PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của xã hội ngành
chăn nuôi cũng phát triển mạnh mẽ, là một ngành kinh tế mũi nhọn trong
chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Ở nước ta hiện nay, chăn nuôi
lợn trở thành ngành kinh tế quan trọng.
Vài chục năm trở lại đây, chăn nuôi lợn theo hướng công nghiệp tập
trung đã và đang phát triển mạnh mẽ về số lượng trang trại, quy mô đầu
lợn, chất lượng con giống và sản phẩm thịt không ngừng tăng lên. Theo
cục chăn nuôi năm 2010 cả nước có 8.500 trang trại chăn nuôi lợn với sản
lượng thịt lợn của trang trại chiếm 45%, của nông hộ chiếm 55%. Theo
FAO (2009), đàn lợn của Việt Nam là 27,6 triệu con, xếp vị trí thứ tư trên
thế giới về số đầu lợn.
Bên cạnh những thuận lợi đạt được, chăn nuôi lợn ở nước ta cũng gặp
rất nhiều khó khăn và trở ngại lớn. Một trong những trở ngại lớn nhất
trong chăn nuôi lợn là dịch bệnh xảy ra còn phổ biến và phức tạp, gây thiệt
hại cho đàn lợn nuôi tập trung cũng như đàn lợn nuôi ở hộ gia đình. Trong
đó, tiêu chảy lợn con là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tổn
thất cho ngành chăn nuôi lợn, vì nó làm giảm khả năng tăng trưởng, trọng
lượng cai sữa thấp, tỷ lệ còi cọc tăng, ...từ đó làm giảm hiệu quả kinh tế,
ảnh hưởng sự phát triển của ngành chăn nuôi lợn.
Trong thực tế có nhiều đề tài đã và đang nghiên cứu về cách phòng và
trị tiêu chảy ở lợn con nhằm tìm ra nguyên nhân gây bệnh, cũng như đề ra
giải pháp tối ưu trong cách phòng và trị sao cho có hiệu quả nhất góp phần
không nhỏ trong việc hạn chế những thiệt hại do tiêu chảy gây ra ở lợn con
theo mẹ. Tuy nhiên sự phức tạp của cơ chế gây bệnh, những tác động phối
hợp của các nguyên nhân, đặc điểm cơ thể gia súc non… đã ảnh hưởng
không nhỏ đến việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu. Vì thế các giải pháp
đưa ra chưa thực sự đem lại kết quả mong muốn. Tiêu chảy ở lợn con theo
mẹ vẫn là nguyên nhân gây thiệt hại lớn cho các cơ sở chăn nuôi lợn.
Xuất phát từ vấn đề trên, đồng thời qua thời gian tham gia học tập, em đã
được quý Thầy và quý Cô của Trường Đại học Nông Lâm Huế trang bị cho bản
thân em những kiến thức lý luận cơ bản. Để phát huy tính ứng dụng những kiến
1
thức đó vào thực tiễn trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học áp dụng vào lao động
sản xuất, nhằm biến lý thuyết thành kết quả thực tế. Dưới sự hướng dẫn của cô
giáo BSTY Nguyễn Thị Quỳnh Anh tôi tiến hành đề tài “Khảo sát tình hình tiêu
chảy ở lợn con theo mẹ từ giai đoạn sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại chăn nuôi
lợn Nam Hà – Tỉnh Bình Thuận.”
MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU
1. Mục đích
Khảo sát tình hình, nguyên nhân tiêu chảy ở lợn con theo mẹ từ giai
đoạn sơ sinh đến 21 ngày tuổi ở trại từ đó tìm ra biện pháp phòng ngừa và
đồng thời thông qua những phác đồ điều trị thực nghiệm để từ đó tìm ra phác đồ
có tác dụng điều trị hiệu quả nhất đối với loại bệnh tiêu chảy nhằm để giúp cho
trại hạn chế tổn thất do tiêu chảy gây ra.
2. Yêu cầu
- Khảo sát tình hình tiêu chảy trên lợn con theo mẹ giai đoạn từ sơ
sinh đến 21 ngày tuổi.
- Theo dõi triệu chứng lâm sàng về tiêu chảy ở lợn con.
- Theo dõi phát đồ thử nghiệm điều trị, tìm ra phát đồ điều trị có hiệu
quả nhất trong việc điều trị tiêu chảy ở lợn con theo mẹ.
