Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Đánh giá hiện trạng nuôi trồng thủy sản tại thành phố Hội An- tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 48 trang )

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.Tính cấp thiết của đề tài
Nuôi trồng thuỷ sản là một ngành sản xuất động thực vật thuỷ sinh trong điều
kiện kiểm soát hoặc bán kiểm soát, hoặc như người ta vẫn thường nói, nuôi
trồng thuỷ sản là sản xuất nông nghiệp trong môi trường nước. Vì vậy, nuôi
trồng thuỷ sản đề cập đến cả các hoạt động trong môi trường nước mặn, nước
ngọt và nước lợ.
Với cánh cửa của WTO ngày càng mở rộng khi Việt Nam đã trở thành thành
viên chình thức của tổ chức này, thì đây là một điều kiện hết sức thuận lợi để
Việt Nam phát triển nền kinh tế một cách toàn diện trong giai đoạn hội nhập.
Gia nhập vào WTO chúng ta có rất nhiều cơ hội để phát triển kinh tế từ kinh tế
nông nghiệp đến kinh tế ngoại thương. Trong điều kiện đó thì xuất khẩu sản
phẩm thủy sản cũng dễ dàng hơn vào thị trường các nước trên thế giới. Trên
thực tế thì hiện nay Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với 75% dân cư sinh
sống ở nông thôn và trên 75% lực lượng lao động xã hội làm việc trong khu vực
này. Sự phát triển của nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của
nền kinh tế và ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Do vậy, khi gia nhập WTO
nông nghiệp của Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển hơn. Thủy sản cũng là
một bộ phận của ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm nông – lâm – ngư
nghiệp. Và có thể nói ngành thủy sản đóng một vai trò quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân của nước ta.
Có một đặc điểm là nguồn lợi thủy sản mang tính tái tạo, tái sinh. Nhưng khi
con người khai khác quá khả năng tái sinh thì nguồn lợi sẽ bị cạn kiệt. Trên thực
tế hiện nay sản lượng thủy sản mà con người khai thác ngày càng bị suy giảm
và cạn kiệt. Nếu như con người không tiến hành giải pháp khác thì nguy cơ cạn
kiệt nguồn lợi là điều dể nhận thấy. Vì vậy, nuôi trồng thủy sản vừa nhằm mục
đích phục vụ nhu cầu trong nước đồng thời xuất khẩu có thể nói là một giải pháp
hữu hiệu trong giai đoạn phát triển hội nhập như hiện nay. Để đáp ứng được nhu
cầu thị trường trong và ngoài nước thì chúng ta cần nắm rõ thực trạng khai thác
và nuôi trồng thủy sản để có điều chỉnh cho kịp thời.
Hội An là một thành phố nằm ven biển, thuộc vùng hạ du của sông Thu Bồn


là một trong các địa phương thuộc tỉnh Quảng Nam được thiên nhiên ưu đãi về
tiềm năng phát triển kinh tế thủy sản. Cùng với ngành nông nghiệp trồng lúa
nước truyền thống, ngành thủy sản đã và đang phát triển không ngừng.
1


Khởi điểm vào thập niên 80, nghề nuôi trồng thủy sản ở Hội An cũng đã có
những biến động lớn. Từ hình thức quảng canh, nghề nuôi trồng thủy sản ở Hội
An đã chuyển sang hình thức bán thâm canh với đối tượng tôm sú. Năm 2006,
đối tượng tôm thẻ chân trắng đã được đưa vào nuôi trên diện tích 0.4 ha và đã
tăng trong những năm gần đây. Bên cạnh đối tượng là con tôm thẻ thì một số đối
tượng khác cũng được người dân mạnh dạng đầu tư như cua xanh, cá rô phi đơn
tính, cá chẽm, ...
Xuất phát từ hiện trạng NTTS ở Hội An, được sự đồng ý của Trường Đại
Học Nông Lâm Huế, Khoa Thủy Sản và thầy giáo hướng dẫn tôi xin chọn đề tài:
“ Đánh giá hiện trạng nuôi trồng thủy sản tại thành phố Hội An- tỉnh
Quảng Nam”
1.2.Mục tiêu của đề tài.
Điều tra, đánh giá hiện trạng NTTS tại thành phố Hội An. Trên cở sở đó định
hướng phát triển NTTS bền vững trong thời gian tới.

2


PHẦN 2: TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU
2.1.Tình hình nuôi trồng thủy sản trên thế giới
Trên thế giới, Châu Á là nơi cho sản lượng thủy sản nuôi trồng lớn nhất,
chiếm 89% tổng sản lượng và 77% tổng giá trị sản phẩm thủy sản nuôi trồng thế
giới năm 2006. Năm 2006, tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản thế giới là 51
triệu tấn và sản lượng khai thác là 92 triệu tấn. Trong số này, Trung Quốc chiếm

66.7% tổng sản lượng nuôi, các nước Châu Á khác chiếm 22.8%, và các nước
khác còn lại ở Châu Âu, Châu Mỹ, Úc,… chiếm 10,5%.
Sự phát triển nhanh chóng của nghề nuôi thủy sản được bắt đầu từ những
năm 1970 của thế kỷ XX. Đến nay, nghề nuôi thủy sản vẫn liên tục phát triển đa
dạng lẫn thâm canh hóa. Nếu như năm 1970, tốc độ tăng trưởng hằng năm về
sản lượng là 3.9%, thì năm 2006, tốc độ tăng trưởng là 36%. Sự phát triển nhanh
chóng của nghề nuôi đã góp phần tăng tỷ lệ tiêu dùng sản phẩm thủy sản nuôi
trồng từ 0.7 kg/người/năm vào năm 1970 lên 7.8 kg/người/năm vào năm 2006.
Sản phẩm từ nuôi trồng thủy sản chiếm 46% tổng sản phẩm thủy sản tiêu dùng
hàng năm. Ở Trung Quốc, tỷ lệ này là 90%.
Mười nước đứng đầu thế giới năm 2006 về sản lượng nuôi trồng thủy sản
gồm: Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Bangladesh, Chile,
Nhật Bản, Na Uy và Philippines. Năm 2006, sản lượng nuôi trồng thủy sản của
Việt Nam là 1,7 triệu tấn, đứng thứ 5 thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ, Idonesia,
Philippines.
Nghề nuôi trồng thủy sản nội địa tiếp tục đóng góp chính cho nghề nuôi
thủy sản nói chung, với hơn 61% sản lượng và 53% tổng giá trị sản phẩm
nuôi trồng. Nuôi thủy sản nước ngọt chiếm 58% sản lượng và 48% giá trị,
nuôi biển chiếm 34% sản lượng và 36% giá trị. Trong khi đó, nuôi nước lợ
với tỷ lệ sản lượng thấp 8% nhưng cho tỷ lệ giá trị đến 16% do nuôi chủ yếu
các loài tôm có giá trị cao.
Cơ cấu nhóm loài nuôi cho thấy, năm 2006, cá nước ngọt cho sản lượng cao
nhất là 27.8 triệu tấn, đạt giá trị 29.5 triệu USD; động vật thân mềm và rong biển
cho sản lượng và giá trị tương đương nhau. Trong khi đó, giáp xác có sản lượng
chỉ 4.5 triệu tấn nhưng đạt giá trị đến 17.95 triệu USD.

3


Theo một báo cáo đánh giá xuất bản tháng 1/2009 của tạp chí BioScience,

ngành sản xuất thủy hải sản dường như sẽ tiếp tục phát triển mạnh trên toàn thế
giới đến năm 2025. Bản đánh giá do James S. Diana thuộc trường đại học
Michigan thực hiện, nhận định cho dù có những mối lo ngại về tác động xấu của
sản xuất thủy hải sản tới môi trường nhưng những công nghệ sản xuất đó, khi
mà được áp dụng đúng cách, sẽ không gây ảnh hưởng nhiều đến đa dạng sinh
học hơn ngành sản xuất thực phẩm.
Báo cáo cho biết tổng sản lượng đánh bắt thủy hải sản trong vòng 20 năm
qua dường như không hề thay đổi và có thể suy giảm một chút. Tuy nhiên sản
xuất nuôi trồng thủy sản tăng 8.8% mỗi năm từ 1985, chiếm 1/3 tổng sản lượng
ngành thủy sản tính theo khối lượng. Những loài cá biển (finfish), động vật thân
mềm và loài giáp xác là những loài chiếm đa số trong nuôi trồng và xuất khẩu
thủy hải sản mang lại nhiều thu nhập cho các quốc gia đang phát triển nhiều hơn
các sản phẩm thịt, cà phê, chè, chuối và gạo cộng lại.
Kim ngạch xuất khẩu toàn cầu tăng 9.5% vào năm 2006, 7% năm 2007, lên
đến con số kỉ lục 92 tỉ USD. Các nước đang phát triển tiếp tục khẳng định vị trí
của mình trong ngành thuỷ sản, chiếm 50% sản lượng thương mại thuỷ sản toàn
cầu, chiếm 27% giá trị, tương đương 25 tỉ USD. Các nước phát triển chiếm 80%
tổng nhập khẩu thuỷ sản toàn cầu.

