Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Luận văn thạc sỹ - Giải quyết tranh chấp trong thương mại bằng trọng tài thương mại từ thực tiễn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.17 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---***---

ĐẶNG THỊ TÂM

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
BẰNG TRỌNG TÀI TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số:60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS Bùi Nguyên Khánh

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn
rõ ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đặng Thị Tâm


LỜI CẢM ƠN


Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và xin trân trọng cảm ơn sự hướng
dẫn, giúp đỡ hết sức nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả của PGS.TS. Bùi
Nguyên Khánh – Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và xin được gửi lời cảm ơn
tới tập thể cán bộ, giảng viên Khoa Luật, tập thể thầy, cô giáo Học viện
Khoa học xã hội đã dày công giúp đỡ, giảng dạy, truyền thụ kiến thức và
giúp đỡ tôi trong suốt khoá học và thời gian nghiên cứu luận văn.
Trân trọng cảm ơn.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................1
1 Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.......................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài...........................................................................3
5.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài..............................4
1.3.1. Trọng tài là một loại cơ quan tài phán tư..................................................24
1.3.2. Thẩm quyền của trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh
từ hoạt động thương mại.....................................................................................25
1. 3. 4. Về sự giám sát của tòa án đối với trọng tài trong quá trình giải quyết vụ
việc.......................................................................................................................26


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VBQPPL

: Văn bản qui phạm pháp luật

Luật TTTM


: Luật Trọng tài thương mại

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng Dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân


1

MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Có thể nói đặc trưng quan trọng, cơ bản, nổi bật nhất của kinh tế thế
giới hiện nay là xu hướng toàn cầu hóa, trong đó quan hệ họp tác kinh tế
quốc tế luôn được củng cố và phát triển. Trong điều kiện hội nhập quốc tế
diễn ra mạnh mẽ đó thì cũng phát sinh ngày càng nhiều những tranh chấp
thương mại không chỉ dừng lại ở sự gia tăng về số lượng mà độ phức tạp
của các tranh chấp cũng ngày một nâng cao. Trong quan hệ kinh tế quốc tế,
trong kinh doanh thương mại... tranh chấp phát sinh luôn là hiện tượng
đương nhiên, giải quyết tranh chấp là việc làm tất yếu và đang là một vấn
đề được bàn đến nhiều của nền kinh tế thế giới hiện nay. Điều đó cũng giúp
định hướng tư duy của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ kinh tế có
phát sinh tranh chấp các phương thức giải quyết tranh chấp tối ưu trong đó
có trọng tài. Theo đánh giá của Tổng thư ký Tòa án trọng tài quốc tế thì
trọng tài được coi là lựa chọn có nhiều ưu thế nổi bật là tính liên tục, mềm
dẻo, bí mật và phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm...Với tính năng ưu
việt của mình mà phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được coi

là lựa chọn được ưa chuộng của các doanh nghiệp trên thế giới. Tuy nhiên,
thực trạng Việt Nam lại cho thấy các doanh nghiệp chưa thực sự "mặn mà"
với việc đem tranh chấp của mình ra giải quyết tại trọng tài, theo thống kê
có hơn 95% tranh chấp thương mại trong nước được- đưa ra Tòa án có thẩm
quyền giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Sở
dĩ có tình trạng trên thì bên cạnh nguyên nhân chủ quan từ phía các doanh
nghiệp còn có nguyên nhân xuất phát từ hệ thống pháp luật về trọng tài của
Việt Nam, đó là hệ thống chưa thực sự tạo ra một hành lang pháp lý an
toàn, hiệu quả để doanh nghiệp trong và ngoài nước tự tin khi lựa chọn
trọng tài.
Sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại (TTTM) năm 2003 đã


2
đánh dấu một bước tiến mới trong việc hình thành và hoàn thiện pháp luật
về trọng tài tại Việt Nam, đáp ứng nhu cầu lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp của cộng đồng doanh nghiệp. Thực tiễn áp dụng Pháp lệnh trong
hơn 6 năm qua, tuy được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ cùng với sự xuất
hiện của nhiều nhân tố mới như việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), việc ban hành Luật Thương mại năm 2005, Luật Đầu
tư năm 2005... nhưng một số quy định của Pháp lệnh đã bộc lộ sự bất cập
như thẩm quyền của trọng tài còn nhiều hạn chế, đội ngũ trọng tài viên
trong nước chưa phát triển, cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài chưa
hiệu quả...
Xuất phát từ thực tế trên đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang thực
thi các cam kết khi gia nhập WTO thì việc ban hành Luật TTTM là một tất
yếu khách quan. Sự ra đời của Luật TTTM với nhiều quy định mới về cơ
bản phù họp với pháp luật và thông lệ quốc tế góp phần tạo niềm tin cho các
cá nhân, tổ chức khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài. Một trong những điểm mới đáng ghi nhận là Luật TTTM chính thức

