. Nhóm thứ ba, biến đo lường hiệu quả quản trị
ngân hàng gồm 01 biến. Nhóm thứ tư, các biến kiểm soát gồm 03 biến.
- Phương pháp phân tích dữ liệu: dùng phần mềm SPSS, Excel…
1.6. Kết quả đạt được của luận án
Thứ nhất, xây dựng được một hình nghiên cứu. Thứ hai, kiểm định được
mối quan hệ giữa ba nhân tố: quản trị công ty, thông tin bất đối xứng và hiệu quả
hoạt động của ngân hàng thương mại. Thứ ba, đưa ra các kiến nghị.
1.7. Bố cục luận án
Bố cục của luận án dự kiến gồm 5 chương
Chương 1: Giới thiệu chung về nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về quản trị công ty, thông tin bất đối xứng và hiệu
quả hoạt động của ngân hàng thương mại
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Bình luận và kiến nghị
1.8 Mô hình nghiên cứu và giả thuyết dự kiến
H1: có mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động ngân hàng.
H2: có mối quan hệ giữa quản trị công ty và thông tin bất đối xứng.
H3: có mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Thông tin bất đối
xứng

Quản trị công ty


Hiệu quả hoạt động
ngân hàng

Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu dự kiến
2


CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY, THÔNG TIN
BẤT ĐỐI XỨNG VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
2.1. Tổng quan về quản trị công ty
2.1.1. Các định nghĩa về quản trị công ty
Các nhà nghiên cứu đã có nhiều định nghĩa về quản trị công ty. Tuy vậy, các nhà
nghiên cứu thường phân chia định nghĩa quản trị công ty theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Financial Times (1997) coi “quản trị công ty có thể được hiểu theo nghĩa hẹp là quan hệ
của một công ty với các cổ đông, hoặc theo nghĩa rộng là quan hệ của công ty với xã
hội…”. Các nhà nghiên cứu định nghĩa QTCT theo nghĩa rộng, Mulbert (2010) coi
QTCT là quá trình ra quyết định của Hội đồng quản trị và các nhà quản lý cao cấp nhằm
đạt được mục tiêu của công ty và cổ đông. Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu này
thì QTCT được định nghĩa là một tập hợp các mối quan hệ giữa quản lý của một công
ty, HĐQT, các cổ đông và các bên liên quan khác. Một cơ chế QTCT được coi là phù
hợp khi đảm bảo được hoạt động của HĐQT và các nhà quản lý theo đuổi mục tiêu vì
lợi ích của công ty và cổ đông của mình (OECD, 2004).
Từ hai cách tiếp cận trên, ta nhận thấy tuy các nhà nghiên cứu có những cách tiếp
cận khác nhau về QTCT theo nghĩa hẹp và rộng nhưng giữa hai cách tiếp cận này vẫn
có những điểm tương đồng. Thứ nhất, cơ cấu của bộ máy quản lý công ty xác định sự
phân chia quyền hạn và trách nhiệm giữa các thành viên khác nhau trong công ty. Cấu
trúc QTCT hoàn chỉnh và hiệu quả gồm các cấu phần: chủ sở hữu, HĐQT, các ban giúp
việc cho HĐQT, Ban điều hành cấp cao, cấp trung và các nhân viên tác nghiệp trực tiếp.

Thứ hai, cấu trúc QTCT được coi như một yếu tố vô hình nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
của các cổ đông, của người gửi tiền đảm bảo tính minh bạch trong việc cung cấp các
thông tin, báo cáo; tính tuân thủ các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế; văn hóa tổ
chức và những chuẩn mực đạo đức. Thứ ba, QTCT có thể coi là một trong những công
cụ của quản lý nhằm giúp người chủ công ty có thể kiểm soát được các hoạt động của
giám đốc điều hành, ban kiểm soát, hội đồng quản trị và một số đối tượng khác trong
công ty.
2.1.2 Tầm quan trọng của quản trị công ty
Quản trị công ty được tạo ra với mục đích cuối cùng là ra các quyết định đúng đắn
để vận hành công ty thông qua việc xây dựng một cơ chế phân định rõ quyền và trách
nhiệm của mỗi thành phần liên quan đến công ty. Việc nhìn rõ trách nhiệm, nghĩa vụ,
quyền lợi của mình sẽ giúp các bên liên quan đưa ra các quyết định đúng đắn vì lợi ích
chung. Nếu công ty có hoạt động yếu kém, thì đó là lỗi của HĐQT không thực hiện
đúng vai trò của mình và hạn chế tình huống không ai chịu trách nhiệm về những sai
lầm trong hoạt động điều hành công ty. Trách nhiệm là những gì giúp mọi người trong
công ty đưa ra quyết định ở vị trí của mình. Một khía cạnh quan trọng của QTCT là
giảm rủi ro cho công ty. Việc thực thi QTCT bên cạnh việc xác định vai trò của mỗi
thành viên sẽ gắn trách nhiệm của họ với từng hoạt động. Mỗi hoạt động sai lầm hoặc
cố tình vi phạm sẽ chịu trách nhiệm trước các quy định chung công ty cũng như các quy
định của pháp luật. Bên cạnh đó, đối với hoạt động kinh doanh, QTCT sẽ giúp công ty
được chấp nhận rộng rãi hơn. Điều này có được là do nguyên tắc minh bạch trong hoạt
động, từ các vấn đề tài chính, đầu tư đến định hướng chung trong hoạt động hay tầm
nhìn của công ty cơ bản sẽ được công khai.
2.1.3 Một số mô hình quản trị công ty trên thế giới
Căn cứ vào đặc điểm hệ thống tài chính và sự phân tách giữa sở hữu và quản
trị, các nhà nghiên cứu chia QTCT thành 3 mô hình sau: (1) Mô hình QTCT của
3

các nước Anh, Mỹ (Anglo-Saxon); (2) Mô hình QTCT của Đức; (3) Mô hình
QTCT của Nhật Bản.

Định hướng
Đảm bảo lợi
ích
Quản lý
Điểm mạnh
Tăng trưởng
Cung cấp tài
chính

Kiểm soát

Hạn chế

Mỹ - Anh
Thị trường chứng khoán
Quyền sở hữu của cổ đông

Đức (Châu Âu)
Hệ thống ngân hàng
Quyền sở hữu tài sản của cổ
đông và mối quan hệ giữa
công ty và nhân viên

Nhật Bản
Hệ thống ngân hàng
Lợi ích của các đối
tượng liên quan (các
công ty xoay quanh một
định chế tài chính) keiretsu
Giám đốc điều hành

Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị
Ban kiểm soát
Ban kiểm soát
Kỷ luật thị trường
Nhiều rào cản ngăn ngừa rủi Trực tiếp chịu ảnh
Minh bạch cao
ro
hưởng của chủ sở hữu
Lợi ích đối với các bên
Thông qua mua bán, sáp nhập và tăng trưởng nội sinh
- Xu hướng nợ thấp
- Xu hướng nợ cao
- Xu hướng giảm nợ/ vốn chủ sở - Xu hướng nợ trên vốn chủ sở hữu cao
hữu
- Ít sử dụng các công cụ tài chính phức tạp
- Sử dụng các công cụ tài chính
đa dạng và phức tạp
- Chia tách giữa sở hữu và quản lý - Phối hợp giữa kiểm soát và quản lý
- Giảm động lực đối với nhà đầu - Quản lý bởi các đối tượng có liên quan (ngân
hàng, công ty, cổ đông)
tư tham gia quản lý
- Dễ gây đổ vỡ
- Chậm thay đổi
Khó thay đổi và thích
- Thâu tóm dẫn đến độc quyền
- Hệ thống có thể tạo nghi với cơ chế mới
- Các nhà quản lý có thể thực hiện ra xung đột
các hoạt động vì lợi ích cá nhân


Bảng 2.1: So sánh đặc điểm về mô hình quản trị công ty các nước
2.1.4. Sự khác biệt giữa quản trị công ty ngân hàng và công ty khác
Nguyên nhân có sự khác biệt giữa QTCT ngân hàng và các công ty khác là do sự
tác động bởi sáu điểm khác biệt giữa hai loại hình công ty này gồm: (1) qui mô ảnh
hưởng của ngân hàng lớn hơn công ty phi tài chính; (2) hoạt động ngân hàng sử dụng
đòn bẩy tài chính lớn hơn công ty phi tài chính; (3) hoạt động của ngân hàng chịu tác
động bởi nhiều qui tắc; (4) cấu trúc vốn phức tạp hơn công ty phi tài chính; (5) thông tin
không đối xứng và sự lựa chọn đối nghịch trong ngân hàng nghiêm trọng hơn các loại
hình công ty khác; (6) tính chất phức tạp trong các hoạt động ngân hàng.
2.1.5 Các lý thuyết về quản trị công ty và thang đo quản trị công ty
2.1.5.1 Lý thuyết người đại diện
Thuật ngữ “quản trị công ty” liên quan tới lý thuyết “người đại diện”. Ở cấp này,
“người đại diện” là người sở hữu công ty nhưng không tham gia vào quản lý công ty đó.
Theo cách hiểu này, quản trị công ty bắt nguồn từ khu vực tư nhân cũng như thường tập
trung quan tâm đến mối quan hệ giữa cổ đông và công ty. Tuy vậy, OECD (2004) đã
đưa ra một định nghĩa về QTCT mang nghĩa rộng hơn. Tổ chức này cho rằng QTCT là
tổng hòa các mối quan hệ đầy đủ giữa quản lý công ty, các cổ đông, ban giám đốc và
các bên có liên quan. Theo như cách hiểu này, QTCT sẽ là cơ sở để thiết lập các mục
tiêu của công ty và các phương thức được đưa ra nhằm đạt được mục tiêu cũng như
kiểm soát các kết quả hoạt động. Theo như tác giả Đào Thị Thanh Bình (2012) thì lý
thuyết người đại diện có ba giả thiết chủ yếu sau: thứ nhất, các thị trường bình thường
/cạnh tranh; thứ hai, các mối quan hệ của thông tin bất đối xứng là mối quan hệ người
ủy quyền và người được ủy quyền giữa chủ sở hữu và người quản lý; thứ ba, cấu trúc
4


vốn tối ưu đòi hỏi phải tận dụng đòn bẩy tài chính.
2.1.5.2. Lý thuyết các bên có liên quan
QTCT chia các nhóm liên quan thành hai nhóm chính: bên trong và bên ngoài
công ty. Nhóm bên ngoài công ty gồm: cổ đông, chủ nợ, nhà cung cấp, nhà cung cấp

