Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 121 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BÙI THỊ THU THẢO

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2014


TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BÙI THỊ THU THẢO

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NAM ĐỊNH
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã ngành: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN

HÀ NỘI - 2014



i

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các phòng ban và các cá nhân. Tôi xin bày tỏ
lời cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các tập thể, cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn này.
Trước hết, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Quốc gia
Hà Nội – Đại học Khoa học xã hội và nhăn văn, Phòng Đào tạo Sau đại học của
Nhà trường cùng các thầy cô trong khoa Khoa Học Chính Trị, những người đã
trang bị kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn
thầy giáo Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên, người thầy đã trực tiếp chỉ bảo,
hướng dẫn khoa học và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin chân trọng gửi lời cảm ơn đến các đồng chí lãnh đạo, chuyên viên
của Sở Nội Vụ, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định đã giúp đỡ tôi thu thập
thông tin, số liệu trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn bố mẹ và gia đình hai bên đã tạo điều cho tôi để
hoàn thành luận văn một cách xuất sắc nhất trong thời gian qua. Xin chân thành
cảm ơn đến tất cả các bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ nhiệt tình và đóng
góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn thành luận văn
Do thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn của tôi sẽ không thể tránh khỏi
những sơ suất, thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo
cùng thể bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2014
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Thị Thu Thảo



ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các số liệu, trích dẫn
sử dụng trong luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng, có độ chính xác cao nhất
trong phạm vi hiểu biết của tôi. Luận văn chƣa đƣợc công bố trong công trình khoa
học nào.
Tác giả luận văn

Bùi Thị Thu Thảo


iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Tên viết tắt

Tên Tiếng Việt

1

CBCC

Cán bộ, công chức

2


CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

4

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

5

CT – XH

Chính trị - xã hội

6

GS.TS

Giáo sƣ, tiến sỹ

7

HĐND

Hội đồng nhân dân

8


HTCT

Hệ thống chính trị

9

QH

Quốc hội

10

UB MTTQ

Ủy ban Mặt trận tổ quốc

11

UBND

Ủy ban nhân dân

12

VHCT

Văn hóa chính trị



iv

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. i
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... iii
MỤC LỤC .................................................................................................................iv
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ..........................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ...................................................................5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .................................................6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn ....................................6
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn ....................................................... 6
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..........................................................7
8. Kết cấu của luận văn ...........................................................................................7
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ VĂN
HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ ................ 8
1.1. VĂN HÓA CHÍNH TRỊ .................................................................................. 8
1.1.1. Bản chất của văn hóa chính trị ...................................................................... 8
1.1.2. Cấu trúc của văn hóa chính trị .................................................................... 18
1.1.3. Chức năng của văn hóa chính trị ................................................................ 21
1.2. VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ
SỞ 25
1.2.1. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ............................................................. 25
1.2.2. Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ..................... 31
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NAM ĐỊNH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
HIỆN NAY............................................................................................................... 38
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI

NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NAM ĐỊNH .......................38


v

2.1.1. Những đặc điểm tự nhiên của tỉnh Nam Định tác động đến văn hóa chính
trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ............................................................ 38
2.1.2. Những đặc điểm kinh tế của tỉnh Nam Định tác động đến văn hóa chính
trị của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ............................................................................ 42
2.1.3. Những đặc điểm về chính trị, văn hóa, xã hội của tỉnh Nam Định tác
động tới văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ................... 44
2.1.4. Những đặc điểm về nhân cách và trí tuệ của đội ngũ của cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở tỉnh Nam Định....................................................................................... 51
2.2. NHỮNG ƢU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ TRONG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH NAM ĐỊNH 53
2.2.1. Những ưu điểm và nguyên nhân của ưu điểm trong văn hóa chính trị của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Nam Định ........................................... 54
2.2.2. Những hạn chế trong văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở và nguyên nhân cơ bản của nó ..................................................................... 60
2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐANG ĐẶT RA VỀ YÊU CẦU CHẤT LƢỢNG VĂN
HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CÁP CƠ SỞ ....65
2.3.1. Đòi hỏi phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở về
những yêu cầu nâng cao chất lượng văn hóa chính trị .................................... 65
2.3.2. Những mâu thuẫn, những vấn đề đặt ra hiện nay ..................................... 69
Chƣơng 3 . PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO VĂN
HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở
TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY ............................................................................. 73
3.1. MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG ....................................................................73
3.1.1. Xây dựng, phát triển nền văn hóa chính trị Việt Nam tiên tiến, hiện đại,
đặc sắc – nền tảng cho việc nâng cao chất lượng văn hóa chính trị của đội ngũ

cán bộ chủ chốt ......................................................................................................... 73
3.1.2. Xây dựng người cán bộ chủ chốt cơ sở phát triển toàn diện đức – tài ........ 75
3.1.3. Gắn lý luận với thực tiễn – phương hướng hữu hiệu trong việc nâng cao
văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ................................... 76
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU .............................................................. 77


vi

3.2.1. Nâng cao tri thức chính trị, ý thức chính trị, lý tưởng chính trị, niềm tin
chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ............................................. . 78
3.2.2. Nâng cao năng lực thực thi chính trị (trình độ, kinh nghiệm, khả năng
lãnh đạo, quản lý) của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở .................................. 82
3.2.3. Nâng cao trình độ lý luân chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ................ . 86
3.2.4. Bồi dưỡng nghiệp vụ lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ
sở. ............................................................................................................................... 93
3.2.5. Phát huy tính tích cực chính trị (lãnh đạo, quản lý) của đội ngũ cán
bộ chủ chốt ............................................................................................................... 95
KẾT LUẬN ...........................................................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................104
PHỤ LỤC .................................................................................................................. 1