quy định hai hình thức hoạt động trọng tài là trọng tài quy chế và trọng tài
vụ việc và có các quy định nhằm hỗ trợ cho cả hai hình thức trọng tài có cơ
hội phát triển ngang bằng nhau và khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng
cả hai hình thức này. Tuy nhiên để các quy định này không chỉ có hiệu lực
trên giấy thì cần có sự đánh giá khách quan, chính xác những cơ sở lý luận
và thực tiễn của việc ban hành các quy định về hình thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài vụ việc để thực tiễn hóa các quy định này vào dời sống
kinh tế của các cá nhân, tổ chức. Với mong muốn được luận bàn chuyên
sâu, góp phần hoàn thiện pháp luật trọng tài ở Việt Nam, nâng cao hiệu quả
của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Trọng tài tài tại
Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung tác giả chọn đề tài: "Giải quyết
tranh chấp trong thương mại bằng trọng tài thương mại từ thực tiễn thành
phố Hà Nội".


3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thực tiễn và trong khoa học pháp lý đã có một số bài viết và một
số công trình nghiên cứu ở cấp độ khác nhau về phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài, có thể nêu một số công trình như: "Hoàn thiện pháp luât
về trọng tài thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế",
Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Đình Thơ, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2007 "Pháp luật giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài", Luận
văn thạc sĩ luật học của Phạm Thị Phương Thủy, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2004' "Những vấn đề pháp lý về thỏa thuận trọng tài và thực tiễn áp
dụng ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Thị Kim Liên,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006; " Trọng tài thương mại Việt Nam trong
tiến trình đổi mới", của Dương Văn Hậu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
1999…Tuy nhiên các công trình trên chỉ đề cập một cách khái quát về
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nói chung mà chưa có công

trình nào đề cập về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài từ thực
tiễn thành phố Hà Nội.
3.Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Luận văn tập trung nghiên cửu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận, phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng
Trọng tài tại Thành phố Hà Nội từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng hình thức trọng tài vào giải quyết tranh chấp thương mại tại
TP. Hà Nội nói chung và Việt Nam nói chung, đề xuất hưởng hoàn thiện
những quy định pháp luật về phương thức giải quyêt tranh chấp bằng trọng tài
tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn đặt ra các nghiên cứu:
- Luận giải cơ sở lý luận của các quy định về phương thức giải quyết

tranh chấp thương mại bằng trọng tài.


4
- Phân tích các quy định hiện hành của pháp luật về trọng tài; đánh giá

thực trạng sử dụng phương thức trọng tài trong thực tiễn giải quyết các
tranh chấp thương mại tại TP. Hà Nội từ đó chỉ ra các khó khăn, vướng
mắc đang và sẽ gặp phải và các nguyên nhân liên quan đến việc sử dụng
trọng tài trong giải quyết tranh chấp.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một sổ nước trên thế giới về việc áp

dụng và điều chỉnh pháp luật phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài nói chung nhằm lựa chọn những kinh nghiệp hay, phù hợp cho việc áp
dụng vào Việt Nam.

- Phân tích pháp luật hiện hành về TTTM và những vấn đề thực tiễn

trong sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại
Hà Nội từ đó nêu được những hạn chế của văn bản pháp luật quy định về
trọng tài thương mại và những bất cập khó khăn bất cập trong thực tiễn khi
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài tại Hà Nội.
- Đưa ra những giải pháp nhằm thực tiễn hóa một cách hiệu quả các

quy định của pháp luật nhằm khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng
phương thức trọng tài nói chung khi cần giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong lĩnh vực thương mại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp trong thương mại
- Thực tiễn việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng
trọng tài tại Việt Nam và trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm những quy định pháp luật về
các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài, kinh
nghiệm quốc tế và đi sâu phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương bằng trọng tài tại TP. Hà Nội.
5.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề


5

tài
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài ra, luận

văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp
bình luận, diễn giải, so sánh, tổng họp, phân tích...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài vụ việc, luận văn có những đóng góp mới sau đây:
Thứ nhất. Luận văn giải quyết những vấn đề lý luận về tranh chấp
trong hoạt động thương mại và các hình thức giải quyết tranh chấp, nghiên
cứu một cách khái quát về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
với những phân tích về đặc điểm của trọng tài, ưu và nhược điểm của trọng
tài.
Thứ hai: Luận văn đã phân tích một cách sâu sắc những quy định pháp
luật hiện hành về trọng tài, bắt đầu từ việc đánh giá khái quát hiệu quả của
pháp luật đối với hoạt động trọng tài, các nguyên tắc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài, thẩm quyền của trọng tài và thủ tục của trọng tài thương mại.
Bên cạnh đó, luận văn còn phân tích chi tiết thực trạng sử dụng trọng tài vụ
việc trong giải quyết tranh chấp tại Hà Nội nói chung và Việt Nam nói
riêng, các bất cập và các nguyên nhân cụ thể của các bất cập đó.
Thứ ba: Luận văn bước đầu đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng phương thức trọng tài vụ việc nhằm giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại bao gồm những giải pháp về mặt
cơ chế, chính sách, pháp luật; các giải pháp từ phía các trọng tài viên, từ
phía doanh nghiệp, từ phía tòa án và cơ quan thi hành án...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:


6
CChương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp trong thương
mại bằng trọng tài vụ việc.

Chương 2: Pháp luật và thực trạng giải quyết tranh chấp trong thương
mại bằng trọng tài tại thành phố Hà Nội
Chương 3: Một sổ giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng trọng tài
vụ việc giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Việt Nam.