2
PHẦN II
TỔNG QUAN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU
2.1. GIỚI THIỆU VỀ TRẠI CHĂN NUÔI LỢN NAM HÀ
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Trại Nam Hà thuộc quyền quản lý của công ty cổ phần chăn nuôi
CP Việt Nam, nằm ở xã Tân Hà, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận. Cách
quốc lộ 1A về phía đông chừng 10km. Là tỉnh nằm trong khu vực nhiệt đới
gió mùa, một năm chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa
bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4
năm sau. Bình Thuận nằm trong khu vực khô hạn nhất cả nước, có nhiều
nắng, gió. Nhiệt độ trung bình hằng năm từ 26- 270 C, lượng mưa trung
bình hằng năm từ 800- 1150mm, số giờ nắng rất cao, trung bình hằng năm
khoảng 2459 giờ. Độ ẩm bình quân cả năm 79%. Và Hàm Tân là một
huyện cực nam của tỉnh Bình Thuận.
Về vị trí địa lý: phía đông của huyện giáp biển đông, phía nam
giáp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, phía bắc giáp với huyện Hàm Thuận Nam
của tỉnh Bình Thuận. Huyện có diện tích 738,809 km 2, dân số 72.553
người, mật độ 98 người/km 2. Huyện Hàm Tân gồm: thị trấn Tân Nghĩa, thị
trấn Tân Minh và 8 xã: Tân Thắng, Sơn Mỹ, Tân Hà, Tân Xuân, Tân
Nghĩa, Sông Phan, Tân Đức và Tân Phúc.
2.1.2. Tổng quan của trại
Trại lợn nái Nam Hà được thành lập vào năm 2009, với quy mô 2400
lợn nái được xây dựng tại xã Tân Hà, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận.
Quy mô trại chăn nuôi có tổng diện tích: 7,5 ha. Bao gồm khu chăn nuôi
(khu sạch) và khu sinh hoạt của cán bộ, công nhân (khu dơ). Hai khu này tách
biệt nhau bởi hệ thống nhà sát trùng đảm bảo cho công tác phòng dịch.
Khu chăn nuôi bao gồm có trại cách ly, trại mang thai, trại đẻ và trại nọc.
Trại cách ly có 1 nhà gồm 2 bộ. Mỗi bộ có 4 ô chuồng, mỗi ô có diện
tích 25m2 chứa 25 nái. Giữa 2 ô chuồng có 1 ô nhỏ, diện tích 4m2 để nhốt
lợn nái già làm autovaccine.
Có 4 trại mang thai, mỗi trại gồm 8 dãy. Bao gồm 7 ô rộng và 539 ô
nhỏ.Trại đực giống gồm 40 ô rộng nhốt lợn đực giống, 2 ô để lấy tinh, một
phòng để pha chế tinh (Với trang thiết bị hiện đại).
3
Trại đẻ gồm 12 trại trong đó có 3 trại cai sữa, 1 trại 3 tuần , 1 trại 2
tuần, 1 trại 1 tuần, 1 trại đang đẻ, 1 trại chờ đẻ và 4 trại chờ chuồng.
Trại lợn nái đẻ được chia làm 2 dãy chuồng. Lợn nái đẻ được nuôi cá thể
trong mỗi ô chuồng 3 ngăn với kích thước ((0,8+0,5+0,5) x 2,2)m, giữa ô đẻ có
khung cố định lợn mẹ bằng sắt. Trong mỗi ô chuồng có lồng úm cho lợn con
bằng sắt có kích thước (0,8 x 0,5 x 0,5)m, úm lợn con bằng nhiệt lượng tỏa ra từ
bóng đèn tròn sợi đốt công suất 100W. Trong mỗi ô có núm uống tự động cho
lợn con và lợn mẹ. Máng ăn bán tự động cho lợn mẹ và máng ăn bằng nhựa bán
cố định trên vách ngăn 2 ô liền kề nhau cho lợn con tập ăn.
Chuồng lợn nái có dạng hình chữ nhật, xây dựng song song nhau,
dạng trại kín. Tiểu khí hậu trong chuồng nuôi được điều hòa bằng hệ thống
dàn lạnh lắp đầu dãy chuồng và quạt gió lắp cuối dãy chuồng để duy trì
nhiệt độ thích hợp từ 26- 28oC. Sàn chuồng lót bằng tấm đan xi măng ở
giũa đối với lợn mẹ và đan nhựa 2 bên cho lợn con. Dưới sàn là nền
chuồng có hệ thống thoát phân, nước tiểu, nước vệ sinh.
Hệ thống thoát chất thải dẫn chất thải ra tới hệ thống hầm Biogas sau
cùng chất thải được dẫn tới tưới cho cây trong khu vực trại. Kích thước
mỗi ô chuồng 2,2 x 0,6 m. Mỗi ô chuồng được trang bị 1 núm uống tự
động, 1 máng ăn bán tự động hình bán nguyệt bằng inox gắn trên trục quay
thuận tiện cho việc cho ăn và vệ sinh hàng ngày.