Hình 1: Sản lượng và giá trị sản phẩm nuôi trồng thủy sản thế giới qua các
năm (FAO 2009).
2.2.Tình hình nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều thuận lợi cho việc phát triển ngành nuôi
trồng thủy sản – có bờ biển dài 3260 km kéo dài từ bắc đến nam, hệ thống sông
4


ngoài phân bố dày, nhiều eo vịnh và đầm phá, chính vì vậy mà ngành nuôi trồng
thủy sản của Việt Nam phát triển từ rất lâu và là một ngành kinh tế mũi nhọn
của Việt Nam. Ngành nuôi trồng thủy sản đem lại nhiều lợi nhuận, góp phần

phát triển kinh tế xã hội.
Ngành nuôi trồng thủy sản nước ta phát triển rất năng động. Nghề nuôi thủy
sản truyền thống bắt đầu từ thập niên 1960, tuy nhiên trong vòng 10 năm nay,
nghề nuôi thủy sản có tốc độ phát triển rất nhanh chóng. Theo thống kê ở các
tỉnh/thành phố năm 2010 cả nước có trên 1 triệu ha mặt nước NTTS, tăng 45%
so với năm 2001, bình quân giai đoạn từ năm 2001-2010 tăng 4,2%/năm. Về sản
lượng, năm 2010 đạt khoảng 2,47 triệu tấn thủy sản các loại, tăng 286,3% so
với năm 2001. Trong đó, sản lượng nuôi thủy sản nước lợ - mặn là 691,5 nghìn
tấn, sản lượng nuôi nước ngọt đạt 2 triệu tấn. Hiện nay, đối tượng nuôi và mô
hình nuôi thủy sản ở Việt Nam khá phong phú, tuy nhiên, chủ lực nhất vẫn là
nuôi cá tra thâm canh ở vùng nước ngọt và nuôi tôm ở vùng nước lợ ven biển.
Đặc biệt, năm 2010, sản lượng nuôi cá tra và basa đạt 1.038.256 tấn và sản
lượng tôm nuôi đạt 470.314 tấn.
Trong báo cáo vừa công bố của Tổng Cục Thống Kê cho biết, sản lượng thủy
sản tháng 1/2013 ước tính đạt 376.100 tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó cá đạt 281.700 tấn, tăng 2,1%; tôm đạt 33.200 tấn, tăng 2,5%.
Tại cuộc hội thảo quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản Việt Nam đến
năm 2020, tầm nhìn 2030 do Bộ NN&PTNT tổ chức ngày 22-6-2012, TS
Nguyễn Thanh Tùng, Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản cho
biết, ngành thủy sản Việt Nam đối mặt với rất nhiều khó khăn như công tác
tổ chức sản xuất trên biển còn quá nhiều bất cập, đầu vào và đầu ra sản
phẩm của ngư dân đều do tư thương quản lý, kể cả nguồn vốn nên tình trạng
ép giá thường xuyên xảy ra. Sản lượng khai thác thủy sản (KTTS) giá thấp
vẫn chiếm tỷ trọng cao, trên 70% là cá tạp các loại dùng trong chế biến thức
ăn và tiêu dùng nội địa. Việc sử dụng các loại hóa chất bị cấm trong NTTS
vẫn xảy ra, dẫn tới nhiều lô hàng xuất khẩu của Việt Nam bị trả lại; dịch
bệnh liên tiếp xảy ra gây thiệt hại lớn cho người nuôi.
Trong cuộc hội thảo nhiều đại biểu tham dự đã cho rằng để quy hoạch tổng
thể ngành thủy sản cho những năm tiếp theo cần phải thực hiện đồng bộ các giải
pháp, cần quy hoạch vùng nuôi theo quy mô lớn, tránh nhỏ lẻ, tự phát dẫn tới

không kiểm soát được dịch bệnh. Đầu tư cơ sở vật chất cho NTTS, KTTS, chế
biến và xuất khẩu; đổi mới khoa học công nghệ để giảm tổn thất sau thu hoạch
5


xuống còn 10% trong năm 2020.
Thứ trưởng Vũ Văn Tám đã nhấn mạnh phát triển NTTS chưa thể hiện rõ sự
gắn kết giữa công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ với thực tiễn NTTS,
chưa đáp ứng nhu cầu của người nuôi của người nuôi ở các lĩnh vực cơ bản như
con giống, công nghệ nuôi, quản lý môi trường và dịch bệnh.
Sự phát triển NTTS chưa bền vững đã thể hiện qua tổng sản lượng thủy sản
nuôi trồng tháng 1/2013 ước tính đạt 170.600 tấn, giảm 0,8% so với cùng kỳ
năm trước. Trong đó, đặc biệt nuôi cá tra vẫn còn gặp khó khăn do cá tra nguyên
liệu ở mức giá thấp trong khi giá cả các yếu tố đầu vào tăng nên sản lượng cá tra
thu hoạch giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ trọng trong xuất khẩu thủy sản: cá tra và cá basa chiếm 50.4% về khối
lượng và 32.7% về giá trị; tôm chiếm 15.9% về khối lượng và 36.9% về giá trị;
cá ngừ chiếm 4.4% về khối lượng và 4.0% về giá trị; mực và bạch tuộc chiếm
6.7% về khối lượng và 6.8% về giá trị, còn lại là các loại thủy sản khác.
Năm 2009, tổng số lượng cá Tra giống các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) đã sản xuất được 2.033 triệu con. Trong đó tỉnh Đồng Tháp sản xuất
905 triệu con giống, An Giang 589 triệu con giống và Cần Thơ 305 triệu con
giống. Giá bán cá Tra giống cỡ 2 cm thời điểm cuối năm 2009 chỉ còn 500 600đ/con, giảm 20-30% so với 2 tháng trước.
Bùi Huy Cộng và ctv, (1997) với mô hình lúa cá kết hợp tại Phú Thịnh (Yên
Bình, Yên Bái), Đại Bái (Gia Lương, Bắc Ninh), Yên Chính ( Ý Yên, Nam
Định). Kết quả cho thấy năng suất lúa ở mô hình 2 vụ lúa + 1 vụ cá tăng 8.712.2% và năng suất cá đạt 475- 640kg/ha, hiệu quả gấp 5 lần so với cấy lúa đơn
thuần. Còn năng suất lúa ở mô hình 1 vụ lúa + 1 vụ cá tăng 17.3%, năng suất cá
đạt 1173- 1377kg/ha, hiệu quả tăng gấp 3 lần so với cấy lúa đơn thuần. Bên
cạnh những lợi ích đó thì các mô hình này còn góp phần làm sạch môi trường.
Nguyễn Văn Hiền (2013) ở ấp 10 – xã Tân Phong- huyện Giá Rai- tỉnh Bạc

Liêu với mô hình quảng canh cải tiến, kết hợp với nuôi cá và nuôi cua. Kết quả
cho thấy bình quân mỗi năm thu nhập từ tôm, cua của ông đạt 200 triệu đồng.
Ông Võ Văn Vân(2013) KP. Đông, phường Vĩnh Phú, TX.Thuận An - Bình
Dương với mô hình nuôi cá tai tượng trong ao đất đã đưa kinh tế gia đình thoát
nghèo. Thu nhập bình quân hằng năm từ nuôi cá tai tượng của ông khoảng 400
triệu.