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI

1.1. Tranh chấp trong thương mại và các hình thức giải quyết
tranh chấp
1.1.1

Khái niệm tranh chấp trong kinh doanh thương mại

Tranh chấp, theo cách hiểu thông thường, đó là sự bất đồng, sự mâu
thuẫn về một vấn đề nào đó giữa hai hay nhiều bên liên quan. Tranh chấp
thường biểu hiện rất đa dạng và sinh động trong xã hội, trong đời sống:
tranh chấp về chủ thực sự của vật nuôi chạy từ nhà này sang nhà khác, tranh
chấp về ngõ đi chung, tranh chấp về thỏa thuận mua bán đồ vật, về thanh
toán, thời hạn thanh toán... và trong quan hệ quốc tế là tranh chấp về chủ
quyền quốc gia- biên giới, biển đảo... Suy cho cùng, tranh chấp là những
mâu thuẫn, bất đồng về lợi ích mà các bên không thống nhất được với nhau.
Tranh chấp, theo Từ điển tiếng Việt, là sự "đấu tranh, giằng co khi có ý kiến
bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên" [26, tr. 1024].Từ
góc độ pháp luật, tranh chấp được giải thích "là những mâu thuẫn về quyền
và nghĩa vụ hợp pháp giữa các bên trong quan hệ pháp luật"[27, tr. 443].
Pháp luật thực định của Việt Nam hiện nav chưa có quy định nào giải thích



7
thuật ngữ tranh chấp
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi không tập trung lý
giải và nghiên cứu sâu về thuật ngữ này mà chỉ đề cập khi liên quan đến đối
tượng nghiên cứu. Hiện nav, có rất nhiều cách diễn đạt tranh chấp trong
thương mại như: tranh chấp kinh doanh-thương mại (Điều 29 BLTTDS năm
2004), tranh chấp trong hoạt động thương mại, tranh chấp kinh tế, tranh
chấp trong thương mại... Trong luận văn, tác giả sử dụng thuật ngữ "tranh
chấp trong thương mại".
Theo Điều 29 BLTTDS năm 2004 có quy định các loại tranh chấp
trong kinh doanh, thương mại - đây được coi như định nghĩa về tranh chấp
kinh doanh - thương mại:
Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án:
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa
cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận bao gồm: a) Mua bán hàng hóa; b) Cung ứng dịch vụ; c) Phân phối;
d) Đại diện, đại lý; đ) Ký gửi; e) Thuê, cho thuê, thuê mua; g) Xây dựng; h)
Tư vấn, kỹ thuật; i) Vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt,
đường bộ, đường thủy nội địa; k) Vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng
đường hàng không, đường biển; 1) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ
có giá khác; m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng; n) Bảo hiểm; o) Thăm dò,
khai thác.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với .nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của
công ty.

4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có


8
quy định [18].
Luật TTTM năm 2010 cũng quy định tranh chấp thương mại theo
hướng xác định những tranh chấp trong thương mại thuộc thẩm quyền của
TTTM, bao gồm:
Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt độna thương mại.
1. Tranh chấp phát sinh giữa các bên, trong đó ít nhất‘một bên có hoạt
động thương mại
2. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải
quyết bằng trọng tài[23].
Tranh chấp trong thương mại, có thể được hiểu như sau:
Tranh chấp trong thương mại là những bất đồng, xung đột về lợi ích
kinh tế giữa các chủ thể có liên quan đến lĩnh vực hợp đồng thương mại
hoặc các hoạt động kinh tế khác mà theo quy định pháp luật là tranh chấp
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan tài phán kinh tế.
Nội dung khái niệm tranh chấp trong thương mại bao hàm những nội
dung:
Thứ nhất, là những bất đồng, xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ
thể có liên quan đến lĩnh vực hợp đồng thương mại;
Thứ hai, là tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực hợp đồng thương mại
hoặc các hoạt động kinh tế khác
Thứ ba, theo quy định pháp luật những tranh chấp này thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan tài phán kinh tế (Tòa án hoặc trọng tài).
1.1.2.Các hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
Giải quyết tranh chấp có thể hiểu là việc dàn xếp, giải quyết các mâu
thuẫn, bất đồng phát sinh từ quan hệ pháp luật bằng những phương thức
khác nhau do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn hoặc do pháp luật quy

định. Phương thức giải quyết tranh chấp do các bên tranh chấp thỏa thuận
lựa chọn đã được giới doanh nhân thừa nhận và sử dụng rộng rãi, đặc biệt
trong lĩnh vực thương mại là thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án.


