Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Cái nhìn và trường liên tưởng trong thơ nguyễn khoa điềm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.38 KB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

VI THỊ THU HẰNG

CÁI NHÌN VÀ TRƯỜNG LIÊN TƯỞNG
TRONG THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số

: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Đăng Xuyền

HÀ NỘI, 2016

1


MỤC LỤC

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1.Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã khơi nguồn cảm hứng lớn cho


thơ ca, trở thành một đề tài lớn thu hút một lực lượng sáng tác đông đảo. Trên
cơ sở kế thừa kinh nghiệm, tư tưởng của các thế hệ nhà thơ đi trước, bằng tài
năng sẵn có và vốn kinh nghiệm phong phú của mình, nhiều nhà thơ đã đóng
góp cho nền thơ ca của dân tộc một sự sáng tạo mới mẻ, trẻ trung trong sáng
và gợi cảm. Qua đó khẳng định tên tuổi của mình trên nền văn học dân tộc.
Chúng ta có thể kể đến một vài tên tuổi tiêu biểu như: Lê Anh Xuân, Nguyễn
Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo….
1.2. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu trưởng thành
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam. Tiếp cận
với những vấn đề chung của chiến tranh nhưng bằng tài năng thơ ca của mình,
ông đã đóng góp cho nền văn học dân tộc một sự nghiệp sáng tác với những
tác phẩm độc đáo và có giá trị sâu sắc. Đến với thơ bằng ưu thế của tuổi trẻ,
học vấn và tâm huyết dồi dào của những con người thực sự dấn thân, trải
nghiệm trên chiến trường, Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến cho dàn đồng ca
chung của thế hệ mình một tiếng nói riêng, một cái nhìn độc đáo, lôi cuốn và
đầy hấp dẫn. Ông viết không nhiều nhưng tác phẩm ông thể hiện một tâm hồn
thi sĩ với những rung động tinh tế và chiều sâu suy tưởng. Thơ Nguyễn Khoa
Điềm hấp dẫn bạn đọc nhiều thế hệ bởi sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nhân
văn và suy tư sâu lắng của người tri thức về Đất nước và con người Việt Nam.
1.3. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đã đi vào lịch sử với niềm tự
hào và vinh quang lớn lao nhất. Cùng với những tiếng thơ cất lên trong thời
đại ấy, tiếng thơ Nguyễn Khoa Điềm ngân lên vừa giàu lý tưởng, vừa giàu
chất hiện thực, vừa có bề rộng của hiện tại chiến tranh vừa mang bề sâu của
tâm trạng con người. Kể từ khi bắt đầu xuất hiện trên thi đàn đến nay Nguyễn
3


Khoa Điềm đã ra mắt bạn đọc 5 tập thơ với hơn 200 bài, đó là các tập thơ:
Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (1974), Đất và khát vọng (1984),
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007). Trong đó có nhiều bài thơ

của Nguyễn Khoa Điềm đã được đông đảo bạn đọc yêu thích và có một số bài
thơ tiêu biểu được tuyển chọn vào chương trình giảng dạy trong các trường
Trung học, Phổ Thông và các trường chuyên nghiệp.
1.4. Cái nhìn là một trong những yếu tố quan trọng của phong cách nghệ
thuật. Nhà văn Pháp Macxen Prutxt đã nói: “Đối với nhà văn cũng như đối
với các nhà họa sỹ, phong cách không phải là vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề cái
nhìn”. Do vậy cái nhìn là một biểu hiện sâu sắc của phong cách tác giả, chiều
sâu của cái nhìn nghệ thuật quy định tầm cỡ và thể hiện ưu thế của nhà văn,
nhà thơ.
1.5. Liên tưởng, tưởng tượng là một tố chất sẵn có của con người nhưng đối
với các nhà văn, nhà thơ, những người nghệ sĩ thì tố chất ấy đòi hỏi sự sáng
tạo ở một mức độ nhất định. Khả năng liên tưởng trong sáng tạo nghệ thuật sẽ
nói lên tài năng của người nghệ sĩ và năng lực liên tưởng cũng sẽ góp phần
tạo nên dấu ấn cá nhân của tác giả. Tìm hiểu trường liên tưởng là con đường
mới giúp bạn đọc đi vào thế giới nghệ thuật cũng như thế giới tâm hồn nhà
văn để hiểu rõ hơn về tác giả cũng như tác phẩm của nhà thơ.
Xuất phát từ những lí do trên, ở luận văn này chúng tôi tiến hành tìm
hiểu nghiên cứu cái nhìn và trường liên tưởng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm
với mong muốn có thể tìm hiểu kĩ càng hơn giá trị tác phẩm của nhà thơ,
đồng thời khẳng định phong cách độc đáo và vị trí của nhà thơ trên nền văn
học dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề

Nguyễn Khoa Điềm là một cây bút có đóng góp lớn cho nền văn học
hiện đại Việt Nam. Vì vậy tìm hiểu và nghiên cứu thơ ông luôn là vấn đề lôi
cuốn, thu hút đông đảo sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, của những
4


người yêu văn học. Có thể kể đến một vài ý kiến, đánh giá nhận xét tiêu biểu

về thơ Nguyễn Khoa Điềm với các tác giả như : Hà Minh Đức với bài viết
Đất ngoại ô của Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Văn Long trong bài Nguyễn
Khoa Điềm với Mặt đường khát vọng, Tôn Phương Lan với bài Nguyễn Khoa
Điềm nhà thơ trẻ có nhiều triển vọng hay Vũ Quần Phương trong bài Ngôi
nhà có ngọn lửa ấm- Nguyễn Khoa Điềm… Và các ý kiến của nhiều tác giả
khác: Võ Văn Trực, Vũ Văn Sĩ, Nguyễn Xuân Nam, Trần Đăng Suyền, Chu
Văn Sơn….
Nhà phê bình Hà Minh Đức có bài viết nhan đề Đất ngoại ô của Nguyễn
Khoa Điềm. Nhà nghiên cứu đánh giá tập thơ này: “Nguyễn Khoa Điềm đã
đóng góp một giọng thơ trẻ đầy nhiệt tình, anh luôn luôn hiện diện trong trái
tim cái tôi trữ tình tự tin, đằm thắm… Sức hấp dẫn của thơ anh có thể là
giọng nói mới mẻ, ở những tìm tòi trăn trở trong khi viết. Nhưng trước hết và
chủ yếu là một tâm hồn thơ trẻ nồng cháy chất lý tưởng” và điểm mạnh của
thơ Nguyễn Khoa Điềm chính là sự liên tưởng. Trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm “Sự liên tưởng được triển khai khi thì bằng vốn sống thực tế, khi thì
bằng vốn văn hóa, khi thì qua mạch tình cảm được dẫn dắt từ một tấm lòng”.
Hà Minh Đức đồng thời cũng thẳng thắn chỉ ra những mặt còn hạn chế của
tập thơ như: “Anh chưa có những suy nghĩ sâu sắc về nhiều mặt của một đời
thơ từng trải, cảm xúc chưa tự nhiên, đôi khi còn nặng nề, khiến cho dòng thơ
khô khan, mang nặng suy nghĩ và bình luận”.
Trong bài viết Nguyễn Khoa Điềm với mặt đường khát vọng (VNQĐ số
4, 1975) Nguyễn Văn Long đi sâu phân tích nội dung tập thơ, phân tích cụ thể
về con đường đi theo cách mạng của tuổi trẻ các đô thị Miền Nam. Ông cho
rằng: “Chương Đất nước làm điểm tựa cho cảm xúc toàn bài”. Theo tác giả:
“Cấu trúc của cả bài thơ là một sự tìm tòi lớn của Nguyễn Khoa Điềm trong
cách thể hiện…”, tác phẩm “in dấu ấn rõ rệt của vốn văn hóa nhà trường và
sách vở…”.
Mai Quốc Liên với bài Nguyễn Khoa Điềm và những bài thơ viết từ
5