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nƣớc đang đòi hỏi một đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý có trình độ, năng lực cao, có phẩm chất đạo đức và tài năng cống hiến
đủ tầm. Văn hóa chính trị (VHCT) là tổng thể các phẩm chất, năng lực đó của đội

ngũ cán bộ. Trong bối cảnh giao lƣu, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, VHCT của đội ngũ cán bộ chủ chốt lại càng trở thành nhu cầu bức thiết. Nó
quy định tầm tƣ duy, trình độ hành động và kỹ năng lãnh đạo, quản lý của tất cả các
đối tƣợng cán bộ lãnh đạo, từ cao cấp đến trung cấp, từ Trung ƣơng đến địa phƣơng,
kể cả đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Xây dựng, phát triển và phát huy đƣợc VHCT của đội ngũ cán bộ sẽ giúp cho
Đảng Cộng sản Việt Nam với tƣ cách là Đảng cầm quyền nâng cao năng lực lãnh
đạo, phát huy tiềm lực trí tuệ và tƣ tƣởng của Đảng, làm cho Đảng vƣơn lên ngang
tầm nhiệm vụ, nâng cao đƣợc uy tín và ảnh hƣởng của Đảng trong xã hội. Nhờ đó,
Đảng tiếp tục khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo của mình đối với nhà nƣớc và
xã hội. VHCT có tác dụng rất lớn đến việc xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch,
vững mạnh, đồng thời vƣợt qua đƣợc những thách thức và nguy cơ để phát triển
trong bối cảnh hiện nay. Chúng ta cần phải làm cho VHCT thấm sâu và nội dung,
phƣơng pháp xây dựng Đảng về mọi mặt mà thực chất của quá trình này chính là
hình thành và phát triển VHCT của Đảng, nhân cách của đội ngũ cán bộ chủ chốt,
đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
tỉnh Nam Định nói riêng.
VHCT với tác dụng và hiệu quả của nó còn góp phần nâng cao năng lực và
hiệu quả quản lý nhà nƣớc và hoạt động của hệ thống chính trị (HTCT), thúc đẩy
quá trình dân chủ hóa xã hội, phát huy đƣợc những tiềm năng sáng tạo, đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng để bảo vệ Đảng, Nhà nƣớc và chế độ khỏi sự tha hóa,
biến chất, VHCT một khi thâm nhập vào đời sống và trở thành phổ biến, trƣớc hết ở
sự gƣơng mẫu của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở về sự trong sạch của thể chế, sau


2

đó là trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng, khả năng làm chủ và tham gia vào
các hoạt động quản lý nhà nƣớc, sẽ thể hiện đƣợc vai trò mục tiêu và động lực của

nó đối với sự phát triển ở tỉnh Nam Định.
Nam Định sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới và triển khai thực
hiện Nghị quyết Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI của Đảng và các Nghị quyết khác,
đã góp phần nâng cao VHCT của cán bộ các cấp, trong đó có đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở, thông qua nghiên cứu đào tạo, bồi dƣỡng lý luận chủ nghĩa Mác –
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh cũng nhƣ đƣờng lối chủ trƣơng của Đảng; chính sách,
pháp luật của Nhà nƣớc, thông qua hoạt động thực tiễn, lãnh đạo, quản lý các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh… Tuy nhiên, theo yêu cầu của
công cuộc đổi mới, đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở của tỉnh Nam Định còn hạn chế
nhiều về tƣ duy khoa học, trình độ lý luận chính trị đặc biệt trong hoạt động chính
trị thực tiễn có nhiều vấn đề đặt ra. Một bộ phận cán bộ chủ chốt ý thức tự học,
phấn đấu giảm sút, ý thức tổ chức kỷ luật yếu, có tƣ tƣởng phe phái, cực bộ trong
công việc, nhận thức về vai trò, trách nhiệm, nhiệm vụ chƣa đầy đủ, phân công,
phân cấp trách nhiệm chƣa phù hợp, có trƣờng hợp còn né tránh công việc, nịnh bợ
cấp trên, hách dịch với cấp dƣới, xa rời quần chúng nhân dân … Trí thức, kinh
nghiệm và kỹ năng lãnh đạo, quản lý của một số cán bộ ở cơ sở còn yếu, thiếu
gƣơng mẫu trong lối sống, phẩm chất đạo đức giảm sút, thiếu tinh thần trách nhiệm
đối với nhiệm vụ của Đảng và Nhà nƣớc giao cho. Do vậy, việc nghiên cứu, nhận
thức về VHCT của đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở của tỉnh, trên cơ sở đó nâng cao
trình độ VHCT cho đội ngũ này sẽ góp phần trực tiếp tới sự ổn định và phát triển
của tỉnh Nam Định, đảm bảo cho sự nghiệp đổi mới theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa. Với ý nghĩa trên, Học viên cao học chọn đề tài nghiên cứu “Văn hóa chính
trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Nam Định” làm luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu
VHCT nói chung, VHCT của các lĩnh vực hoạt động cũng nhƣ các đối
tƣợng khác nhau trong xã hội là đề tài mới, song rất đƣợc quan tâm trong thời