9
Nội dung của các phương thức này cụ thế như sau:
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp, trong đó, hai bên
tranh chấp tự mình đàm phán, thỏa thuận về các giải pháp nhằm dàn xếp, giải
cuyết ổn thỏa tranh chấp phát sinh giữa họ mà không có sự can thiệp, giúp đỡ
của bên thứ ba dưới bất kỳ hình thức và mức độ nào. Thương lượng là
phương thức giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất, thông dụng và phổ
biến nhất được các bên áp dụng rộng rãi để giải quyết mọi tranh chấp phát
sinh trong đời sống đặc biệt là trong hoạt động thương mại. Thương lượng
có thể được các bên áp dụng trước khi phát sinh tranh chấp. Điều này được
lý giải bởi trong thực hiện họp đồng đã ký kết, khởi nguồn của các tranh
chấp là việc vi phạm hợp đồng. Khi một bên vi phạm hơp đồng, các bên
thường gặp gỡ trao đổi nhằm xác định rõ ai vi phạm, vi phạm gì, mức độ
nào, hậu quả đến đâu...và nếu như quá trình này diễn ra suôn sẻ, bên vi
phạm công nhận và tự giác khắc phục hậu quả thì sẽ không phát sinh tranh
chấp. Do vậy, trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn thường cũng có
phân biệt rõ vi phạm và tranh chấp. Quá trình thương lượng có thể kéo dài
từ khi vi phạm cho đến khi các bên hóa giải xong tranh chấp phát sinh.
- Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp, trong đó, hai bên
tranh chấp nhờ bên thứ ba giúp đỡ để họ gặp gỡ, thảo luận và thỏa thuận về
các giải pháp nhằm dàn xếp, giải quyết ổn thỏa tranh chấp phát sinh. Hòa
giải và trung gian hòa giải thông thường được đánh đồng với nhau. Tuy
nhiên trong thực tiễn giữa hòa giải và trung gian hòa giải cũng có những
điểm khác nhau về phương pháp tiến hành. Người đóng vai trò trung gian
và hòa giải thường đều có những cuộc tiếp xúc với các bên tranh chấp,

tuy nhiên, người trung gian thì tiếp xúc riêng với từng bên để nắm bắt
quan điểm, khả năng hòa giải của từng bên sau đó mới tổ chức buổi hòa
giải. Người hòa giải (hòa giải viên) thườns gặp gỡ trực tiếp hai bên ngay
từ đầu, có thể đưa ra gợi ý, đề xuất một hoặc một vài giải pháp, phưong
án khác nhau đế các bên suy nghĩ, thảo luận và tự quyết định phương án


10
nào mà họ cho là phù họp nhất nhằm giải quyết tranh chấp. Thỏa thuận
hòa aiải không có giá trị bắt buộc. Việc thi hành thỏa thuận hòa giải hoàn
toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp.
Nói đến hòa giải thì cần thiết phải phân biệt hòa giải trước (tiền) tố
tụng và hòa giải trong tố tụng Hòa giải tiền tố tụng là việc hòa giải được
tiến hành trước khi các bên khởi kiện ra tòa hoặc gửi đơn đến trọng tài. Sau
khi nhận đơn, thụ lý đơn, Tòa án hoặc Trọng tài có nghĩa vụ hòa giải giữa
các bên để giải quyết tranh chấp. Đây là hai quá trình, hai giai đoạn khác
nhau trong giải quyết tranh chấp dân sự nói chung, trong đó có giải quyết
tranh chấp trong thương mại.
- Xét xử của tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp, trong đó, một
bên tranh chấp có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp mà không
cần có sự đồng ý, thỏa thuận của bên kia. Tòa án, cụ thể là thẩm phán/hội
đồng xét xử, thụ lý và giải quyết tranh chấp theo đúng quy định của pháp
luật, bản án do tòa án tuyên có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên
tranh chấp và với mọi cá nhân, tổ chức có liên quan.
- Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, trong đó, bên
trung gian thứ ba (trọng tài viên) do các bên lựa chọn sẽ đưa ra một
quyết định sau khi hai bên tranh chấp đã có cơ hội bình đẳng để trình
bày các vấn đề liên quan đến tranh chấp. Nếu quá trình trọng tài bảo
đảm nguyên tắc tự nguyện, công bằng thì quyết định của trọng tài
viên có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên. Khoản 1, Điều 3,

Luật TTTM năm 2010 quy định: "Trọng tài thương mại là phương
thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo
quy định của Luật này" [23].
1.1.3. H

ìnhthứcgiảiquyếttranhchấpbằngtrọngtàithương mại

Trọng tài thương mại là một tổ chức phi chính phủ, chỉ nhận giải quyết
các vụ tranh chấp khi các bên có thỏa thuận bằng văn bản về việc chọn
trọng tài. Quá trình giải quyết, được thực hiện theo nguyên tắc "phân xử