chiến trường Trị - Thiên đã làm rõ nét hơn về bút pháp của nhà thơ trẻ, tác giả
tiếp tục khẳng định cảm xúc trong thơ Nguyễn Khoa Điềm: “Anh không bắt
đầu thơ mình từ sách vở, từ phòng văn, mà từ hiện thực cuộc chiến đấu của
nhân dân, đất nước… Thơ anh vừa có cái tươi tắn của một tâm hồn trẻ, vừa có
cái hào hùng vang dội, cái dịu ngọt của đất Huế, người Huế ”. Nguyễn Xuân
Nam nhấn mạnh đặc điểm nổi bật của thơ Nguyễn Khoa Điềm “không đặc sắc
về tạo hình, màu sắc mà có sức liên tưởng mạnh”.
Trong bài Nguyễn Khoa Điềm từ “Mặt đường khát vọng” đến “Ngôi
nhà có ngọn lửa ấm”, nhà nghiên cứu văn học Vũ Tuấn Anh nhận xét: “Triết
lý, trữ tình cuồn cuộn chảy và lắng đọng, sự già giặn của suy nghĩ đan xen lẫn
nét tinh tế tài hoa… Sự hợp chuyển hài hòa những yếu tố ấy là kết quả của
nhận thức lý tính, của sự mẫn cảm của thơ với nhịp đập thời đại mà đời và thơ
anh nhập cuộc”. Vũ Tuấn Anh đã chỉ ra sự kết hợp hài hòa giữ lý trí và cảm
xúc rất chân thực, không cầu kỳ, sáo rỗng, không tô vẽ bởi màu hồng, một lối
viết có nhiều đổi mới: điềm đạm và sâu lắng, tách lớp các vỏ của sự vật để
tìm cái lõi bên trong, khơi gợi từ đấy những triết lý đạo đức, nhân sinh.
Vũ Quần Phương sau khi phân tích các tập thơ, anh rút ra kết luận :
“Nhà thơ tỏ ra thông minh trong cách diễn đạt, tìm mối tương quan giữa các
sự vật để làm bật ra bản chất của vấn đề”, “Chương Đất nước anh sử dụng
khá thoải mái các chất liệu rút từ truyền thuyết, từ tục ngữ, ca dao, các thần
tích thắng cảnh cho đến các phong tục tập quán để tạo ra một chuỗi hình
tượng trùng điệp để thể hiện tâm hồn dân tộc”… Và cuối cùng bài viết nêu
lên nhận định: “Tập thơ mở ra là băn khoăn về tình cảm dân tộc, khép lại là
cuộc đấu tranh sâu rộng hòa với sức mạnh của toàn dân tộc chống xâm lược”.
Tôn Phương Lan với bài Nguyễn Khoa Điềm nhà thơ trẻ có nhiều triển
vọng TCVH số 5,1976 đã đưa ra cảm nhận khái quát về cả hai tập thơ Đất
ngoại ô và Mặt đường khát vọng. Bằng tất cả nhiệt tình sôi nổi của một cây bút
phê bình, bài viết của chị đã đi đến nhận định những nét trội trong phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm. Bài viết có đoạn : “Một phong cách rất

6


riêng có sự ảnh hưởng từ quê hương tới cuộc đời. Thơ Nguyễn Khoa Điềm
mang âm hưởng xứ Huế, giàu chất liệu của ca dao, thần thoại, chất lạc quan cách
mạng đã bao trùm lên tất cả… Một phong cách Nguyễn Khoa Điềm đã khá rõ,
bạn đọc ghi nhận ở anh một cách suy nghĩ và diễn đạt có âm hưởng riêng”.
Ở bài viết Bài thơ“Đất nước”của Nguyễn Khoa Điềm, giáo sư Trần
Đăng Xuyền đánh giá: “Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt
các chất liệu của văn hóa dân gian, từ tục ngữ, ca dao đến truyền thuyết, cổ
tích, từ phong tục tập quán đến thói sinh hoạt trong đời sống hàng ngày của
nhân dân. Những chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi,
quen thuộc, vừa sâu xa, kỳ diệu đủ gợi lên cái hồn thiêng liêng của non sông,
đất nước”.
Chu Văn Sơn trong bài Phê bình thi phẩm “Đất nước” của Nguyễn
Khoa Điềm đã khẳng định tư duy thơ Nguyễn Khoa Điềm là tư duy trữ tình
triết luận: “Nét chủ đạo trong tư duy triết luận trữ tình là đào sâu vào cái bản
chất của sự vật dưới dạng những biểu tượng thi ca sống động. Tư duy ấy
chuyển động dựa trên mạch lôgic biện chứng với những mối liên hệ bất ngờ
kỳ thú”.
Vũ Văn Sỹ, trong tạp chí văn học số 11- 2002 với bài Nguyễn Khoa
Điềm một giọng trữ tình giàu chất sử thi đã khẳng định giá trị bền vững trong
sự nghiệp sáng tác thơ ca của Nguyễn Khoa Điềm: “Thế kỷ XX, thế kỷ của
những sự kiện trọng đại của dân tộc ta đã qua đi, đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm
ta vẫn được xúc động trước những giá trị thẩm mỹ của một thời. Nguyễn
Khoa Điềm đã thực sự đóng góp vào nền thơ hiện đại một giọng trữ tình giàu
chất sử thi, một giọng thơ sôi nổi và cá tính, một cây bút gắn kết được một
cách tài hoa giữa vốn sống, vốn tri thức văn hóa và sự mẫn cảm của một tấm
lòng trước từng trang giấy”.
Qua các bài nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy rằng : tuy mỗi bài có