6


Nguyễn Thị Xuân Thu (2001) khi nuôi xen ghép tôm sú với hải sâm, các yếu
tố môi trường, hàm lượng vi sinh vật có nhiều sai khác lớn so với nuôi đơn tôm
sú. Và đến năm 2003 đã nghiên cứu thành công mô hình nuôi xen ghép tôm sú
kết hợp với hải sâm nhằm cải thiện môi trường ao nuôi và tăng thu nhập cho
người nuôi.
Ở An Giang, nhiều người nuôi xen ghép tôm sú với cá kèo, một đối tượng có
giá trị kinh tế cao. Việc nuôi cá kèo bắt đầu vào mùa mưa (tháng 4 âm lịch), nên
nuôi cá kèo khi tôm sú đã lớn, và chọn cá khỏe mạnh thả nuôi.Ngoài ra ở đây
còn nuôi cá thát lát người thực hiện mô hình này vừa cho thu hoạch 30.000 con
cá thát lát sau gần 6,5 tháng thả nuôi, được trên 14 tấn cá thương phẩm với giá
37.000 đ/kg, thu về lợi nhuận trên 150 triệu đồng.
Cá chình là một loài hải sản có giá trị kinh tế cao. Ở Bà Rịa- Vũng Tàu, đã
nuôi xen ghép cá chình với cá trắm, cá mè. Mật độ cá trắm, cá mè 4,000- 5,000
con/ha.
Tại An Giang, với sự chuyển giao kỹ thuật của phòng Kinh tế Tân Châu và
Hội Nông dân thị xã, xã Vĩnh Xương có khoảng 100 hội viên, nông dân tham
gia nuôi cá lóc, lươn và ếch Thái Lan. Trong đó, có việc ương con giống và nuôi
ếch thịt được tổ chức khá thành công. Còn ở xã Long An, từ Tổ hùn vốn Long
Thành đã xuất phát nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản, hỗ trợ cho hội viên và
nông dân có hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Ở Mỹ Thới, địa bàn ngoại thành Long Xuyên với kinh nghiệm của người
nông dân nên nơi đây có số hộ nuôi lươn nhiều nhất, với chất liệu là ny-lon, diện
tích mỗi bồn 40 m2 (4m x 10m), có thể thả lươn giống 40 – 50 con/m2 (loại 50 –
60 con/kg), sau 5 – 6 tháng nuôi cho trọng lượng 150 – 200g/con, sản lượng đạt
150kg– 250kg/bồn. Bình quân mỗi bồn người nuôi thu được lợi nhuận khaongr
13 triệu đồng.
Tại xã Nam Thái A thuộc huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang có khoảng 272 ha
diện tích nuôi kết hợp tôm – cua – sò huyết tập trung ở Xẻo Quao A, Xẻo Đôi,
Bảy Biển và Xẻo Vẹt với 52 hộ nông dân thực hiện mô hình này. Với nguồn vốn
đầu tư không cao, người nuôi chỉ tốn tiền mua giống, có thể tận dụng nguồn
thức ăn tự nhiên có sẵn trong ao nuôi. Mô hình nuôi ghép này đã góp phần vào
việc cải thiện môi trường nước ao như lọc tảo, xử lý mùn bã hữu cơ, vi sinh vật
và đã giúp nhiều hộ dân có thu nhập ổn định hơn và vươn lên làm giàu.
Ngày nay, hình thức nuôi đa dạng hơn như nuôi trong ao hồ nhỏ, nuôi trong
lồng bè trên sông, nuôi luân xen canh thuỷ sản – lúa… Đặc biệt là khu vực
7


ĐBSCL với diện tích NTTS rộng lớn phân bố trên toàn vùng. Những mô hình
NTTS trên vùng nước ngọt tập trung ở vùng ngập lũ Tứ giác Long Xuyên, vùng
Đồng Tháp Mười và vùng trũng nội địa thuộc bán đảo Cà Mau, chủ yếu ở một
số tỉnh thành như: Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc
Trăng, Cà Mau, Kiên Giang... Các mô hình nuôi thủy sản phổ biến hiện nay là:
canh tác lúa-tôm (tôm nước ngọt và tôm càng xanh), canh tác lúa-cá (cá lóc, cá
rô, cá sặc, thác lác, cá chép, rô phi, mè vinh...), nuôi cá bè trên sông (cá ba sa, cá
tra, cá lóc đen, cá lóc bông...), nuôi tôm/cá đăng quầng (cá linh, cá rô, các loại
tôm tự nhiên...), nuôi cá lóc trong vèo, nuôi lươn mùa lũ…
2.3.Tình hình NTTS tại Quảng Nam.
Là một tỉnh nằm ven biển thuộc vùng phát triển kinh tế miền Trung, với
đường bờ biển dài 125 km và thềm lục địa rộng lớn, có nguồn hải sản phong phú

thuận lợi cho việc khai thác cùng với diện tích đầm, phá và các vùng đất nhiễm
mặn ven biển là nguồn tài nguyên quý giá để phát triển các nghề khai thác, chế
biến và nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi tôm nước lợ.
Theo báo cáo của Chi cục NTTS Quảng Nam, năm 2011, tổng diện tích
NTTS trên toàn địa bàn tỉnh là 6.900 ha với sản lượng thu hoạch đạt 14.250 tấn;
trong đó diện tích NTTS nước ngọt 4.700 ha, diện tích nuôi thủy sản nước lợ
2.272 ha (nuôi vùng triều là 1.191 ha, nuôi trên cát là 268 ha).
Nuôi trồng thủy sản tỉnh Quảng Nam đã góp phần đáng kể vào kim ngạch
xuất khẩu của tỉnh. Theo thống kê của Sở Công thương tỉnh, giai đoạn 20012010, kim ngạch xuất khẩu của Quảng Nam có tốc độ tăng bình quân là
27,7%/năm. Trong đó kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng thủy, hải sản tăng
16,1%/năm.
Với vụ đầu thành công, mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt cho người dân nông
thôn, nhưng qua kết quả điều tra cho thấy rằng NTTS vẫn là một nghề nhiều rủi
ro, ảnh hưởng lớn đến sinh kế người dân cũng như môi trường sinh thái. Năm
2012, Sau gần 3 năm thực hiện quyết định của UBND tỉnh Quảng Nam về quy
hoạch ngắn hạn vùng nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát ven biển thuộc 3 xã Bình
Hải, Bình Dương và Bình Minh (huyện Thăng Bình) với tổng diện tích 131,1 ha
đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên,
việc ồ ạt nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát đang tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi
trường cao.
Đặc trưng của môi trường sống, ô nhiễm nguồn nước, dịch bệnh và xung đột
giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài tất cả đều gây khó khăn cho sự phát triển
8


bền vững của ngành thủy sản hiện nay. Ở nhiều xã và một số huyện trực thuộc
tỉnh, nuôi tôm thực sự chỉ gợi lại những ký ức nợ nần chồng chất và là một nổ
lực thất bại chống lại nghèo đói để cải thiện tình hình kinh tế-xã hội, nhiều
người dân đã từ bỏ NTTS sau nhiều năm thua lổ. Theo thống kê, từ năm 1997
đến năm 2003, bình quân hàng năm, tỉnh Quảng Nam có gần 970 ha nuôi tôm bị