11
trọng tài" phù hợp với quy định trong Luật TTTM và quy chế của Tổ chức
trọng tài mà các bên đã lựa chọn.
Trọng tài cũng là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
mang tính tài phán. Không giống như tòa án quốc gia, không có hội đồng
trọng tài cố định để giải quyết tranh chấp thương mại mà ở đó cùng một số
trọng tài viên nhất định giải quyết nhiều vụ. Trọng tài là một phương thức
giải quyết tranh chấp tư, dựa trên thỏa thuận giữa các bên.
i) Đặc điểm của TTTM
Thứ nhất, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đổi với
việc giải quyết tranh chấp
Việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm TTTM có ưu điểm nổi bật so
với Tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quyết của trọng tài là có giá
trị chung thẩm, tức có hiệu lực cuối cùng. Trong khi Tòa án xử thì phải 2-3
lần, từ sơ thẩm đến phúc thẩm, rồi còn thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, rồi
còn khiếu nại, khiếu kiện và còn có sự tham gia của nhiều cơ quan khác
(như Viện kiểm sát...). Còn cách thức giải quyết bằng trọng tài lại hết sức
đơn giản và linh động. Tính chung thẩm của quyết định trọng tài không chỉ

có giá trị bắt buộc đối với các bên đương sự mà nó còn khiến các bên không
thể chống án hay kháng cáo. Xét xử tại trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi
tuyên phán quyết xong, ủy ban Trọng tài (Hội đồng trọng tài) hoàn thành
nhiệm vụ và chấm dứt sự tồn tại của mình. Những ưu điểm này đặc biệt
quan trọng đối với hoạt động đầu tư thương mại. Chính những ưu điểm đó
bảo đảm rằng nếu các bên ưu tiên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì
các nhà đầu tư sẽ giảm rủi ro cho bên nước ngoài khi quyết định tham gia
đầu tư thương mại tại Việt Nam; tạo thuận lợi cho các bên nước ngoài và cả
bên Việt Nam thông qua việc giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.
Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục
nhanh những tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Quyết
định trọng tài là quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án


12
của Tòa án. Tuy là chung thẩm, nhưng tố tụng trọng tài không đặt vấn đề
cưỡng chế thi hành, nên bên đương sự nào không chấp nhận phán quyết của
trọng tài thì có thể kiện ra Tòa kinh tế theo thủ tục giải quvết các vụ án.
Thứ hai, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật
Trọng tài là một tiến trình giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt. Hầu
hết pháp luật về trọng tài của các nước đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài
xử kín (in camera) nếu các bên không quy định khác. Tính bí mật thể hiện
rõ ở nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng
nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Điều đó có ý nghĩa lớn trong
điều kiện cạnh tranh.
Đây là ưu điểm đối với những doanh nghiệp không muốn các chi tiết
trong vụ tranh chấp của mình bị đem ra công khai, tiết lộ trước Tòa án
(hoặc công chúng) - điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt
động kinh doanh của mình.
Thứ ba, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp liên tục

Các bên đương sự được tự do lựa chọn trọng tài viên. Cách thức lựa
chọn trọng tài và Hội đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan
trong quá trình tố tụng. Hoạt động trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng
trọng tài (ủy ban trọng tài) xét xử vụ kiện đã được các bên lựa chọn, hoặc
được chỉ định để giải quyết vụ kiện đó. Khi mang một vụ việc ra xét xử ở
Tòa án, có khả năng thẩm phán được chỉ định giải quyết vụ việc không có
trình độ chuyên môn liên quan đến đối tượng tranh chấp, đặc biệt các ngành
có đặc thù chuyên môn cao như: dầu khí, xây dựng, tài chính, đầu tư, bảo
hiểm... Khi giải quyết bằng trọng tài, các bên hoàn toàn có thể lựa chọn
trọng tài viên có trình độ chuyên môn (4) phù hợp với đối tượng tranh chấp,
góp phần nâng cao hiệu quả, công bằng và chính xác trong giải quyết tranh
chấp. Trọng tài viên - người chủ trì phân xử tranh chấp theo suốt vụ kiện từ
đầu đến cuối, vì vậy, họ có cơ hội tìm hiểu tình tiết vụ việc. Điều này có lợi
ngay cả khi các bên muốn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua


13
đàm phán, trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận.
Thứ tư, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh
chóng, lỉnh hoạt cho các bên
Tòa án, khi xét xử các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Tòa
án về thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức xét xử... được quy định trước
đó. Trong khi đó, với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn
thủ tục, thời gian, địa điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo phương
thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp
luật cho phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả
cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ năm, tiết kiệm thời gian
Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc tế đòi hỏi các
bên không thể lãng phí thời gian, điều mà các Tòa án sẽ rất khó đáp ứng

được do luôn phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, gây ra khả
năng ách tắc hồ sơ.
Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cho phép các bên được quyền
kháng án cũng làm cho tiến độ bị kéo dài. Trong thực tế, giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài, ví dụ như giải quyết tranh chấp bằng VIAC thường kéo
dài tối đa là 6 tháng, còn tại Tòa án có thể kéo dài hàng năm trời.
Thứ sáu, duy trì được quan hệ đối tác
Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối hòa
khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ
họp tác kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện.
Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của
những bất đồng trên cơ sỏ' những câu hỏi gợi mở, trong một không gian kín
đáo, nhẹ nhàng... Đó là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được
quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau và đặc biệt, sự tự nguyện thi
hành quyết định trọng tài của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt
hơn trong quan hệ làm ăn trong tương lai.