7


một cách nói, cách phân tích khác nhau nhưng đều gặp gỡ chung khi nhận
định những đặc điểm trong thơ Nguyễn Khoa Điềm: “Đó là tiếng thơ của tuổi
trẻ… viết về vùng quê, về Đất ngoại ô, về những người mẹ, em bé, những bạn
bè đồng chí trong những năm tháng ác liệt của khói lửa, chiến tranh” , “Đọc
thơ Nguyễn Khoa Điềm ta bắt gặp một nhà thơ giàu suy tưởng, ấm áp tình
cảm, một nhà thơ giàu liên tưởng, một nhà thơ của triết lý dân gian” [55]. Tuy
nhiên các nhận xét đó hầu hết là những bài viết mang tính giới thiệu về tác giả
hoặc một tác phẩm của nhà thơ, chưa đi sâu vào nghiên cứu toàn bộ thế giới
nghệ thơ để chỉ ra nét độc đáo trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm. Đây
là những tư liệu quý giá để dựa trên cơ sở đó chúng tôi thực hiện đề tài luận
văn của mình.
Như vậy, có thể thấy đã có không ít công trình nghiên cứu về thơ
Nguyễn Khoa Điềm. Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu các công trình của thế hệ
trước, ở luận văn này chúng tôi sẽ tập trung khảo sát cái nhìn và trường liên
tưởng trong thơ ông để thấy được nét độc đáo, hấp dẫn trong phong cách nghệ
thuật của nhà thơ từ đó góp phần khẳng định giá trị của tác giả và tác phẩm.
3. Mục đích nghiên cứu

Chúng tôi nghiên cứu Nội dung cái nhìn và trường liên tưởng của
Nguyễn Khoa Điềm trong một số tập thơ tiêu biểu của nhà thơ. Qua sự phân
tích, chúng tôi sẽ cố gắng làm nổi bật những nét đặc sắc riêng trong cái nhìn
và trường liên tưởng của Nguyễn Khoa Điềm - một trong những phương diện
tiêu biểu làm nên phong cách của nhà thơ.
4. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài “Cái nhìn và trường liên tưởng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm”,
chúng tôi tiến hành khảo sát một số tập thơ tiêu biểu của nhà thơ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu


Chúng tôi nghiên cứu cái nhìn và trường liên tưởng trong một số tác
phẩm thơ tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Qua sự phân tích chúng
tôi sẽ cố gắng làm nổi bật những nét đặc sắc riêng trong cái nhìn, trường liên
tưởng của ông và mối quan hệ giữa cái nhìn với trường liên tưởng đó. Từ đó
8


góp phần làm rõ tiền đề lý thuyết về cái nhìn và trường liên tưởng, đồng thời
khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm.
6. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “Cái nhìn và trường liên tưởng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm”
chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát trong một số tập thơ tiêu biểu của nhà thơ
như : Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng, Đất và khát vọng, Cõi lặng… Trong
quá trình nghiên cứu người viết cũng cố gắng liên hệ so sánh với các cây bút
cùng thời khác để thấy được những nét riêng, khác biệt cũng như tài năng của
Nguyễn Khoa Điềm.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
-

Phương pháp hệ thống: Những liên tưởng của Nguyễn Khoa Điềm
không phải rời rạc mà chúng đều nằm trong các hệ thống, với các

-

trường liên tưởng phù hợp.
Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại: Phân tích các
tác phẩm thơ của Nguyễn Khoa Điềm theo đặc trưng của thể loại thơ


-

trữ tình.
Phương pháp thống kê, phân loại: Người viết đã tiến hành thống kê
những cái nhìn và các liên tưởng trong các tác phẩm cụ thể, sau đó

-

phân loại và nhận diện để lý giải.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong khi tìm hiểu cái nhìn và trường
liên tưởng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, người viết cũng tiến hành so
sánh, đối chiếu với cái nhìn và trường liên tưởng của một số tác giả
cùng thời, chỉ ra nét riêng, độc đáo trong cái nhìn và liên tưởng của

-

Nguyễn Khoa Điềm.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Văn học, ngôn ngữ học, tâm lý
học sáng tạo: Những kiến thức cơ bản về cái nhìn, trường liên tưởng
của ngôn ngữ học và tâm lý học sáng tạo là cơ sở trong việc lý giải sự
hình thành cái nhìn và trường liên tưởng trong văn học, cụ thể là trong

thơ Nguyễn Khoa Điềm.
8. Đóng góp của đề tài
9


Qua việc tìm hiểu nhận định, hệ thống và đánh giá cái nhìn, trường liên
tưởng thể hiện trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, luận văn này mong muốn góp

phần làm rõ hơn phạm trù hình tượng tác giả nhưng tập trung chủ yếu ở
phương diện cái nhìn nghệ thuật và trường liên tưởng. Đồng thời, luận văn
cũng đóng góp một tiếng nói để khẳng định diện mạo, phong cách và vị trí
của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trên thi đàn văn học Việt Nam.
Có thể vận dụng cách tiếp cận từ cái nhìn và trường liên tưởng để nghiên
cứu và giảng dạy các tác phẩm khác nhau của Nguyễn Khoa Điềm cũng như
của các nhà văn, nhà thơ khác.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội
dung chính của luận văn gồm 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Cái nhìn nghệ thuật về thế giới, con người trong thơ Nguyễn
Khoa Điềm
Chương 3: Trường liên tưởng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm

10


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.
Những khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật

Có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ là focos (tiêu cự), thuật ngữ “cái nhìn”
dần dần được định hình trong ngôn ngữ văn hóa, được hiểu là góc nhìn, cách
lựa chọn, cách tô đậm của thế giới nghệ thuật trong tương quan với đối tượng
được miêu tả. Cho đến nay khái niệm cái nhìn đã trở nên quen thuộc, được sử
dụng khá phổ biến trong đời sống, trong nghiên cứu khoa học và trong nhiều
ngành nghệ thuật. Mỗi một loại hình nghệ thuật có một cách nhìn riêng, phản

ánh một cái nhìn riêng với cuộc sống, với con người, phù hợp với cách thức
xây dựng hình tượng của loại hình nghệ thuật ấy.
Văn học nghệ thuật, khác với các hình thái ý thức xã hội khác, nó là lĩnh
vực của ý thức thẩm mỹ. Văn học tái hiện mọi hiện tượng đời sống và nhìn
nhận, phán xét dưới con mắt cảm nhận có tầm văn hóa. Cái nhìn là một năng
lực tinh thần đặc biệt của con người, nó có thể thâm nhập vào sự vật, phát
hiện những đặc điểm, tính chất trạng thái của sự vật khi người nhìn vẫn đứng
bên ngoài sự vật đó. Dù vậy, nó vẫn bảo lưu sự toàn vẹn thẩm mỹ của sự vật.
Cái nhìn được vận dụng muôn màu muôn vẻ trong nghệ thuật và nó được vận
dụng như một thủ pháp bắt buộc trong nghệ thuật. Nói một cách khác, đã là
nghệ thuật thì không thể thiếu cái nhìn. Nghệ thuật là hình thức thể hiện cái
nhìn của con người. Viện sỹ M.Khrapchenko đã khẳng định: “Chân lý cuộc
sống trong tác phẩm nghệ thuật không tồn tại bên ngoài cái nhìn nghệ thuật có
cá tính cá nhân đối với thế giới vốn có ở từng người nghệ sỹ thực thụ”[45,
109]. Cái nhìn nghệ thuật là một phạm trù thể hiện rõ nhất bản chất chủ quan
của nghệ thuật và thể hiện sự hiện diện của hình tượng tác giả trong tác phẩm.
Cái nhìn là yếu tố cốt lõi của phong cách của một nhà văn. Nhà văn Pháp
11


