Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Nghiên cứu cấu trúc quần xã san hô cứng và mối quan hệ với động vật đáy và cá rạn san hô ở các đảo Nam Yết, Thuyền Chài và Đá Nam thuộc quần đảo Trường Sa.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.53 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

VIỆN NGHIÊN CỨU HẢI SẢN

==========

Nguyễn Đăng Ngải

NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC QUẦN XÃ SAN HÔ CỨNG
VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI ĐỘNG VẬT ĐÁY VÀ CÁ RẠN SAN HÔ
Ở CÁC ĐẢO NAM YẾT, THUYỀN CHÀI VÀ ĐÁ NAM
THUỘC QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA

Chuyên ngành: Thuỷ sinh vật học
Mã số: 62.42. 01.08

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC

HẢI PHÒNG, 2014


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

Công trình được hoàn thành tại
VIỆN NGHIÊN CỨU HẢI SẢN

Số 224 Lê Lai, Ngô Quyền, Hải Phòng

Người hướng dẫn khoa học 1: TS. Nguyễn Huy Yết


Người hướng dẫn khoa học 2: PGS.TS. Đỗ Công Thung

Phản biện 1:
Phản biện 2:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp
Viện họp tại Viện Nghiên cứu Hải sản
Vào hồi:….. giờ …… ngày …. tháng …… năm 2014

Có thể tìm hiểu luận án tại:

1. Ngai N.D. Cu N.D, Tuyet D.A., 2013. Coral degradation and ability of
rehabilitation of coral reefs in Co To archipelago, Quang Ninh provine,
Vietnam. Deep-Sea Research, Part II vol. 96. Elsevier, p.50-55.
2. Nguyễn Đăng Ngải, 2011. Sự đa dạng và các đặc trưng phân bố của giống san
hô cành (Acropora) vùng biển quần đảo Trường Sa. Tuyển tập báo cáo Sinh học
và nguồn lợi sinh vật biển. Hội nghị Khoa học và Công nghệ biển toàn quốc lần
V. Trang 75-83.
3. Nguyễn Đăng Ngải, 2011. Hiện trạng và xu thế của các rạn san hô khu vực Hạ
Long, Cát Bà. Tuyển tập báo cáo Sinh học và nguồn lợi sinh vật biển. Hội nghị
KH và CN biển toàn quốc lần V. Trang 217-224.
4. Nguyễn Đăng Ngải, 2011. Khả năng ảnh hưởng của ô nhiễm dầu đến các rạn
san hô ở một số khu vực ven biển Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ
biển, tập 11, số 2. ISSN 1859-3097.Tr. 35-47.
5. Suzanne Faxneld, Tove Lund Jörgensen, Nguyen Dang Ngai, Magnus Nyström,
Michael Tedengren, 2011. Differences in physiological response to increased
seawater temperature in nearshore and offshore corals in northern Vietnam.
Marine Environmental Research 71 (2011) p. 225 – 233.
6. Nguyễn Đăng Ngải, 2010. Ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên đến sự phân bố
của san hô quần đảo Trường Sa. NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ ISBN

978-604-913-014-4, tr 144-149.
7. Nguyễn Đăng Ngải, 2009. Sự suy thoái san hô Cù Lao Chàm, nguyên nhân và
tác động. Tạp chí khoa học và công nghệ biển. ISSN 1859-3097. Tr. 250-261.
8. Nguyễn Đăng Ngải, 2009. Một số nét đặc trưng của quần xã san hô đảo Thuyền
Chài, thuộc quần đảo Trường Sa, Khánh Hòa. Tuyển tập Hội nghị khoa học toàn
quốc về sinh học biển và phát triển bền vững. NXB Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ. Tr 123-130. ISBN 978.604.913.0076
9. Nguyễn Đăng Ngải (chủ biên), Hoàng Thị Hà, Đào Huy Giáp, 2008. San hô
Vịnh Hạ Long. Nhà xuất bản Giáo dục, 74 trang.
10. Nguyễn Đăng Ngải, 2008. Đánh giá hiện trạng san hô và đề xuất thành lập khu
bảo tồn biển quần đảo Trường Sa. Tạp chí Biển Việt Nam, ISSN 1859-0233, số
11/2008, trang 11-18.
11. Nguyễn Đăng Ngải, Nguyễn Huy Yết, 2007. Một số dẫn liệu mới về san hô tạo
rạn tại đảo Tốc Tan, quần đảo Trường Sa. Tài nguyên và Môi trường biển, tập
XII. NXB Khoa học và Kỹ thuật, tr.253-265.
12. Nguyễn Đăng Ngải, 2007. Thành phần loài và sự phân bố của san hô tạo rạn tại
đảo Đá Tây, quần đảo Trường Sa. Tài nguyên và Môi trường biển, tập XII, NXB
Khoa học và Kỹ thuật, tr.309-319


MỞ ĐẦU
Quần đảo Trường Sa là một huyện đảo thuộc tỉnh Khánh Hoà,
điểm gần nhất cách bờ khoảng 250 hải lý. Huyện đảo có khoảng trên
100 đảo (bao gồm cả đảo nổi, bãi cạn và bãi ngầm) nằm rải rác trong
vùng biển có diện tích khoảng 180.000 km2, trong phạm vi toạ độ
7o50’ - 12o00’ vĩ tuyến Bắc và 111o20’ - 117o20’ kinh tuyến Đông.
Trong số 23 đảo nổi, lớn nhất là đảo Ba Bình (Itu-Aba) có diện tích
43 hecta, các đảo khác đều nhỏ chỉ xấp xỉ từ 5 đến 10 hecta, còn lại
phần lớn là các rạn đá san hô ngầm chìm dưới mực nước biển khi
triều lên.

Quần đảo Trường Sa nằm trên tuyến đường biển quốc tế quan
trọng nối các nước Đông Á với các nước Đông Nam Á, châu Âu,
Châu Phi và các nước vùng Vịnh. Đồng thời, đây được coi là vị trí
chiến lược, là cửa ngõ quan trọng của khu vực Đông Nam Á. Vì vậy
Mỹ, Pháp, Nhật đã sử dụng một số đảo làm các căn cứ quân sự trong
thế chiến thứ hai và chiến tranh Việt Nam. Đến nay quần đảo này
vẫn còn là nơi tranh cãi chủ quyền của nhiều quốc gia lân cận.
Các nghiên cứu khoa học về quần đảo này cho thấy, Trường Sa
rất giàu tài nguyên tự nhiên như phốt phát phân chim, nguồn lợi cá
biển và tiềm năng dầu khí. Đồng thời, được đánh giá là vùng có đa
dạng sinh học biển cao nhất Việt Nam. Có nhiều loài có giá trị kinh
tế cao và quí hiếm như rùa biển, cá heo, tôm hùm, trai tai tượng, ốc
tù và, san hô đen, san hô trúc.... đặc biệt có hệ sinh thái rạn san hô rất
đặc trưng ở vùng biển này. Rạn san hô bao phủ một lớp khá dày
quanh các đảo và là nhân tố chính để hình thành nên các đảo ngày
nay. Một đặc trưng rất khác biệt của các rạn san hô ở khu vực này so
với vùng ven bờ là có các rạn san hô vòng (atoll), một dạng rạn chỉ
có ở vùng biển khơi và hiếm gặp trên thế giới.
Đã có một số nghiên cứu về tài nguyên, sinh vật và môi trường ở
khu vực này, đặc biệt là sau khi đất nước được thống nhất (từ năm
1975 đến nay) điển hình là của Nguyễn Tiến Cảnh, Đỗ Văn Khương,
Nguyễn Huy Yết, Đỗ Công Thung, Nguyễn Đăng Ngải, Võ Sĩ
Tuấn... Mặc dù vậy, do cách xa đất liền nên các nghiên cứu về tài
nguyên sinh vật nói chung và hệ sinh thái rạn san hô ở quần đảo này
nói riêng còn thưa thớt và chưa toàn diện vì gặp nhiều khó khăn về
1