3


gian gần đây. Ở nƣớc ta đã có nhiều công trình, bài viết của các nhà khoa học,
các nhà lãnh đạo, quản lý về VHCT, VHCT của ngƣời cán bộ ở nhiều khía cạnh
và nhiều cấp độ khác nhau. Có thể nêu lên một số công trình tiêu biểu và gần gũi
với đề tài luận văn này.
a. Các công trình tiêu biểu về văn hóa chính trị
Một trong những tác phẩm bàn sâu vào lĩnh vực VHCT ở Việt Nam là tác
phẩm: “Văn hóa chính trị và việc bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nƣớc ta hiện
nay” do Phạm Ngọc Quang chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Trong
tác phẩm tác giả đã đề cập khá toàn diện khái niệm, cấu trúc, chức năng, đặc điểm
của VHCT, đồng thời khái quát thực trạng VHCT hiện nay ở Việt Nam và tác động
của VHCT đối với vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện nay.
Một số sách nhƣ: “Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại” của
Nguyễn Hồng Phong, tập trung nghiên cứu có tính chiến lƣợc của nhân tố nội sinh
trong việc khai thác các nguồn lực ngoại sinh để phát triển đất nƣớc (1998); "Bƣớc
đầu tìm hiểu văn hóa chính trị truyền tống Việt Nam", Tổng quan khoa học, Viện
Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh của Nguyễn Văn Huyên,
Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Hoài Văn (2005); "Một số cách tiếp cận về văn hóa
chính trị" của Lƣu Văn Quảng (2008), đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Viện
Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Tiếp đến là các bài đăng trên tạp chí chuyên ngành nhƣ: “Mấy suy nghĩ về
văn hóa chính trị Việt Nam trong lịch sử”, tạp chí Nghiên cứu lý luận số 3, 1998 của
Nguyễn Hoài Văn, đề cập đến những nội dung cơ bản của VHCT trong lịch sử;
“Vai trò của văn hóa chính trị trong việc hình thành phẩm chất và năng lực ngƣời
lãnh đạo chính trị”, Thông tin chính trị học, số 4-2003 của Nguyễn Văn Vĩnh,
nghiên cứu các tiêu chí VHCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nƣớc ta, “Văn hóa chính
trị, một bình diện hợp thành của đối tƣợng và nội dung nghiên cứu của chính trị
học, một số vấn đề khoa học chính trị”; “Văn hóa chính trị với công tác vận động
quần chúng nhân dân trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Dân vận số 1, 2005 của
Hoàng Chí Bảo, nghiên cứu VHCT trong mối quan hệ với chính trị học và vai trò



4

của VHCT trong hoạt động vận động quần chúng ở nƣớc ta theo tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh; “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hóa chính trị”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật
số 09, 2005 của Lê Nhƣ Hoa, nghiên cứu VHCT trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; Về
Văn hóa chính trị (Tổng thuật từ các tài liệu nƣớc ngoài), Tạp chí Lý luận chính trị
của Văn Hải (2001).
b. Một số công trình tiêu biểu về cán bộ trong hệ thống chính trị
Từ cách tiếp cận các công trình tiêu biểu về VHCT trực tiếp hƣớng đến việc
xây dựng, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ trong HTCT, có các công trình sau: Hồ Chí
Minh (1974), “Vấn đề cán bộ”, Nxb Sự thật, Hà Nội, Nguyễn Trọng Bảo (chủ
biên, 1998), "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý kinh
doanh trong thời kỳ CNH, HĐH đất nƣớc", Nxb Giáo dục, Hà Nội; Nguyễn Phú
Trọng (2003), "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc", Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội; Hoàng Chí Bảo (Chủ biên, 2005), "Hệ thống chính trị ở cơ sở
nông thôn nƣớc ta hiện nay" (sách tham khảo), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội;
Nguyễn Văn Huyên (chủ biên, 2009), "Con ngƣời chính trị Việt Nam, truyền
thống và hiện đại", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Nguyễn Thị Hà, Lê Văn Hòa
(Đồng chủ biên, 2012), "Các kỹ năng cần thiết dành cho cán bộ chính quyền cấp
cơ sở", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Minh Tuấn (2012), "Tiếp tục đổi
mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa",
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
c. Các công trình về văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp
trong hệ thống chính trị
Các công trình luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về VHCT của đội
ngũ cán bộ chủ chốt các cấp trong HTCT nhƣ: Lâm Quốc Tuấn (2000) “Nâng cao
văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo ở nƣớc ta hiện nay”. Luận án tiến sĩ Chính trị

học, nghiên cứu VHCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong HTCT, Khăm Mặn Chăn
Thạ Lăng Sỹ (2004), “Văn hóa chính trị ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong
giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sĩ, đây là luận án nghiên cứu nền VHCT ở nƣớc


5

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; Nguyễn Thị Thanh Thủy (2004), “Văn hóa chính
trị của đội ngũ giảng viên đại học ở nƣớc ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Chính trị
học, nghiên cứu các tiêu chí VHCT trong đội ngũ giảng viên các trƣờng Đại học ở
nƣớc ta.
d. Về văn hóa chính trị của cán bộ cấp cơ sở nói riêng và ở tỉnh Nam Định
nói chung
Các công trình tiêu biểu về VHCT, các công trình tiêu biểu về cán bộ trong
HTCT, các công trình về VHCT của đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp trong HTCT,
nghiên cứu về VHCT của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (xã, phƣờng, thị trấn) đã có
những đóng góp có ý nghĩa trong việc xây dựng VHCT, xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt trong HTCT, làm rõ đặc điểm, vai trò của VHCT trong đời sống chính trị,
xã hội hiện nay.
Đề tài “Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh
Nam Định” do Học viên cao học lựa chọn làm Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành
Chính trị học chƣa có tác giả nào nghiên cứu. Vì vậy tác giả mạnh dạn nghiên cứu
vấn đề này với mong muốn góp phần nâng cao VHCT, nâng cao phẩm chất, trình
độ, năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Nam Định.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
* Mục đích: Trên cơ sở những vấn đề lý luận về VHCT của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở; luận văn phân tích thực trạng VHCT của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở của tỉnh Nam Định, từ đó đƣa ra một số phƣơng hƣớng và giải pháp
chủ yếu tiếp tục nâng cao VHCT của đội ngũ cán bộ chủ chốt này ở tỉnh Nam Định
hiện nay.

* Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn sẽ tiến hành thực hiện
các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về VHCT và VHCT của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở.
- Phân tích thực trạng VHCT của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh
Nam Định; yêu cầu và những vấn đề đặt ra trong điều kiện hiện nay.