bệnh (chiếm gần 60% diện tích nuôi tôm) với tổn thiệt hại lên đến 86,5 tỷ đồng,
riêng năm 2002 đã có đến 1200 ha nuôi tôm bị thiệt hại. Từ năm 2004 đến nay,
diện tích nuôi tôm bị dịch bệnh có giảm nhưng vẫn còn dao động từ 100-200
ha/năm.
Trong thời gian qua Chi cục Nuôi trồng thủy sản tỉnh Quảng Nam đã triển
khai nhiều biện pháp phòng, chống bệnh trên tôm nuôi, quản lý môi trường
nước trong ao nuôi tôm. Tuy nhiên, công tác chỉ đạo sản xuất vẫn còn gặp
nhiều khó khăn. Người dân vẫn chưa nghiêm túc chấp hành lịch thời vụ và
kiểm dịch con giống. Ông Ngô Tấn- phó giám đốc sở NN&PTNT kiêm Chi
cục trưởng Chi cục Nuôi trồng thủy sản Quảng Nam phát biểu: “Thời gian
qua, việc phát hiện và xử lý các trường hợp tôm nuôi bị các bệnh nguy hiểm
chưa được kịp thời. Khi tôm nuôi có dấu hiệu nhiễm bệnh, chi cục đến vùng
nuôi lấy mẫu, phân tích và trả lời kết quả nhanh chóng. Tuy nhiên, khi phát
hiện tôm nuôi bị bệnh đốm trắng, đơn vị chỉ dừng lại ở mức kiểm tra, thông
báo kết quả, hướng dẫn người nuôi và địa phương thực hiện biện pháp xử lý
và khống chế bao vây. Do vi rút đốm trắng phát tán nhanh trong điều kiện ao
nuôi sơ sài mà nguồn hóa chất dự phòng lại không có sẵn nên việc lây lan
nhanh mầm bệnh là điều khó tránh khỏi”.
Bà Phạm Thị Hoàng Tâm, Phó Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng thủy sản
Quảng Nam cho biết, vấn đề quản lý chất lượng con giống trên địa bàn tỉnh hiện
chưa được toàn diện nên con giống kém chất lượng vẫn tràn lan. Nguyên nhân
của hạn chế này là do người nuôi vẫn còn mang tâm lý sợ sệt, trốn tránh, không
hợp tác với cơ quan quản lý để kiểm tra chất lượng con giống. Bà Tâm kiến
nghị: “Để đảm bảo hiệu quả trong nuôi tôm nước lợ nói riêng, trong nuôi trồng
thủy sản nói chung, thời gian tới tỉnh Quảng Nam cần quan tâm bố trí nguồn hóa
chất Clorin A dự phòng để đơn vị có thể chủ động giúp nông dân phòng, chống
dịch bệnh khi bước vào sản xuất vụ đầu năm đến. Việc tổ chức các lớp tập huấn
về phòng, chống dịch bệnh trên tôm nuôi cho cán bộ thủy sản địa phương cũng
rất cần thiết”.
Đối tượng nuôi chính ở đây là tôm sú (Penaeus monodon), loài phụ là tôm

rảo (Metapenaeus ensis) như ở Hội An, Thăng Bình,... Tôm được nuôi chủ yếu
9


trong ao có diện tích trung bình 5000m2. Hình thức nuôi cũng thay đổi theo thời
gian, từ nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến đến bán thâm canh, thâm canh.
Những người tham gia nuôi tôm nhưng không phải nghề chính thì có xu hướng
làm quảng canh cải tiến. Từ năm 2005, với chủ trương cho phép phát triển đối
tượng tôm thẻ chân trắng bên cạnh con tôm sú truyền thống đã làm cho diện
tích, sản lượng và năng suất nuôi tôm ở Quảng Nam tăng cao.
Theo báo cáo của sở NN & PTNT Quảng Nam, năm 2011, diện tích nuôi tôm
thẻ chân trắng là 1.400 ha, với sản lượng đạt 7.024 tấn; trong đó diện tích nuôi
trên vùng triều là 1.139 ha, nuôi tôm trên cát là 268 ha.
Được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư tỉnh Quảng Nam,
Trạm Khuyến nông – Khuyến lâm huyện Núi Thành đã phối hợp với UBND 2
xã Tam Xuân 2 và Tam Nghĩa triển khai xây dựng mô hình nuôi cá thát lát
cườm ở ao có diện tích 1.500 m2 và 1.000 m2 ở thôn An Thiện (Tam Nghĩa).
Trạm tiến hành thả nuôi 6.250 con, cở 3-4 cm. Mật độ thả là 2,5 con/m2. Sau gần
6 tháng thả nuôi, qua kiểm tra cho thấy cá phát triển tốt, đồng đều, tỷ lệ sống
khá cao khoảng 70-80%, trọng lượng bình quân đạt 500 gam/con. Dự kiến tổng
lượng thu được gần 2,2 tấn. Với giá bán trên thị trường 60.000 đ/kg, sẽ thu được
khoảng hơn 130 triệu đồng, trừ chi phí lãi gần 39 triệu đồng.
Đầu năm 2010, một số hộ nông dân ở huyện Núi Thành bắt đầu triển khai mô
hình nuôi nghêu thương phẩm với sự hổ trợ tích cực của phòng NN&PTNT
huyện đã mang lại thu nhập đáng kể cho nhiều hộ gia đình, mô hình nuôi này
còn góp phần vào cải thiện môi trường và cân bằng hệ sinh thái.
Tháng 5 năm 2011, ông Nguyễn Ngọc Ánh ở thôn 2 xã Bình Giang huyện
Thăng Bình đã được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư tỉnh
Quảng Nam, Trạm Khuyến nông – Khuyến lâm Thăng Bình triển khai mô hình
nuôi cua thương phẩm trong ao đất. Mô hình nuôi cua đã đem lại hiệu quả kinh

tế cao, ông đã có lãi trên 14 triệu đồng. Giúp tăng thu nhập và góp phần đa dạng
hoá đối tượng nuôi nước lợ, cải thiện môi trường ao nuôi, khắc phục tình trạng
nuôi tôm thường hay bị dịch bệnh làm thiệt hại kinh tế đối với nông dân.
Nhiều đối tượng khác như cua càng xanh (Scylla serrata), cá diêu hồng
(Oreochromis sp), cá rô phi (Oreochromis niloticus và O. Mossambicus), cá dìa
(Siganus guttatus), cá chẽm (Lates calcarifer ) cũng được nuôi xen kẻ vào các
vụ nuôi, chủ yếu vào vụ 2 hằng năm.
Đối với thành phố Hội An, nghề NTTS mà chủ yếu là nuôi tôm nước lợ đã
được xác định là một trong những mũi đột phá trong cơ cấu kinh tế của thành
10


phố. Nghị quyết Đại hội Đảng Bộ lần thứ 14 đã xác định: "Xúc tiến quy hoạch
chi tiết vùng NTTS và đánh giá lại hiệu quả diện tích sản xuất lúa năng xuất
thấp để chuyển sang NTTS, mở rộng diện tích nuôi. Nghiên cứu thực hiện đa
dạng hóa đối tượng nuôi ở các thủy vực nội địa và vùng biển đảo." Bên cạnh
nuôi tôm nước lợ thì các đối tượng như cá dìa; cá rô phi được nuôi ghép với đối
tượng nuôi truyền thống đã mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho người nuôi
vào vụ nuôi phụ (vụ hai hàng năm).
2.4.Sơ lược về điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội thành phố Hội An
2.4.1.Vị trí địa lý
Thành phố Hội An nằm bên bờ Bắc hạ lưu sông Thu Bồn, được giới hạn bởi
tọa độ từ 15o15’26” đến 15o55’15” vĩ độ Bắc và từ 108o17’08” đến 108o23’10”
kinh độ Đông; cách quốc lộ 1A khoảng 9 km về phía Đông, cách thành phố Đà
Nẵng khoảng 25 km về phía Đông Nam, cách thành phố Tam Kỳ khoảng 50 km
về phía Đông Bắc.
Phía Bắc, phía Tây giáp với huyện Điện Bàn, phía Đông Bắc giáp với biển
Đông, phía Nam giáp với huyện Duy Xuyên. Cách đất liền 18 km là cụm đảo Cù
Lao Chàm, bao gồm nhiều hòn đảo lớn nhỏ: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn
Ông, Hòn Tai, Hòn Lá, Hòn Khô, Hòn Nồm với diện tích chiếm một phần tư

thành phố Hội An.

Hình 2. Bản đồ hành chính thành phố Hội An –tỉnh Quảng Nam.