kinh phí, phương tiện kỹ thuật và điều kiện khắc nghiệt của biển. Các
kết quả nghiên cứu trước đây mới chỉ tập trung vào nghiên cứu thành

phần loài, phân bố, hình thái rạn và nguồn lợi sinh vật ở vùng nước
nông quanh đảo nhưng đã giải quyết phần nào những vấn đề cấp
bách cho việc điều tra các giá trị tài nguyên biển đảo nhằm định
hướng phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, còn
nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ như độ phủ của san hô, diện tích, khu hệ san
hô biển sâu, mối quan hệ giữa các nhóm loài trong khu hệ... vẫn chưa
được quan tâm nghiên cứu. Chính vì vậy, luận án “Nghiên cứu cấu
trúc quần xã san hô cứng và mối quan hệ với động vật đáy và cá
rạn san hô ở các đảo Nam Yết, Thuyền Chài và Đá Nam thuộc
quần đảo Trường Sa” được tiến hành nhằm góp phần giải quyết
những mục tiêu và nội dung cụ thể sau:
Mục tiêu nghiên cứu
-

Đánh giá hiện trạng quần xã san hô cứng và các nguyên nhân
ảnh hưởng đến phân bố của quần xã san hô tại các khu vực
nghiên cứu.

-

Nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc quần xã san hô đến phân bố
của động vật đáy và cá rạn san hô.

-

Đề xuất các giải pháp quản lý và bảo vệ các rạn san hô

Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu sự đa dạng về thành phần loài san hô cứng và xác
định chỉ số đa dạng làm cơ sở để so sánh mức độ đa dạng với các

vùng khác.
- Nghiên cứu sự phân bố, hình thái và độ phủ của rạn san hô, xác
định những đặc trưng của rạn san hô ở khu vực nghiên cứu.
- Điều tra mật độ và số lượng các nhóm sinh vật sống trên rạn san
hô (bao gồm cá rạn san hô và động vật đáy cỡ lớn) và nghiên cứu
mối quan hệ giữa cấu trúc quần xã san hô và sự phân bố của các sinh
vật tại các đảo nghiên cứu.
- Đánh giá ảnh hưởng của các mối đe dọa từ tự nhiên và con
người tác động đến rạn sự phát triển của rạn san hô.

2


- Nghiên cứu đề xuất các biện pháp quản lý hiệu quả các rạn san
hô.
Ý nghĩa khoa học và tính mới của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án này đã ghi nhận thêm 85 loài
mới cho danh mục san hô cứng ở quần đảo Trường Sa và 15 loài cho
danh mục san hô cứng biển Việt Nam, trong đó có nhiều loài sống ở
độ sâu lớn. Đồng thời cũng cho thấy sự đa dạng của quần xã san hô
cứng ở khu vực này không thua kém vùng trung tâm san hô thế giới
(The Coral Triangle) gần kề.
- Cung cấp các tư liệu mới về sự phân bố của san hô liên quan
đến độ sâu và các đặc điểm để thích nghi trong điều kiện môi trường
có sóng và dòng chảy mạnh hoặc trong điều kiện thiếu ánh sáng,
nước tĩnh.
- Góp phần hoàn thiện nghiên cứu về cấu trúc rạn san hô vòng
(atoll) và sinh cảnh trên các đồi ngầm trong và ngoài lagoon rất đặc
trưng của quần đảo Trường Sa.
- Làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa cấu trúc quần xã san hô

cứng với cá và động vật đáy, những rạn có các giống san hô cành
chiếm ưu thế thì có số loài và mật độ của cá và động vật đáy cao hơn
so với những rạn không có nhóm san hô cành chiếm ưu thế.
- Cung cấp thêm các số liệu mới về hiện trạng và diện tích rạn san
hô tại các đảo điều tra, đưa ra cảnh báo về các mối đe doạ đến sự
phát triển của các rạn san hô trong tương lai. Đồng thời các số liệu
của luận án đóng góp thêm cơ sở khoa học cho việc lựa chọn khu
bảo tồn biển Nam Yết và đề xuất thêm đảo Thuyền Chài với các đặc
điểm đặc trưng có thể xây dựng thành khu bảo tồn biển.
- Ngoài ra, luận án này còn góp phần giúp các độc giả có thêm
những hiểu biết sâu hơn về hệ sinh thái rạn san hô ở các khu vực
nghiên cứu nói riêng và ở Quần đảo Trường Sa nói chung, đồng thời
chứng minh được rằng quần đảo Trường Sa đã được người Việt Nam
nghiên cứu, góp phần khẳng định chủ quyền với quần đảo này.

3


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu san hô trên thế giới
San hô cứng là đối tượng được quan tâm nghiên cứu từ rất sớm
(khoảng thế kỷ 18) do chúng có thể tạo nên các rạn đá ngầm rất nguy
hiểm cho tàu thuyền. Các nghiên cứu về san hô phần lớn tập trung
vào nghiên cứu về phân loại học. Tuy nhiên sự biến dị phức tạp về
loài đã dẫn đến việc công bố quá nhiều loài mới mà thực tế chỉ là sự
khác nhau mang tính địa phương của cùng một loài. Trong các
nghiên cứu gần đây của Veron et al. (1986, 2000) cho thấy các vấn
đề về biến dị được mô tả khá cụ thể, đồng thời Veron còn đề cập tới
nhiều vấn đề khác như sự phân bố không gian, nguồn gốc tiến hoá,
vấn đề sinh học và sinh thái học... Đặc biệt là công trình mới đây

nhất của Veron và Smith (2000) về san hô cứng trên toàn thế giới
(Corals of the world). Đó là công trình đồ sộ và toàn diện nhất về
phân loại san hô cứng, ông đã tách và định lại tên thêm 101 loài san
hô mới cho danh sách san hô thế giới.
Một số nghiên cứu về hình thái rạn được công bố từ giữa thế kỷ
19, trong đó đáng chú ý nhất là sự hình thành rạn của Charles
Darwin (1842) với 3 kiểu rạn cơ bản là rạn viền bờ (fringing reef),
rạn chắn (barrier reef) và rạn vòng (atoll). Darwin cho rằng, đầu tiên
các rạn san hô đều là kiểu rạn viền bờ, chúng phát triển bao quanh bờ
(hoặc quanh đảo) mà ở đó các tập đoàn san hô có thể phát triển tốt.
Tiếp đến là kiểu rạn chắn, kiểu này dễ nhận biết bởi rạn tách biệt với
bờ bằng một lagoon (hồ nước). Hồ nước này thường nông và chất
đáy là cát và thường có những rạn dạng đốm nhỏ hoặc các thảm cỏ
biển ở dưới. Kiểu rạn thứ 3 là rạn vòng (dạng vành khuyên) bao
quanh một lagoon ở giữa.
Ngày nay việc nghiên cứu san hô không chỉ đề cập đến phân loại
mà đã tiến xa hơn một bước, đặc biệt là vấn đề quản lý, bảo vệ, sử
dụng hợp lý và phục hồi các rạn san hô. Các tổ chức quốc tế về bảo
vệ tài nguyên môi trường được thành lập như IUCN, IOC, GEF,
GCRMN, FFI, WWF… nhằm nghiên cứu, tư vấn và hỗ trợ cho việc
bảo vệ tài nguyên môi môi trường toàn cầu, trong đó có san hô. Cứ 2
năm một lần, dựa trên mạng lưới giám sát các rạn san hô toàn cầu,
GCRMN xuất bản cuốn “Hiện trạng san hô thế giới” nhằm cung cấp
4