6

- Đề xuất phƣơng hƣớng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tập trung nâng
cao chất lƣợng VHCT của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Nam Định
hiện nay.
4. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu đội ngũ cán bộ, công chức, chuyên trách xã,
phƣờng, thị trấn trong các tổ chức của Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức CT - XH ở tỉnh Nam Định
Trọng tâm của Luận văn là nghiên cứu vấn đề nâng cao VHCT của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh Nam Định hiện nay.
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Thời gian nghiên cứu của luận văn đƣợc xác định là từ năm 2004 đến năm
2014.
6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận:
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và
Nhà nƣớc ta về văn hóa, chính trị, cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt.
Luận văn sử dụng, kế thừa những kết quả của nghiên cứu liên quan đến đề tài
của các công trình khoa học đã công bố ở nƣớc ta và trên thế giới
* Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp các phƣơng pháp
cụ thể nhƣ logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, khái quát hóa, gắn lý luận với
thực tiễn.
7. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Góp phần làm rõ lý luận về VHCT, VHCT của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở, nhất là VHCT của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Nam Định.
Đánh giá, làm rõ đặc điểm, những ƣu điểm và hạn chế trong VHCT của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Nam Định.
Đề xuất những phƣơng hƣớng, giải pháp chủ yếu sát thực, cụ thể và khả thi
nhằm nâng cao VHCT của đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện nay.


7

8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ
thêm lý luận về VHCT, và cung cấp cơ sở lý luận cho việc phát triển VHCT, xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của HTCT.
* Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên
cứu, giảng dạy, đào tạo và hoạt động thực tiễn về đề tài VHCT và xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn
đƣợc kết cấu thành 03 chƣơng với 07 tiết.


8

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ VĂN

HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ
1.1. VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
1.1.1. Bản chất của văn hóa chính trị
* Khái niệm văn hóa chính trị
Để tiếp cận đƣợc khái niệm VHCT một cách cơ bản nhất, chúng ta cần phải
hiểu các khái niệm văn hóa, chính trị, mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị.
- Khái niệm văn hóa
Thuật ngữ “văn hóa” xuất hiện từ lâu trong ngôn ngữ của nhân loại, xuất
phát từ chữ Latinh “Cultus”, nghĩa gốc là “trồng trọt”, đƣợc dung theo hai nghĩa
“Cultus agri” là “trồng trọt ngoài đồng” và “Cultus animi” là “trồng trọt tinh
thần”. Nhƣ vậy, nguồn gốc thuật ngữ văn hóa có liên quan đến lao động, hoạt
động tích cực, cải tạo con ngƣời, tức là sự giáo dục, bồi dƣỡng tâm hồn con ngƣời,
“trồng người”.
Một định nghĩa thỏa đáng về văn hóa cần phải bao hàm tất cả các mặt, trên
cơ sở đó, A.I. Ácnônđốp đƣa ra một định nghĩa khái quát sau đây: “Văn hóa là
hoạt động sáng tạo tích cực của con ngƣời (cá thể, nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc,
xã hội nói chung) thực hiện trong các lĩnh vực sản xuất vật chất, bảo quản, phân
phối, trao đổi và tiêu thụ những giá trị vật chất và tinh thần mang ý nghĩa xã hội.
Đồng thời nó là một tổng hợp chính những giá trị đã vật thể hóa hoạt động sáng
tạo đó của con ngƣời với cái nhìn bao quát các nền văn hóa, các giá trị văn hóa
trên thế giới” [30, tr.32]
Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor quan niệm: “Văn hóa là tổng thể
sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và cộng đồng trong quá khứ và
trong hiện tại. Qua các thế hệ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các
giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi
dân tộc” [31, tr.33]. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, văn hóa gắn liền


9


với sức sáng tạo và năng lực của con ngƣời và sức sáng tạo đó bao giờ cũng bắt đầu
từ lao động. Theo Mác, căn cứ vào mức độ tự nhiên đƣợc con ngƣời khai thác, cải
tạo thì có thể xét đƣợc trình độ văn hóa chung của con ngƣời.
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, văn hóa cũng đƣợc hiểu theo nhiều
góc độ khác nhau: Văn hóa là toàn bộ hiểu biết của con ngƣời tích lũy đƣợc trong
quá trình lao động thực tiễn – lịch sử, đƣợc đúc kết lại thành các giá trị và chuẩn
mực xã hội là một thành tố cơ bản làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng xã hội,
nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và mọi hoạt động của những con ngƣời
sống trong cộng đồng xã hội.
Văn hóa là một trong bốn lĩnh vực hoạt động sống của xã hội: kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội. Nhƣ thế, văn hóa là một bộ phận của đời sống con ngƣời – lĩnh
vực tinh thần của đời sống xã hội. Văn hóa là một hệ thống giá trị xã hội, biểu hiện
và phát triển những năng lực bản chất của con ngƣời trong quá trình cải tạo tự nhiên
– xã hội và làm chủ bản thân. Những năng lực ấy đƣợc thể hiện trong hoạt động
sáng tạo của con ngƣời và trong những kết quả của hoạt động đó, nhằm thúc đẩy sự
phát triển và hoàn thiện của cá nhân và xã hội theo hƣớng Chân – Thiện – Mỹ. Với
nghĩa rộng của thuật ngữ văn hóa, trong thời gian qua nhiều tác giả đã nêu lên
những quan niệm và có những cách diễn đạt riêng, song tựu chung lại có thể khái
quát thành 4 nội dung cơ bản nhƣ sau:
Văn hóa theo nghĩa rộng bao gồm vật chất và văn hóa tinh thần
Văn hóa hiểu theo nội dung bao gồm cả khoa học, kỹ thuật, giáo dục, văn
hóa, nghệ thuật.
Văn hóa đặt trong phạm vi nề nếp sống, lối sống, đạo đức, xã hội, văn hóa
nghệ thuật.
Văn hóa xét từ vai trò của nó vừa là kết quả, vừa là nguyên nhân của sự phát
triển xã hội, nó không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự nghiệp xây dựng
đất nƣớc.
Trên cơ sở tổng hợp những quan điểm nêu trên, có thể hiểu về văn hóa nhƣ
sau: Văn hóa là toàn bộ những thành quả hoạt động sang tạo của con ngƣời trong