11


Tổng diện tích tự nhiên toàn thành phố là 6.171,25 ha, phần diện tích đất liền
4.850 ha chiếm 73,50% (trong đó diện tích đất 3.669 ha và diện tích mặt nước
1.180,3 ha), diện tích hải đảo 1.654 ha chiếm 26,50%.
Hội An là nơi quy tụ của nhiều nhánh sông: hệ thống sông Cổ Cò, sông Đế
Võng ở phía Bắc, phía Nam là sông Trường Giang, phía Tây là sông Thu Bồn
với các chi lưu của nó và phía Đông là biển. Với cấu trúc hệ thống sông theo
kiểu mạng nhện đã chia cắt Hội An thành những mảnh đất nhỏ hình thành nên
các khu dân cư có đời sống kinh tế xã hội khác nhau và một vùng triều rộng lớn
thuận lợi cho NTTS.
Đặc điểm về vị trí địa lý, cấu trúc địa chất và lịch sử làm cho khí tượng- thủy
văn, địa hình, địa mạo của Hội An khá phong phú và đa dạng. Hội An vừa có đô
thị cổ, đô thị cũ, đô thị mới; vừa có đồng bằng; vừa có biển, có hải đảo tạo nên
nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào về lâm, thổ, hải sản...Phần lớn diện tích tự
nhiên của Hội An được bao bọc bởi hệ thống sông lớn nhỏ, mương lạch chằng
chịt và bị chia cắt bởi những bãi, nổng, trảng, dốc, cồn cát; những bàu, đầm, hói,
vũng, ao…và những rừng dừa nước.
2.4.2. Điều kiện tự nhiên
2.4.2.1.Điều kiện địa hình
Địa hình Hội An nhìn chung thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, độ dốc
thoải trung bình 0,0150. Thành phố Hội An có hai dạng địa hình:
- Dạng địa hình đồng bằng:
Địa hình các vùng đồng bằng của Hội An chia thành ba vùng:
+ Vùng cồn cát: tập trung ở phía Tây Bắc, trải dài từ dốc Lai Nghi địa bàn

phường Thanh Hà, sang xã Cẩm Hà, qua phường Cẩm An, chạy dọc biển xuống
phường Cửa Đại, kết nối với vùng cát phía Đông huyện Điện Bàn (giáp các xã
Điện Nam, Điện Dương).
+ Vùng thấp trũng: gồm các phường Cẩm Phô, Minh An, Sơn Phong,
Cẩm Nam, Cẩm Châu và xã Cẩm Kim bờ Nam sông Thu Bồn.
+Vùng mặt nước: sông ngòi gồm phần lớn diện tích xã Cẩm Thanh.
- Dạng địa hình hải đảo:
Địa hình hải đảo Cù Lao Chàm chủ yếu là đồi núi thấp, hầu hết các đảo nhỏ
có hình chóp cụt, độ cao lớn nhất so với mặt biển dao động từ 70 – 517 m. Đảo
12


lớn nhất là Hòn Lao có một dãy núi xếp theo hình cánh cung từ Tây Bắc xuống
Đông Nam, chia Hòn Lao thành hai sườn có địa thế khác nhau: sườn Đông có độ
dốc lớn, đá tảng bao quanh chân núi rất hiểm trở; sườn Tây dốc thoải, ít đá tảng,
nhiều bãi bồi ven biển

2.4.2.2.Điều kiện khí hậu, thủy văn.
a) Điều kiện khí hậu.
Thành phố Hội An có chế độ khí hậu mang những tính chất và đặc điểm của
khí hậu Việt Nam, đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên ngoài những đặc
trưng chung, Hội An là một khu vực ven biển Trung Bộ nên có những tính chất
riêng, mang tính địa phương do điều kiện địa lý, địa hình đem lại.
b) Chế độ nhiệt.
- Do phía Bắc được ngăn bởi dải Hoành Sơn, phía Tây được che bởi khối
núi Bắc tỉnh Kon Tum nên cũng như các địa phương khác của Quảng Nam và
các tỉnh, thành phố lân cận, ở Hội An không có mùa đông lạnh.
- Mùa khô từ khoảng tháng 2 đến tháng 8, mùa mưa thường kéo dài từ
tháng 9 đến tháng Giêng năm sau. Nhiệt độ không khí ở Hội An lệ thuộc nhiều
vào khí hậu nhiệt đới gió mùa: gió mùa đông bắc, gió mùa tây nam, gió mùa

đông – đông nam và chế độ mưa. Nhiệt độ trung bình trong năm là 25,6oC, cao
nhất là 39,8oC, thấp nhất là 22,8oC.
c) Độ ẩm.
Độ ẩm không khí trung bình hàng năm vào khoảng 82%, cao nhất khoảng
90% và thấp nhất khoảng 75%.
d) Chế độ gió.
Hội An nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, với chế độ gió có hai mùa khá
rõ, mùa mưa trùng với gió mùa Đông Bắc từ tháng 9 đến tháng 4 năm sau, mùa
khô trùng với gió mùa Tây Nam từ tháng 4 đến tháng 9. Ngoài ra, trong năm còn
chịu ảnh hưởng của gió Đông Nam khá mát, dễ chịu xen giữa các đợt gió Đông
Bắc cũng như gió Tây Nam.
e) Bão.
Bão ở Hội An thường xuất hiện vào các tháng 9,10,11 hàng năm; các cơn bão
thường kéo theo những trận mưa lớn gây lũ lụt toàn khu vực. Theo thống kê
13


nhiều năm thì số cơn bão đổ bộ vào Đà Nẵng, Hội An chiếm 24,4% tổng số các
cơn bão đổ bộ vào đất liền từ vĩ tuyến 17 trở vào.
f) Nắng.
Do nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa nên lượng bức xạ nhiệt ở Quảng
Nam nói chung và Hội An khá lớn. Số giờ chiếu nắng trung bình 2158 giờ/năm.
Các tháng mùa nóng có lượng bức xạ nhiệt khá lớn, số giờ nắng tháng cao nhât
248 giờ (vào tháng 5). Tháng có số giờ chiếu nắng ít nhất vào khoảng 12
giờ/tháng (vào tháng 12)
g) Chế độ thủy triều.
Chế độ sóng và dòng chảy cũng biến đổi theo chế độ gió mùa. Chế độ mực
nước sông Thu Bồn, Trường Giang, Đế Võng phụ thuộc vào chế độ thủy triều
lên xuống ngày hai lần (bán nhật triều); giữa kỳ nước cường và nước kém biên
độ triều chênh lệch không đáng kể (triều max= 1,4m, triều min= 0,00m). Về

mùa khô, do nước sông xuống thấp, nước biển thâm nhập sâu vào lục địa gây
nên độ nhiễm mặn (trung bình 12%).
h) Đặc điểm thuỷ văn:
- Thành phố Hội An chịu ảnh hưởng chính của chế độ thuỷ văn của các con
sông lớn.
- Sông Thu Bồn có diện tích lưu vực 10.590 km2 với tổng lưu lượng 19,9 tỷ
m3/năm. Đoạn sông Thu Bồn chảy ra biển Đông ở Cửa Đại, có các đặc trưng sau
đây: chiều dài đoạn chảy qua thành phố Hội An: 8,5 km, chiều rộng: 120 640m, đoạn qua thành phố rộng 200 m, diện tích lưu vực: 3.510 km2, lưu lượng
nước bình quân: 232 m3/giây, lưu lượng lũ bình quân: 5.430 m3/giây, lưu lượng
kiệt: 40 - 60 m3/giây, mực nước ứng với lưu lượng bình quân: +0,76 m, mực
nước bình quân mùa lũ: 2,48 m, mực nước ứng với lưu lượng kiệt: 0,19 m.
- Sông Đế Võng: từ xã Điện Dương, huyện Điện Bàn, chạy dọc từ Tây sang
Đông ở phía Bắc thành phố Hội An. Chiều dài đoạn chảy qua thành phố trên 7 km,
chiều rộng: 80 - 100 m, chế độ mực nước sông Đế Võng phụ thuộc vào chế độ thuỷ
triều từ Cửa Đại và cửa sông Hàn. Tại khu vực Cửa Đại, biên độ nhật triều không
đều, từ 1,00 m - 1,50 m, giữa kỳ nước cường và nước kém, biên độ triều chênh lệch
không đáng kể. Trong kỳ nước kém, biên độ triều khoảng 0,50 m.
Sự giao lưu giữa biển và hệ thống sông Thu Bồn – Đế Võng đã tạo cho Hội
An vùng nước lợ đặc trưng có nguồn lợi thủy sinh phong phú.