cho trả chậm, khách hàng và cơ quan quản lý. Nhóm bên trong hay còn gọi là nhóm nội
bộ công ty gồm: ban giám đốc điều hành, nhân viên và HĐQT của công ty. Tất cả các
bên tham gia đều nằm trong quá trình giám sát hiệu quả hoạt động của công ty hoặc trực
tiếp hoặc gián tiếp nhưng ở các cấp độ khác nhau và với các mục tiêu khác nhau.
Theo Friedman (2006) cho rằng công ty nên được xem là nơi tổng hòa của các bên
liên quan và mục đích của doanh ngiệp là quản lý lợi ích, nhu cầu và quan điểm của họ
dựa trên một số nguyên tắc đạo đức.
Có 3 cách tiếp cận lý thuyết các bên liên quan: mô tả / thực tiễn, mang tính công
cụ, và chuẩn tắc (Đào Thị Thanh Bình, 2012). Tuy nhiên, Donaldson và Preston (1995)
cho rằng cả ba cách tiếp cận lý thuyết về các bên liên quan mặc dù khá khác nhau,
nhưng lại hỗ trợ lẫn nhau và cơ sở lý thuyết chuẩn tắc đóng vai trò quan trọng cho lý
thuyết này.
2.1.5.3.Lý thuyết về nhà quản lý
Ý tưởng chính của lý thuyết người quản lý là phản ánh ý niệm về bổn phận và
trách nhiệm đối với người khác dựa trên việc duy trì mối quan hệ giao ước. Theo như
Penner, Dovidio, Piliavin, & Schroeder (2005) thì các hành vi quản lý là một loại hành
động xã hội nhằm mục đích ảnh hưởng tích cực lên người khác. Lý thuyết về nhà quản
lý lại chỉ ra rằng nhà quản lý còn tìm kiếm các lợi ích khác ngoài lợi ích về kinh tế như:
vị trí xã hội, lòng trắc ẩn, danh tiếng tốt, việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, cảm
giác hài lòng về công việc và ý thức được làm việc vì mục đích tốt đẹp. Lý thuyết về
nhà quản lý cũng chỉ ra rằng các nhà quản lý tự họ muốn làm tốt công việc, tối đa hóa
lợi nhuận của công ty và đem lại lợi nhuận tốt cho các cổ đông. Họ không nhất thiết làm
việc này vì lợi ích tài chính của họ, mà họ cảm thấy có một trách nhiệm cao cả đối với
công ty. Lý thuyết về nhà quản lý cũng ủng hộ các nhà quản lý được tự do theo đuổi
mục đích riêng của mình.
2.1.5.4 Thang đo quản trị công ty
Quản trị công ty được đại diện bởi nhiều biến với nhiều cách thức khác nhau.
Edward và Clough (2005) đã tổng hợp các thước đo về quản trị công ty trong các nghiên
cứu trước, các luật định về quản trị công ty gồm có: quy mô ban giám đốc; sự tách biệt
giữa chủ tịch và CEO (tính nhị nguyên); thành viên HĐQT độc lập; sự cân bằng kỹ

năng và năng lực của giám đốc; ban kiểm soát và các ban khác. Một số nghiên cứu (ví
dụ nghiên cứu của Võ Đức và Phan Thúy, 2013) sử dụng nữ thành viên HĐQT và trình
độ giáo dục của thành viên HĐQT như là các biến đại diện cho quản trị. Lê Quang Cảnh
và cộng sự (2015), lại dùng thang đo gồm: qui mô HĐQT, tính nhị nguyên giữa chủ tịch
và giám đốc điều hành, giới tính của CEO, các thành viên độc lập của HĐQT và qui mô
của ban giám đốc làm thước đo cho biến quản trị công ty. Tác giả Đào Thị Thanh Bình
và cộng sự (2012) lại dùng các biến như: số lượng thành viên HĐQT, tỉ lệ quyền sở hữu
nước ngoài, đặc điểm và thành phần HĐQT làm thước đo cho quản trị công ty. Nghiên
cứu của Nguyễn Hồng Sơn và cộng sự (2015) cũng lựa chọn cấu trúc sở hữu trong đó có
biến sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài là một trong những thang đo QTCT. Các
nghiên cứu về quyền sở hữu của Gursory và Aydogan (2002); Rokwaro (2013);
Anstoniasidis (2010); Peong (2012) cũng có cùng thước đo như trên ty nhưng thêm
thước đo cổ đông lớn đối với quản trị công. Trong nghiên cứu của Adams và Fereira
(2007); Đoàn Hồng Phúc và Lê Văn Thông (2014) các tác giả này cũng xây dựng các
5

thước đo về quản trị công ty gồm nhiều biến trong đó biến kinh nghiệm của HĐQT là
một trong những thước đo được sử dụng.
Từ những tổng kết về các thước đo quản trị công ty như đã nêu trên, tác giả sẽ sử
dụng tám thước đo gồm: Qui mô hội đồng quản trị; Số lượng nữ giới trong hội đồng
quản trị; Trình độ học vấn của hội đồng quản trị; Kinh nghiệm làm việc của hội đồng
quản trị; Số lượng thành viên độc lập của hội đồng quản trị; Cổ đông lớn; Sở hữu nhà
nước và % sở hữu nước ngoài
STT
1
2
3
4

Tên nhân

tố
Broad size
Gender

5

Edu
Board
Age
Block

6

State

7
8

Fown
Outdir

Ý nghĩa
Thành viên HĐQT
Thành viên nữ thuộc
HĐQT
Trình độ của HĐQT
Kinh nghiệm làm việc của
thành viên HĐQT
Cổ đông lớn


Cách tính
Số lượng thành viên thuộc HĐQT
Số lượng thành viên là nữ thuộc HĐQT
Thành viên có trình độ sau đại học
Độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT

“1” nếu tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các cổ
đông lớn hơn 5% (không tính số cổ phiếu
thuộc nhà nước) và “0” nếu ngược lại
Quyền sở hữu của nhà “1” nếu nhà nước làm chủ và “0” nếu ngược
nước
lại
Sở hữu nước ngoài
Tỷ lệ % sở hữu
Số lượng thành viên độc Số lượng thành viên . Chú ý có thể tính bằng
lập của hội đồng quản trị
% độc lập trên tổng số thành viên

Bảng 2.3: Các thước đo quản trị ngân hàng
2.2 Tổng quan về thông tin bất đối xứng
2.2.1 Khái niệm về thông tin bất đối xứng
Thông tin bất đối xứng là mức độ thông tin không phản ánh kịp thời, chính xác,
đầy đủ về thị trường và diễn biến của nó. Điều này có nghĩa các đối tượng cùng giải
quyết một vấn đề, cùng tham gia một thị trường nhưng một bên giao dịch có các thông
tin liên quan trong khi bên kia không có hoặc không có đầy đủ. Nguyên nhân của điều
này có thể do các lý do sau: thứ nhất, nguồn thông tin khác nhau; thứ hai thời điểm tiếp
nhận thông tin khác nhau; thứ ba, do trình độ xử lý thông tin khác nhau của các bên
nhận được các luồng thông tin. Thông tin bất đối xứng là nguyên nhân dẫn đến thị
trường kém hiệu quả.
2.2.2 Các hình thức thông tin bất đối xứng

Trong thị trường tài chính nói chung và thị trường ngân hàng nói riêng, thông tin
bất đối xứng thể hiện cụ thể dưới ba hình thức: thứ nhất, lựa chọn đối nghịch; thứ hai,
tâm lý ỷ lại; thứ ba, chi phí giám sát.
2.2.3 Ảnh hưởng của thông tin bất đối xứng trong hệ thống tài chính-ngân hàng
Về khía cạnh “lựa chọn bất lợi”. Lựa chọn bất lợi xảy ra phổ biến ở thị trường tài
chính nói chung và ngân hàng nói riêng. Nghiên cứu của Awargal và các cộng sự (2011)
đã chỉ ra ảnh hưởng của lựa chọn bất lợi trong quá trình chứng khoán hóa các khoản cho
vay có thế chấp của hệ thống ngân hàng Mỹ trong thời gian từ 2004-2008, trong đó các
ngân hàng, do không có đầy đủ thông tin, đã giữ lại các khoản vay thực chất có độ rủi ro
cao hơn, trong khi lại tập hợp các khoản vay có độ rủi ro thấp chuyển đổi thành các cổ
phiếu bán ra thị trường. Đây được cho là một trong những nguyên nhân làm tăng khả
năng mất thanh khoản của ngân hàng, góp phần dẫn đến khủng hoảng tài chính. Thông
tin bị che đậy đã khiến cho việc cho vay vốn trở nên không kiểm soát được, nợ xấu chắc
chắn xuất hiện khi thị trường suy yếu.
6


Về khía cạnh “tâm lý ỷ lại”. Có thể coi trường hợp của 2 tập đoàn Fannie Mae và
Freddie Mac tại Mỹ là điển hình của “tâm lý ỷ lại”. Tâm lý ỷ lại được coi là nguyên
nhân chính gây ra hiện tượng “sản xuất và tiêu dùng” quá mức tối ưu sản phẩm tài chính
MBS, đánh mất tính hiệu quả của thị trường, và khi thị trường cho vay dưới chuẩn của
Mỹ sụp đổ, Fannie Mae và Fredie Mac hoàn toàn mất thanh khoản.
Vấn đề “người ủy thác” và “đại diện”. Nhà quản lý của các tổ chức tài chính là
người đại diện cho các cổ đông và nhà đầu tư để điều hành tổ chức đó. Do tính chất đặc
thù của ngành là đòi hỏi phải có sự am hiểu chuyên môn nên cổ đông và nhà đầu tư
thường phó thác cho người đại diện, khiến cho các hệ quả của thông tin bất đối xứng
càng dễ dàng có điều kiện xảy ra (Pilbeam, 2010).
2.2.4 Các nghiên cứu về thông tin bất đối xứng
Lý thuyết về thông tin bất đối xứng được đưa ra bởi Akerlof (1970). Từ nghiên
cứu của Akerlof, Spence (1973) và Stiglitz (1976) đề xuất một số giải pháp nhằm khắc