10

quá khứ và hiện tại. biểu hiện thành hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần của xã
hội. Hệ thống giá trị có khả năng chi phối đời sống tâm lý và mọi hoạt động của
những con ngƣời sống trong cộng đồng xã hội ấy.
Các lĩnh vực đặc thù của đời sống hay của hoạt động con ngƣời cũng đƣợc
thể hiện bằng các khái niệm văn hóa khác nhau, chẳng hạn, văn hóa lao động, văn
hóa giao tiếp, văn hóa pháp quyền, văn hóa dân chủ … VHCT cũng đƣợc đề cập từ
phƣơng diện này.
- Khái niệm chính trị
Chính trị xuất hiện từ khi xã hội phân chia thành giai cấp và hình thành nhà
nƣớc. Thuật ngữ chính trị xuất phát từ tiếng Hy Lạp “Politica” có nghĩa là những
công việc liên quan tới nhà nƣớc, là nghệ thuật cai trị nhà nƣớc, là phƣơng pháp
nhất định để thực hiện các mục tiêu của quốc gia.
Từ thời cổ đại cho đến nay, nhiều nhà tƣ tƣởng đã đƣa ra nhiều quan điểm
khác nhau về phạm trù chính trị:
Platon, nhà triết học cổ đại Hy Lạp, đã xem chính trị là “Nghệ thuật cung
đình”, liên kết trực tiếp các chuẩn mực của ngƣời anh hùng và sự thông minh, sự
liên kết đó đƣợc thực hiện bằng sức mạnh là độc tài, cai trị bằng thuyết phục mới
đích thị là chính trị.
Theo Max Weber, nhà xã hội học Đức đầu thế kỷ XX, chính trị là khát vọng
tham gia vào quyền lực hay ảnh hƣởng đến sự phân chia quyền lực giữa các quốc
gia, bên trong quốc gia, giữa các tập đoàn ngƣời trong một quốc gia. Chính trị là
những mong muốn và những tƣơng tác khách quan của cộng đồng ngƣời đối với
quyền lực, không phải là hoạt động theo đuổi quyền lực. Xuất phát từ quan điểm,
một số học giả khác hiểu chính trị là sự khôn khéo, khả năng đạt đƣợc sự phân chia
chức năng mà vẫn đảm bảo duy trì sự tác động qua lại của chúng. Tác giả của cuốn:
“Chính trị và Kinh tế Nhật Bản” xem chính trị là hoạt động tìm kiếm những khả
năng áp đặt quyền lực chính trị. Các quan điểm trên, tuy có chứa một số nhân tố

hợp lý nhất định nhƣng chƣa nêu đƣợc nội dung cơ bản nhất của phạm trù chính trị.
Chính trị là một thực thể tồn tại trong đời sống với những cấp độ khác nhau (Cá
nhân, cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân loại) liên quan đến công việc nhà nƣớc.


11

Quan niệm đúng đắn và khoa học về chính trị là quan niệm của C. Mác và
V.I.Lênin. Theo C. Mác, chính trị bao giờ cũng gắn liền với giai cấp, giai cấp nào
muốn nắm đƣợc chính quyền, xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, trƣớc hết
phải giành lấy chính quyền: “Giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị, ngay cả khi
quyền thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và sự thống
trị nói chung, nhƣ trong trƣờng hợp của giai cấp vô sản, thì giai cấp ấy trƣớc hết
phải chiếm lấy chính quyền để đến lƣợt mình, có thể biểu hiện lợi ích của bản thân
mình nhƣ là lợi ích phổ biến, điều mà giai cấp ấy buộc phải thực hiện trong bƣớc
đầu” [29, tr.48].
Nhƣ vậy, bản chất giai cấp của hoạt động chính trị đã đƣợc C.Mác xác định
rõ ràng: Chính trị là hoạt động thực hiện lợi ích giai cấp. Nhƣng lợi ích giai cấp
khác nhau thì mục tiêu chính trị cũng khác nhau. Theo V.I.Lênin: “Chính trị có tính
logic khách quan của nó, không phụ thuộc vào những dự tính của cá nhân nào hay
cá nhân khác, của Đảng này hay Đảng khác” [40, tr.246]. Đây là một quan niệm
khẳng định chính trị không phải hình thành theo ý muốn của mỗi ngƣời, mỗi Đảng,
mà là gắn với điều kiện lịch sử cụ thể nhất định.
Từ đó, có thể rút ra kết quận: Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ
giữa các giai cấp, giữa các dân tộc và các quốc gia trong vấn đề giành giữ, tổ chức
và thực thi quyền lực nhà nƣớc, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà
nƣớc và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái
chính trị, các nhà nƣớc nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đƣờng lối và
những mục tiêu đã đề ra. Đây là quan niệm tiếp cận chính trị từ hai phƣơng diện cơ
bản: Chính trị với tƣ cách là quan hệ đặc biệt của các chủ thể chính trị liên quan tới

vấn đề quyền lực chính trị và chính trị với tƣ cách là hoạt động xã hội đặc thù của
các chủ thể chính trị có liên quan tới vấn đề nhà nƣớc.
- Quan hệ giữa văn hóa và chính trị
Thứ nhất, vấn đề chính trị trong văn hóa: Văn hóa và tƣ tƣởng là cặp phạm
trù sinh đôi, mà chính trị là mặt trực tiếp của hệ tƣ tƣởng. Nhƣ vậy, chính trị là bộ
phận đặc thù trong văn hóa, phản ánh một lĩnh vực hoạt động phức tạp của xã hội