Macsxen Prutxt từng nói : “Đối với nhà văn cũng như đối với nhà họa sĩ,
phong cách không phải là vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề cái nhìn” [45, 109].
Một người nghệ sỹ có phong cách độc đáo là người có cái nhìn riêng mới mẻ
về cuộc sống con người thông qua những hình tượng nghệ thuật độc đáo và
những phương thức phương tiện thể hiện đặc thù, có tính thống nhất, ổn định,
in đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo. Nhà phê bình Hoài Thanh nhận
xét: “Thích một bài thơ theo tôi nghĩ trước hết là thích một cách nhìn, cách
nghĩ, cách cảm xúc, một cách nói”. Xuất phát từ quan niệm riêng của mình,
mỗi người nghệ sỹ sẽ có một cách nhìn riêng về thế giới, con người. Như nhà
thơ Chế Lan Viên từng nói: “Nhờ mỗi cách nhìn riêng như thế ta lại có cái

nhìn riêng về văn học”. Ví dụ, Trong thơ Hồ Xuân Hương đằng sau mỗi câu
chữ là một cái nhìn phủ nhận có ý nghĩa châm biếm, phê phán bộc lộ một sự
lên án mạnh mẽ với chế độ cũ:
“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng treo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
Trong thơ Nguyễn Khuyến ta lại bắt gặp cái nhìn ấy nhưng đầy sự thâm
trầm, sâu cay:
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế nao nhiêu nhục bấy nhiêu”
(Hội Tây)
Trong văn học hiện thực phê phán, cùng viết về đề tài người nông dân,
nhưng cái nhìn của Nam Cao khác với cái nhìn của Ngô Tất Tố. Trong Tắt
đèn Ngô Tất Tố nói về nỗi khốn cùng của nông dân qua các kỳ sưu thuế. Nam
Cao đặt vấn đề sâu sắc hơn: Đó là về nhân phẩm của con người trước hiện
12


thực hà khắc. Hay cùng viết về quá khứ nhưng Nguyễn Tuân người nghệ sỹ
suốt đời đi tìm cái đẹp luôn hướng đến cái nhìn thẩm mỹ. Ông tìm thấy vẻ đẹp
trong mỗi con người, sự vật. Trong khi đó thì Nguyễn Công Hoan lại phơi
bày sự giả dối của xã hội. Như vậy, phong cách đối với nhà văn cũng như
màu sắc đối với người nghệ sỹ, nó là vấn đề cái nhìn.
Cái nhìn nghệ thuật thể hiện ở hai phương diện. Thứ nhất, cái nhìn thể
hiện ở vị trí xuất phát để nhìn. Nhìn từ bên trong, đó là một biểu hiện cảm
xúc, tâm trạng, quan niệm nào đó của tác giả về thế giới và con người. Từ bên
ngoài, cái nhìn được bộc lộ qua tri giác, cảm giác, quan sát và mọi cơ quan
cảm giác khác của con người. Kết quả do cái nhìn chụp lại được nghệ sỹ phản

ánh có thể là cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả, cái thấp hèn… Cái
nhìn bao quát không gian, bắt đầu từ điểm nhìn trong không gian, thời gian và
không bị không gian và thời gian chi phối. Cái nhìn xuất phát từ một cá thể,
mang thị hiếu và tình cảm yêu, ghét của con người. Bản chất của cái nhìn là
hoạt động quan sát nhưng nó có mối liên hệ chặt chẽ với các hoạt động khác
như : liên tưởng, tưởng tượng, cảm giác nội tâm, do đó nó được thể hiện bằng
miêu tả, tự sự, ví von, ẩn dụ, so sánh… Nhờ vậy, cái nhìn có thể đem các sự
vật hiện tượng các thuộc tính xa nhau đạt bên cạnh nhau hoặc ngược lại tách
rời thuôc tính trong cùng một sự vật hiện tượng một cách trừu tượng, có tính
chất quy ước.
Thứ hai, cái nhìn thể hiện qua các hình tượng, hình ảnh nhất là các chi
tiết nghệ thuật bởi chi tiết là điểm rơi của cái nhìn. Khi nhà văn trình bày cái
họ nhìn thấy có nghĩa đồng thời cho ta cùng nhìn thấy cái họ đã phản ánh thì
cùng lúc đó ta đã tiếp thu, lĩnh hội được thông điệp tinh thần của nhà văn, tức
là đã bước vào cái phạm vi ý thức của họ. “Khi ta nhận thấy nhà văn này chú
ý cái này, nhà văn kia chú ý cái kia, tức là ta đã nhận ra con người nghệ sỹ
của tác giả” [45, 110].
13


Mặt khác, chúng ta cũng thất rõ sự khác biệt giữa cái nhìn trong văn học
trung đại và cái nhìn trong văn học hiện đại. Nếu như trong thơ trung đại là
cái nhìn siêu cá thể, các nhà thơ cổ chỉ biết vịnh cảnh, vịnh vật, tỏ chí tải đạo
mà ít ai nhìn trở lại vào thế giới tâm linh, cảm giác của chính mình thì trong
thơ hiện đại, cùng với sự thức tỉnh ý thức cá nhân đòi hỏi nhà thơ lấy cái tôi
cá nhân cái chủ thể chính mình làm đề tài, làm nhân vật trung tâm. Cái gọi là
khát vọng được thành thực là khát vọng được nói về cá nhân mình cần có một
nhãn quan tạo hình mới với cái nhìn hướng nội.
Trong sự nghiệp cầm bút mỗi nghệ sĩ bao giờ cũng bộc lộ cách nhìn,
cách cảm về thế giới, con người thông qua những cái nhìn riêng biệt. Tùy

điểm nhìn hoàn cảnh xã hội tâm lý, ý thức, giai cấp, độ tuổi mà họ có thể có
những cái nhìn khác nhau. Cái nhìn ấy bộc lộ trực tiếp qua trạng thái, thái độ,
tâm trạng cảm xúc hay bộc lộ gián tiếp qua hình ảnh ngôn từ, cách lựa chọn
hình tượng nhân vật, thời gian, không gian thời gian nghệ thuật.
1.1.2. Khái niệm trường liên tưởng

Liên tưởng được coi là một trong những hoạt động tâm lí thông thường
của con người. Theo các nhà tâm lí học: “Liên tưởng là mối quan hệ giữa các
hiện tượng tâm lí, trong đó có sự tích cực hóa của một biểu tượng này kéo
theo sự xuất hiện một hay nhiều biểu tượng khác” [9, 140]. Theo Từ điển
Tiếng Việt khái niệm liên tưởng được giải thích là: “Nhân sự việc hiện tượng
nào đó mà nghĩ tới sự việc, hiện tượng khác có liên quan” [38, 548], giáo sư
Nguyễn Lân có mô tả cụ thể hơn là: “Liên tưởng là hiện tượng tâm lí khiến
người ta khi nghĩ đến một sự vật lại nghĩ đến sự vật khác liên quan hoặc vì
gần nhau hoặc vì giống nhau hoặc vì trái ngược nhau”[27, 374]. Thuyết liên
tưởng coi sự liên tưởng là nguyên tắc quan trọng nhất của sự hình thành trí
nhớ nói riêng và sự hình thành tất cả các hiện tượng tâm lí nói chung.
14