những thông tin mới nhất về tình trạng sức khỏe san hô để có các
biện pháp bảo vệ và quản lý. Các dự án trồng phục hồi san hô bằng
các hình thức khác nhau đã được tiến hành hầu hết ở các nước có rạn
san hô, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ Biorock, reefball đang

rất phổ biến hiện nay vì nó mang lại hiệu quả cao. Việc sinh sản nhân
tạo, thu gom ấu trùng tự nhiên để tạo nguồn giống phục vụ cho trồng
phục hồi cũng được tiến hành ở nhiều nơi và đạt được nhiều thành
công đáng kể. Đặc biệt, sau hiện tượng san hô chết trắng năm 1998
và các kịch bản biến đổi khí hậu tác động lên hệ sinh thái rạn san hô.
1.2. Tổng quam về nghiên cứu mối quan hệ giữa san hô với cá và
động vật đáy
Trong hệ sinh thái rạn san hô, mọi sinh vật đều có sự ràng buộc
nhất định với nhau như nơi cư trú, thức ăn, cộng sinh, hội sinh,... để
chúng tạo nên một hệ sinh thái bền vững, ổn định, trong đó rạn san
hô giữ vai chính trong hệ sinh thái. Vai trò của san hô trong việc
cung cấp nơi sinh cư cho các quần xã cá rạn và động vật đáy cũng đã
được nghiên cứu nhiều trong những thập niên gần đây, đặc biệt là
sau sự ra đời của thiết bị lặn Scuba.
Đối với mối quan giữa san hô với cá: có nhiều ý kiến trái chiều
nhau về sự phụ thuộc của cá và san hô. Có nghiên cứu cho rằng sự
phức tạp của nền đáy rạn có sự tương quan tích cực tới sự đa dạng
của quần xã cá rạn. Nhưng cũng có những ý kiến cho rằng, giữa cá
và rạn san hô không có sự tương quan hoặc chưa có bằng chứng rõ
ràng với mức độ phong phú của cá. Tuy nhiên phần lớn các nghiên
cứu đều khẳng định độ giàu có (richness species) và đa dạng của cá
rạn san hô có tương quan đến cấu trúc phức tạp của nền đáy rạn san
hô như độ phủ của san hô cành, sự đa dạng, phong phú loài, kích cỡ
tập đoàn, độ phủ san hô sống, độ phủ san hô khối hoặc san hô phủ.
Đối với mối quan hệ giữa san hô với động vật đáy: có rất ít
nghiên cứu đánh giá về mối liên quan của sự đa dạng với độ phủ
hoặc cấu trúc nền đáy san hô. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào
mối quan hệ hội sinh của các nhóm loài động vật đáy với san hô hoặc
đánh giá sự biến động suy giảm rõ rệt của mật độ và trữ lượng động
vật đáy trước vào sau hiện tượng san hô chết hàng loạt.


5


1.3. Tổng quan về nghiên cứu san hô ở Việt Nam
Những nghiên cứu liên quan đến san hô sớm nhất được công bố ở
thể kỷ cuối 19 và nửa đầu thế kỷ 20 nhưng chủ yếu là của các tác giả
nước ngoài như Bassett -Smith (1890), Bernard (1897), Krempf
(1927), Dawydoff (1936, 1952), Serène (1937, 1959) và chỉ có duy
nhất một tác giả người Việt Nam công bố đó là Trần Ngọc Lợi
(1967) về động - thực vật trên nền đáy cứng vùng triều vịnh Nha
Trang.
Nghiên cứu về san hô ở Việt Nam nói chung mới thực sự bắt đầu
từ những năm 1980 tới nay thông qua các hoạt động hợp tác với
nước ngoài như Viện Sinh học Biển Viễn Đông (Liên Xô cũ, 1980 1990) và Quỹ bảo vệ động vật hoang dã Quốc tế (WWF, 1992 1994), Chương trình Biển Đông - Hải đảo, các Chương trình trọng
điểm cấp Nhà nước KC cùng với chương trình hợp tác Việt – Phi tổ
chức 4 năm một lần. Đặc biệt với việc sự dụng thiết bị lặn SCUBA,
việc điều tra san hô đã được triển khai trên quy mô rộng lớn cả về
mặt rộng lẫn xuống sâu, kết quả nghiên cứu cũng được nâng cao về
chất lượng và mở rộng về nội dung, nhất là về sinh thái học và hệ
sinh thái mà trước đây còn ít được quan tâm. Các kết quả đã được
nhiều tác giả công bố như Nguyễn Huy Yết, Lăng Văn Kẻn, Võ Sỹ
Tuấn, Latypov, Nguyễn Đăng Ngải... cho tới nay đã có khoảng 493
loài thuộc 78 giống san hô cứng ở Việt Nam được công bố, 4 kiểu
rạn san hô được phát hiện.
1.4. Tổng quan về nghiên cứu san hô ở quần đảo Trường Sa
Nghiên cứu san hô ở quần đảo Trường Sa được nghiên cứu sau
khi Viện Hải dương học Đông Dương được thành lập năm 1922. Các
chuyến khảo sát được thực hiện trên tàu De Lanessan và La
Malicieuse. Sau năm 1945 các hoạt động nghiên cứu ở Trường Sa bị

ngừng trệ do chiến tranh.
Đến năm 1981 các hoạt động nghiên cứu về Trường Sa mới bắt
đầu trở lại trên các tàu Kallisto và Berril do Viện Hải Dương học
Nha Trang và Viện Sinh vật Biển Viễn Đông, Liên Xô thực hiện.
Sau đó các chuyến khảo sát của Viện Hải dương học Nha Trang,
Viện Tài nguyên và Môi trường biển và Viện Nghiên cứu Hải sản đã
thực hiện dựa trên các Chương trình cấp nhà nước Biển Đông – Hải
6


đảo được thực hiện vào các năm 1986, 1989, 1996, 2002, 2003,
2006, 2007, 2008. Ngoài ra, còn đề án hợp tác giữa Việt Nam và
Philippine (gọi tắt là đề án khảo sát hỗn hợp Việt – Phi JOMSRE) đã
khảo sát trên 4 đảo chìm là Nares Bank, Trident Shoal, Menzies Reef
và Scarborough phía bắc quần đảo Trường Sa vào các năm 1996,
2000, 2005 và 2007, kết quả của các chuyến khảo sát này đều được
công bố trong các tuyển tập hội thảo sau khi kết thúc chuyến đi.
CHƯƠNG II. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nguồn tài liệu và số liệu sử dụng trong luận án
Các tài liệu được sử dụng trong luận án này được tập hợp từ các
báo cáo khoa học của các đề tài/dự án nghiên cứu về các vấn đề có
liên quan tại quần đảo Trường Sa từ trước đến nay và từ các sách
chuyên khảo, các bài báo được công bố trên các tạp chí khoa học
chuyên ngành hoặc trong các kỷ yếu hội thảo.
Các số liệu được sử dụng chính trong luận án được lấy từ các đề
tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây dựng các khu bảo tồn
biển vùng quần đảo Trường Sa” năm 2007-2008 do chính tác giả là
người trực tiếp điều tra khảo sát và xử lý số liệu mà có.
2.2. Đối tượng và lĩnh vực nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính trong luận án này là nhóm san hô

cứng có tảo cộng sinh. Để nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc
rạn san hô với cá và động vật đáy có điều tra thêm một số nhóm cá
rạn san hô và động vật đáy bao gồm các loài ít hoặc không có giá trị
kinh tế (ít bị tác động của con người).
2.3. Địa điểm nghiên cứu
- Ba đảo được nghiên cứu gồm: Nam Yết, Thuyền Chài và Đá
Nam thuộc quần đảo Trường Sa.
- Số lượng và vị trí các điểm nghiên cứu được lựa chọn đều có
tính đại diện mỗi đảo. Trong đó, đảo Nam Yết - 6 điểm, đảo Đá Nam
- 4 điểm, đảo Thuyền Chài - 10 điểm.