14
Thứ bảy, trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của
các chuyên gia
Ưu điểm này thể hiện ở quyền được chọn trọng tài viên của các bên
đương sự, điều mà không tồn tại ở Tòa án.
Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên năng lực, sự hiểu
biết vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực
chuyên ngành có tính chuyên sâu như chứng khoán, licensing, leasing, xuất
nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
Thứ tám, tuy là giải quyết tranh chấp thưcmg mại bằng trọng tài một tổ chức phi chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của
Tòa án trên các mặt sau:
Xác định giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài; giải quyết khiếu nại

về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời; xét đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài; công nhận và thi hành
quyết định trọng tài.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu quyền và lợi ích của một
bên bị xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa
án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhằm: bảo toàn chứng cứ trong
trường họp chứng cứ bị tiêu hủy hoặc có nguy cơ bị tiêu hủy; kê biên tài sản
tranh chấp để ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản; cấm chuyển dịch tài sản tranh
chấp; cấm thay đổi hiện trạng của tài sản tranh chấp; kê biên và niêm phong
tài sản ở nơi gửi giữ; phong tỏa tài khoản tại ngân hàng.
Việc đánh giá và sử dụng nguồn chứng cứ tại các cơ quan trọng tài
rộng hơn, tự do hơn, mang tính xã hội hơn, tạo điều kiện cho các bên làm
sáng tỏ những vấn đề nhạy cảm. Trong khi đó, Tòa án áp dụng các chứng
cứ để tố tụng bị ràng buộc hơn về mặt pháp lý, làm cho các bên tham gia tố
tụng không có cơ hội làm sáng tỏ hết được nhiều vấn đề khúc mắc, không
thể hiện trên các chứng cứ "pháp lý".
(ii) Các hình thức tổ chức TTTM


15
Theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng như quốc tế, hiện có hai
hình thức trọng tài được sử dụng là Trọng tài vụ việc và Trọng tài quy chế.
Tùy thuộc vào ý chí, điều kiện thực tế, thói quen hay nội dung của tranh chấp,
các bên đương sự sẽ quyết định lựa chọn cho mình một hình thức trọng tài phù
họp.
Trọng tài vụ việc
Trong trọng tài vụ việc, các bên tự chịu trách nhiệm thành lập hội đồng
trọng tài để giải quyết tranh chấp và phải quy định các quy tắc sẽ điều chỉnh
cách thức tiến hành tố tụng trọng tài. Khi gặp khó khăn, đôi khi các bên có
thể nhờ một tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp. Bởi các bên tự tiến

hành trọng tài vụ việc nên họ phải thỏa thuận trực tiếp vấn đề thù lao và chi
phí với trọng tài viên.
Trọng tài quy chế
Trong trọng tài quy chế, các bên nhờ một trung tâm trọng tài hoặc một
tổ chức trọng tài quy chế giám sát tố tụng theo quy tắc tố tụng trọng tài của
tổ chức đó.
Mức độ giám sát tố tụng trọng tài của mỗi tổ chức là khác nhau. Nói
chung, tổ chức trọng tài quy chế giám sát một phần tố tụng trọng tài, và giới
hạn sự trợ giúp trong việc thành lận hội đôna trọng tài (chỉ định các trọng
tài viên), dựa trên nguyện vọng của các bên cũng như các quy tắc tố tụng
trọng tài của chính tổ chức đó.
Tổ chức trọng tài có thể thông báo đơn kiện cho bên kia và yêu cầu
bên đó trình bày rõ quan điểm về vụ kiện và việc thành lập hội đồng trọng
tài. Đôi khi, tổ chức trọng tài có quyền ấn định một khoản tiền ước tính đủ
để trả chi phí trọng tài, có quyền yêu cầu các bên thanh toán và khi kết thúc
tố tụng, có quyền quyết định các chi phí cuối cùng. Tổ chức trọng tài quy
chế cũng có thể giám sát quá trình thông báo cho các bên về quyết định
được hội đồng.
Trọng tài ban hành. Tuy nhiên, tổ chức trọng tài quy chế cũng có thể


16
không thực hiện nhiều công việc nhu vậy. Loại trọng tài này thường được
coi là trọng tài được giám sát một phần.
Trọng tài quy chế cũng có thể là trọng tài được giám sát toàn bộ.
Trong trường hợp này, tổ chức trọng tài không chỉ chịu trách nhiệm nhận
đơn kiện và thông báo cho bên kia, mà còn thành lập hội đồng trọng tài, ấn
định khoản phí ứng trước và có thể còn xác định địa điểm tiến hành trọng
tài. Như vậy, tổ chức trọng tài giám sát toàn bộ quá trình tố tụng và sẽ giải
quyết một số khó khăn nhất định chẳng hạn như quyết định thay thế các