phục tình trạng trên của thông tin. Lý thuyết chung về ngân hàng, thuật ngữ thông tin bất
đối xứng có thể được thay thế bằng “tính mờ”. Flannery, Kwan và Nimalendran 2004
định nghĩa “tính mờ” có nghĩa là các nhà đầu tư vào ngân hàng không thể đánh giá về
giá trị tài sản của ngân hàng một cách chính xác nhưng những người bên trong hoặc các
chuyên gia có khả năng đánh giá đúng về vấn đề này.
Morgan (2002) cho rằng thông tin bất đối xứng gắn liền với đặc tính của ngân
hàng và tính bất đối xứng thông tin tại lĩnh vực ngân hàng rõ ràng hơn nhiều so với các
loại hình công ty khác. Điều này dựa trên đặc điểm ngân hàng giống như hộp đen, dòng
tiền đi vào và dòng tiền đi ra, nhưng những người bên ngoài ngân hàng khó có thể quan
sát hết những rủi ro trong quá trình vận động trung gian. Levine (2004) thừa nhận rằng
những đối tượng ngoài ngân hàng không thể theo dõi một cách đầy đủ về chất lượng của
các khoản cho vay của ngân hàng. Ông cho rằng ngân hàng có thể giấu đi các vấn đề
thông qua việc cung cấp các khoản cho vay đối với khách hàng với mức lãi xuất cao
khiến khách hàng có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, từ đó ảnh hưởng
đến khả năng trả nợ cũng như có thể gây ra tình trạng mất vốn của ngân hàng.
2.2.5 Cấu trúc biến thông tin bất đối xứng
Các nghiên cứu cho thấy không có biện pháp nào là tối ưu để đo được mức độ bất
đối xứng của thông tin. Tuy vậy, theo một số tác giả trên thế giới thì có một số nhân tố
thể dại diện cho biến thông tin bất đối xứng như: số lượng chuyên gia nghiên cứu
(Brennan và Subrahmanyam, 1995); số lượng cổ đông (Allen ,1993); quy mô công ty
(Vermaelen ,1981); Chi phí nghiên cứu và phát triển (Barth và Kasznik,1999); chỉ số
Tobin’s Q; chỉ số đòn bẩy tài chính, Bebchuk 2003).
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp đo lường bằng hai cách thích
hợp đối với tình trạng số liệu có thể lấy được tại Việt Nam, đó là chỉ số chi phí nghiên
cứu (R&D) và chỉ số đòn bẩy tài chính (Leverage).
2.3. Tổng quan về hiệu quả hoạt động của ngân hàng và phương pháp đo
lường
Hiệu quả hoạt động của công ty là chỉ tiêu rất quan trọng đối với các bên liên quan
như cổ đông, ban giám đốc, chủ nợ, nhà cung cấp, người tiêu thụ… Hiệu quả hoạt động
của công ty được đo lường bằng nhiều chỉ số khác nhau. Theo Bhagat và Bolton (2008),

các biến đại diện thông dụng nhất cho kết quả hoạt động của công ty gồm có: Tỷ suất
sinh lời trên tổng tài sản (ROA); Tobin’Q: chỉ tiêu này được tính toán bởi (Gom- pers,
Ishii và Metrick, 2003; Brainard và Tobin 1968); Lợi nhuận cổ phiếu: thu nhập hỗn hợp
trong một năm (gồm cả cổ tức); Tỷ lệ đòn bẩy tài chính- là tổng nợ dài hạn chia tổng tài
sản. Vì hạn chế dữ liệu, các nghiên cứu về chủ đề này thường chỉ sử dụng chỉ tiêu đơn lẻ
7

để phản ánh kết quả hoạt động công ty, trong đó tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản, lợi
nhuận trước thuế và khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước là các thước đo thông
dụng nhất.
Trong nghiên cứu này của mình tác giả sẽ sử dụng chỉ số tỷ suất sinh lời trên tổng
tài sản (ROA) vì chỉ số này được rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước sử dụng
cũng như chỉ số này được công bố rộng rãi.
2.4. Tổng quan về mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng, quản trị công ty và
hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
2.4.1. Mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động ngân
hàng
Các nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ nhất định giữa hoạt động công bố thông
tin và hoạt động quản trị công ty. Các nghiên cứu tiêu biểu về mối quan hệ giữa thông
tin bất đối xứng và hiệu quả doanh nghiệp có thể kể đến như: Lowenstein (1996); Abdul
Rahman (2006); Abdul Rahman và Rizal Salim (2010). Các tác giả này đều lập luận
rằng việc công bố thông tin đầy đủ và minh bạch sẽ góp phần làm tăng hiệu quả quản trị
cũng như hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Hai nhân tố đại diện cho biến thông tin bất đối xứng là R&D và đòn bẩy tài chính
(leverage) cũng được nhiều nghiên cứu cho rằng có mối quan hệ với hiệu quả hoạt động
ngân hàng. Các nghiên cứu của Pandey, 2010; Andy, Chuck & Alison, 2002 khẳng
định có mối quan hệ hệ giữa đòn bẩy tài chính và hiệu quả hoạt động. Còn các nghiên
cứu của Sougiannis (1994); Canibano và Garcia-Ayuso (2000) lại khẳng định có mối
quan hệ giữa R&D và hiệu quả hoạt động.
Từ các nghiên cứu trên, tác giả có giả thuyết sau:

H1.1: Chi phí R&D có tác động tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
H1.2: Chỉ số đòn bẩy tài chính Leverage có tác động tới hiệu quả hoạt động của
ngân hàng.
2.4.2. Mối quan hệ giữa quản trị công ty và thông tin bất đối xứng
Mặc dù có nhiều nghiên cứu trước đây về QTCT, tuy nhiên còn ít nghiên cứu về
mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và QTCT và mức độ thông tin bất đối xứng.
Nghiên cứu của Shleifer và Vishny (1997), Perotti và Thadden (2003), Pawlina và
Renneboog (2005) và Florackis và Ozkan (2009) cho thấy số cổ đông càng lớn sẽ tỷ lệ
nghịch với mức độ bất đối xứng thông tin và cải thiện hiệu quả hoạt động của công ty.
Tuy vậy các nghiên cứu của các tác giả khác cho kết quả ngược lại.
Cai và cộng sự. (2006), Hillier và McColgan (2006), Kanagaretnam và cộng sự.
(2007) và Holm và Scholer (2010) thấy rằng HĐQT độc lập có liên quan ngược chiều
với thông tin bất đối xứng. Trong khi, Chen và Nowland (2010) cho rằng tăng thành
viên độc lập trong HĐQT sẽ đảm bảo lợi ích tốt hơn cho các cổ đông thiểu số.
Nghiên cứu của Adams và Mehran (2005) không tìm thấy bằng chứng về mối
quan hệ giữa quy mô ban giám đốc và kết quả hoạt động của công ty (tác giả đo lường
bằng chỉ số Tobin’Q). Tuy nhiên Andres và Valleado (2008) chứng minh có mối quan
hệ phi tuyến tính giữa quy mô HĐQT và kết quả hoạt động của ngân hàng
Nghiên cứu của Bushman và Smith (2003) nhấn mạnh thông tin trong báo cáo tài
chính đóng vai trò quan trọng như là nguồn thông tin chính đối với các nhà đầu tư và
nhà làm luật. Hai tác giả nhận định thông tin báo cáo tài chính không chỉ giúp hạn chế
các vấn đề liên quan đến thông tin bất đối xứng mà còn giúp HĐQT đưa ra các quyết
định quản lý quan trọng. Trong đó báo cáo tài chính giúp giảm các lựa chọn đối nghịch
và rủi ro thanh khoản, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính của ngân hàng. Đồng
thời giúp các nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro khi đầu tư. Bên cạnh đó, các nghiên cứu trước
8


đó đã chứng minh có mối quan hệ giữa lợi nhuận kiếm được và kết quả điều hành của
các nhà quản lý cao cấp.

Healy và Palepu (2001) cung cấp những lý thuyết rộng hơn về cung cấp thông tin
tự nguyện. Họ liệt kê những động lực phía sau các quyết định công bố thông tin. Một
trong những động lực chính là việc tham gia vào các giao dịch trong thị trường vốn. Nói
chung, các nhà quản lý có thông tin đầy đủ hơn so với các nhà đầu tư, khi tham gia vào
thị trường vốn, các nhà quản lý có xu hướng cung cấp thông tin tự nguyện nhiều hơn
nhằm giảm vấn đề thông tin bất đối xứng, giảm chi phí tài chính bên ngoài, đồng thời
đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư.
Các nghiên cứu trước đó cũng tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa cung cấp
thông tin tự nguyện và vấn đề QTCT. Ví dụ, Eng và Mak (2003) kiểm định tác động của
cấu trúc sở hữu và thành phần HĐQT đối với hoạt động công bố thông tin tự nguyện.
Họ phát hiện ra rằng khi các nhà quản lý có mức sở hữu thấp và sở hữu của chính phủ ở
mức cao sẽ gắn liền với mức công bố thông tin tốt hơn. Họ cũng chứng minh số lượng
các thành viên bên ngoài càng nhiều thì hoạt động công bố thông tin càng giảm.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả sử dụng hai chỉ số Leveragel và R&D là đại
diện của thông tin bất đối xứng. Vì vậy, tác giả đưa ra các giả thuyết nghiên cứu nhằm
qua đó đánh giá một cách gián tiếp sự ảnh hưởng của các yếu tố thuộc quản trị công ty
tới thông tin bất đối xứng như sau:
- H2.1: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới chi phí R&D
- H2.2: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới chi
phí R&D
- H2.3: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới chi phí R&D
- H2.4: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới chi phí R&D
- H2.5: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới chi
phí R&D
- H2.6: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới chi phí R&D
- H2.7: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới chi phí R&D
- H2.8: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới
chi phí R&D
- H2.9: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới đòn bẩy tài chính Leverage
- H2.10: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới

đòn bẩy tài chính Leverage
- H2.11: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới đòn bẩy tài
chính Leverage
- H2.12: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới đòn bẩy tài
chính Leverage
- H2.13: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới đòn
bẩy tài chính Leverage
- H2.14: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới đòn bẩy tài chính
Leverage
- H2.15: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới đòn bẩy tài chính
Leverage
- H2.16: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới
đòn bẩy tài chính Leverage
2.4.3. Mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động ngân hàng
Có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa QTCT và hiệu quả hoạt động của công
ty. Cách thứ nhất là một đánh giá toàn diện về quản trị công ty bằng một chỉ số mà
9

người ta thường gọi là chỉ số QTCT. Cách thứ hai là nghiên cứu mối quan hệ của những
nhân tố trong quản trị công ty với hiệu quả QTCT
2.4.3.1. Cách tiếp cận thông qua chỉ số quản trị công ty
Các nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa quản trị công ty (đại diện bởi chỉ
số quản trị công ty) và tình hình hoạt động của công ty. Rất nhiều nghiên cứu sử dụng
mối tương quan và hồi quy để kiểm tra mối quan hệ này. Kết quả rất đa dạng do phụ
thuộc vào yếu tố thời gian thu thập dữ liệu và các điều kiện cụ thể của quốc gia đó. Các
nghiên của Gompers, Ishii & Metrick (2003); Brown (2004) tìm ra mối quan hệ thuận
chiều giữa quản trị công ty với hiệu quả hoạt động (Tobin’Q) tuy nhiên các nghiên cứu
của Epps và Cereola (2008) lại không tìm ra mối quan hệ như vậy. Tương tự, Daines,
Gow & Larcker (2009), Vintila. G và Gherghina (2012) đã nghiên cứu mối quan hệ thực
nghiệm giữa các đánh giá quản trị công ty và tình hình hoạt động của công ty niêm yết