7


Đảo Đá Nam

Đảo Nam Yết

Đảo Thuyền Chài

Hình 1.5. Vị trí quần đảo Trường Sa và các đảo nghiên cứu
2.4. Thời gian khảo sát
Thời gian tiến hành khảo sát được thực hiện 2 chuyến vào tháng
4-5 của năm 2007 và 2008.

8


2.5. Phương pháp thu thập số liệu
2.5.1. Phương pháp khảo sát tại hiện trường

2.5.1.1. Phương pháp xác định đa dạng loài
- Thu thập mẫu vật: Sử dụng thiết bị lặn sâu Scuba thu mẫu san
hô trên rạn từ 0mHĐ đến độ sâu 30 - 50m (chân rạn). Tổng số mẫu
san hô cứng thu được là 150 mẫu.
- Chụp ảnh: Sử dụng máy ảnh kỹ thuật số chụp dưới nước để
chụp mẫu vật, tổng số ảnh được sử dụng để phân tích tại 3 đảo là:
2.500 ảnh.
2.5.1.2. Phương pháp đánh giá nhanh độ phủ san hô: Sử dụng
phương pháp Manta tow (English et al. 1997).
2.5.1.3. Phương pháp khảo sát chi tiết hợp phần nền đáy, cá và
động vật đáy: Sử dụng phương pháp Reefcheck (Hodgson et al.
2004).
2.5.1.4. Điều tra các tác động lên rạn san hô
- Tình hình khai thác nguồn lợi hải sản ven đảo: phỏng vấn ngư
dân, các cán bộ sỹ quan, chiến sỹ trên đảo: 30 ngư dân và 20 sĩ quan,
chiến sỹ trên đảo.
- Các biến động bất thường của tự nhiên (bão, nhiệt độ tăng cao):
Thu thập các thông tin từ các trạm khí tượng thuỷ văn.
Ngoài ra, xây dựng cầu cảng, luồng tàu, đê chắn sóng, các dấu
hiệu bất thường của sự ô nhiễm môi trường cũng được quan tâm
nghiên cứu.
2.5.2. Phương pháp phân tích mẫu vật
Phương pháp phân tích mẫu san hô
-

Mẫu thu được được phân loại dựa vào hình thái và cấu trúc bộ
xương theo hệ thống phân loại của Veron và Pichon (1976, 1978,
1980, 1982, 1986) Veron và Smith (2000).

9



-

Đối với phân loại trên hình ảnh, xác định thành phần loài dựa
vào màu sắc và hình thái theo hệ thống và tài liệu phân loại san
hô sống của Veron và Smith (2000).

Phương pháp phân tích mẫu cá
Mẫu cá được phân loại dựa trên các đặc điểm hình thái theo sách
phân loại của: Myers F.R (1991), Lieske E and Meyers R (1996),
Randall JE, Allen GR and Steene RC (1997), Eschmeyer W N
(1998), Allen G.R (2000) và Nakabo (2002).
Phương pháp phân tích mẫu động vật đáy
Các loài động vật đáy trên dây mặt cắt khảo sát chủ yếu được
nhận dạng trực tiếp tại hiện trường đến bậc taxon thấp nhất có thể và
đếm số lượng cá thể.
2.5.3. Phương pháp xử lý số liệu
- Các số liệu ghi chép được tại hiện trường như độ phủ của các
hợp phần đáy, mật độ cá và động vật đáy được tính toán ra các số
liệu định lượng theo các công thức tính cho mỗi loại.
- Sử dụng các phần mềm Excel, Mapinfor và các phần mềm lập
trình để xử lý, tính toán và vẽ biểu đồ.
- Các chỉ số sinh thái như các mối quan hệ trong hệ sinh thái, chỉ
số đa dạng, chỉ số tương đồng được tính toán theo các công thức và
chức năng Data analysis trong Excel.

CHƯƠNG III- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hình thái rạn san hô tại các đảo nghiên cứu
Ba đảo được nghiên cứu trong luận án này đều là rạn vòng hoặc

là hợp phần của rạn vòng. Trong đó đảo Thuyền Chài là một rạn san
hô vòng độc lập, kín hoàn toàn, rạn san hô phát triển bao quanh một
hồ nước ở giữa không có cửa hoặc lạch sâu thông với biển. Hai đảo
còn lại là hợp phần của các chuỗi rạn vòng rộng lớn có nhiều cửa
rộng lớn thông với biển. Đây là các đại diện đặc trưng của kiểu rạn
san hô vòng mà vùng ven bờ không có.
10


- Rạn san hô đảo Nam Yết: ở phía Bắc của đảo với hình dáng rạn
thoải đều, san hô phát triển tốt. Mặt phía Nam đảo có rạn dốc thẳng
đứng, cấu trúc và phân bố của san hô rất khác với rạn phía Bắc,
chúng thường tạo dạng bậc thềm hoặc gò đồi ở độ sâu 20-30m ngăn
cách với đảo chính bằng một rãnh trũng. Trên các gò đồi này san hô
mềm rất phát triển, phổ biến là 2 giống Sarcaphyton và Lobophytum
độ phủ lên đến 90%.
- Đảo Thuyền Chài là một rạn san hô vòng kín riêng biệt, có các
gò đồi ngầm trong lagoon kín được mọc lên từ độ sâu 10 - 15m trên
nền đáy cát và vụn san hô. Cấu trúc và thành phần loài và hình thái
san hô ở trong lagoon rất khác biệt so với rạn bên ngoài. Đặc biệt là
các loài san hô ưa lặng sóng như Montipora digitata rất phát triển,
ngoài ra có loài Porites cylindrica phát triển rất mạnh tạo thành các
tập đoàn hình cầu lớn đường kính 3-4m.
- Đảo Đá Nam là hợp phần của chuỗi rạn vòng Song Tử, mặt
ngoài tương tự như các rạn khác có độ dốc lớn, có nhiều rãnh xâm
thực cắt ngang qua rạn, chứng tỏ rạn thường xuyên chịu tác động
mạnh của sóng. Mặt phía trong lagoon có độ sâu nhỏ 10-15m, san hô
phát triển phổ biến là giống Porites dạng khối có kích thước lớn và
Montipora dạng phiến phủ đã tạo cho rạn độ gồ ghề rất lớn.
3.2. Các đặc trưng của quần xã san hô cứng tại các đảo nghiên

cứu
3.2.1. Các đặc trưng về sự đa dạng thành phần loài
3.2.1.1. Sự đa dạng về loài
Các kết quả nghiên cứu đã xác định được có 342 loài san hô cứng
thuộc 66 giống, 15 họ tại 3 đảo nghiên cứu trên tổng số 382 loài san
hô cứng thuộc 70 giống, 15 họ được ghi nhận ở quần đảo Trường Sa.
Như vậy, số lượng loài ở đây bằng 77,5% so với số lượng loài phát
hiện được trên toàn dải ven biển Việt Nam (493 loài) và chiếm
khoảng 50% số loài san hô hiện có trên toàn thế giới. Trong đó, các
đảo được nghiên cứu ở luận án này có số loài rất cao là Nam Yết
(274 loài) và Thuyền Chài (273 loài), và Đá Nam có số loài thấp nhất
(124 loài).