12

thông qua sự in đậm dấu ấn của mình vào văn hóa theo hƣớng tích cực hoặc tiêu
cực, tùy thuộc vào sự tiến bộ, cách mạng hoặc lạc hậu, phản động của chính trị vào
cơ cấu văn hóa của cá nhân hay xã hội. Nó quy định tính giai cấp của các hoạt động
và các hiện tƣợng văn hóa.
Thứ hai, vấn đề văn hóa trong chính trị, văn hóa với chính trị: Mọi quan
điểm và đƣờng lối chính trị, công nghệ chính trị và nhân cách chính trị đều là sự thể
hiện trình độ văn hóa của một giai cấp, một tổ chức, một cá nhân trong một giai
đoạn lịch sử nhất định. Trong sự phát triển của mình, chính trị chỉ đƣợc xem là văn
hóa khi gắn với trình độ, năng lực sáng tạo tích cực của con ngƣời trong chính trị,
thúc đẩy sự phát triển tiến bộ xã hội. Cùng với sự phát triển xã hội, văn hóa trong
địa hạt chính trị đã đƣợc định hình nhƣ một vấn đề của nhận thức và thực tiễn khi
nhà nƣớc bƣớc vào giai đoạn hiện đại của nó. Ở nƣớc ta, ngay từ những năm đầu
hoạt động cách mạng và cho đến ngày nay, nhiều giá trị văn hóa của nhân loại, đặc
biệt là chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đã và luôn là bó đuốc soi
đƣờng, làm sáng tỏ nhận thức cách mạng Việt Nam. Những con ngƣời cách mạng
với lý tƣởng xã hội giải phóng áp bức, bóc lột đã hành động và ứng xử hoàn toàn
khác với nền văn hóa phong kiến và tƣ sản.
Nói tóm lại, văn hóa với chính trị có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại
với nhau. Văn hóa phục vụ chính trị, văn hóa đi vào chính trị với tính cách là động
lực và mục tiêu của hoạt động chính trị; chính trị lãnh đạo văn hóa, chính trị gắn

liền với văn hóa và sự tồn tại của chính trị khi nó còn là mặt hợp lý trong văn hóa;
văn hóa và chính trị thống nhất hữu cơ với nhau và tác động qua lại lẫn nhau.
- Khái niệm văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phƣơng diện văn hóa, xuất hiện trong
lịch sử cùng với sự xuất hiện xã hội có giai cấp. Tuy nhiên, khái niệm VHCT mới
đƣợc bàn luận nhiều ở thời kỳ hiện đại với tƣ cách là một khái niệm khoa học. Hiện
nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về VHCT. Điều đó có nguyên nhân là do
VHCT vốn là một hiện tƣợng xã hội đa diện, phong phú, phức tạp. Mặt khác, các
nhà nghiên cứu lại nhìn nhận VHCT ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau.


13

Khi đƣa đạo đức trở thành vấn đề trung tâm học thuyết chính trị của mình,
Nho giáo đã mở đầu cho truyền thống tiếp cận VHCT trong lịch sử tƣ tƣởng nhân
loại. Mệnh đề “Việc chính trị cốt ở chính dã ngƣời trị dân” là mệnh đề bất hủ của
Khổng Tử. Khổng Tử rất tin ở sức hấp dẫn và sự tác động của đạo đức. Lòng tin ấy
còn biểu hiện rõ ở câu: “Dùng đức là làm chính (Chính trị) cũng ví nhƣ ngôi sao
Bắc cực, ở yên trên vị trí của mình mà các tinh tú đều châu vào” [49, tr.6].
Tiếp nối truyền thống đó, Mạnh Tử đề ra tƣ tƣởng “Văn trị giáo hóa” (Chính
trị gắn với giáo dục) “Chính giỏi không thể tranh thủ đƣợc dân bằng giáo giỏi.
Chính giỏi thì dân sợ, giáo giỏi thì dân yêu. Chính giỏi thì đƣợc của cải của thiên
hạ, của dân; giáo giỏi thì đƣợc lòng dân” [45, tr.308].
Học thuyết chính trị - xã hội (CT – XH) của Platon đặc biệt quan tâm đến
vấn đề nhà nƣớc cùng với nó là các nhà triết học với tƣ cách là những ngƣời cầm
quyền. Theo ông, con ngƣời chỉ có thể hoàn thiện nhân cách trong một nhà nƣớc
đƣợc tổ chức một cách hợp lý. Mục đích của triết học là xây dựng một nhà nƣớc lý
tƣởng và hoàn thiện trong đó những nhà triết học đóng vai trò quan trọng. Theo
Platon, đó là những con ngƣời mà lý tính đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động. Họ
luôn hƣớng tới cảm thụ cái đẹp và trật tự các ý niệm, khát vọng vƣơn tới phúc lợi

tối cao, tới sự thật và công lý. Họ có thể đảm nhận đƣợc vai trò lãnh đạo, trị vì xã
hội trong nhà nƣớc lý tƣởng.
Arixtot coi con ngƣời là “Động vật chính trị”, muốn nói đến vai trò chính trị
trong việc xác định tƣ cách tồn tại của con ngƣời và cũng vì thế mà mục đích cao
nhất của chính trị là làm sao để mọi ngƣời có thể sống và sống tốt hơn. Sứ mệnh
của nhà nƣớc, của những nhà cầm quyền không chỉ bảo đảm cho mọi ngƣời sống
bình thƣờng, mà còn phải làm sao để cho con ngƣời sống hạnh phúc. “Mục đích của
nhà nƣớc là cuộc sống phúc lợi …, bản thân nhà nƣớc là sự giao thiệp của các gia
tộc và dân cƣ nhằm đạt đƣợc sự tồn tại một cách hoàn thiện và tự lập” [42, tr.207],
tức là đạt đƣợc một cuộc sống ƣu việt và theo ông không chỉ về phƣơng diện của cải
vật chất mà còn đảm bảo công lý.