trên thị trường chứng khóan Mỹ. Nghiên cứu đưa ra kết quả mối tương quan tỷ lệ
nghịch giữa các chỉ số phụ về quản trị công ty (kiểm toán, cấu trúc các hội đồng quản
trị, quyền cổ đông và sự bồi thường được cung cấp bởi Institutional Shareholder
Services và tình hình hoạt động của công ty.
CGI có mối tương quan tỷ lệ nghịch với tỷ lệ đòn bẩy tài chính, Tobin’s Q nhưng
có mối tương quan tỷ lệ thuận với quy mô công ty. Ngược lại, B, Jang Hasung, Kim
(2003) xem xét ảnh hưởng của quản trịc ông ty lên giá trị công ty ở Hàn Quốc. Kết quả
chỉ ra mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa chỉ số quản trị công ty và tỷ lệ giá trị thị trường trên
giá trị sổ sách và Tobin’s Q. Một nghiên cứu khác được thực hiện bởi Anderson. A và
Gupta. P (2009) so sánh giữa các quốc gia về quản trị công ty (được đo lường bởi
Corporate Governance Quotient) và tình hình hoạt động của công ty. Kết quả cho thấy
mối tương quan tỷ lệ thuận và tỷ lệ nghịch phụ thuộc vào cấu trúc tài chính của quốc gia
và hệ thống pháp lý.
2.4.3.2. Cách tiếp cận thông qua một số nhân tố của quản trị công ty tác động
đến hiệu quả hoạt động
Mối quan hệ giữa số lượng thành viên Hội đồng quản trị với hiệu quả hoạt
động của ngân hàng.
Có 2 trường phái khác nhau về mối quan hệ giữa quy mô của Hội đồng quản trị
(HĐQT) và hiệu suất công ty. Trường phái đầu tiên cho rằng quy mô của HĐQT càng
nhỏ thì đóng góp càng nhiều vào thành công của công ty (Lipton and Lorsch, 1992;
Jensen, 1993; Yermack, 1996). Trường phái thứ hai lại cho rằng HĐQT với quy mô lớn
hơn sẽ làm tăng hiệu suất công ty. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng quy mô HĐQT lớn sẽ
hỗ trợ và tư vấn quản lý công ty hiệu quả hơn do sự phức tạp của môi trường kinh doanh
và văn hóa công ty (Klein, 1998). Thêm vào đó, quy mô HĐQT lớn hơn sẽ quy tập
được nhiều thông tin hơn. Vì vậy, hiệu suất công ty sẽ được nâng cao với quy mô
HĐQT lớn hơn (Dalton and ctg, 1999).
Giả thuyết nghiên cứu:
H3.1: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Mối quan hệ giữa thành viên nữ thuộc hội đồng quản trị với hiệu quả hoạt
động của ngân hàng

Thành viên nữ thuộc HĐQT là đối tượng xuất hiện thường xuyên trong các nghiên
cứu thực nghiệm. Họ phản ánh sự đặc trưng, đa dạng của HĐQT (Dutta và Bose, 2006).
Hơn nữa, theo nghiên cứu của Smith và cộng sự. (2006), có ba nguyên nhân chính : (1)
Thành viên nữ thường có hiểu biết về thị trường sâu rộng hơn so với thành viên nam.
Do đó, những hiểu biết của họ sẽ làm tăng tính hiệu quả trong những quyết định của
HĐQT; (2) Việc thành viên nữ xuất hiện trong HĐQT sẽ tạo nên hình ảnh đẹp hơn cho
10


công ty trong mắt cộng đồng và đóng góp tích cực vào hiệu suất của công ty; (3) Các
thành viên khác trong HĐQT sẽ được nâng cao hiểu biết về môi trường kinh doanh
trong trường hợp thành viên nữ được bổ nhiệm.
Giả thuyết nghiên cứu: H3.2: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ
giới trong HĐQT tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Mối quan hệ giữa trình độ của Hội đồng quản trị với hiệu quả hoạt động
của ngân hàng
Vai trò chính của HĐQT là quản trị nội bộ công ty (Fama, 1980). HĐQT là bộ
máy điều hành của công ty (Fama và Jensen, 1983). Những quyết định đúng đắn của
HĐQT sẽ nâng cao hiệu suất công ty. Để đạt được điều này, thành viên HĐQT phải
được trang bị đầy đủ kiên thức về tài chính, kế toán, marketing, thông tin hệ thống, luật
pháp và các mảng khác liên quan đến quá trình quản lý. Những yêu cầu trên đồng nghĩa
với việc mỗi thành viên trong HĐQT sẽ đóng góp một phần quan trọng và tích cực
trong quá trình quản trị công ty và hiệu suất công ty hay nói cách khác hiệu quả hoạt
động của công ty phụ thuộc vào trình độ chuyên môn của các thành viên HĐQT
(Adams và Fereira 2007) (Nicholson và Kiel, 2004; Fairchild và Li, 2005; Adam và
Ferreira, 2007).
Giả thuyết nghiên cứu:
H3.3: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới hiệu quả hoạt động
của ngân hàng
Mối quan hệ giữa kinh nghiệm làm việc của hội đồng quản trị với hiệu quả

hoạt động của ngân hàng
Có nhiều quan điểm cho rằng thành viên HĐQT với thâm niên làm việc cao sẽ có
nhiều kinh nghiệm trong quản lý hơn. Những kinh nghiệm này được cho là sẽ đóng góp
nâng cao hiệu suất công ty nhiều hơn. Tuy nhiên, thành viên lâu năm thường có xu
hướng quyết liệt và độc tài hơn. Những phẩm chất khác nhau của thành viên HĐQT sẽ
quyết định sự thành bại của công ty (Carlson và Karlsson, 1970). Thành viên HĐQT với
độ tuổi trung bình cao hơn sẽ phải đối mặt với nhiều áp lực hơn trong việc thay đổi môi
trường làm việc và điều này sẽ cản trở việc thực hiện các quyết định chiến lược (Child,
1975). Mặc dù có nhiều tranh cãi xung quanh mối quan hệ giữa kinh nghiệm của HĐQT
và hiệu suất công ty, theo lý thuyết về hạn chế nguồn lực, thành viên với nhiều kinh
nghiệm sẽ đối phó tốt hơn trong môi trường kinh doanh bằng cách làm việc theo nhóm
hiệu quả, đóng góp tích cực vào hiệu suất công ty (Wegge và cộng sự., 2008).
Giả thuyết nghiên cứu: H3.4: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của
HĐQT tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Mối quan hệ giữa thành viên HĐQT độc lập với hiệu quả hoạt động của
ngân hàng
Sự độc lập của HĐQT lớn hơn được nhận thức như một cơ chế giám sát và giữ vai
trò quan trọng trong việc hạn chế và kiểm soát vấn đề đại diện. Kết quả nghiên cứu của
McKnight và Mira (2003) và Henry (2004) cũng cho thấy chi phí đại diện sẽ thấp hơn
nếu số lượng thành viên độc lập trong HĐQT cao hơn. Nghiên cứu Fama và Jensen
(1983) khám phá ra rằng các thành viên HĐQT bên trong do sở hữu nhiều thông tin hơn
thường cấu kết với các nhà quản trị để đưa ra những quyết định chống lại các cổ đông.
Do vậy, HĐQT với các thành viên bên ngoài sẽ làm tăng khả năng giám sát nên sẽ loại
bỏ được cơ bản vấn đề đại diện. Bhagat và Black (2002) sử dụng tỷ lệ các thành viên
độc lập trừ tỷ lệ các thành viên bên trong làm biến đại diện và kết quả cho thấy rằng
mức độ độc lập của HĐQT có tương quan dương có ý nghĩa đến hiệu quả trong ngắn
hạn.
11

Giả thuyết nghiên cứu: H3.5: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập

trong HĐQT tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Mối quan hệ giữa cổ đông lớn với hiệu quả hoạt động của của ngân hàng
Các nghiên cứu thực nghiệm về cổ đông lớn của Shleifer và Vishny (1997) kết
luận rằng các cổ đông lớn có ảnh hưởng quan trọng trong điều hành quản lý công ty: (1)
Cổ đông nhỏ sẽ phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng từ việc lạm dụng quyền lực
trong quá trình vận hành công ty; (2) Sự quản lý khắt khe của nhóm cổ đông lớn có thể
cản trở hoạt động của công ty. Việc điều hành quản lý sẽ không thay đổi để thích ứng
kịp với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Mặc dù có nhiều tranh cãi về tác động
của cổ đông lớn tới hoạt động công ty, nhiều nghiên cứu đều nhận thấy sự quan trọng
của họ. Cụ thể, cổ đông lớn đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành công ty do họ
có đủ kỹ năng, thời gian và theo sát hoạt động của công ty. Denis và McConnell (2003),
Becker và cộng sự. (2011) nhận định quyền lực điều hành tập trung vào nhóm cổ đông
lớn về cơ bản sẽ tác động tích cực đến công ty.
Giả thuyết nghiên cứu: H3.6: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới hiệu quả
hoạt động của ngân hàng
Mối quan hệ giữa quyền sở hữu nhà nước với hiệu quả hoạt động của ngân
hàng
Cổ đông nhà nước cũng như các cổ đông khác, cũng có những xung đột lợi ích
nhưng cũng phải đảm bảo hiệu quả hoạt động cho nhà nước. Ngoài ra, các công ty có cổ
phần nhà nước thường xuất phát từ những công ty nhà nước cổ phần hóa và có những
ưu đãi hơn so với các công ty cổ phần khác như ưu đãi hơn từ các chính sách nhà nước,
có nhiều tài sản hơn, có mối quan hệ với ngân hàng nên việc tiếp cận các nguồn vốn bên
ngoài dễ dàng hơn, chi phí vốn thấp hơn (Borisova và Megginson, 2011; Sun và cộng
sự, 2002) nên hiệu quả hoạt động được kỳ vọng cao hơn.
Giả thuyết nghiên cứu: H3.7: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước
tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài với hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Các cổ đông nước ngoài thường là những nhà đầu tư chuyên nghiệp, kỹ năng hiện
đại kiểm soát và ngăn chặn những hành động gây thiệt hại cho cổ đông của người quản
lý. Theo nghiên cứu của Vinh (2010) về sở hữu nhà đầu tư nước ngoài trên sàn HOSE

từ 2007 đến 2009 thì các nhà đầu tư nước ngoài thích đầu tư vào những công ty lớn, tỷ
lệ vốn hóa thị trường trên vốn chủ sở hữu cao và có tỷ lệ nợ thấp. Ngoài ra, Jeon và
cộng sự (2010) cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài thích những công ty có lớn, ổn định,
có nhiều cơ hội đầu tư hơn. Hơn nữa, các nhà đầu tư nước ngoài thường có kinh nghiệm
quản trị, có khả năng điều hành, có quan hệ thị trường và đối tác lớn nên thường hỗ trợ
công ty hoạt động hiệu quả hơn.
Giả thuyết nghiên cứu: H3.8: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng

12


2.5. Mô hình
nh nghiên cứu

CHƯƠNG 3: PHƯƠN
ƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Th
hiết kế nghiên cứu
3.1.1.. Phương
P
pháp nghiên cứu
Quá trìn
trình nghiên cứu tác giả sử
ử dụn
ụng phương pháp nghiên cứu
ứu đđịnh lượng với
sự hỗ trợ
ợ của
ủa phần mềm SPSS phiên bản