11


Trong các đợt khảo sát của luận án này đã phát hiện thêm được 85
loài san hô nữa bổ sung cho danh mục san hô Quần đảo Trường Sa,
trong đó có 15 loài mới ghi nhận cho san hô biển Việt Nam. Số loài
phát hiện mới chủ yếu nằm trong họ Acropora trong đó có nhiều loài
tìm thấy ở sườn dốc đứng và với độ sâu lớn (trên 20m) như Acropora
wallidii, A. rosaria A. jacquelineae, A. echinata, A. pinguis, A.
irregularis…. và một số loài rất hiếm gặp như Alveopora spongiosa,
Mycedium mancaoi, Cataliphyllia jardinei…
Kết quả tính chỉ số đa dạng H’ ở các đảo nghiên cứu khá cao, cao
nhất là đảo Thuyền Chài có chỉ số đang dạng là 1,91 tiếp theo là đảo
Nam Yết có H’ là 1,80 và đảo Đá Nam là 1,38. So sánh chỉ số đa
dạng của các đảo nghiên cứu với một số khu vực rạn ven bờ cho thấy
chỉ số đa dạng ở các đảo Trường Sa cao hơn hẳn chứng tỏ rằng sự đa
dạng của quần xã san hô ở đây rất cao.

3.2.1.2. Cấu trúc quần xã san hô cứng
Trong cấu trúc quần xã san hô cứng ở 3 đảo nghiên cứu, hai
họ Acroporidae và Faviidae luôn chiếm ưu thế về số lượng loài và
vượt trội so với các họ còn lại (chiếm trên 50% tổng số loài). Trong
khi họ Trachyphylliidae và Astrocoenidae là 2 họ có số loài thấp
nhất, thậm chí không phát hiện thấy ở đảo Đá Nam.
Ở một số điểm, các loài Acropora nobilis, A. hyacinthus, A.
aspera có tần số bắt gặp cao, đặc biệt trong lagoon của đảo Thuyền
Chài có các loài Montipora digitata và Porites cylindrica rất phổ
biến. Ở khu vực nghiên cứu có loài san hô trúc Isis hippuris rất đặc
trưng, chúng phân bố rải rác trên rạn san hô và thấy nhiều trong
lagoon của đảo Đá Nam và rải có rác rác ở Nam Yết và Thuyền
Chài.
Khi xét chỉ số tương đồng của 3 đảo nghiên cứu cho thấy hai
đảo Nam Yết và Thuyền Chài có chỉ số tương đồng khá cao là 0,78
điều này cho thấy đảo Nam Yết và Thuyền Chài có khu hệ san hô
tương đối giống nhau trong khi các so sánh với các đảo còn lại là
0,54-0,56, và chung cho cả 3 đảo là 0,46.
3.2.2. Sự phân bố của san hô
3.2.2.1. Phân bố theo mặt rộng
12


San hô phân bố xung quanh tất cả các đảo, chúng trải dài và
rộng, có đảo rạn san hô trải dài liên tục trên 30km và rộng đến 6km
như đảo Thuyền Chài, đảo Nam Yết rạn san hô bao quanh đảo với
chiều dài trên 6km, rạn san hô bao quanh đảo Đá Nam có chiều dài
trên 5km. Đây là một điểm rất khác biệt khi so sánh với các rạn san
hô ven bờ về độ lớn và tính liên tục của rạn. Sự phân bố mặt rộng
của san hô còn thể hiện qua số lượng loài phát hiện được ở các đảo

và trên mỗi điểm khảo sát. Ở những đảo có sinh cảnh đa dạng thì ở
đó có số lượng loài san hô phân bố cao (như Nam Yết, Thuyền Chài
có số loài 273-274 loài) và ngược lại những đảo có sinh cảnh kém đa
dạng hơn thì có số loài thấp hơn (như Đá Nam – 124 loài). Tại mỗi
điểm rạn số lượng loài bắt gặp tương đối cao từ 50-120 loài. Nhóm
loài phân bố rộng thuộc giống Acropora, Pocillopora, Montipora,
Porites, Goniastrea chúng có mặt hầu hết ở các điểm khảo sát và
chiếm tỷ lệ cao.
3.2.2.2. Phân bố theo độ sâu
San hô cứng ở quần đảo Trường Sa thường phân bố trong phạm
vi từ 0mHĐ đến độ sâu 20 - 30m, nhưng có một số điểm san hô phân
bố đến độ sâu 50m như các điểm rạn ở phía nam đảo Nam Yết, phía
tây bắc của đảo Thuyền Chài. Những điểm rạn đó có các đặc điểm là
độ dốc cao và có dạng bậc thềm ngắn dốc ở độ sâu từ 30m trở xuống.
Đây cũng là khu vực có san hô phân bố sâu nhất ở vùng biển Việt
Nam mới được ghi nhận.
3.2.2.3. Ước tính diện tích rạn san hô
Các số liệu hiện trường kết hợp với tính toán diện tích rạn san hô
trên phần mền Mapinfor 11 cho kết quả như sau: diện tích rạn san hô
đảo Nam Yết là 250ha, đảo Thuyền Chài là 4.500ha, đảo Đá Nam là
210ha.
3.2.3. Đặc trưng về độ phủ của san hô
Kết quả khảo sát cho thấy độ phủ của san hô ở đảo Nam Yết
trung bình là 2.1 tức là nằm trong khoảng từ 30-50% (thuộc rạn khá)
trong đó có 1 tow thuộc bậc 4 (rạn tốt) tức là độ phủ trong khoảng
50-75%. Trên rạn tỷ lệ san hô chết khá cao, trung bình là 2,6 (cao
hơn tỷ lệ san hô sống). Đặc biệt là quan sát thấy khá nhiều điểm san
hô mới chết (bộ xương còn trắng). Ở cuối đảo (mũi phía tây đảo) chỉ
13



là một bãi thoải đều toàn vụn san hô, rất ít san hô sống. Nguyên nhân
có thể do hiện tượng đánh mìn hoặc do sóng gió hướng đông bắc
hoặc đông đưa các vụn san hô đến đây. San hô mềm chiếm tỷ lệ nhỏ
và chỉ xuất hiện ở một số đoạn kéo. Trên một số đoạn kéo thấy có sự
xuất hiện của sao biển gai, trong đó có 4 đoạn số lượng nhiều thuộc
bậc 2 và 3. Đây cũng là nguyên nhân khiến tỷ lệ san hô chết và mới
chết tăng cao.
San hô mềm