14


- Chế độ dòng chảy: khi triều lên từ Cửa Đại, mực nước trong sông dâng
lên, khi triều xuống, dòng nước trong sông lại đổ ra biển. Nói chung dòng chảy
tương đối điều hoà nhưng do lưu tốc nhỏ là nguyên nhân gây bồi cạn trong sông.
Về mùa khô có những đoạn sông bị cạn, nước bị nhiễm mặn.
- Thuỷ triều: biển Hội An chịu ảnh hưởng chế độ thuỷ triều của vùng biển
Trung Trung Bộ, mỗi ngày thuỷ triều lên xuống 2 lần (bán nhật triều). Biên độ
dao động của triều trung bình là 0,6 m. Trong các cơn bão có những đợt sóng có

biên độ rất lớn, cao độ lớn nhất của sóng lên đến 3,40 m ở khoảng cách 50 m so
với bờ biển, gây thiệt hại lớn cho vùng ven biển. Về mùa khô, do nước sông
xuống thấp, nước biển thâm nhập sâu vào lục địa gây mặn ảnh hưởng lớn cho
vấn đề dân sinh kinh tế .
2.4.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội
a) Đặc điểm kinh tế.
Tổng GDP của thành phố năm 2007 (theo giá trị thực) đạt: 1.249.708 triệu
đồng. Từ đó ta có thể biết được thu nhập bình quân đầu người của thành phố
(GDP/người) vào khoảng 14,74 triệu đồng. Và tốc độ tăng trưởng kinh tế là
11,73%. Từ đó cho ta thấy được kinh tế của thành phố Hội An đang phát triển
rất khả quan.
* Về sản xuất công nghiệp, nông nghiệp:
Nông nghiệp Hội An cơ bản là sản xuất lúa, bắp, rau quả và tôm mực, cá,
khai thác tổ yến. Hàng năm Hội An sản xuất 5.386 tấn lương thực tiêu dùng tại
chỗ. Xuất khẩu 13.000 tấn thuỷ sản trong đó 4.290 tấn hải sản. Mặt hàng xuất
khẩu thô sơ dạng bán nguyên liệu. Nghề nuôi trồng thuỷ sản có chiều hướng
phát triển tốt có thể phục vụ phát triển du lịch. Riêng ngành thuỷ sản đạt
277.550 triệu đồng năm 2007. Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên ven bờ có
thể dẫn đến phá vỡ sinh thái dưới biển, ảnh hưởng đến tài nguyên du lịch, thể
thao và thám hiểm biển. Trong sản xuất công nghiệp, trước đây, mặt hàng nổi
tiếng là dệt vải, chiếu cói, mành trúc, mộc (Kim Bồng), thảm len đã một thời
được khách hàng thị trường Đông Âu ưa chuộng; nay được bổ sung nhiều ngành
nghề có giá trị kinh tế cao.
* Về thương mại-dịch vụ:
Hoạt động xuất nhập khẩu chủ yếu tập trung vào hàng thuỷ sản gồm có: Yến,
cá, mực, tôm, vây cá, sản phẩm thủy sản đông lạnh, sò và các loại nhuyễn thể.
Hải sản và yến sào Hội An nổi tiếng ngon và quý giá. Thương mại phát triển. Du
15



lịch và dịch vụ du lịch tiến triển nhanh, du khách thường trú bình quân trên
21.000 người ( 600000 khách lưu trú : 2,34 ngày lưu trú :12 tháng)
b) Đặc điểm xã hội.
- Dân số: toàn thành phố năm 2007 có 90.150 người (20.487 hộ). Mật độ
dân số là: 1.461người/km2. Trong đó số hộ nghèo 885 hộ, chiếm 4,67%.
- Tổng số lao động trong toàn thành phố là: 56.902 người, trong đó lao
động nữ là: 29.008 người (theo niên giám thống kê năm 2009). Thực trạng
nguồn nhân lực Hội An đựơc phân theo ngành hoạt động chính cụ thể như sau
(theo niên giám thống kê Hội An năm 2009) :
- Ngành Nông nghiệp:

4.825 người

- Ngành Thủy sản:

4.549 người

- Ngành công nghiệp và TTCN:

6.714 người

- Ngành Thương nghiệp – Dịch vụ :

7.654 người

- Tình hình về y tế, giáo dục: 100% xã phường có trạm y tế, trường cấp I,
50% dân số được dùng nước sạch, 100% các hộ có ti vi, radio, 92,31% thôn xã
có đường ô tô đến tận nơi, 100% xã có đài truyền thanh xã.
- Các hoạt động xã hội như: phong trào đền ơn đáp nghĩa, các phong trào
tình nguyện ... đều được duy trì, phát triển và đặc biệt trong du lịch bảo tồn khu

phố cổ hoạt động có sáng tạo.
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc được phát động và duy trì thường
xuyên. Quyết liệt trong chỉ đạo cũng như thực hiện công tác đảm bảo trật tự - an
toàn xã hội, giữ gìn môi trường xã hội trong lành. Duy trì công tác huấn luyện,
diễn tập và trực sẵn sàng chiến đấu. Có thể nói công tác an ninh- quốc phòng
được tăng cường vững mạnh.

16


PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.Thời gian, địa điểm, đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Thời gian nghiên cứu
Từ ngày 2/1/2013 đến ngày 4/5/2013
3.1.2.Địa điểm nghiên cứu
5 xã NTTS của thành phố Hội An: Xã Cẩm Thanh, Cẩm Châu, Cẩm Nam,
Cẩm An và Cẩm Hà
3.2.Đối tượng nghiên cứu
Cộng đồng ngư dân năm phường Cẩm Thanh, Cẩm Châu, Cẩm Hà, Cẩm An
và Cẩm Nam, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
3.3.Nội dung nghiên cứu.
- Thu thập các tài liệu, dữ liệu từ các cơ quan, đơn vị, địa phương về điều
kiện tự nhiên, vị trí địa lý và điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội của các khu vực
NTTS.
- Điều tra khảo sát về hiện trạng nuôi trồng thủy sản ở thành phố Hội An (
về thời gian nuôi, đối tượng, hình thức nuôi, diện tích, sản lượng, tình hình dịch
bệnh, hiệu quả kinh tế ...)

17



- Nghiên cứu tài liệu, văn bản, định hướng phát triển KT – XH của địa
phương để xây dựng định hướng phát triển NTTS theo hướng bền vững.
3.4.Phương pháp nghiên cứu.
3.4.1. Phương pháp thu thập thông tin và số liệu thứ cấp.
Nhằm thu thập và sàn lọc các thông thin cần thiết được ghi chép trong các tư
liệu, tài liệu khác nhau để chứng minh thêm cho vấn đề nghiên cứu hoặc làm cơ
sở để xây dựng phương pháp luận trong nghiên cứu... Cụ thể, trong đề tài này là
các tài liệu về thực trạng NTTS toàn cầu, trong nước và địa phương.
Các thông tin thu thập được thông qua các tài liệu, sách báo, tạp chí, kết quả
nghiên cứu và báo cáo của các cơ quan chức năng.
3.4.2.Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp.
Đây là phương pháp dùng để thu thập được các thông tin cơ bản và thiết
thực, có giá trị thực tiễn thông qua quan sát hiện trạng và quá trình diễn ra trong
cộng đồng nghiên cứu.
Cụ thể là đã tiến hành khảo sát toàn bộ địa bàn nghiên cứu có kèm theo
phỏng vấn các hộ địa phương. Qua đó nắm bắt được những điều cơ bản về tập
quán sinh hoạt và sản xuất của cộng đồng nơi đây.
3.4.3.Phương pháp thống kê và phân tích tổng hợp.
Thống kê và phân tích là thống kê tất cả các thông tin có liên quan sau đó
chia các tổng thể hay các vấn đề phức tạp thành những phần đơn giản để thuận
lợi cho nghiên cứu và sản xuất. Thống kê và phân tích tổng hợp là liên kết,
thống nhất các bộ phận, yếu tố đã được phân tích, khái quát hóa vấn đề trong
nhận thức tổng thể. Trong luận văn, tôi sử dụng phương pháp này để thống kê
tất cả các yếu tố có liên quan đến đề tài, ví dụ: số liệu về diện tích NTTS, sản
lượng, ..., từ đó phân tích, tổng hợp lại và rút ra những thông tin có cơ sở và tin
tưởng để hoàn thành luận văn của mình.
Trong phương pháp này, tôi đã sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2007 để
đưa ra kết quả cuối cùng.