ản 18.
3.1.2.. M
Mẫu nghiên cứu của luận án
3.1.2.1.
1. Tổng thể nghiên cứu
Tổng thể nghiên cứu của luận án đđược xác định là những ngân
ân hàng đã niêm
yết trên haii sàn
s chứng khoán (VN-index
ex và Hnx-index) và các ngân
ân hàng cổ phần
được giao dịịch trên thị trường OTC tro
rong giai đoạn từ giai đoạn 20
2006 (thời điểm
bắt đầu mở ccửa) đến năm 2014
3.1.2.2.
2. Chọn mẫu nghiên cứu
Phương
ương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
ên là phương pháp được tác giả quyết định sử
dụng trong chọn
c
mẫu nghiên cứu. Với
ới 16
1 ngân hàng trên tổng số
ố 336 NHTM của
Việt nam, tro
trong thời gian từ 2006 đến 2014
20
- Vềề số lượng ngân hàng:

Tính đếến hết năm 2015 thì số lượn
ợng ngân hàng nghiên cứu làà 15 ngân hàng
(ngân hàng
g HabuBank
H
đã bị sáp nhập nêên số mẫu chỉ còn 15 ngânn hhàng từ số mẫu
16 ngân hàng
àng ban đầu) trên tổng số 28 nngân hàng, tức là chiếm khoả
hoảng 53,57% số
lượng ngânn hhàng của toàn hệ thống.
- Vềề qu
quy mô tổng tài sản, mẫu nghi
hiên cứu chiếm quy mô khoản
ảng 69,56% tổng
tài sản của
ủ cá
các ngân hàng
- Về quy
qu mô vốn điều lệ, mẫu nghiê
hiên cứu chiếm khoảng 63,15%
5% tổng vốn
điều lệ của cá
các ngân hàng
- Về sốố lượng các ngân hàng thươn
ương mại nhà nước: Đến cuốii nă
năm 2015, toàn
hệ thống còn
òn 4 ngân hàng thương mại nh
nhà nước. Trong số này, tác gi
giả tiến hành thu

thập số liệu
u ccủa 3 ngân hàng, riêng ngân
ân hàng Nông nghiệp và Phátt ttriển nông thôn
Việt Nam chư
chưa cổ phần hóa nên luậnn áán không nghiên cứu. Như
ư vậy, số lượng
ngân hàng thương
thư
mại nhà nước trong m
mẫu nghiên cứu chiếm 75% trên
tr tổng mẫu.
Như vậậy, có thể khẳng định, mẫu ng
nghiên cứu mang tính đại diệnn khá cao, đủ
điều kiện để đưa vào nghiên cứu.
3.2. Ngghiên cứu định lượng
3.2.1.. M
Mục tiêu nghiên cứu
- Phânn tích hồi quy bội để kiểm định
địn các giả thuyết H1.1 và H
H1.2, đồng thời
đánh giá mức
ức độ ảnh hưởng của các biến
ến đđại diện cho thông tin bất
ất đố
đối xứng và các
13

biến kiểm soát tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
- Phân tích hồi quy bội để kiểm định các giả thuyết H2.1, H2.2, H2.3, H2.4,
H2.5, H2.6, H2.7 và H2.8, đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của các biến quản

trị công ty tới biến phụ thuộc là R&D.
- Phân tích hồi quy bội để kiểm định các giả thuyết H2.9, H2.10, H2.11,
H2.12, H2.13, H2.14, H2.15 và H2.16, đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của
các biến quản trị công ty tới biến phụ thuộc là Leverage.
- Phân tích hồi quy bội để kiểm định các giả thuyết H3.1, H3.2, H3.3, H3.4,
H3.5, H3.6, H3.7 và H3.8 đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của các biến quản
trị công ty và các biến kiểm soát tới biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng thương mại cổ phần của Việt nam.
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Dữ liệu sau khi được thu thập, tác giả tiến hành lọc dữ liệu, làm sạch dữ liệu,
mã hóa, nhập liệu và sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 18 để phân tích dữ liệu.
Tiếp theo, dữ liệu đã được làm sạch và nhập vào phần mềm. Nghiên cứu sẽ
đi vào:
(1) Phân tích mối quan hệ giữa: thứ nhất, các biến độc lập thuộc vấn đề
quản trị công ty và các biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng. Thứ hai,
các biến quản trị công ty và biến kiểm soát với biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động
của ngân hàng được đo thông qua chỉ số lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA). Thứ ba,
các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng và biến kiểm soát với biến phụ thuộc là
hiệu quả hoạt động của ngân hàng được đo thông qua chỉ số lợi nhuận trên tổng tài
sản (ROA)
(2) Phân tích mô hình hồi quy bội:
Để phân tích được tác động của các biến độc lập tới các biến phụ thuộc, tác
giả phân tích bốn mô hình hồi quy gồm:
Mô hình 1 xem xét sự ảnh hưởng của tất cả các biến nhân tố thuộc phạm trù
quản trị công ty tới biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D.
Mô hình 2 xem xét sự ảnh hưởng của tất cả các biến nhân tố thuộc phạm trù
quản trị công ty tới biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng là Leverage.
Mô hình 3 xem xét sự tác động của thông tin bất đối xứng và tất cả các biến
kiểm soát tác động tới biến chịu tác động là hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Mô hình 4 xem xét sự tác động của các nhân tố thuộc phạm trù quản trị công

ty và các biến kiểm soát tới biến phụ thuộc là hiệu quả trong hoạt động của ngân
hàng được đo bằng lợi nhuận trên tài sản (ROA).
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Tổng quan về quản trị công ty tại các ngân hàng thương mại
Những vấn đề tồn tại trong hoạt hoạt động quản trị tại các NHTM Việt Nam thể
hiện ở những điểm chính sau. Thứ nhất, quản lý rủi ro chưa được tốt. Tỷ lệ nợ xấu,
sở hữu chéo, can thiệp của chính quyền trung ương và địa phương trong hoạt động
cho vay của ngân hàng, công tác thanh tra giám sát ngân hàng… chưa thực sự phản
ánh chính xác hoạt động của thị trường tài chính Việt Nam. Thứ hai, tại các
NHTM, các thành viên độc lập đều thiếu và cộng hưởng với hạn chế về năng lực
của người điều hành dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp. Thứ ba, mối quan hệ
không minh bạch, rõ ràng giữa HĐQT, ban điều hành và ban kiểm soát dẫn đến
tình trạng thiếu tính khách quan đặc biệt là tính độc lập khi thực hiện chức năng
của mình. Thứ tư, mô hình quản lý và tổ chức của các ngân hàng hiện nay còn thể
14


hiện nhiều nược điểm. Thứ năm, quản trị nội bộ trong các NHTM cũng chưa được
quan tâm đúng với tầm quan trọng của mình. Thứ sáu, hiện nay, hoạt động ngân
hàng được điều chỉnh bởi Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà nước,
Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, xét trên góc độ thực tế triển khai các luật, một số
văn bản dưới luật đang được áp dụng chưa phù hợp dẫn đến mục tiêu đảm bảo an
toàn và hiệu quả trong hoạt động ngân hàng chưa được thực hiện tốt. Thứ bẩy,
khuôn khổ quản trị hiện hành chưa bảo vệ được quyền cổ đông, đặc biệt đối với cổ
đông nhỏ. Thứ tám, vấn đề tham nhũng còn tồn tại. Thứ chín, vấn đề sở hữu nhà
nước trong các ngân hàng. Một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng yếu tố lớn nhất
ngăn cản việc thiết lập cấu trúc quản trị công ty trong ngân hàng đối với các ngân
hàng tại Việt Nam đó chính là vấn đề sở hữu Nhà nước.
4.2. Thống kê mô tả các ngân hàng được thu thập dữ liệu nghiên cứu
4.2.1. Thống kê mô tả về đặc điểm của các ngân hàng TMCP luận án

nghiên cứu
- Về quy mô tổng tài sản, mẫu nghiên cứu chiếm quy mô khoảng 69,56% tổng
tài sản của các ngân hàng. Trong đó được chia thành 2 nhóm rõ rệt:
Thứ nhất là nhóm 3 ngân hàng lớn có quy mô tài sản chiếm hơn một nửa
(52,27%) trong tổng số các ngân hàng của mẫu và chiếm 36,36% trong toàn bộ hệ
thống, tất cả đều là các ngân hàng TMCP nhà nước.
Thứ hai là 12 ngân hàng còn lại có quy mô tài sản chỉ chiếm có chưa đến một
nửa (47,73%) giá trị tài sản trong tổng số mẫu nghiên cứu và chiếm 33,2% trong
toàn hệ thống. Đây đều là các ngân hàng được thành lập sau này và nhà nước
không có cổ phần tại các ngân hàng này.
- Về quy mô vốn điều lệ, mẫu nghiên cứu chiếm khoảng 63,15% tổng vốn
điều lệ của các ngân hàng. Cũng tương tự như quy mô tài sản, thống kê mô tả mẫu
về vốn điều lệ cũng tách các ngân hàng trong mẫu ra làm 2 nhóm:
Thứ nhất là nhóm các ngân hàng TMCP nhà nước với quy mô vốn điều lệ
chiếm gần một nửa (48,95%) trong tổng số vốn của các ngân hàng thuộc mẫu
nghiên cứu và chiếm 30,91% tổng số vốn điều lệ trong toàn hệ thống.
Thứ hai là nhóm 12 ngân hàng còn lại với số vốn chiếm hơn một nửa
(51,05%) trong tổng số vốn điều lệ của mẫu và chiếm 32,24% tổng số vốn điều lệ
của các ngân hàng trong toàn bộ hệ thống.
- Về tính chất sở hữu của các ngân hàng: Số lượng ngân hàng thương mại nhà
nước trong mẫu nghiên cứu chiếm 75% trên tổng mẫu. Các ngân hàng còn lại (12
ngân hàng) là ngân hàng thương mại cổ phần chiếm 50% trên tổng số 24 ngân hàng
thương mại cổ phần trên toàn hệ thống.
4.2.2. Thống kê mô tả biến độc lập là các yếu tố thuộc quản trị công ty và
kiểm định dạng phân phối của các thang đo biến độc lập
Kết quả thống kê mô tả các biến độc lập cho thấy, trong giai đoạn từ năm
2006 đến năm 2014:
- Số lượng thành viên HĐQT thay đổi nằm trong khoảng từ 4 đến 11 thành
viên, phần lớn nằm ở mức từ 4 đến 7 thành viên.
- Số lượng thành viên nữ trong HĐQT thay đổi nằm trong khoảng từ 0 đến 4

thành viên, phần lớn chỉ nằm ở mức từ 0 đến 1 người, nhiều ngân hàng trong những
thời điểm nhất định hoàn toàn vắng bóng thành viên HĐQT là nữ giới.
- Trình độ học vấn của các thành viên HĐQT thay đổi nằm trong khoảng từ 0
đến 9, phần lớn các thành viên HĐQT tại các ngân hàng trong mẫu điều tra trong
khoảng thời gian này không có bằng cấp chuyên môn từ đại học trở lên về ngành
15

ngân hàng.
- Độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT nằm trong mức từ 39,8 tuổi tới
57 tuổi.
- Số lượng thành viên HĐQT độc lập nằm trong mức từ 0 tới tối đa là 3 thành
viên, phần lớn ở mức từ 1 thành viên trở xuống, có nhiều ngân hàng, tại nhiều thời
điểm, hoàn toàn không có thành viên HĐQT nào là thành viên độc lập.
- Về sự tồn tại của các cổ đông lớn trong ngân hàng: phần lớn ngân hàng trong
mẫu điều tra tại các thời điểm khác nhau đều có sự xuất hiện của các cổ đông lớn,
chỉ một số ít ngân hàng tại một số ít thời điểm là có sự ngoại lệ.
- Về sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài: phần lớn các ngân hàng trong mẫu
nghiên cứu chưa có sự tham gia tích cực của các nhà đầu tư nước ngoài.
Kiểm định Skewness và Kurtosis cho thấy thang đo biến độc lập có phân phối
chuẩn, đảm bảo yêu cầu thực hiện các kiểm định và phân tích tiếp theo ở các phần
sau.
4.2.3. Thống kê mô tả biến phụ thuộc
Phần lớn các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu tại phần lớn các thời điểm có
mức lợi nhuận trên tài sản (bằng 0,010208) ở dưới mức trung bình (bằng 0,01088)
tính bằng đơn vị phần %.
Kiểm định Skewness và Kurtosis các biến phụ thuộc có dạng phân phối
chuẩn, đủ điểu kiện để tiến hành các kiểm định và phân tích tiếp theo.
4.3. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty với các
biến thuộc thông tin bất đối xứng và giữa các biến thuộc thông tin bất đối xứng
với biến hiệu quả hoạt động của ngân hàng