San hô chết

San hô cứng

0

1

2

3

4

5

Bậc

Hình 3.15. Bậc độ phủ trung bình trên rạn san hô đảo Nam Yết
Độ phủ san hô chung của đảo Thuyền Chài thuộc loại trung bình,

trong đó khu vực phía bắc cao hơn khu vực phía nam thể hiện ở hai
mặt cắt MC I, MC II (phía bắc đảo) và MC VII, MC IX (phía nam
đảo). Khu vực giữa đảo độ phủ không đồng đều trên các mặt cắt thể
hiện sự chênh lệch khá lớn giữa MCIII, MC IV và MCV. Trên tất cả
các mặt cắt khảo sát luôn thấy có 2 thành phần chính đó là san hô
sống (HC) và đá (RC) chiếm trên 80% hợp phần đáy. Trong 7 mặt
cắt được khảo sát chi tiết có 3 rạn thuộc bậc 3 (rạn tốt) còn lại đều
thuộc bậc 2 (rạn trung bình).
Bảng 3.6. Hợp phần chất đáy trung bình dưới các mặt cắt khảo sát
(%) đảo Thuyền Chài
Chất
đáy

MC
I

MC
II

MC
III

MC
IV

MC
V

MC
VII


MC
IX

Trung
bình

HC

57

51

20

54

31,9

33,7

21,2

38,4

DC

2

2


10

0

1,9

0

0

2,3

SC

1

1

0

8

1,9

0,6

2,5

2,1


14


RKC

0

0

0

0

5,6

0

0

0,8

FS

0

0

0


0

0

0

0

0

SP

0

1

0

2

0

0,6

0,6

0,6

RC


21

31

60

35

47,5

49,4

49,4

41,9

RB

1

2

0

1

1,2

0


1,9

1,0

SD

4

6

5

0

5,6

0,6

2,5

3,4

SI

0

0

0


0

0

0

0

OT

14

6

5

0

4,4

15

21,9

0
9,4

Ghi chú: MC: Mặt cắt, HC: San hô cứng, DC: San hô chết phủ rong, SC:
San hô mềm, RKC: San hô mới chết, FS: Rong lớn, SP: Hải miên, RC: Đá,
RB: Vụn san hô, SD: Cát, SI: Bùn, OT: Các chất đáy khác


Đặc biệt ở đảo Thuyền Chài đã thấy có sự xuất hiện của sao biển
gai ở khu vực giữa đảo và nhiều nhất ở mặt cắt MC V với mật độ
10con/100m2. Sự xuất hiện của sao biển gai đã làm tỷ lệ san hô mới
chết ở mặt cắt này là 5,6% trong khi các mặt cắt khác là 0. Đây là
điều cần lưu ý đến việc bảo vệ rạn san hô và cũng có thể coi là một
sinh vật chỉ thị quan trọng cho việc khai thác quá mức ở đảo này.
Độ phủ của san hô ở đảo Đá Nam thấp, trung bình là 1,6 (khoảng
20%), nhưng tỷ lệ san hô chết khá cao (2,5), tỷ lệ san hô mềm thấp
(0,3). Ở đây cũng có sự xuất hiện của sao biển gai tại một số điểm
nhưng số lượng không nhiều, trung bình 0,8 tức là dưới 10
con/200m.
San hô mềm

San hô chết

San hô cứng

0

1

2

3

4

Bậc


5

Hình 3.20. Bậc độ phủ trung bình trên rạn san hô đảo Đá Nam
15


Phía trong lagoon, rạn san hô thường bị gián đoạn bởi những bãi
cát cắt ngang, chỉ có 2 đoạn kéo độ phủ đạt bậc 3 còn lại phần lớn
thuộc bậc 2 và có một số đoạn đạt bậc 1. Độ phủ san hô chết khá cao
ở hầu hết các đoạn kéo, trong đó có 2 đoạn đạt bậc 4. San hô mềm
thưa thớt chỉ có ở một số đoạn với độ phủ dưới 10% (bậc 1). Số
lượng sao biển gai phát hiện được trên 2/3 số đoạn kéo, trong đó có 4
đoạn có số lượng cao khoảng <30con/200m.
3.3. Các tác động của tự nhiên đến sự phân bố của san hô tại các
đảo nghiên cứu.
3.3.1. Ánh sáng và độ trong của nước
Ánh sáng rất quan trọng đối với sự sinh trưởng và phát triển của
san hô cứng, chúng không sử dụng trực tiếp năng lượng của ánh sáng
mặt trời mà thông qua tảo cộng sinh zooxanthellae. Tảo cung cấp
lượng thức ăn cần thiết cho san hô và tổng hợp canxi cacbonate cho
quá trình tạo khung xương. Đây còn gọi là sự cộng sinh bắt buộc vì
hoạt động sống của loài này ảnh hưởng đến sự sống của loài kia.
Chính vì vậy san hô chỉ phân bố ở vùng nước nông nơi mà áng sáng
mặt trời có thể xuyên tới để nuôi dưỡng cho tảo.
San hô cứng cũng phân bố theo các đới độ sâu tùy thuộc vào sự
xâm nhập của ánh sáng vào trong nước và khả năng thích ứng của
từng loài. Ở những khu vực nước trong san hô cứng có thể phân bố
xuống độ sâu 50m nhưng ở những nơi có độ đục cao san hô chỉ phân
bố đến độ sâu 3-4m.
3.3.2. Địa hình nền đáy

Có 3 dạng địa hình chính đáy biển ở các đảo nghiên cứu.
- Đối với nền đáy có dốc thẳng đứng (80-900) như sườn nam của
đảo Nam Yết, sườn đông nam và mũi phía Tây bắc của Đảo Thuyền
Chài, ấu trùng san hô rất khó bám, đồng thời bề mặt tiếp xúc với ánh
sánh nhỏ nên ít loài thích nghi và sống ở dạng đáy dốc này. Ở dạng
nền đáy này san hô cứng chủ yếu là các loại san hô khối phủ sinh
sống nhưng mật độ và kích thước thường nhỏ. Các loài san hô sừng,
san hô mềm, san hô đen và hải miên phổ biến trên nền đáy này hơn.
- Nền đáy thoải đều: kiểu loại nền này khá phổ biến ở quần đảo
Trường Sa, đây là loại nền đáy phù hợp nhất cho san hô phát triển. Ở
16


những kiểu rạn này san hô thường có thành phần loài phong phú và
độ phủ cao.
- Nền đáy cát: loại nền đáy này phổ biến ở đáy các lagoon, do tính
chất của nền đáy cát không ổn định nên san hô rất ít, chủ yếu tập
trung thành từng đám nhỏ hoặc có nhiều tập đoàn nhỏ mới được phát
triển trên các tảng đá san hô chết nằm rải rác trong lòng hồ.
3.3.3. Tác động của sóng biển
Tác động mạnh của sóng đến san hô chủ yếu trong khoảng độ sâu
từ 3m trở lên. Đây là đới mào rạn bao quanh mặt ngoài của đảo tiếp
giáp với đới mặt bằng, rộng từ 10-20m. Ấu trùng san hô rất khó bám
được vào nền đáy, đồng thời do sự mài mòn của sóng cùng với các
vật liệu khác làm các tập đoàn san hô dễ bị bật khỏi nền đáy nên ở
vùng này san hô ít hơn, những loài còn tồn tại được ở những nơi
sóng to là các loài có khả năng thích nghi cao. Chúng thay đổi hình
thái để giảm tác động của sóng hay tăng cường phát triển phần đế
bám để bám chắc vào nền đáy như dạng khối, dạng phủ hoặc dạng
càng ngắm mập, kích thước tập đoàn cũng thường nhỏ dưới 30cm.