18


19


PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1.Đánh giá hiện trạng NTTS thành phố Hội An.
4.1.1.Diện tích NTTS từ năm 2005 đến năm 2012.
Khởi điểm vào năm 1983, nghề NTTS ở Hội An cũng đã có những biến động
lớn. Từ hình thức quảng canh đã chuyển sang bán thâm canh với đối tượng tôm
sú. Năm 2006, với chủ trương cho phép phát triển con tôm thẻ chân trắng bên
cạnh con tôm sú truyền thống với diện tích ban đầu là 0.4 ha. Đến nay diện tích
nuôi tôm thẻ chân trẳng ở Hội An đã tăng lên 141.7 ha trải đều trên 5 xã Cẩm
Thanh, Cẩm Châu, Cẩm An, Cẩm Hà và Cẩm Nam. Trong đó, xã Cẩm Thanh
chiếm diện tích nuôi lớn nhất 103 ha trong tổng số 182.7 ha.
Thuộc vùng hạ lưu sông Thu Bồn, vùng đất ngập nước của Hội An luôn chịu
sự tác động của thiên tai, bão lụt hằng năm làm biến đổi dòng chảy từ đó làm
thay đổi sinh cảnh, các yếu tố môi trường thủy vực. Các hoạt động khai thác
khoáng sản ở vùng thượng lưu, chất thải của một số xí nghiệp, cơ sở sản xuất,
dịch vụ ven sông Thu Bồn cũng có thể đã có những tác động đến môi trường
thủy vực NTTS. Đặc biệt các hoạt động dịch vụ phục vụ du lịch ở Hội An như
việc phát triển các nhà hàng, khách sạn ven sông cũng tác động rất lớn đến môi
trường NTTS nói riêng và thủy vực nói chung.
Những năm gần đây, NTTS là một thế mạnh của thành phố, đã giải quyết
việc làm cho hàng nghìn lao động ven biển. Tuy vậy, thực trạng sản xuất thời
gian qua cho thấy sự phát triển không bền vững của nghề này mà nguyên nhân
chủ yếu là do vấn đề ô nhiễm thủy vực. Bên cạnh đó việc thay đổi đối tượng
nuôi chính từ tôm sú sang tôm thẻ từ năm 2006 với hình thực bán thâm canh và
thâm canh cũng đã ẩn chứa nhiều rủi ro do việc phát thải chất thải.

Diện tích NTTS của thành phố đã có sự suy giảm về diện tích nuôi được thể
hiện qua biểu đồ sau:
5
4.5
4
3.5
3
2.5
2
1.5
1
0.5
0

Series 1

Series 2

Category C1ategory C2ategory C3ategory 4

20


Đồ thị 4.1. Biến động diện tích NTTS giai đoạn 2005 – 2012.
Qua biểu đồ cho thấy diện tích NTTS của thành phố đang có xu hướng giảm
dần, bình quân mỗi năm giảm gần 10 ha. Việc giảm diện tích tập trung vào các
phường Cẩm Thanh, Cẩm An và Cửa Đại. Giảm diện tích NTTS rõ nhất là ở
phường Cửa Đại, từ năm 2010, 16,5 ha nuôi tôm ở khu vực Ba Chươm đã
chuyển đổi sang xây dựng khu đô thị. Đến nay phường không còn diện tích
NTTS nước lợ.

Ở Cẩm Thanh là nơi có diện tích NTTS cao nhất của thành phố nhưng cũng
đã có sự suy giảm rõ rệt như: năm 2005 có khoảng 127 ha, đến năm 2012 còn
103 ha trong tổng số 182.7 ha nuôi tôm, diện tích nuôi tôm giảm là do việc sử
dụng đất phục vụ cho nhu cầu du lịch của thành phố.
Biểu đồ cho thấy được diện tích NTTS nói chung và diện tích nuôi tôm nói
riêng đạt đỉnh cao vào năm 2006, khi đối tượng tôm thẻ chân trắng mới bắt đầu
đưa vào nuôi tại thành phố. Tuy nhiên những năm gần đây, diện tích NTTS trở
nên bấp bênh, môi trường ngày càng ô nhiễm do các hoạt động du lịch, chất thải
từ một số xí nghiệp, nhà hàng, khách sạn ven sông Thu Bồn,... Bên cạnh đó thì
diện tích NTTS giảm một phần do dịch bệnh xuất hiện và dẫn đến sự thua lỗ của
người nuôi nên họ đã chuyển từ đất NTTS sang đất trồng trọt.
4.1.2.Sản lượng NTTS giai đoạn 2005 - 2012.
Nuôi trồng thủy sản là một thế mạnh của thành phố trong những năm qua, đã
có những đóng góp đáng kể vào GDP của thành phố. Sản lượng NTTS của
thành phố Hội An có tăng trong những năm gần đây. Sự tăng về sản lượng
NTTS trong những năm qua được thể hiện rõ qua biểu đồ sau:
600
500
400
Sản lượng chung
SL tôm

300

SL cua nuôi
200

SL khác

100


0
2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

21


Đồ thị 4.2. Biểu đồ biểu thị biến động về sản lượng giai đoạn 2005 – 2012
Qua đồ thị cho thấy rõ, sản lượng NTTS tăng trong những năm gần đây,
chẳng hạn năm 2005 đạt 269 tấn/năm, năng suất đạt 1.04 tấn/ha đến năm 2012
thì đạt 511.92 tấn/năm, năng suất 2.34 tấn/ha. Và sản lượng đã tăng rất nhanh từ
năm 2011 đến nay, với sản lượng năm 2011 là 370 tấn/năm với năng suất 1.45
tấn/ha đã tăng lên 511.92 tấn/năm vào năm 2012 với năng suất bình quân là 2.34
tấn/ha. Năm 2008, cả sản lượng và năng suất đều giảm mạnh là do dịch bệnh
xãy ra đã làm cho nhiều hộ nuôi thua lỗ. Từ năm 2008 đến nay thì diện tích
nuôi tôm giảm nhưng năng suất và sản lượng lại tăng, sở dĩ có sự tăng nhanh về

sản lượng và năng suất NTTS như vậy là do: UBND thành phố đã có một số quy
hoạch về vùng NTTS và một số phương pháp nuôi trồng hiệu quả đã được áp
dụng. Một số vùng nuôi trồng quảng canh đã đi vào thay đổi cơ cấu sản xuất
sang quảng canh cải tiến và phương pháp nuôi thâm canh và bán thâm canh.
Đây là một phương pháp nuôi trồng đạt hiệu quả cao.
Biều đồ cũng cho thấy rõ sản lượng tôm nuôi tăng cao trong những năm vừa
qua còn sản lượng của cua, cá và rong câu thì tăng không đáng kể. Sở dĩ có sự
khác nhau như vậy là do: chủ yếu diện tích nuôi trổng ở đây tập trung nuôi tôm
là chủ yếu kể cả tôm sú truyền thống và tôm thẻ chân trăng vì mang lại hiệu quả
kinh tế cao hơn. Còn các đối tượng khác như cá, cua và rong câu chủ yếu được
thả nuôi vào vụ phụ (vụ hai) hằng năm và xen ghép với tôm. Mặc khác khi
nuôi tôm người dân có đầu tư cao hơn về cơ sở vật chất, thức ăn, nguồn giống,
... còn nuôi cá, cua, rong câu thì ít có sự đầu tư hơn. Chẳng hạn như giống tôm
được kiểm dịch kỹ càng trước khi đưa vào nuôi còn giống cua, cá và rong câu
thì chủ yếu từ tự nhiên và không thông qua kiểm dịch.
4.1.3. Lao động tham gia NTTS.
Qua điều tra cho thấy được sự đa dạng về tuổi tác, trình độ học vấn, kinh
nghiệm nuôi tôm cũng như diện tích nuôi của mỗi người lao động. Một số đặc
điểm của người lao động thủy sản được trình bày ở các phần sau:
Về độ tuổi lao động:
Đa số người tham gia lao động ở đây đều có độ tuổi từ 40 trở lên chiếm đa
số. Hiện nay, thành phố đang có xu hướng thanh niên trẻ tham gia ngày càng