trọng tài viên thiên vị. Đôi khi, tổ chức trọng tài quy chế thậm chí phải bảo
đảm nội dung quyết định trọng tài được chấp nhận về mặt bố cục và có thể
lưu ý trọng tài viên vào một số điểm của nội dung vụ kiện. Tổ chức trọng
tài còn giám sát cả việc thông báo quyết định trọng tài cho các bên và sau
khi đã ấn định phí trọng tài, tố chức trọng tài bảo đảm các trọng tài viên
được trả thù lao. Tóm lại, tố chức trọng tài bảo đảm các trọng tài viên được
trả thù lao và bảo đảm các bước của tố tụng trọng tài của tổ chức đó.
1.2 Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Trọng tài
1.2.1 Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng
tài
Theo quy định tại Điều 4 Luật Trọng tài Thương mại 2010 có 5
nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài, cụ
thể:
-Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận
đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội. trong quá trình tố tụng
trọng tài nguyên tắc này được thể hiện đó là việc các bên thỏa thuận chọn
địa điểm trọng tài, ngôn ngữ trọng tài, thời gian trọng tài, và có thể thỏa
thuận cả phương án giải quyết tranh chấp nếu nó không trái quy định của
pháp luật.
- Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định
của pháp luật. Sự độc lập của trọng tài viên thể hiện ở việc trọng tài viên


17
không có lợi ích trực tiếp hoặc lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp, không
chịu sự chi phối của bất kì cơ quan, tổ chức cá nhân nào khi giải quyết tranh
chấp. Sự khách quan được đảm bảo khi trọng tài viên thực hiện đúng vai trò
của người thứ ba phân xử đúng sai dựa trên những chứng cứ tài liệu, tình
tiết của vụ việc và ra quyết định theo quy định của pháp luật.
Nếu có căn cứ cho rằng trọng tài viên có thể hoặc không độc lập, vô tư

khi thực hiện nhiệm vụ thì trọng tài viên đó có thể bị thay thế. Thậm chí khi
quyết định trọng tài có hiệu lực, nếu có căn cứ chứng tỏ trọng tài viên đã vi
phạm nguyên tắc này thì quyết định trọng tài sẽ bị tòa án tuyên hủy
- Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng
trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình. Khi các bên tranh chấp lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thì các bên đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, không có sự phân
biệt, đối xử khi tham gia giải quyết tranh chấp.
- Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công
khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. các trọng tài viên không
được phép tiết lộ nội dung của tranh chấp khi không được các bên đồng ý.
Ngoài ra, nguyên tắc này còn được thể hiện ở việc sẽ không có người ngoài
được tham dự vào phiên xét xử trọng tài nếu các đương sự không cho phép.
- Phán quyết trọng tài là chung thẩm. nội dung cơ bản của nguyên tắc
này là khi Hội đồng trọng tài công bố quyết định trọng tài, quyết định trọng
tài có hiệu lực thi hành ngay, các bên không có quyền kháng cáo, cũng như
không tổ chức nào có quyền kháng nghị. Khi xem xét yêu cầu hủy quyết
định trọng tài, tòa án cũng không có quyền xét lại.
Tất cả những nguyên tắc giải quyết tranh chấp mà Luật TTTM 2010
đặt ra đều nhằm mục đích giúp các bên tranh chấp có thể giải quyết tranh
chấp một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả đảm bảo tốt nhất nhu
cầu về một cơ chế giải quyết tối ưu cho các doanh nghiệp.
1.2.2 Thẩm quyền của Trọng tài thương mại


18
Căn cứ để xác định thẩm quyền trọng tài chính là thỏa thuận trọng tài
và các quy định của pháp luật về thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết
các tranh chấp thương mại.
+ Thỏa thuận trọng tài:

Khoản 1 Điều 16 Luật TTTM 2010 quy định: " Thỏa thuận trọng tài có
thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc
dưới hình thức thỏa thuận riêng ".
Khoản 2 Điều 16 của Luật này cũng có quy định: "Thoả thuận trọng tài
phải được xác lập dưới dạng văn bản ". Ngoài ra, một số hình thức thỏa
thuận khác cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản như: telegram, fax,
telex, thư điện tử; hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty...; và một số hình
thức thỏa thuận khác mà pháp luật cho phép.
Thỏa thuận trọng tài thể hiện sự nhất trí của các bên cùng đưa tranh
chấp ra trọng tài giải quyết. Khác với thẩm quyền của tòa án, thẩm quyền
của trọng tài chỉ là thẩm quyền vụ việc, nếu được các bên có “vụ việc” lựa
chọn đích danh. Thẩm quyền của trọng tài không được phân định theo lãnh
thổ, vì các bên có tranh chấp có quyền thỏa thuận lựa chọn bất kì một tổ
chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho họ, không phụ thuộc vào nơi
ở cũng như nơi đặt trụ sở của các bên, cũng như không phân định theo cấp xét
xử, vì chỉ có một cấp trọng tài và lại càng không phân định theo sự lựa chọn
của nguyên đơn.
+ Thỏa thuận Trọng tài phải không thuộc trường vô hiệu như quy định
tại điều 18 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010, Thỏa thuận Trọng tài
phải tuân thủ đúng quy định về mặt hình thức, nội dung, người xác lập thỏa
thuận phải có đủ thẩm quyền, có đủ năng lực hành vi Dân sự, và lĩnh vực
tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng Tài.
+ Các tranh chấp phát sinh giữa các bên theo quy định tại điều 2 Luật
TTTM động thương mại, tranh chấp phát sinh giữa ít nhất một bên có hoạt
động thương mại và một số tranh chấp khác được pháp luật quy định được