3.4. Mối quan hệ giữa cấu trúc rạn san hô với cá và động vật đáy
ở các đảo nghiên cứu
3.4.1. Đối với cá rạn san hô
Các kết quả nghiên cứu cho thấy: ở những mặt cắt có độ phủ
san hô cao thì số lượng loài và mật độ của cá rạn cũng cao, trong khi
đó các mặt cắt khác có độ phủ san hô thấp thì số lượng loài và mật
độ cá cũng thấp. Cá biệt có 2 mặt cắt độ phủ san hô thấp nhưng số
lượng loài và mật độ cá lại rất cao như mặt cắt IX, X đảo Thuyền
Chài. Điều đó cho thấy, cũng có một mối quan hệ nhất định nào đó
tới độ phủ của san hô nhưng không phải là yếu tố quyết định, độ phủ
san hô cao làm tăng đa dạng các sinh cảnh, tăng sự gồ ghề cho các
loài cá cư trú.
Giữa độ phủ san hô với số lượng loài và mật độ cá rạn ở đảo Nam
Yết có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, với hệ số tương quan là 0,96 và
0,94 (Bảng 3.8). Điều đó có nghĩa là khi độ phủ của san hô tăng thì
số lượng loài và mật độ cá trên rạn san hô cũng tăng và ngược lại.

17


Bảng 3.8. Kết quả tính mối quan hệ giữa độ phủ của san hô với số
loài và mật độ cá rạn san hô ở đảo Nam Yết
Độ phủ san hô Số loài cá rạn
Độ phủ của san hô

Mật độ cá rạn

1

Số loài cá rạn


0,962568

1

Mật độ cá rạn

0,946093

0,944931

1

Đối với đảo Thuyền Chài và Đá Nam có hệ số tương quan yếu
(đều nhỏ hơn 0,5). Tính chung cho cả 3 đảo thì thấy chúng có mối
tương quan trung bình có hệ số tương quan ở mức 0,52 -0,62. Như
vậy, có mối quan hệ giữa độ phủ và cá rạn san hô nhưng khác nhau
tùy thuộc vào cấu trúc của quần xã san hô, ở những đảo có cấu trúc
san hô cành phổ biến số lượng cá và mật độ nhiều hơn những rạn có
cấu trúc san hô khối như đảo Thuyền Chài, Đá Nam.
Bảng 3.9. Kết quả tính mối quan hệ giữa độ phủ của san hô với số
loài và mật độ cá rạn san hô chung cho cả 3 đảo Nam Yết, Thuyền
Chài, Đá Nam
Độ phủ san hô Số loài cá rạn Mật độ cá rạn
Độ phủ của san hô

1

Số loài cá rạn


0,52424

1

Mật độ cá rạn

0,629933

0,516136

1

3.4.2. Đối với động vật đáy
Trên các mặt cắt khảo sát mật độ và số loài của động vật đáy cũng
có xu hướng tăng lên ở những rạn có cấu trúc san hô cành chiếm ưu
thế và với độ phủ cao. Ở các rạn có san hô khối - phủ chiếm ưu thế
các loài động vật đáy có chiều hướng giảm cả về số lượng lẫn số
loài.
Khi phân tích mối quan hệ giữa các nhóm động vật đáy với độ
phủ san hô cho thấy: chỉ có tổng số lượng cá thể động vật đáy có liên
quan chặt chẽ với độ phủ san hô (0,91) và số lượng sao biển khác có
liên quan với mức độ trung bình (0,65) còn lại các nhóm khác thể
18


hiện liên quan đến độ phủ của san hô yếu hoặc không liên quan
(Bảng 3.12).
Bảng 3.12. Kết quả phân tích mối quan hệ giữa độ phủ san
hô và một số nhóm động vật đáy
Độ

Số
Acanth
phủ lượng Tridac Diade aster Conid
san hô cá thể
na
ma
planci
ae
Độ phủ
san hô
Số lượng
cá thể

Sao
biển
khác

Troch
us

1
0,917

1

Tridacna

-0,006 -0,061

1


Diadema

-0,039

Acanthast
er planci

0,199

0,170 -0,073 -0,166

Conidae

0,318

0,508 -0,217

0,369

1

Sao biển
khác

0,658

0,620 -0,348 -0,231 -0,047

0,207


1

Trochus

0,239

0,378 -0,134

0,228

0,264

0,734

0,292

1

Heterocen
trotus

0,214

0,378 -0,011 -0,112

0,179

0,351


0,044

0,388

0,105 -0,096

1

0,459

1

Đối với nhóm rạn có các giống san hô cành chiếm ưu thế có các
nhóm ốc nón, sao biển khác, ốc đụn có mối tương quan mạnh, trong
khi các nhóm khác thể hiện mối tương quan trung bình hoặc không
tương quan. Riêng đối với nhóm sao biển gai sự xuất hiện của chúng
làm suy giảm nhóm san hô cành nên khi tính bằng các thuật toán
chúng có mối tương quan trung bình nhưng thực chất lại là tương
quan mạnh.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa san hô với cá và động vật đáy còn
được thể hiện qua mối quan hệ tương hỗ, mối quan hệ thức ăn. Rạn
san hô là nơi kiếm ăn của nhiều loài sinh vật, trong đó nhiều loài
sống cả đời gắn bó với rạn san hô, một số loài khác chỉ có thời gian
19


kiếm ăn trên rạn. Các loài sinh vật đáy di chuyển kém thì phần lớn có
cuộc sống gắn bó với rạn san hô.
3.5. Các tác động có hại đến các rạn san hô
3.5.1. Tác động của con người

- Khai thác hải sản trên rạn san hô
- Xây dựng các công trình trên đảo như cầu cảng, âu tàu, kè chắn
sóng, công sự
- Các hoạt động diễn tập quân sự
- Neo đậu tàu thuyền
- Khai thác san hô làm cảnh
3.5.2. Tác động của tự nhiên
- Sự phát triển quá mức của sao biển gai (Acanthaster planci)
- Sự cạnh tranh của hải miên
- Bão
- Nhiệt độ nước biển tăng cao
3.6. Một số nhận định về sự hình thành các đảo nổi trong tương
lai
Các đảo chìm ở Trường Sa đều có một vành đai san hô rộng lớn
bao quanh tạo nên một bãi mặt bằng khá rộng với độ sâu khoảng 5070cm khi triều cao và lộ ra khi triều kiệt. Nếu bảo vệ được các RSH
phát triển tốt thì sự hình thành đảo nổi trong tương lai là điều hoàn
toàn có thể. Sự phát triển của rạn san hô chính là nguồn vật liệu tự
nhiên đang ngày đêm bồi đắp cho đảo. Theo tính toán: 1km2 rạn san
hô có thể tạo ra 3100 tấn cacbonate canxi (bằng khoảng 2000-2500
m3 cát), trong đó có khoảng 40% bị hòa tan trong nước còn lại trên
50% được tích lũy trên các rạn san hô. Đồng thời tốc độ nâng lên của
rạn san hô khoảng 1cm/năm, như vậy ở độ sâu 50-70cm thì mất
khoảng 50-70 năm rạn san hô sẽ vươn tới mặt biển và trở thành đảo
nổi. Tuy nhiên, các tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và
axít hóa đại dương đang đe dọa tới tương lai của các đảo này.