14

Việc nghiên cứu VHCT nhƣ một lĩnh vực tƣơng đối độc lập bắt đầu từ
những năm 1950 của thế kỷ XX. Thuật ngữ VHCT lần đầu tiên đƣợc sử dụng vào
năm 1956. Công lao của việc tách riêng lĩnh vực nghiên cứu này và nâng nó lên sự
thừa nhận khoa học thuộc về hai nhà chính trị học ngƣời Mỹ là G.Almond và
S.Verba. Các ông chú trọng vào việc nghiên cứu hành vi hoạt động chính trị là
một phần của hành trình xã hội cho nên khi phân tích hành vi chính trị phải gắn
chặt với sự xem xét các nhân tố văn hóa, tâm lý của cá nhân và toàn xã hội. Xuất
phát từ hành vi chính trị của các cá thể, ông định nghĩa: “VHCT là tập hợp các lập
trƣờng và xu hƣớng cá nhân của những ngƣời tham gia một hệ thống nào đó, là
lĩnh vực chủ quan làm cơ sở hành động chính trị và làm cho hoạt động chính trị có
ý nghĩa” [33, tr.216].
Năm 1961, khi biên soạn Bách khoa toàn thƣ khoa học xã hội quốc tế, nhà
chính trị học ngƣời Anh L.Pye đã đƣa ra định nghĩa về VHCT: “Văn hóa chính trị là
một hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm, nó đem lại ý nghĩa và trật tự cho quá
trình chính trị; nó đƣa ra tiền đề cơ bản và quy tắc chế ƣớc hành vi của hệ thống

chính trị; nó bao gồm lý tƣởng chính trị và quy phạm vận hành của một chính thể”
và theo L.Pye: “Văn hóa chính trị là sản phẩm bao gồm lịch sử tập thể của một hệ
thống chính trị và cả lịch sử đời sống của các cá thể trong hệ thống đó, do đó nó bắt
rễ sâu xa trong lịch sử các sự kiện chung và lịch sử cá nhân” [33, tr.220].
Nhà nghiên cứu chính trị học Nga, giáo sƣ E.A.Đôđin không đồng tình với
các học giả phƣơng Tây khi quy VHCT về các khuôn mẫu nào đó. Vì theo ông, điều
đó thƣờng mang tính chủ quan của nhà nghiên cứu, rất dễ bị nhầm lẫn về bản chất
bởi những hiện tƣợng bề mặt. Theo ông: “Văn hóa chính trị là quá trình xã hội hóa
chính trị, suy cho cùng là quá trình phổ cập những giá trị và những quy tắc chính trị
nhận định” và “Quá trình xã hội hóa trong chừng mực nào đó đƣa đến ra đời các
thiết chế xã hội, các giá trị và những chuẩn mực hành vi phù hợp với tiến trình phát
triển” [31, tr.64,65].
Các nhà nghiên cứu Việt Nam những năm gần đây tích cực vận dụng phƣơng
pháp luận văn của chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh để xây dựng


15

một quan điểm đầy đủ về VHCT. Đặc biệt, những quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về xã hội xã hội chủ nghĩa thực sự có ý nghĩa xuất phát điểm cho quá trình
tìm tòi, nghiên cứu đó, song cũng cần thấy đây vẫn còn là một vấn đề mới và phức
tạp cả về lý luận cũng nhƣ nhận thức. Quan điểm nổi bật nhất và đặc sắc nhất trong
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về VHCT là xã hội mới phải có con ngƣời mới đại diện cho
nó: “Muốn có chủ nghĩa xã hội, phải có con ngƣời xã hội chủ nghĩa. Muốn có con
ngƣời xã hội chủ nghĩa, phải có tƣ tƣởng xã hội chủ nghĩa” [64, tr.228].
Xây dựng thành công con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa là xác lập cơ sở bền
vững của VHCT mới. Đây là một tƣ tƣởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
VHCT. VHCT cũng là loại hình văn hóa hƣớng con ngƣời làm việc thiện, gắn với
các lợi ích kinh tế, chính trị, nhƣng nó phải là sự hài hòa, sự liên hiệp giữa cộng
đồng và cá nhân, giữa truyền thống với hiện đại, giữa kinh tế và văn hóa, giữa giá

trị vật chất và giá trị phi vật chất, giữa bản sắc văn hóa dân tộc với sự tiếp biến văn
hóa quốc tế, trên nền tảng giá trị chân, thiện, mỹ.
Trên cơ sở quan niệm trên, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã đƣa ra rất nhiều
cách diễn đạt về khái niệm VHCT. Trong đó, một khái niệm về VHCT có tính khái
quát chung là: VHCT là một phƣơng diện văn hóa trong xã hội có giai cấp, nói lên
tri thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc quan
hệ chính trị hiện thực để thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của xã
hội phù hợp với sự phát triển lịch sử. VHCT đƣợc phản ánh trong hệ ý thức chính
trị, trong các thiết chế chính trị và trong các giá trị vật chất cũng nhƣ tinh thần do
hoạt động chính trị sáng tạo ra.
Tổng hợp các cách tiếp cận khác nhau về VHCT, chúng ta thấy rằng VHCT
là một bộ phận của văn hóa nhân loại, phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa văn
hóa dân tộc và hoạt động chính trị của các giai cấp, nó chỉ ra tác động của một loại
hình văn hóa xã hội nhất định đối với HTCT và hành vi chính trị của công dân (bao
gồm dân chúng và những ngƣời lãnh đạo nhà nƣớc). VHCT thể hiện sự hiểu biết
chính trị, tình cảm chính trị, giá trị chính trị, niềm tin và thái độ chính trị của các
công dân đối với các hiện tƣợng chính trị và HTCT. Tinh thần cốt lõi của VHCT là