4.3.1. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty và
biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là biến R&D
Có 3 biến có giá trị tương quan giữa biến độc lập và phụ thuộc ở mức 99% và
có mối tương quan ngược chiều là biến: Số lượng thành viên HĐQT, Số lượng
thành viên HĐQT độc lập và biến phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài.
Các biến độc lập còn lại không nhìn thấy mối tương quan với biến phụ thuộc.
4.3.2. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty và
biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là biến Leverage
Có 2 biến có quan hệ cùng chiều với biến Leverage ở mức 99% là biến: Trình
độ học vấn của thành viên HĐQT và biến Sở hữu nhà nước, có 1 biến có quan hệ
cùng chiều với biến Leverage ở mức 95% là biến Độ tuổi trung bình của các thành
viên HĐQT.
4.3.3. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty và
biến kiểm soát với biến hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Có 2 biến có mối tương quan với biến phụ thuộc là biến Số lượng thành viên
HĐQT và Số thành viên HĐQT độc lập và ở độ tin cậy là 95%, riêng biến kiểm
soát Năm nghiên cứu có mối tương quan ở mức là 99%. Có sự tương quan rất chặt
giữa biến độc lập là số năm hoạt động của ngân hàng với yếu tố sở hữu nhà nước
với giá trị tương quan ở mức 0.815**. Đây là một dấu hiệu của hiện tượng đa cộng
tuyến, vì vậy trong quá trình kiểm định kết quả hồi quy sau này, tác giả sẽ tiến hành
kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến trước nhằm loại bỏ những biến bị đa cộng tuyến
nếu có.
4.3.4. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến đại diện cho thông tin bất
đối xứng và biến kiểm soát với hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Cả 2 biến đại diện cho thông tin bất đối xứng và biến kiểm soát là Năm
16


nghiên cứu đều có mối tương quan ngược chiều với biến phụ thuộc và ở độ tin cậy
là 99%.

4.4. Kiểm định giả thuyết và phân tích hồi quy xác định mối quan hệ giữa
quản trị công ty, thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng
4.4.1. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ nhất sự tác động của các
yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin bất đối xứng là R&D
Bảng 4-9 cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh là 0,202. Điều này cho thấy các
biến độc lập trong mô hình đã giải thích được 20,2% sự biến thiên của biến R&D
và mô hình là phù hợp (F = 5,443***). Hệ số phóng đại phương sai VIF của các
biến độc lập được đưa vào phân tích ở mô hình thứ nhất đều có giá trị < 10, kết
luận không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập.
Bảng 4.9: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 1
Mô hình
Biến
Số lượng thành viên HĐQT
Số lượng thành viên nữ của HĐQT
Trình độ học vấn của HĐQT
Kinh nghiệm của HĐQT
Số thành viên HĐQT độc lập
Cổ đông lớn
Sở hữu nhà nước
Tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
R2 điều chỉnh
F
N = 250 ; ap ≤ 0.1; *p ≤ 0.05; **p ≤ 0.01; ***p ≤ 0.001
Tất cả hệ số tương quan đã được chuẩn hóa

Mô hình 1
(Beta)

-.169a

-.097
.081
.048
-.235***
-.026
-.119
-.243***

20,2%
5.443***

(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)
Số thành viên HĐQT độc lập và Phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
là có tác động tới biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D với
giá trị Sig < 0,05.
Yếu tố mạnh nhất tác động tới thông tin bất đối xứng là yếu tố sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài, với hệ số Beta = -0.243, như vậy khi tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì yếu tố R&D sẽ giảm đi 0.243 đơn vị
lệch chuẩn và qua đó làm giảm tính bất đối xứng của thông tin. Thực tế thì nhà đầu
tư nước ngoài thường có yêu cầu rất cao về vấn đề minh bạch hóa thông tin khi rót
vốn đầu tư, mua cổ phiếu của các ngân hàng, nên khi tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài tăng lên, đồng nghĩa với các yêu cầu về minh bạch hóa thông tin tăng
lên, qua đó làm giảm tính bất đối xứng của thông tin.
Yếu tố tiếp theo có ảnh hưởng tới thông tin bất đối xứng là số lượng thành
viên của HĐQT độc lập, với hệ số Beta = -0.235, tức là khi tăng số lượng thành
viên của HĐQT độc lập lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì yếu tố R&D sẽ giảm đi tương
ứng là 0.235 đơn vị lệch chuẩn kéo theo làm giảm tính bất đối xứng của thông tin.
Điều này có thể được giải thích là khi số lượng thành viên HĐQT độc lập tăng lên,
mà các thành viên này thường là các chuyên gia, các nhà nghiên cứu hoặc các nhà
quản lý liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, việc giám sát thông tin một cách minh

bạch sẽ dễ dàng hơn, do đây là các thành viên có chuyên môn vững, những thông
tin không chính xác là nguồn gốc của tình trạng bất đối xứng về thông tin sẽ được
17

kiểm soát một cách chặt chẽ và qua đó làm giảm tính bất đối xứng của thông tin.
4.4.2. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ hai xác định sự tác động
của các yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin bất đối xứng là
Leverage
Bảng 4-11 cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh là 0,281. Điều này cho thấy các
biến độc lập trong mô hình đã giải thích được 28,1% sự biến thiên của biến
Leverage. Và mô hình là phù hợp (F = 7,829***) cũng như không có hiện tượng đa
cộng tuyến giữa các biến độc lập
Bảng 4.11: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 2
Mô hình 2
Mô hình
Biến
(Beta)
Số lượng thành viên HĐQT
.138
Số lượng thành viên nữ của HĐQT
-.148a
Trình độ học vấn của HĐQT
-.013
Kinh nghiệm của HĐQT
-.042
Số thành viên HĐQT độc lập
.223***
Cổ đông lớn
.098
Sở hữu nhà nước

.609***
Tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
-.184a
28.1%
R2 điều chỉnh
7.829***
F
N = 250 ; ap ≤ 0.1; *p ≤ 0.05; **p ≤ 0.01; ***p ≤
0.001
Tất cả hệ số tương quan đã được chuẩn hóa
(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)
Yếu tố mạnh nhất tác động tới thông tin bất đối xứng là yếu tố sở hữu nhà
nước, với hệ số Beta chuẩn hóa = .609, điều này phản ánh khi yếu tố sở hữu nhà
nước tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì biến Leverage sẽ tăng lên 0.609 đơn vị
lệch chuẩn qua đó tăng tính bất đối xứng của thông tin. Sự tham gia của nhà
nước trong việc góp vốn vào các công ty nói chung và ngân hàng nói riêng đã
được nhiều chuyên gia chỉ ra là kém hiệu quả. Rất nhiều trường hợp, thành viên
HĐQT đại diện cho phần vốn góp của nhà nước tại các ngân hàng hoàn toàn
không có trình độ chuyên môn về ngân hàng, cộng thêm nhà nước lúc đó tuy
đóng vai trò là chủ sở hữu nhưng đồng thời vẫn đóng vai trò là cơ quan quản lý.
Vậy nên, các nhà quản trị sẽ có xu hướng ít chia sẻ thông tin cũng như ít chia sẻ
thông tin một cách chính xác hơn, từ đó kéo theo tính bất đối xứng của thông tin
trong các ngân hàng có sở hữu nhà nước tăng lên.
Yếu tố tiếp theo có ảnh hưởng tới thông tin bất đối xứng là số lượng thành
viên của HĐQT, với hệ số Beta = 0.223, tức là khi tăng số lượng thành viên của
HĐQT lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì yếu tố Leverage sẽ tăng lên 0.223 đơn vị lệch
chuẩn, kéo theo là thông tin bất đối xứng trong ngân hàng sẽ tăng lên. Sự tác động
của Số lượng thành viên HĐQT độc lập lúc này lại ngược lại với bên trên khi làm
tăng tính bất đối xứng của thông tin trong ngân hàng. Điều này được giải thích là
khi số lượng thành viên HĐQT độc lập tăng lên, số thành viên này luôn được coi là

18


người ngoài cuộc so với các thành viên HĐQT vì họ không sở hữu vốn góp, hay
nói cách khác là không tận hưởng thành quả hay gánh chịu những rủi ro cùng với
các thành viên khác, thậm chí một vài người trong số thành viên HĐQT độc lập này
còn là người của cơ quan quản lý, đứng ở vị trí đối lập với lợi ích của ngân hàng.
Lúc đó, trong ngân hàng sẽ nảy sinh một xu hướng hạn chế chia sẻ thông tin với
những thành viên HĐQT độc lập. Không hiếm các ngân hàng, các thành viên
HĐQT độc lập hoàn toàn không biết gì về các hoạt động do không được cung cấp
các thông tin về hoạt động của ngân hàng, đó chính là nguyên nhân làm cho tính
bất đối xứng của thông tin trong các ngân hàng này tăng lên.
4.4.3. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ ba xác định mức độ tác
động của các yếu tố thuộc quản trị công ty và các biến kiểm soát tới hiệu quả
hoạt động của ngân hàng
Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến, hệ số phóng đại phương sai VIF
của biến sở hữu nhà nước có giá trị = 11.671 > 10. Căn cứ vào phần kiểm tra tương
quan, tác giả loại biến Số năm hoạt động của ngân hàng. Hệ số phóng đại phương
sai của mô hình 3 sau khi loại biến đều có giá trị < 10. Như vậy không thấy dấu
hiệu của đa cộng tuyến của các biến độc lập trong mô hình và các biến trong mô
hình được chấp nhận
R2 điều chỉnh của mô hình 3a là 0.283, bản thân các biến kiểm soát giải thích
được 28,3% sự biến thiên của biến phụ thuộc. R2 điều chỉnh của mô hình 3b là
0.413, các biến thuộc mô hình 3b giải thích được 41,3% sự biến thiên của hiệu quả
hoạt động của các ngân hàng. Kiểm định F mô hình phù hợp (F =28.609***)
Bảng 4.15:Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 3
Mô hình
Biến