22


nhiều hơn vào NTTS , đó sẽ là thế mạnh về nguồn nhân lực cũng như tinh thần
lao động của thế hệ trẻ này, trong tương lai sẽ phát triển mạnh.
Do đa lao động tham gia NTTS thuộc độ tuổi trung niên cho nên đó là một
khó khăn trong việc tiếp thu kỹ thuật. Họ cho biết chỉ tham gia vào các khóa tập

huấn về kỹ thuật NTTS và rất ít hoặc không biết áp dụng biện pháp kỹ thuật đó
như thế nào mà họ chỉ nuôi dựa vào kinh nghiệm lâu năm của họ do vậy hiệu
quả sản xuất không cao, có nhiều hộ bị thua lỗ liên tục. Như vậy, để thuận lợi
cho việc phát triển nghề NTTS, việc tổ chức các khóa đào tạo kỹ thuật, trình
diễn có mô hình cho các hộ dân cũng là một vấn đề cần lưu ý, đồng thời vận
động người dân xây dựng tính cộng đồng cao hơn để người nuôi có thể áp dụng
được các kỹ thuật hiện hành NTTS tốt hơn và gìn giữ tốt hơn thành quả chung.
Về trình độ học vấn:

65.27

%
24.55
%%

10.18
%

Đồ thị 4.3. Biểu thị trình độ học vấn của thành phố Hội An
Nhìn chung các chủ ao nuôi tại thành phố Hội An có trình độ văn hóa ở mức
thấp, đa số có trình độ cấp 1,2 là chủ yếu. Chỉ có 10.18% người nuôi đã học hết
cấp 3, 65.27% người nuôi học hết cấp 2 và 24.55% học hết cấp 1. Với trình độ
học vấn như vậy người dân sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận khoa
học kỹ thuật, tiếp cận thông tin và phát triển sản xuất, cũng như nhận thức của
người nuôi về xu hướng phát triển của nuôi trồng thủy sản trong tương lai. Đặc
biệt, đối với các người nuôi có trình độ văn hóa thấp (mới học xong cấp 1) thì
rất khó tiếp thu kỹ thuật mới cũng như các thông tin về yêu cầu của thị trường,
về chất lượng sản phẩm, mà đó là việc làm tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển
khai áp dụng các biện pháp kỹ thuật cho đối tượng nuôi của họ.
Về tỷ lệ người lao động:

23


Theo số liệu thống kê của Phòng Kinh tế - Hội An thì tỉ lệ lao động nam và
nữ là đồng đều nhau. Trong mỗi hội nuôi, nếu có một người nam tham gia
NTTS thì cũng sẽ có một người nữ tham gia. Điều này, chứng minh được vai trò
của người phụ nữ trong nuôi trồng thủy sản, họ càng tham gia nhiều vào lĩnh
vực này hơn.
Qua điều tra cho thấy được số năm kinh nghiệm NTTS của các chủ hộ nuôi
trung bình từ 3 đến 15 năm, trong đó mặt bằng chung của các hộ đều có số năm
kinh nghiệm từ 5 đến 10 năm như thế cho thấy rằng, nuôi trồng thủy sản của
thành phố thực sự phát triển trong những năm gần đây. Số hộ có kinh nghiệm từ
10 năm trở lên chiếm tỷ lệ trung bình. Mặc khác điển hình của nghề NTTS là
tay nghề, kinh nghiệm và trình độ kỹ thuật do vậy người nuôi của thành phố sẽ
gặp rất nhiều khó khăn trong khâu quản lý, xử lý kỹ thuật và các vấn đề cần thiết
trong khâu nuôi. Phần lớn người nuôi phải tự tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm qua
sách báo và bạn cùng làm nghề nuôi trồng thủy sản vì thế hiệu quả sản xuất
chưa cao. Như vậy, việc tổ chúc các khóa tập huấn nhằm phổ biển những kinh
nghiệm nuôi giúp ích cho người nuôi và nâng cao được hiệu quả sản xuất, thu
lại lợi nhuận cao là việc là cần thiết.
Diễn biến lao động NTTS từ năm 2008 đến năm 2012:
Bảng 4.1: Diễn biến lao động thành phố Hội An
Địa phương
Cẩm An

Cẩm
Thanh

Cẩm
Nam


Cẩm Hà

Tổng
cộng

43

57

551

12

124

787

2009

43

57

551

12

124


787

2010

43

57

551

12

124

787

2011

66

42

551

14

146

819


2012

66

42

551

14

170

843

Năm

Cẩm
Châu

2008

Từ bảng trên chúng ta nhận thấy được tổng số lao động NTTS của toàn thành
phố có tăng trong những năm gần đây nhưng với số lượng đáng kể. Cũng có địa
phương tăng lao động NTTS nhưng cũng có địa phương giảm đi như Cẩm An.
Sở dĩ có sự tăng giảm khác nhau của các địa phương như vậy là do sự tăng
giảm diện tích của mỗi địa phương bên cạnh đó thì nhiều hộ thua lỗ nhiều từ
làm kinh tế Thủy Sản nên đã chuyển sang làm ngành kinh tế khác.
24



4.1.4. Nguồn nước cấp và biện pháp xử lý.
Qua số liệu điều tra cho thấy, 60% ao nuôi sử dụng chung nguồn nước cấp từ
sông Thu Bồn cấp vào ao nuôi, 40% còn lại sử dụng nguồn nước cấp vào từ
giếng khoang để cấp vào ao nuôi. Nhưng sau khi nuôi được thời gian khoảng
40-45 ngày thì bổ sung thêm nước sông vì nếu chỉ nuôi bằng nước giếng hoàn
toàn thì lượng khí độc trong ao sẽ tăng cao. Và nguồn nước thải từ ao nuôi thì
được thải trực tiếp ra sông vì vậy nếu nguồn nước chung này nhiễm mầm bệnh
hoặc các chất gây hại cho đối tượng nuôi thì sẽ dễ dàng lây lan sang diện rộng.
Nguồn nước tại thành phố tỷ lệ trung bình cao vì thế rất dễ xãy ra tình trạng
đối tượng nuôi bị nhiễm bệnh và cũng mới có vài hộ xử lý nước ban đầu cấp vào
ao nuôi. Việc cấp nước vào ao nuôi chủ yếu thông qua cống cấp thoát nước
chung. Chỉ có số ít hộ sử dụng máy bơm để cấp nước vào thì có sử dụng lưới lọc
ở đầu máy bơm nước, và chỉ có thể hạn chế được một phần mầm bệnh và tác
nhân gây bệnh có thể lây lan phát triển.
Nhìn chung, nguồn nước cấp vào ao nuôi được xử lý bằng vôi là chủ yếu.
Khoảng 66.08 % hộ nuôi sử dụng vôi để xử lý nước ao nuôi theo định kỳ, 33.92
% số hộ còn lại chỉ sử dụng vôi khi cần thiết. Về chế phẩm sinh học sử dụng
trong suốt thời gian nuôi thì có 64.62 % hộ sử dụng khi cần thiết, 18.97 % sử
dụng theo định kỳ và 16,41 % hộ không sử dụng. Và thuốc, hóa chất thì có
54.02 % hộ không sử dụng, 29.02 % hộ sử dụng khi cần thiết còn 16.96 % hộ sử
dụng theo định kỳ. Mức nước trung bình cho ao nuôi tôm từ 1.2 – 1.5 m, mực
nước thấp hơn so với yêu cầu nhưng luôn đảm bảo nhờ chế độ thay và cấp nước.
Nhiều hộ nuôi quản lý tốt môi trường ao nuôi nên quá trình nuôi chỉ cấp thêm
nước chứ không thay nước, giảm sự thay nước trong ao nuôi chứng tỏ trình độ
quản lý kỹ thuật tốt và như vậy sẽ tránh sự lây nhiễm và giảm thải nguồn nước
thải ra môi trường chung. Đặc biệt, đa số các hộ nuôi ở đây không sử dụng
kháng sinh nên nguồn nước cũng ít bị dư lượng kháng sinh. Nguồn nước ở đây
đang bị ô nhiễm do nguồn nước thải từ các khách sạn, nhà hàng (20%); khu dân
cư (80%); sản xuất nông nghiệp (75%); tàu thuyền neo đậu (10%).... Nguồn
nước bị ô nhiễm phần nào làm ảnh hưởng đến NTTS.

4.2.Công tác quản lý kỹ thuật trong NTTS.
4.2.1.Chuẩn bị và cải tạo ao nuôi.
Do phần lớn nuôi theo hình thức quảng canh cải tiến là chủ yếu nên ao lắng
và ao xử lý nước thải chưa được người nuôi quan tâm nhiều, vì tốn diện tích và
một lý do người nuôi cho biết là ở những vùng nuôi đát là cát pha bùn thì nước
25


×