Trong sáng tác và cảm thụ văn học, liên tưởng là tạo ra mối liên hệ giữa
các sự vật hiện tượng với nhau, nhằm nhận ra một ý nghĩa mới mẻ nào đó.
Thi sĩ Xuân Quỳnh đối diện với “sóng” mà nghĩ đến tâm trạng của người con
gái đang yêu. Hay Nguyễn Bính từ một mảnh trăng nơi rừng núi hiểm nguy
cũng gợi nhắc khung trời hiền dịu ở quê hương với những trò chơi thuở bé
:“Giăng non như một cánh diều / Trẻ con phất dối thả liều lên mây”.
Liên tưởng và tưởng tượng đều là những năng lực tư duy vô cùng thiết
yếu đối với người nghệ sĩ, giúp họ thoát khỏi giới hạn chật chội của sự việc,
hiện tượng trước mắt, đi vào khám phá những bí ẩn sâu thẳm và mênh mông
của vũ trụ cũng như tâm hồn con người. Nhờ đó, người nghệ sĩ sáng tạo nên

những hình tượng mới mẻ, độc đáo, không lặp lại. Tuy nhiên, cần phân biệt
giữa khái niệm tưởng tượng và liên tưởng. Tưởng tượng là một khái niệm
rộng hơn liên tưởng. Tưởng tượng là thao tác tâm lí khá tự do, phóng túng. Ở
đó, các sự vật, hiện tượng được huy động có thể ở rất xa lạ nhau, thậm chí
chưa và không thể có thật trên đời mà chỉ tồn tại trong mơ ước của con người.
Trong khi đó, liên tưởng là một thao tác tâm lí bị quy định bởi mối quan hệ
nào đó giữa các sự vật, hiện tượng. Liên tưởng là khả năng phát huy kho dự
trữ, ấn tượng, kinh nghiệm vốn có nằm trong tiềm thức để phát hiện những
mối dây liên hệ ngẫu nhiên, vô hình trong bản chất sự vật. Liên tưởng khiến
cho tưởng tượng trở nên có định hướng, có sự nối kết theo một mạch, một
dòng nào đó. Tưởng tượng là cơ sở thúc đẩy việc hình thành liên tưởng. Ví
dụ, trước cùng một sự vật cụ thể là vầng trăng khuyết có nhà thơ tưởng tượng
ra cảnh lạ lùng, đau đớn như cuộc chia lìa giữa linh hồn và thể xác: “Hôm nay
còn một nửa trăng thôi / Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi”(Hàn Mặc Tử). Nhưng
người khác lại liên tưởng tới một cuộc tình dang dở: “Sao anh vội ngỏ lời /
Vào một đêm trăng khuyết / Để bây giờ thầm tiếc / Một tình yêu chưa
tròn”(Phi Tuyết Ba).
15


Liên tưởng bao giờ cũng dựa trên mối quan hệ cụ thể hoặc đôi khi rất mơ
hồ giữa các sự vật, hiện tượng. Dựa trên mối quan hệ ấy, người ta có thể chhia
liên tưởng thành bốn loại: Liên tưởng tương cận, liên tưởng tương đồng, liên
tưởng nhân quả và liên tưởng đối lập. Liên tưởng tương cận là có sự vật này
nghĩ đến sự vật khác gần với nó:
“Hoa đâu thơm lạ thơm lùng
Thơm gốc, thơm rễ, người trồng cũng thơm”
Liên tưởng tương đồng là thấy cái này nghĩ ngay đến cái tương đồng với
nó:
“Đàn ông nông nổi giếng khơi

Đàn bà sâu sắc như khơi đựng trầu”
Liên tưởng nhân quả là thấy kết quả mà nghĩ đến nguyên nhân, thấy việc
làm hôm nay nghĩ đến kết quả ngày mai:
“Gặp đây anh nắm cổ tay
Sao xưa em trắng mà rày em đen
Hay là lấy phải chồng hèn
Ăn mắm, ăn muối nó đen mất người”
Liên tưởng đối lập lại đưa ra những sự vật, hiện tượng trái ngược nhau.
“Đất nước mênh mông / đời anh nhỏ hẹp”
Hay: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở / khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Liên tưởng làm cho hình tượng nghệ thuật có thêm chiều sâu ý nghĩa tăng
lên bội phần những ấn tượng cũng như cảm xúc ở người đọc.
Thơ trữ tình là thể loại đặc biệt của sáng tạo văn chương. Dung lượng
hạn hẹp, ngôn ngữ chọn lọc nhưng lại có sức gợi lớn lao và mang tham vọng
phản ánh được cuộc sống, con người ở những tầm kích sâu rộng nhất. Người
nghệ sỹ có tài bao giờ cũng qua liên tưởng của mình mà sáng tạo ra những
hình tượng nghệ thuật sống động, ám ảnh. Có nhà thơ đã so sánh mái tóc dài
16


của thiếu nữ vô cùng độc đáo: “Tóc em dài như một tiếng chuông ngân”. Hay
Trần Đăng Khoa cảm nhận được âm thanh rất nhẹ của chiếc lá đa rơi trong
bài Đêm Côn Sơn : “Ngoài thềm rơi chiếc lá đa / Tiếng rơi rất mỏng như là
rơi nghiêng”. Tất cả những câu thơ trên đều gợi sự liên tưởng, tạo hình rõ rệt
xuất phát từ trí tưởng tượng kỳ diệu cùng với việc sử dụng biện pháp nghệ
thuật so sánh, ẩn dụ đặc sắc của nhà thơ. Có thể nói, liên tưởng là một thao
tác của tư duy sáng tạo, nó vừa thuộc ý thức, vừa thuộc về tiềm thức mà thao
tác chủ đạo của nó là sự liên kết về mĩ cảm của chủ thể khi cảm nhận và thể
hiện một đối tượng nào đó. Không có liên tưởng, nghệ thuật chỉ là sự sao
chép hiện thực một cách máy móc, vụng về, khô cứng và nhạt nhẽo.

Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng: Trường liên tưởng là phạm
vi hoạt động của liên tưởng, là giới hạn thẩm mỹ của một chủ thể sáng tạo.
Khi những liên tưởng của một chủ thể nối kết với nhau theo một cách thức
nào đó tạo thành một chỉnh thể, khi ấy ta có trường liên tưởng. Cái làm cho
những hình ảnh cụ thể, thậm chí mang vẻ tự do, rời rạc gắn kết lại với nhau
trong trường liên tưởng chặt chẽ và có ý nghĩa là sức mạnh bí ẩn của vô thức,
tiềm thức và ý thức. Trường liên tưởng của một chủ thể sáng tạo được quy
định bởi vốn sống, vốn văn hóa và phản ứng mỹ cảm của chủ thể ấy. Bởi vậy,
vốn sống, kỷ niệm, cá tính và cá tính sáng tạo của người nghệ sỹ ảnh hưởng
rất lớn, là nguồn nguyên liệu chính tạo ra trường liên tưởng trong thơ. Bên
cạnh đó trường liên tưởng của một nhà thơ còn chịu ảnh hưởng từ yếu tố dân
tộc và thời đại. Tố Hữu đón chào tuổi thanh niên với những vầng hào quang
cách mạng, được đắm chìm trong chất men say lý tưởng sáng ngời của Đảng
nên thơ ông thường xuất hiện những hình ảnh tươi vui, rạng rỡ, chói chang.
Để diễn tả niềm say mê, vui sướng khi bắt gặp lý tưởng Cách mạng ông liên
tưởng, so sánh với một “vườn hoa lá, đậm hương và rộn tiếng chim”, liên
tưởng đến ánh nắng ấm áp, chói qua tim của “mặt trời chân lý”. Nguyễn Bính,
17