Mô hình 3a

(Beta)

Mô hình 3b
(Beta)

-.592***
.141a

-.784***
.514***

0.283
28.609***

.206**
.052
-.092
.046
-.097
-.017
-0.444**
0.114
0.413
10.848***

Biến kiểm soát
Năm nghiên cứu
Quy mô tài sản của ngân hàng
Biến chính
Số lượng thành viên HĐQT

Số lượng thành viên nữ của HĐQT
Trình độ học vấn của HĐQT
Kinh nghiệm của HĐQT
Số thành viên HĐQT độc lập
Cổ đông lớn
Sở hữu nhà nước
Tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
R2 điều chỉnh
F
N = 141 ; ap ≤ 0.1; *p ≤ 0.05; **p ≤ 0.01; ***p ≤ 0.001
Tất cả hệ số tương quan đã được chuẩn hóa

(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)
Như vậy, khi năm nghiên cứu tăng một đơn vị lệch chuẩn sẽ làm cho hiệu quả
hoạt động của ngân hàng giảm đi 0,784 đơn vị lệch chuẩn (kết luận này chỉ đúng trong
thời gian nghiên cứu từ 2006 đến 2014), hay nói cách khác là trong thời gian từ 2006
đến 2014, hiệu quả hoạt động của ngân hàng càng ngày càng giảm. Kết luận này khớp
với tình hình thực tế khi ở Việt nam, trong giai đoạn từ 2010 đến 2014 đã ghi nhận là
những năm rất khó khăn của ngành ngân hàng.
19

Ở chiều ngược lại, khi quy mô tài sản của ngân hàng tăng lên 1 đơn vị lệch
chuẩn thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng lại tăng lên 0,514 đơn vị lệch chuẩn.
Điều này phản ánh thực tế trong thời gian qua, khi các ngân hàng có quy mô tài sản
nhỏ phải đối diện với câu chuyện làm ăn kém hiệu quả dẫn đến bị thua lỗ, bị sáp
nhập thì các ngân hàng có quy mô tài sản lớn tỏ ra vững vàng hơn, nói cách khác
quy mô tài sản lớn đã góp phần giúp các ngân hàng tiếp tục làm ăn hiệu quả trong
thời kỳ khó khăn 2010 đến 2014.
Tương tự, khi số lượng thành viên HĐQT tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì
hiệu quả hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên 0,206 đơn vị lệch chuẩn. Điều này

khẳng định khi số lượng thành viên HĐQT tăng lên đồng nghĩa với số người gánh
vác trọng trách sẽ tăng lên, các quyết định đưa ra được cân nhắc kỹ lưỡng hơn, nhìn
nhận ở nhiều góc độ khác nhau hơn và hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng
được cải thiện hơn.
Nhưng hiệu quả hoạt động thu được qua việc sở hữu quy mô tài sản lớn và
một số lượng thành viên HĐQT đông đảo bị giảm đáng kể đối với các ngân hàng
có yếu tố sở hữu nhà nước, với hệ số Beta điều chỉnh = -0.444, khi yếu tố sở hữu
nhà nước tăng lên một đơn vị lệch chuẩn thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng
giảm đi một lượng bằng 0.444 đơn vị lệch chuẩn. Ở mô hình 2, yếu tố sở hữu của
nhà nước được coi là một yếu tố làm tăng thêm tính bất đối xứng của thông tin qua
đó gián tiếp làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng, thì kết quả hồi quy ở mô
hình 3b lại phản ánh sự tác động bất lợi một cách trực tiếp của yếu tố sở hữu của
nhà nước đến hiệu quả ngân hàng. Yếu tố sở hữu nhà nước ở mô hình 3b thể hiện
một thực tế được các chuyên gia ngân hàng – tài chính đã chỉ ra trong việc điều
hành các ngân hàng có yếu tố sở hữu nhà nước đó là sự trì trệ, kém nhanh nhạy
trước những thay đổi của thị trường…kéo theo hệ quả tất yếu đó là hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng có yếu tố sở hữu nhà nước bị giảm sút hơn so với các ngân
hàng có cùng quy mô tài sản nhưng thuộc sở hữu hoàn toàn của tư nhân.
4.4.4. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ tư xác định mức độ tác
động của các biến đại diện thông tin bất đối xứng và các biến kiểm soát tới hiệu
quả hoạt động của ngân hàng
Tác giả tiến hành chạy liền lúc 2 mô hình gồm: mô hình thứ nhất chỉ có các
biến kiểm soát tác động tới biến phụ thuộc (được ký hiệu là mô hình 4a) và mô
hình thứ hai gồm các biến kiểm soát và biến độc lập là các biến đại diện cho
thông tin bất đối xứng tác động tới biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động của
ngân hàng (ký hiệu là 4b).
Hệ số R2 điều chỉnh của mô hình 4a là 29,6%, R2 điều chỉnh của mô hình 4b
là 0,441. Như vậy hai biến độc lập đại diện cho thông tin bất đối xứng cùng các
biến kiểm soát có ý nghĩa giải thích được 44,1% sự biến động của biến phụ thuộc,
riêng các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng giải thích thêm được 14,5% sự

biến động của biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Giá trị F =
23.058*** mô hình là phù hợp. Tất cả hệ số VIF đều <10 nên không có hiện tượng
đa cộng tuyến.
20


Bảng 4.16: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 4
Mô hình
Mô hình 4a
Mô hình 4b
Biến
(Beta)
(Beta)
Biến kiểm soát
Năm nghiên cứu
-.621***
-.609***
Quy mô tài sản của ngân hàng
.302**
.240*
a
Số năm hoạt động
-.202
-.046
Biến chính
R&D
-.294***
Leverage
-.267***
2

R điều chỉnh
0.296
0.441
F
20.636***
23.058***
N = 141 ; ap ≤ 0.1; *p ≤ 0.05; **p ≤ 0.01; ***p ≤ 0.001
Tất cả hệ số tương quan đã được chuẩn hóa
(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)

Như vậy, khi năm nghiên cứu tăng một đơn vị lệch chuẩn sẽ làm cho hiệu quả
hoạt động của ngân hàng giảm đi 0,609 đơn vị lệch chuẩn (kết luận này chỉ đúng
trong thời gian nghiên cứu từ 2006 đến 2014).
Tiếp theo là biến Quy mô tài sản của ngân hàng với hệ số Beta chuẩn hóa =
0.240, tức là khi quy mô tài sản của ngân hàng tăng lên một đơn vị lệch chuẩn thì
hiệu quả hoạt động của ngân hàng tăng lên 0.240 đơn vị lệch chuẩn. Cơ chế tác
động của quy mô tài sản tới hiệu quả hoạt động đã được giải thích ở mô hình 3b.
Tiếp theo là biến R&D, với hệ số Beta chuẩn hóa = -0,294 . Tức là, khi R&D
tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn (kéo theo tính bất đối xứng của thông tin tăng lên) thì
hiệu quả hoạt động của ngân hàng sẽ giảm đi 0,294 đơn vị lệch chuẩn.
Cuối cùng là biến Leverage với hệ số Beta chuẩn hóa = -0,267. Tức là, khi
Leverage tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn (kéo theo tính bất đối xứng của thông tin
tăng lên) thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng sẽ giảm đi 0,267 đơn vị lệch chuẩn.
Như vậy, nói chung khi thông tin bất đối xứng tăng lên thì hiệu quả hoạt động
của ngân hàng sẽ giảm đi, hay nói cách khác là mức độ bất đối xứng của thông tin
ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
4.4.5. Tổng hợp kết quả phân tích hồi qui của 4 mô hình
Từ các bảng kết quả hồi quy ở trên tác giả kết luận về các giả thuyết ở chương
2 như sau:
- Giả thuyết H1.1: Được chấp nhận với độ tin cậy 99,9%. Biến đại diện cho

thông tin bất đối xứng là R&D ảnh hưởng ngược chiều tới hiệu quả hoạt động của
ngân hàng, hay thông tin bất đối xứng có ảnh hưởng ngược chiều không tốt tới hiệu
quả hoạt động của các ngân hàng.
- Giả thuyết H1.2: Được chấp nhận với độ tin cậy 99,9%. Biến đại diện cho
thông tin bất đối xứng là Leverage ảnh hưởng ngược chiều tới hiệu quả hoạt động
của ngân hàng. Tương tự như trên, tính bất đối xứng của thông tin ảnh hưởng
ngược chiều tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.
- Giả thuyết H2.5: được chấp nhận với độ tin cậy 99%. Yếu tố số lượng thành
viên HĐQT độc lập có tác động ngược chiều với thông tin bất đối xứng.
21

- Giảả th
thuyết H2.8: Được chấp nhận
ận với độ tin cậy 95%. Yếu tốố tỉ lệ sở hữu của
cổ đông nước
ớc ngoài có tác động ngược
ợ cchiều tới R&D qua đó tác động
độn ngược chiều
tới thông tin
in bất đối xứng.
- Giảả thuyết
th
H2.13: Được chấp
ấ nhậ
nhận với độ tin cậy 99%. Yếu
Yế tố số lượng
thành viên HĐ
HĐQT độc lập có tác động thuậ
thuận chiều với thông tin bất
ất đố

đối xứng.
- Giảả th
thuyết H2.15: Được chấp nhậ
hận với độ tin cậy 99,9%. Yếu
ếu tố Sở hữu nhà
nước có tácc độ
động thuận chiều với thông
g tin
t bất đối xứng.
- Giảả th
thuyết H3.1: Được chấp nhận
ận với độ tin cậy 95%. Yếu tốố Số lượng thành
viên HĐQT
T ttác động cùng chiều tới hiệu
ệu quả hoạt động của ngân hàn
àng.
- Giảả th
thuyết H3.7: Được chấp nhận
hận với độ tin cậy 95%. Yếu
ếu tố
ố Sở hữu nhà
nước tác động
độn ngược chiều tới hiệu quảả hhoạt động của ngân hàng.
- Các g
giả thuyết còn lại, do Sig >0
>0,05, nên với độ tin cậy 95%
5% ta bác bỏ các
giả thuyết cò
òn lại.
Mô hìn

ình còn lại sau khi kiểm tra sự phù hợp của các mô hình hhồi quy:

CHƯƠNG 5: KHUYẾN
K
NGHỊ
5.1 Khuyến
n nghị đối với hoạt động quả
ản trị tại ngân hàng
- Nâng
g cao năng lực thực thi của cơ
ơ quan quản lý nhà nước, nâng
ng cao nhận thức
của lãnh đạoo ngân hàng và thực hiện thêm
m nhiều các nghiên cứu về lĩnh
ĩnh vực này.
- Áp dụụng các nguyên tắc về quản
n trị công ty theo chuẩn mự
ực quốc tế một
cách hiệu qu
quả vào hệ thống ngân hàngg V
Việt Nam, cần chuẩn bị các
ác điều kiện cần
thiết và thựcc hiện nhiều nghiên cứu hơn.
- Cải th
thiện chỉ số quản trị công ty (CGI) của các NHTM theo
eo hướng chuẩn
quốc tế sẽ ggiúp các NHTM Việt Nam ti
tiệm cận dần với các thông
g lệ và quy định
quốc tế về m

minh bạch và công khai hóa
óa thông tin, tăng cường vaii ttrò độc lập của
Ban kiểm soá
soát, tách bạch giữa quyền quảản lý và quyền sở hữu.
5.2 Khuyến
n nghị đối với Hội đồng quảản trị
Để tăng
ăng cường vai trò của mình, HĐQ
ĐQT cần thực hiện những việcc sau:
s
Thứ nhấất, đối với thành viên HĐQT
T ccần tăng cường năng lực và m
mức độ cẩn trọng
thông qua việệc đánh giá HĐQT. Cụ thể,, đ
để nâng cao mức độ cẩn trọng
ng của các thành
viên HĐQT,
T, nhằm cung cấp thông tin ch
cho cổ đông giám sát hiệu quảả hoạt động của
từng thành viê
viên HĐQT, HĐQT cần báo cáo ĐHCĐ hằng năm về nhữngg nội dung.
Thứ hai
ai, HĐQT cần tăng cường sự tham
t
gia của những thành viê
viên độc lập trong
HÐQT từ bên
ên ngoài để nâng cao tính minh
nh bạch, công khai trong quản
n ttrị công ty, giảm

nguy cơ lạm ddụng quyền lực của những ng
nguời quản lý, bảo vệ lợi ích ch
chính dáng của cổ
đông giúp ch
cho việc hoạch định chiến luợc,
c,giám sát quá trình diều hành
nh hoạt động kinh
22


doanhcủa công ty duợc hiệu quả hơn
Thứ ba, HĐQT cần lựa chọn những thành viên HÐQT có nhiều kinh nghiệm, giỏi
chiến luợc, am tường lĩnh vực kinh doanh của công ty; tuyệt đối tránh tình trạng lựa
chọn các quan chức hoặc công chức trong các cơ quan quản lý nhà nuớc hoàn toàn xa lạ
với hoạt động kinh doanh bầu làm thành viên HÐQT, nhất là ở những ngân hàng có cổ
đông nhà nước giữ cổ phần chi phối.
Thứ tư, khuyến khích các cổ đông lớn tham gia HĐQT nhằm giảm mâu thuẫn lợi
ích trong ngân hàng. Để đảm bảo tính minh bạch và tăng cường sự giám sát của HĐQT,
NHTM cần phải tách bạch giữa chức năng giám sát của HĐQT với chức năng điều hành
kinh doanh của Ban điều hành, thành viên HĐQT không nên trực tiếp phê duyệt các
giao dịch kinh tế cụ thể. Đối với các khoản tín dụng/đầu tư lớn cần phê duyệt của
HĐQT thì toàn bộ HĐQT biểu quyết với vai trò giám sát của Hội đồng quản trị đối với
Ban điều hành.
Thứ năm, để khắc phục tình trạng thiếu thông tin và thông tin ít chính xác, các
thành viên HĐQT độc lập cần liên tục truy cập các thông tin và phân tích từ những
nguồn tin độc lập, khách quan và trung lập
Thứ sáu, các ngân hàng nên có một số lượng thành viên độc lập nhất định tham gia
hội đồng quản trị. Các thành viên này cần giữ cả vai trò giám sát và người hỗ trợ đem lại
các ý tưởng chiến lược cho ngân hàng.
Thứ bảy, HĐQT và Ban kiểm soát cần phải thiết lập hệ thống báo cáo định kỳ

(hàng quý) từ tất cả các bộ phận, đơn vị trong TCTD để báo cáo cho Ban kiểm soát
thông qua Kiểm toán nội bộ. Trên cơ sở đó, Ban kiểm soát/Kiểm toán nội bộ đánh giá
về mức độ nghiêm trọng của các tồn tại, sai phạm, rủi ro để tổng hợp các vấn đề cần báo
cáo cho HĐQT và Ngân hàng Nhà nước.
5.3 Khuyến nghị đối với sở hữu
Giảm sở hữu nhà nước trong ngân hàng nhằm tăng khả năng sinh lời điều này phù
hợp với chủ trương giảm dần vốn nhà nước. Tuy vậy phần vốn đại diện nhà nước vẫn
nên giữ cổ phần chi phối. Các cổ đông nhà nước nên tham gia nhiều hơn vào vấn đề
quản trị . Cổ đông này cần khắt khe hơn với HĐQT, đặc biệt là trong vấn đề đánh giá,
bổ nhiệm kiểm toán độc lập, yêu cầu cung cấp thông tin về lai lịch của những thành viên
HĐQT được đề cử, cũng như chất lượng báo cáo của HĐQT và BKS. Cần thể hiện
trách nhiệm của mình trong các cuộc họp đại hội cổ đông.
5.4 Khuyến nghị đối với thông tin bất đối xứng
Việc hạn chế và giảm thiểu ảnh hưởng của thông tin bất đối xứng, hệ thống tài
chính- ngân hàng của Việt Nam cần làm những việc như sau:
Nâng cao chất lượng thông tin công bố cho cổ đông và cộng đồng nhà đầu tư nói
chung.
Để hạn chế “tâm lý ỷ lại”, một mặt chính phủ cần đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc
hệ thống ngân hàng, tăng tính hiệu quả của thị trường bằng cách kiên quyết giải thể hoặc
sáp nhập các tổ chức tín dụng gây ra quá nhiều tổn thất cho xã hội, trên cơ sở phải để
cho người chủ các tổ chức này phải trả giá cho những gì họ đã gây ra cho nền kinh tế.
Hạn chế ảnh hưởng của “lựa chọn bất lợi” và “người ủy thác- đại diện” đối với
toàn hệ thống, cần tăng cường chức năng giám sát hệ thống tài chính, chú trọng nhiều
hơn vào các quy định bảo đảm an toàn vĩ mô nhằm quản lý tín dụng chặt chẽ hơn, ngăn
ngừa và giảm thiểu rủi ro của cả hệ thống.
Cần tăng cường minh bạch hóa thông tin tài chính
HĐQT cần xây dựng hệ thống báo cáo trong đó quy định rõ nội dung, thời gian
phù hợp nhiệm vụ định hướng và giám sát có liên quan đến lập và công bố.
23


Về phía các ngân hàng công bố thông tin cần tuân thủ những việc sau. Thứ nhất,
xây dựng quy chế rõ ràng, nghiêm ngặt về quản trị ngân hàng và cần được phổ biến
rộng rãi tới các thành viên để mọi người cùng hiểu cùng thực hiện. Thứ hai, nghiên cầm
tình trạng người quản lý hay thành viên HĐQT là những người có khả năng biết trước
thông tin thực hiện việc mua bán cổ phiếu cho đến khi thông tin được công bố.
5.5 Khuyến nghị về chính sách
Các ngân hàng cần rà soát hệ thống văn bản quản trị như điều lệ, quy chế quản trị,
kiểm soát v.v... liên quan đến quản trị công ty đảm bảo tuân thủ đúng các quy định của
luật pháp và phù hợp với nguyên tắc quốc tế.
5.6 Khuyến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước
Các cơ quan quản lý nhà nước (như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính,.. ) tác
động tới quản trị NHTM trước hết thông qua hệ thống các luật, các quy định liên quan
đến hoạt động ngân hàng. Việc áp dụng các nguyên tắc quốc tế về quản trị công ty hoặc
xây dựng luật, quy định mới về quản trị NHTM Việt Nam cần tập trung vào các vấn đề
sau:Thứ nhất, tăng cường vai trò và năng lực thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà
nước và thúc đẩy việc cưỡng chế tuân thủ pháp luật; thứ hai, xây dựng khung pháp lý
để bảo vệ lợi ích của cổ đông nhỏ; thứ ba, tăng cường tính độc lập của HĐQT, Ban
kiểm soát và tăng cường hiệu lực thực thi của các quy định hiện hành; thứ tư, nâng cao
nhận thức và đào tạo thành viên HĐQT các NHTM về các vấn đề quản trị công ty; thứ
năm, tăng cường minh bạch thông tin để thị trường đặc biệt là cổ đông nhỏ có thể tiếp
cận thông tin một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác.
5.7. Một số kiến nghị khác
Dựa vào kết quả nghiên cứu ta nhận thấy, mặc dù phần trăm sở hữu nước ngoài
không tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam
nhưng lại thông qua biến R&D làm tăng hiệu quả hoạt động. Vì vậy, đề xuất các cơ
quan tham mưu về chính sách nghiên cứu tăng cường tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước
ngoài, phù hợp với mức độ phát triển kinh tế và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính.
Thông qua kết quả nghiên cứu tại chương bốn, ta cũng nhận thấy số lượng thành
viên độc lập trong HĐQT thông qua biến Leverge làm tăng hiệu quả hoạt động ngân
hàng thương mại. Trong thực tế cũng cho thấy, hiện nay, số lượng thành viên hội động

quản trị trong các ngân hàng chiếm một tỉ lệ còn thấp, khoảng từ một đến hai thành viên.
Số lượng này thấp hơn so với thế giới. Theo nghiên cứu thế giới để đạt được hiệu quả
hoạt động cũng như tăng cường tính minh bạch thì số lượng nên từ 5 đến 10 người.
Chính vì vậy, tác giả kiến nghị tăng cường số lượng thành viên độc lập trong HĐQT.
Ngoài hai kiến nghị đã nêu trên, qua nghiên cứu của mình, tác giả cũng đề xuất
tăng cường quy mô của hội động quản trị. Khi tăng qui mô hội đồng quản trị sẽ tạo được
cơ hội cho các cổ đông nhỏ được tham gia vào các hoạt động điều hành chung, được
đóng góp năng lực và có tiếng nói trong việc đưa ra các quyết sách của ngân hàng, cũng
như đảm bảo được quyền lợi của mình.
5.8 Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo
Nghiên cứu có một số hạn chế như sau. Thứ nhất, chưa đi sâu nghiên cứu vấn
đề quản trị công ty trong khối ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và các
tổ chức tín dụng phi ngân hàng (HSBC, ANZ, Citibank, …). Thứ hai, chưa nghiên
cứu các biến khác cũng đại diện cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng như ROE.
Những hạn chế trên là những gợi ý cho các nghiên cứu tiếp theo như: mở rộng đối
tượng nghiên cứu là các ngân hàng có 100% vốn nước ngoài hoặc các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng v.v…
24



×