20


3.7. Đề xuất các biện pháp quản lý và bảo tồn rạn san hô

Các rạn san hô ở quần đảo Trường Sa đang chịu áp lực lớn từ
những hoạt động của con người dẫn đến hệ sinh thái san hô đang suy
giảm nhanh chóng, cùng với đó là nguồn lợi hải sản đang bị cạn kiệt.
Nếu như không có kế hoạch bảo vệ, không có sự vào cuộc của các
cấp quản lý và người dân thì toàn bộ rạn san hô quần đảo Trường Sa
cùng với nguồn lợi hải sản có nguy cơ bị hủy diệt và gây ra hiện
tượng xói mòn bờ đảo ảnh hưởng đến sự hình thành các đảo Trường
Sa. Để làm được điều đó tác giả đề xuất một số biện pháp sau:
3.7.1. Nâng cao ý thức cộng đồng
Nhằm nâng cao hiểu biết, nhận thức được vai trò, ý nghĩa và tầm
quan trọng của hệ sinh thái rạn san hô đối với đời sống của họ và các
thế hệ mai sau. Bằng các hình thức sau:
- Phát tờ rơi đến các hộ gia đình ven biển, đặc biệt những khu vực
có nhiều tàu vươn khơi thường xuyên khai thác ở khu vực Trường Sa
như các tỉnh từ Quảng Ngãi đến Vùng Tàu.
- Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài
tiếng nói, đài truyền hình, báo chí....
- Tổ chức các lớp tập huấn hoặc nói chuyện chuyên đề về bảo vệ
tài nguyên biển đảo.
- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về tài nguyên thiên nhiên biển đảo
cho các trường học các cấp, giữa các thôn xóm hoặc giữa các xã với
nhau.
3.7.2. Cấm các hình thức khai thác hủy diệt
- Tăng cường công tác tuyên truyền để ngư dân nhận thức được
các hành động khai thác hủy diệt sẽ ảnh hưởng đến lợi ích chính họ
và cả thế hệ tương lai do mất dần các hệ sinh thái và nhiều loài có
nguy cơ tuyệt chủng.
- Cần có lực lượng thực thi pháp luật để ngăn chặn kịp thời những
hành vi cố tình vi phạm và áp dụng các hình thức răn đe như xử phạt
vi phạm hành chính, tịch thu ngư cụ, phương tiện nếu tái phạm nhiều

lần hoặc có tính chất nghiêm trọng.
21


3.7.3. Lựa chọn một số đảo tiêu biểu để thành lập các khu bảo tồn
biển
Thành lập KBTB là biện pháp quản lý hiệu quả các RSH đã được
áp dụng nhiều nơi trên thế giới và ở Việt Nam. Trên cơ sở các kết
quả nghiên cứu và căn cứ vào 8 tiêu chí để lựa chọn KBTB của
IUCN 1992. Đồng thời, so sánh các giá trị đa dạng, sinh thái, quý
hiếm,... với các đảo khác như Trường Sa lớn, Sinh Tồn, Song Tử
Tây, Sơn Ca, Tốc Tan, Đá Tây cho thấy: đảo Nam Yết có các đặc
điểm nổi bật và phù hợp để xây dựng thành KBTB và đã được Thủ
tướng phê duyệt trở thành 1 trong 16 KBTB của Việt Nam (theo
Quyết định số 742/QĐ-TTg., năm 2010). Ngoài ra, luận án còn đề
xuất thêm đảo Thuyền Chài cũng có một số đặc điểm tương tự để
xây dựng thành KBTB theo mục tiêu của Quyết định trên trong giai
đoạn từ 2016-2020.
3.7.4. Các biện pháp quản lý
Để quản lý có hiệu quả các rạn san hô ở quần đảo Trường Sa
trước hết cần phải có chiến lược bảo vệ, xác định những đảo nào cần
phải bảo tồn như dựa trên sự đa dạng sinh học, các loài có giá trị, các
loài đặc hữu, các đặc trưng của các hệ sinh thái,... sau đó phân vùng
bảo vệ, vùng được phép khai thác, vùng cấm nghiêm ngặt.
Thành lập ban quản lý với các đơn vị chuyên trách để thực thi
pháp luật, đồng thời ban hành các nội quy, quy định về bảo vệ và
khai thác nguồn lợi hải sản trong khu vực đó.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nên kết hợp với Bộ
Quốc phòng thống nhất giao cho các đơn vị bộ đội đóng quân trên
đảo kết hợp cùng bảo vệ hoặc giao quyền bảo vệ tài nguyên và môi

trường quanh đảo.
Trước mắt nên trang bị cho mỗi đảo phải có một xuồng cao tốc để
tuần tra hoặc xử lý kịp thời các hành vi vi phạm.
Ban hành quy chế riêng cho từng đảo, như cấp phép định kỳ hoặc
cho phép số lượng hạn chế tàu thuyền được khai thác quanh đảo và
phạm vi hoạt động, mùa vụ khai thác.
22


Bắt phạt hoặc tịch thu các phương tiện, ngư cụ vi phạm quy chế
quản lý của đảo và luật thủy sản.
Ngoài ra, cần nghiên cứu xây dựng bộ chỉ thị đa dạng sinh học và
thực hiện quan trắc định kỳ trên HST rạn san hô để kịp thời phát hiện
và xử lý những tác động tiêu cực nhằm quản lý tốt các rạn san hô ở
khu vực này.
KẾT LUẬN
1. Quần đảo Trường Sa nói chung và các đảo nghiên cứu (Nam Yết,
Thuyền Chài, Đá Nam) nói riêng có thành phần loài san hô rất đa
dạng. Trong các cuộc điều tra của luận án này đã phát hiện thêm 85
loài cho danh mục san hô Trường Sa, nâng tổng số loài hô cứng đã
được phát hiện ở quần đảo Trường Sa lên 382 loài thuộc 70 giống và
15 họ san hô cứng, trong đó có 15 loài mới ghi nhận được ở Việt
Nam. Điều đó chứng tỏ quần đảo này còn tiềm ẩn một số loài nữa mà
các cuộc điều tra chưa phát hiện hết. Đồng thời cho thấy sự đa dạng
loài ở đây không thua kém các vùng rạn tương tự trong vùng Tam
giác san hô gần kề.
2. Sự thuận lợi của môi trường cũng như nền đáy đã tạo điều kiện
cho san hô phân bố được ở mọi nơi quanh đảo từ vùng triều đến độ
sâu 50m, đây là khu vực có san hô phân bố sâu nhất mới được ghi
nhận ở biển Việt Nam. Độ phủ san hô ở đây thuộc vào loại cao, trung

bình bậc 2-3, trong đó có một số rạn đạt bậc 4 (theo thang phân loại
5 bậc độ phủ của English). Có rạn kéo dài liên tục trên 30km (rạn
Thuyền Chài) với độ dài này chưa từng phát hiện thấy ở các rạn san
hô ven bờ.
3. Kiểu rạn san hô vòng (atoll) đã tạo nên nét rất đặc trưng ở khu vực
quần đảo Trường Sa mà ở vùng ven bờ không có. Trong đó đảo
Thuyền Chài đại diện cho kiểu rạn vòng kín, Nam Yết và Đá Nam
đại diện cho kiểu rạn vòng hở. Sự khác nhau giữa hai kiểu rạn đã tạo
nên cấu trúc quần xã san hô khác nhau. Phía trong lagoon của đảo
Nam Yết có các loài san hô cành, bàn Acropora rất phổ biến, trong
khi ở Đá Nam lại là các tảng san hô khối Porites rất lớn. Ngược lại
trong lagoon kín Thuyền Chài các loài san hô dạng cành ngắn
Montipora và Porites rất phát triển.

23


×