nhà thơ của nông thôn Việt Nam, xuất phát từ tình cảm gắn bó sâu nặng với
quê hương, ông đã đưa vào thơ mình những bức tranh làng quê đầy sinh
động, gần gũi và ấm ấp với hình ảnh: giậu mùng tơi, hàng cau liên phòng,
vườn chè, ao cá, vườn cam... Dù ở bất cứ nơi nào, lòng ông cũng luôn nghĩ và
hướng về những mảnh nông thôn thân thương, giản dị, nặng ân tình.
Trong sáng tạo thơ trữ tình trường liên tưởng có hai xu hướng bộc lộ
chính. Thứ nhất là trong việc người nghệ sỹ cảm nhận và thể hiện những hình
ảnh trực quan của đời sống thực tại. Ở cách này, trường liên tưởng sẽ được
thể hiện nhờ các biện pháp nghệ thuật mà cơ bản và hữu hiệu nhất là so sánh
và ẩn dụ. Chế Lan Viên đã viết về nỗi nhớ một cách trực tiếp thật đẹp qua một

loạt hình ảnh so sánh trùng điệp gợi trường liên tưởng rộng: “Anh bỗng nhớ
em như đông về nhớ rét / Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng / Như xuân đến
chim rừng lông trở biếc / Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương” (Tiếng hát con
tàu). Tác giả đã cụ thể hóa khái niệm trừu tượng là tình yêu thành những hình
ảnh gần gũi, quen thuộc trong đời sống con người.
Trong ẩn dụ, vế được liên tưởng thường chìm đi. Đây được coi là biện
pháp tối ưu để tạo dựng nên những liên tưởng phong phú : “Nhưng em ơi một
đêm hè / Hoa xoan nở xác con ve hoàn hồn / Dừng chân trên bến sông buồn /
Người nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang” (Nguyễn Bính).
Bên cạnh đó, nhân hóa cũng là một cách thể hiện sinh động liên tưởng. Có
thể tìm thấy khá nhiều những liên tưởng được đầu thai vào các hình ảnh nhân
hóa đặc sắc trong thơ Nguyễn Bính: “Gió chiều cầu nguyện đâu đây”, “Lệ
nến thi nhau nhỏ xuống bàn”, “Tất cả mùa xuân rộn rã đi”….
Cách biểu hiện thứ hai của trường liên tưởng là qua việc tổ chức văn
bản. Đó có thể là cách tổ chức mang cảm xúc, mang mạch ý tưởng cũng có
thể là cách tạo dựng thế giới hình tượng trong tác phẩm. Ví dụ, trong thơ bài
thơ Khúc hát ru những em bé trên lưng mẹ lời bài thơ được lặp lại nhiều lần.
18


Từ ước mơ “Mai sau con lớn lên vung chày bùn sâu” đến “mai sau lớn lên
con phát mười Ka-lưi ” “mai sau lớn lên con làm người tự do”… (Khúc hát
ru những em bé trên lưng mẹ). Từ ước mơ của người mẹ liên tưởng đến ước
mơ của dân tộc, từ hình ảnh “những bài hát con không còn hát nữa” liên
tưởng nâng lên thành hình ảnh: “Những con đường không ai trở lại” rồi nâng
lên “Những con đường không ai gọi nữa”. Chính cấu trúc gần gũi nhau hoặc
giống nhau của bài thơ đã tạo ra các hình ảnh liên tưởng nối tiếp nhau nâng
lên ở mức độ cao hơn.
Như vậy, có thể nói liên tưởng là một năng lực thiết yếu trong tư duy
sáng tạo nghệ thuật, nó góp phần quan trọng tạo nên gương mặt riêng của

người nghệ sĩ. Liên tưởng xuất hiện do sự chi phối của nhiều yếu tố: thời đại,
dân tộc, vốn sống, cá tính… Để rồi đến lượt mình, liên tưởng chi phối cách
xây dựng hình tượng, cách tổ chức văn bản nghệ thuật. Nghiên cứu trường
liên tưởng của một nhà thơ cần tìm ra và lý giải cơ chế quy luật vận động của
các liên tưởng riêng biệt. Đồng thời, phát hiện những mẫu gốc trong trường
liên tưởng nghệ thuật của người nghệ sĩ.
1.1.3. Mối quan hệ giữa cái nhìn và trường liên tưởng

Phong cách chính là vấn đề cái nhìn. Một nhà văn tài năng, có phong
cách phải có cái nhìn riêng, mới mẻ cuộc sống con người thông qua những
hình tượng nghệ thuật độc đáo và những phương thức phương tiện thể hiện
đặc thù, có tính thống nhất ổn định, in đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng
tạo.
Cái nhìn bao giờ cũng gắn liền với trường liên tưởng của người nghệ sĩ.
Từ sự vật này nhà văn, nhà thơ liên tưởng, so sánh, đối chiếu đến sự vật, hiện
tượng khác, qua đó làm rõ cái nhìn của mình. Hay nói cách khác, trường liên
tưởng cụ thể hóa cái nhìn của người nghệ sĩ. Cái nhìn chi phối, quy định việc
tạo ra những liên tưởng trong việc xây dựng hình tượng nghệ thuật. Người
19


nghệ sỹ nhìn cuộc sống, con người như thế nào thì sẽ xây dựng các hình
tượng nghệ thuật tương ứng thông qua sự liên tưởng, tưởng tượng của mình.
Nguyễn Tuân, một con người suốt đời săn lùng và tìm kiếm cái đẹp để phụng
sự và tôn thờ nó nên nhà văn quan niệm mỗi tác phẩm phải là một vẻ đẹp –
một vẻ đẹp mới lạ và độc đáo khác đời từ ý nghĩ đến cách thể hiện. Bởi lẽ đó,
bao giờ ông cũng tiếp cận đối tượng ở phương diện văn hóa nghệ thuật hoặc
thẩm mỹ. Trong các sáng tác của mình ông luôn là sự tìm tòi, khám phá cái
đẹp. Không chỉ con người mà thiên nhiên cũng hiện ra vô cùng đẹp đẽ: “Con
Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện

trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù
khói Mèo đốt nương xuân” (Người lái đò Sông Đà). Hay “Mặt trời nhú lên
dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng
thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một
mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai
nước biển ửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để
mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở
biển Đông”(Cô Tô). Còn Vũ Trọng Phụng ông nhìn cuộc đời chỉ toàn là
những thứ rưởi rác, xấu xa, là khốn nạn, không có điều gì đáng ca ngợi nên
dường như trong sự liên tưởng của ông thiên nhiên cũng hiện lên như một con
người lôi thôi, xấu xí : “Dãy dâm bụt cành với lá um tùm leo lên trên rồi xõa
xuống, lởm chởm, lôi thôi như một cái đầu người tóc để nửa năm chưa xén”
(Dứt tình). Từ quan niệm về cuộc sống chỉ toàn những điều xấu xa, bỉ ổi, con
người dâm đãng nên nhìn cảnh thiên nhiên Vũ Trọng Phụng cũng liên tưởng
đến những cô gái, những nhân tình hay những cuộc cuồng dâm. Chỉ là những
con vẽ bùa nhỏ xíu xuất hiện trước trong cảnh nước lụt cũng được nhà văn
liên tưởng đến cái dâm dục của con người: “Những con vẽ bùa – những chấm
đen tròn trên mặt nước, phô ra cái quang cảnh tưng bừng của một cuộc khiêu
20


vũ cuồng khấu và vô ý thức” (Giông Tố). Xuân Diệu một nhà thơ mới nhất
trong các nhà thơ mới. Người được mệnh danh là ông hoàng thơ tình. Ông đã
đem đến cho nền thi ca Việt Nam cái nhìn mới mẻ, tươi trẻ, độc đáo và hấp
dẫn: Nhìn đời qua lăng kính của tình yêu và tuổi trẻ. Chính cái nhìn ấy là cơ
sở của trường liên tưởng, tạo nên những so sánh độc đáo trong thơ Xuân
Diệu. Ông đã dựng lên trước mắt người đọc một thiên đường ngay trên mặt
đất đang tỏa mật lên hương. Ở đó, “vạn vật đều trẻ trung, xuân sắc: “Tình thổi
màu yêu lên phấp phới / Vạn vật nức tâm xuân”, cỏ cây hoa lá cũng như đang
hẹn hò, hữu tình, hữu ý: “Lá như con mắt cụm cây nhìn / Trái tựa hình tim

chim hót xin”, mùa xuân cũng là “mùa tình”, vườn xuân cũng trở thành “vườn
tình”” [43].
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ vĩ đại của toàn dân tộc. Cảm hứng về Nhân dân, đất nước
luôn là cảm hứng chi phối hành trình sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Chính
nhà thơ đã từng khẳng định: “Thể hệ chúng tôi học xong, theo tiếng gọi của
non sông, vào chiến trường miền Nam, tất cả những gì có trong tâm tưởng là
đất nước và nhân dân”. Vì vậy, nhà thơ dành một mảng lớn thơ ca của mình
để viết về Nhân dân, đất nước với cái nhìn khẳng định, ngợi ca và tự hào nhất.
Hình tượng Đất nước hiện lên trong thơ ông đầy mới lạ mà thân thương, gần
gũi, hình ảnh người mẹ, người chiến sĩ, những em bé liên lạc, những người
dân nghèo đều chan chứa tình yêu nước, lòng căm thù giặc sâu sắc và sự dũng
cảm, gan dạ. Khi nói đến Tổ quốc, nhân dân, nhà thơ thường liên tưởng so
sánh với những gì gần gũi, thân thương, những giá trị tốt đẹp của dân tộc. Nói
đến giặc Mỹ và tội ác của chúng, Nguyễn Khoa Điềm so sánh, liên tưởng tới
những gì xấu xa, đen tối và ghê rợn nhất. Đó là “những con cá sấu”, là“lũ ó
diều” là “bầy quạ đen”. Dưới con mắt của nhà thơ, kẻ thù hiện lên như một
bầy thú ác ôn, tàn bạo.
21


Có thể thấy rằng, mỗi người nghệ sỹ có một cách nhìn thế giới, con
người khác nhau. Và rồi cái nhìn ấy sẽ được cụ thể hóa qua những trường liên
tưởng độc đáo, riêng biệt của từng cá nhân nghệ sỹ.
1.2.

Những tiền đề của cái nhìn và trường liên tưởng Nguyễn Khoa Điềm
trong thơ
Nghiên cứu cái nhìn và trường liên tưởng của một nhà thơ không thể


không xem xét những yếu tố cơ sở tạo nên cái nhìn và trường liên tưởng đó.
1.2.1. Thời đại – Quê hương – Gia đình
Mỗi người nghệ sỹ cầm bút đều chịu ảnh hưởng của môi trường, hoàn
cảnh nhất định, đó là hoàn cảnh xã hội, thời đại hay hoàn cảnh riêng cá nhân.
Đây là những yếu tố ảnh hưởng lớn đến tâm hồn và nhân cách một con người.
Đối với người nghệ sỹ, nó để lại những dấu vết in hằn trong sáng tạo nghệ
thuật. Nguyễn Khoa Điềm đã nắm bắt được những gì cần thiết với mình trong
hoàn cảnh, môi trường sống của nhà thơ và nó đã cung cấp những tư liệu, chất
liệu cần thiết để ông xây dựng nên thế giới nghệ thuật của riêng mình. Vậy,
câu hỏi đặt ra là: môi trường, hoàn cảnh sống đã tác động tới tâm hồn nhà thơ
như thế nào?
Yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến tâm hồn nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà
chúng ta phải kể đến là yếu tố thời đại hay còn gọi là hoàn cảnh lớn. Nguyễn
Khoa Điềm trở về quê hương trong những ngày đầy bóng giặc. Ông hòa mình
vào cuộc chiến đấu dữ dội trên chiến trường Bình - Trị - Thiên. Sống và hoạt
động trong khói lửa chiến tranh, trong những hi sinh mất mát, tận mắt chứng
kiến tội ác của kẻ thù và cuộc chiến đấu gian khổ bất khuất của đồng đội,
đồng bào, chính những điều đó đã khơi nguồn cảm hứng mãnh liệt cho hoạt
động sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Trở về quê hương, Nguyễn Khoa
Điềm không có tâm nguyện sẽ trở thành nhà thơ, ông hòa mình vào chiến
trường theo quân số của đoàn cán bộ Giáo Dục. Sau nhiều năm tham gia
chiến đấu, Nguyễn Khoa Điềm được phân công công tác vận động thanh niên
22