16

các giá trị nhân văn trong xử lý chính trị. Chính trị có văn hóa hay xử lý chính trị
nhân văn là chính trị giải phóng con ngƣời, khỏi sự áp bức bóc lột về phƣơng diện
giai cấp, dân tộc và xã hội, phấn đấu để ngày càng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân. Đó chính là VHCT đƣợc xây dựng trên nền tảng của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh, cùng với việc kế thừa các giá trị trong quan niệm về VHCT của các nhà
nghiên cứu lý luận gần đây, có thể khái quát lại, xét về bản chất, VHCT là tổng hòa
những giá trị chính trị (cả giá trị vật chất và tinh thần), hoạt động chính trị thực tiễn

của con ngƣời sáng tạo ra trong xã hội có giai cấp. Tóm lại, VHCT là một bộ phận,
một phƣơng diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp, nói lên chất lƣợng tổng hợp
những giá trị vật chất và tinh thần với hạt nhân là các giá trị chính trị nhân văn đƣợc
con ngƣời sáng tạo và sử dụng trong thực tiễn chính trị, để thực thi trong quan hệ về
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nƣớc nhằm thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của
giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự phát triển lịch sử, VHCT phản ánh trình
độ trƣởng thành nhân cách chính trị của các chủ thể chính trị trong đời sống xã hội.
* Đặc điểm của văn hóa chính trị
VHCT bao giờ cũng mang tính giai cấp: VHCT hình thành trong thực tiễn
đấu tranh giai cấp, do đó nó luôn bị chi phối bởi thế giới quan, hệ tƣ tƣởng, những
quan điểm chính trị của giai cấp nhất định và phục vụ cho lợi ích của mỗi quốc gia.
Tuy rất quan trọng nhƣng tính giai cấp không phải là thuộc tính duy nhất của
VHCT. Tính dân tộc và tính nhân loại luôn tồn tại trong VHCT của từng giai cấp.
Đặc biệt trong bối cảnh của thế giới hiện đại, mỗi quan hệ giữa tính giai cấp, tính
dân tộc và tinh thần nhân loại càng gắn bó chặt chẽ hữu cơ hơn bao giờ hết. Văn
hóa trƣớc hết là vấn đề tồn tại và phát triển của một cộng đồng ngƣời nhất định,
cộng đồng trở nên bền vững khi nó trở thành dân tộc. Tính dân tộc luôn gắn liền
tính nhân loại, tính giai cấp.
VHCT phản ánh quan hệ quyền lực chính trị. Các giá trị của VHCT thể hiện
mối quan hệ quyền lực giữa giai cấp và chính Đảng, tổ chức và thành viên … trong


17

nội bộ giai cấp; quan hệ giữa các giai cấp và nhà nƣớc, nhà nƣớc và công dân …;
quan hệ giữa các nhà nƣớc, các quốc gia dân tộc, các tổ chức chính trị quốc tế …
mà ở đó, tất cả đều thể hiện quyền lực chính trị của ngƣời này đối với ngƣời khác và
ngƣợc lại. Các giá trị này gắn liền với những chuẩn tắc, cơ chế và thể lệ … tổ chức
và hoạt động chính trị, những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cùng
với mối quan hệ xác định đã đƣợc các cơ quan quyền lực quy định mà không thể

làm khác đƣợc. Biểu hiện tập trung nhất tính quyền lực của VHCT là ở luật pháp
của Nhà nƣớc.
VHCT mang tính lịch sử cụ thể: VHCT đƣợc quy định bởi những điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan. Hai nhân tố này có nội dung, tính chất và phƣơng
thức quy định khác nhau trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, điều đó quy định tính
lịch sử của VHCT. Tính cụ thể của VHCT dựa trên cơ sở lý tƣởng chính trị, lập
trƣờng và hành vi cũng nhƣ trên cơ sở yếu tố tâm lý xã hội. Tính lịch sử của VHCT
thể hiện ở trong các điều kiện lịch sử khác nhau. Mặt khác các giá trị VHCT không
phải là cái gì bất biến mà luôn có sự vận động và phát triển.
VHCT mang tính kế thừa: Hệ tƣ tƣởng là nhân tố cốt lõi nhất của VHCT.
Nhƣng trong mỗi hình thái kinh tế nhất định, kết cấu giai cấp rất phức tạp và không
thuần nhất. Do đó, trong mỗi nền chính trị, VHCT không thuần nhất. Văn hóa của
các giai cấp có hệ tƣ tƣởng độc lập chi phối văn hóa của giai cấp khác nhau tạo nên
bức tranh đa dạng của VHCT. Bên cạnh VHCT của giai cấp nằm quyền lực Nhà
nƣớc, còn có VHCT của các giai cấp và các giai tầng khác nhau trong xã hội.
VHCT là sự tổng hòa tất cả các hình thái văn hóa cơ bản của xã hội: VHCT
nhƣ là sự tổng hợp toàn bộ các hình thái văn hóa khác vào trong đó và biến hóa
những giá trị ấy thành những giá trị mang tính độc đáo riêng của mình. Giá trị của
VHCT, khi biểu hiện ra bên ngoài, nhƣ là sự tập trung một cách cô độc nhất, tinh
túy nhất toàn bộ sự phát triển văn hóa của chủ thể. Cho nên giá trị của VHCT luôn
bao chứa trong mình nó không chỉ là của cải chính trị mà còn là cái đạo đức, cái
khoa học, cái thẩm mỹ. Chính vì vậy VHCT luôn tồn tại và phát triển nhƣ là một
chính thể quyền lực chính trị ngày càng tiệm cận sự giải phóng tối cao và phát huy
một cách tự nhiên.


×