19
giải quyết bằng Trọng tài.
1.2.3 Trình tự giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài


Trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc là những phương pháp khác biệt
của quá trình tố tụng. Các bên trong trọng tài vụ việc thiết lập quy tắc tố
tụng riêng mà họ cho là có thê phù hợp với diễn biến và sự việc của vụ
tranh chấp, trong khi đó các bên trong trọng tài quy chế phải tiến hành trọng
tài theo các trình tự của tổ chức trọng tài mà các bên lựa chọn.
Tuy nhiên, quy tắc chung là “không có thỏa thuận giải quyết bằng
phương thức trọng tài, không có tổ tụng trọng tài”. Trừ một số ngoại lệ, các
bên phải thỏa thuận trong họp đồng sử dụng phương thức trọng tài, và quy
định chi tiết các quy tắc điều chỉnh quá trình tố tụng (chỉ định trọng tài
viên...) hoặc sử dụng các quy tắc tố tụng trọng tài dưới sự giám sát của một
tổ chức trọng tài quy chế. Trong trọng tài vụ việc, các bên tự quyết định tố
tụng trọng tài sẽ được tiến hành như thế nào và không có sự trợ giúp của tô
chức trọng tài quy chế. Trong trọng tài quy chế (cũng được coi như trọng tài
được giám sát), tố tụng trọng tài được tiến hành với sự trợ giúp của một tổ
chức trọng tài quy chế.
Tùy thuộc vào thỏa thuận giữa các bên, cách thức tiến hành tố tụng
trọng tài có thể khác hoặc không khác với cách thức tiến hành tố tụng tại
một tòa án quốc gia. Tuy nhiên, tự các bên (hoặc tổ chức trọng tài quy chế,
hoặc bất kỳ bên thứ ba nào khác được các bên chỉ định) tự thành lập hội
đồng trọng tài. Hơn nữa, các quy tắc tố tụng trọng tài thường linh hoạt hơn
và ít nghi thức hơn các quy tắc của pháp luật quốc gia.
Luật TTTM năm 2010 đã quy định khá chặt chẽ các giai đoạn tố tụng
của trọng tài. Có thể tóm tắt tố tụng trọng tài sẽ gồm các bước sau đây:
Thứ nhất: Nộp đơn và thụ lý đơn
Khoản 1 Điều 30 Luật TTTM 2010 có quy định: "trường hợp giải
quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn khởi
kiện gửi đến Trung tâm trọng tài. Trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết



20
bằng Trọng tài vụ việc, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện và gửi cho bị
đơn".
Đơn kiện phải chứa đựng các nội dung chủ yếu theo quy định tại
khoản 2 Điều 30 của Luật này. Bao gồm : Ngày, tháng, năm làm đơn khởi
kiện; Tên, địa chỉ của các bên; tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có;
Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp; Cơ sở và chứng cứ khởi kiện, nếu có; Các
yêu cầu cụ thể của nguyên đơn và giá trị vụ tranh chấp; Tên, địa chỉ người
được nguyên đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề nghị chỉ định Trọng tài
viên. Kèm theo đơn khởi kiện, phải có thỏa thuận trọng tài, bản chính hoặc
bản sao các tài liệu có liên quan.
Nguyên đơn có thể sửa đổi, bổ sung, rút đơn kiện trước khi Hội đồng
xét xử ra quyết định trọng tài. "Nếu các bên không có thoả thuận khác hoặc
quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không có quy định khác, trong thời
hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, các tài liệu kèm theo và
chứng từ nộp tạm ứng phí trọng tài, Trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn
bản sao đơn khởi kiện của nguyên đơn và những tài liệu theo quy định tại
khoản 3 Điều 30 của Luật này" .
Về nguyên tắc, tố tụng trọng tài chỉ bắt đầu khi có đơn kiện của
nguyên đơn và đơn phải được gửi khi vụ tranh chấp còn thời hiệu khởi kiện.
Điều 31 Luật TTTM 2010 quy định: "Trường hợp tranh chấp được giải
quyết tại Trung tâm trọng tài, nếu các bên không có thỏa thuận khác, thì
thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ khi Trung tâm trọng tài
nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn" và "Trường hợp tranh chấp được
giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, nếu các bên không có thoả thuận khác,
thì thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ khi bị đơn nhận được
đơn khởi kiện của nguyên đơn". Điều 33 Luật này quy định về thời hiệu
khởi kiện như sau: "Trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời
hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm".

Thứ hai: Thành lập và hoạt động của Hội đồng trọng tài


×