Thành ủy Huế. Thời gian gắn bó với phong trào học sinh, sinh viên Thành
phố Huế tuy ngắn ngủi nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp
sáng tác của ông. Đây là thời gian Nguyễn Khoa Điềm hòa mình vào tuổi trẻ
thành phố bị chiếm đóng nên nhà thơ hiểu được những suy nghĩ, tâm tư,
nguyện vọng của thế hệ trẻ trên con đường lựa chọn lý tưởng cũng như cách

sống của mình. Chính những đêm không ngủ trên đường hành quân chiến
đấu, những ngày cả thành phố xuống đường ngập trong màu áo trắng tin yêu
đã giúp Nguyễn Khoa Điềm viết nên những bài thơ đặc sắc với sức liên tưởng
mạnh mẽ, sâu sắc. Ngày xuống đường của tuổi trẻ thành thị sau khi trải qua
quá trình nhận đường đầy khắc nghiệt được nhà thơ miêu tả như một ngày hội
của tuổi trẻ. Từ những căn nhà, góc phố, tuổi trẻ ùa về đại lộ. Từ màu áo trắng
của học sinh, sinh viên, nhà thơ gợi đến dáng dấp những chú chim câu dễ
thương báo hiệu hòa bình. Màu áo trắng tràn đến đâu, niềm vui lan tỏa đến
đó. Sức sống của tuổi trẻ được hồi sinh, căng tràn như nắng / như gió / như
cây xanh và đầy niềm lạc quan yêu đời: tuổi trẻ thành phố / bay lên bằng
tiếng hát. Sống trong lửa đạn chiến tranh, Nguyễn Khoa Điềm đã có những
liên tưởng vô cùng độc đáo khi nói đến sự tàn bạo của kẻ thù. Từ tiếng còi tàu
của giặc Mỹ nhà thơ liên tưởng đến hình ảnh chỉ có “tiếng còi tàu há mồm,
những con giòi giúc vào mạch máu”. Nghe âm thanh của tiếng súng, ông liên
tưởng đến tiếng gào lên mặt nước của vỏ hến, vỏ hàu, nghe tiếng kèn nhà thơ
liên tưởng “Những tiếng rên giật tròn như một vòng thọng lọng”. Chính hiện
thực tàn khốc của chiến tranh là yếu tố ảnh hưởng đến sự liên tưởng trong thơ
ông.
Yếu tố thứ hai cũng ảnh hưởng lớn đến phong cách của mỗi người nghệ
sỹ nói chung hay nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nói riêng đó chính là quê
hương và gia đình.
Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943 tại thôn Ưu Điềm,
xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ xưa đến nay,
23


mảnh đất Huế mộng mơ, trữ tình đã trở thành nguồn sữa ngọt nuôi dưỡng bao
hồn thơ dân tộc. Dải đất miền Trung ấy đã hứng chịu bao biến động của lịch
sử, bao khắc nghiệt của thiên nhiên và bao bom đạn của kẻ thù trút xuống
ngày đêm trong những ngày chiến tranh. Trải qua bao thăng trầm ấy, Huế đã

hội tụ ở mình nhiều giá trị văn hóa trở thành một trung tâm văn hóa lớn của
dân tộc. Bên dưới lớp đá sỏi khô cằn của dải đất miền Trung là mạch nước
trong mát nuôi dưỡng bao thế hệ nhà thơ suốt chiều dài của lịch sử dân tộc.
Mảnh đất xứ Huế đầy thơ mộng đã đi vào trong thơ ca, nhạc họa, một xứ sở
được mệnh danh là “bài ca đô thị”, “thanh sắc thi ca” được công nhận là di
sản văn hóa thế giới với những thành quách rêu phong, những cung điện, đền
đài phủ mờ bởi bóng thời gian. Tất cả đã tạo nên nét cổ kính, uy nghi của một
cố đô đầy hoài niệm, đầy cảm hứng cho thi ca.
Sinh ra và lớn lên trên vùng đất giàu truyền thống văn hóa, thơ Nguyễn
Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế: “Hầu hết các đề tài trong thơ anh đều được
rút ra từ mảnh đất Huế… Và lịch sử Huế, nền văn hóa Huế, hơi thở hàng
ngày của cuộc sống cố đô thấm vào máu thịt và cảm xúc về Huế chan chứa
trong thơ anh” (Võ Văn Trực). Chính cái chất Huế thâm trầm, tâm hồn Huế
thiết tha, mộng mơ, giàu màu sắc đã tạo nên hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trữ
tình mà sâu lắng, hài hòa trí tuệ và cảm xúc. Thành phố Huế cổ kính nằm bên
dòng Hương Giang đã gắn bó với Nguyễn Khoa Điềm bao kỷ niệm ấu thơ, và
trong những năm tháng chiến đấu trên chiến trường Trị Thiên Huế đã trở
thành nguồn cung cấp cho Nguyễn Khoa Điềm nguồn cảm hứng và chất liệu
thi ca. Huế đã đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm từ ngoại ô nghèo đến đại lộ uy
nghi cổ kính, từ dòng Hương Giang đến những con đường ngợp bóng phượng
vĩ. Huế là mẹ, là chị, là em, là bạn bè đồng chí trong những đêm không ngủ,
những ngày xuống đường. Thơ Nguyễn Khoa Điềm không “ngổn ngang” tên
đất, tên người xứ Huế, không “bề bộn” phong tục tập quán Huế nhưng tâm
24


hồn Huế vẫn “dịu dàng sau mỗi vần thơ”. Sinh ra và trưởng thành trên vùng
đất giàu truyền thống văn hóa, thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế.
Chính vì thấm nhuẫn nền văn hóa dân gian nơi chôn rau cắt rốn nên khi khái
quát về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm nghĩ ngay đến những câu ca dao thân

thuộc của xứ sở mình: “Đất là nơi “con chim Phượng Hoàng bay về hòn núi
bạc / Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biến khơi”. Đau thương tủi hờn
trong những ngày Huế còn rên xiết dưới chân giặc, câu ca dao trữ tình ngân
lên cũng đắt đoạn niềm đau: “Trước bến Văn Lâu / Đau biết mấy lần mẹ hát
khúc ca dao”. Đó còn là những vần thơ mụ Đội, câu chuyện của cụ Trâu và
những lâu đài xưa cũng chìm dần trong lá xanh trùm kín cửa trên khu phố
buồn đau, rồi những bài hát sênh tiền của mẹ: “Đêm đêm khơi từng ngọn
lửa / Kể tôi nghe chuyện mụ lý, ông cò…”.. Huế còn hiện lên trong những trò
chơi dân gian gắn liền với long lanh sắc màu của chợ Gia Lạc: “Con gà đất
bảy màu / Sống bằng hơi con trẻ / Hùng dũng gọi mùa xuân / Mặt trời vàng
long lanh trên chợ Gia Lạc”, với dòng Hương Giang thơ mộng, bao đời trở
thành chứng nhân lịch sử của vùng đất kinh thành, là dòng sông tri ân của
nhiều danh nhân tên tuổi: “Biết ơn dòng sông dựng dáng kiếm uy nghi /
Trong tâm trí một nhà thơ khởi nghĩa / Cao Bá Quát ngã mình trên chiến
địa / Trăm năm rồi vẫn sáng màu gươm” (Lời chào). Và gần hơn là lời hịch
Phò vua những ngày Cần Vương đánh Pháp : “Qua Hoàng thành cha ông gọi
tên tôi ù ù / Trong họng súng thần công / Hịch Cần Vương tưởng còn vang
qua chín cửa / Sắc đẹp nghìn xưa thấm từng trang lịch sử” (Đất ngoại ô).
Văn hóa Huế một phần gắn chặt với sông nước Hương Giang, vì thế
những vạn chài ven sông trở thành một thứ văn hóa đầy ám ảnh: “Những
người dân nghèo về đây / Như vỏ hến chiều chiều tấp lên các bến”. Nhà
Nguyễn Khoa Điềm ở vùng Vĩ Dạ, mỗi khi qua lại bến Đập Đá nhà thơ lại
được chứng kiến đời sống vạn chài lênh đênh sông nước:“Ôi những cuộc đời
25


×