Trại lợn đực giống gồm 2 dãy chuồng. Tiểu khí hậu chuồng nuôi, hệ
thống cung cấp nước uống và thức ăn giống như chuồng lợn nái mang thai
và chờ phối. Kích thước mỗi ô chuồng 2,65 x 2,65 x 1,25 m. Trong trại có
khu vực khai thác tinh, có giá nhảy có thể điều chỉnh độ cao thấp cho phù
hợp với kích thước lợn đực giống. Cuối dãy chuồng lợn đực giống, mang
thai và chờ phối có nhà pha chế tinh sau khi khai thác.
2.1.3. Nhiệm vụ
Trại có nhiệm vụ cung cấp lợn giống nuôi thịt thương phẩm cho
công ty và gia công với công ty cổ phần chăn nuôi CP số lượng trung bình
hàng tháng 4400 lợn con.
Ngoài ra trại còn cung cấp lợn giống nuôi thịt thương phẩm chất
lượng cao cho các cơ sở chăn nuôi trong tỉnh và các vùng lân cận.
2.1.4. Cơ cấu tổ chức của trại
Cơ cấu tổ chức của trại có quy mô 2400 với 40 công nhân
4
Giám đốc Trại
KT Trại Bầu
KT Trại Đẻ
Pigpro
Văn Phòng
Thợ điện
Quản lý 25
công nhân
Quản lý trại
bằng chương
trình máy tính
Quản lý 5
Công nhân
(nhà bếp,
làm vườn,
tạp vụ)
Bao gồm
2 Kỹ
Thuật phụ
trách vấn
đề điện và
nước
trong trại
(2KT)
Quản lý 10
công nhân
của Trại bầu,
Trại Nọc, trại
cách ly
Sơ đồ 1. Cơ cấu tổ chức của trại
2.1.5. Cơ cấu đàn nái
Bảng 1. Cơ cấu đàn nái
TT
Lứa
Số lượng
Tỷ Lệ %
1
Hậu bị
274
10.72
2
Lứa 1
245
9.58
3
Lứa 2
215
8.41
4
Lứa 3
220
8.60
5
Lứa 4
211
8.25
6
Lứa 5
236
9.23
7
Lứa 6
860
33.63
8
Lứa 7
296
11.58
2557
100%
Tổng
2.1.6. Qui trình chăm sóc nuôi dưỡng và công tác thú y
2.1.6.1. Thức ăn
Thức ăn được sử dụng cho lợn hoàn toàn là thức ăn công nghiệp với
các loại cám dành riêng cho heo ở các giai đoạn khác nhau.
5
Bảng 2. Thành phần dinh dưỡng của các loại cám dùng trong trại
550S
(Lợn con tập ăn
và cai sữa đan)
566S
(nái mang thai)
567SF
(nái nuôi con
và đực giống)
3300
2900
3100
Protein thô tối thiểu (%)
21
13
17
Xơ thô tối đa (%)
3,5
7
7
Ca tối thiểu - tối đa (%)
0,8 – 0,9
1 – 1,2
0,9 – 1
NaCl (%)
0,4 – 0,8
0,4 – 0,6
0,4 – 0,6
P tối thiểu (%)
0,6
0,8
0,7
Độ ẩm (%)
14
14
14
Colistine tối đa (mg/kg)
Chlotetracyline tối đa
(mg/kg)
88
-
-
-
-
200
Thành phần
dinh dưỡng
ME tối thiểu(kcal/kg)
Lợn nái đẻ được cho ăn ngày 3 bữa theo khẩu phần quy định của
công ty như sau:
Bảng 3 : Khẩu phần ăn của lợn nái đẻ
Giai đoạn
Sáng(kg)
Trưa (kg)
Chiều (kg)
Cả ngày (kg)
5
4
1-3
Ngày đẻ
1
1
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
1
0,7
0,5
0,5
2,5
2,2
1,5
1,5
1
2
3
4
5
>=6
1
1,5
2
2,5
2,5
0,5
1
1
1,5
1,5
1
1
1,5
1,5
2
Ăn tự do
2,5
3,5
4,5
5,5
6
Trước
đẻ
(ngày)
Sau đẻ
(ngày)
2.1.6.2. Qui trình chăm sóc lợn nái
Trước khi sinh 5 - 7 ngày nái được đưa lên chuồng đẻ, lợn nái được
cho ăn cám 567SF cho nái đẻ, trung bình lợn nái ăn khoảng 2 - 2,5
kg/con/ngày được chia ra làm 3 lần. Trước khi sinh 3 ngày lợn nái được
6
cho ăn với khẩu phần hạn chế nhằm giúp cho lợn nái đẻ con được dễ dàng
và hạn chế bệnh viêm vú sau khi sinh.
Lợn nái đến ngày sinh được theo dõi kỹ và cho đẻ tự nhiên (chỉ
can thiệp đối với nái đẻ rất chậm). Tùy vào sức rặn của nái mà người chăm
sóc có quyết định tiêm hay không tiêm thuốc oxytoxin (2ml/nái). Khi nái
có biểu hiện sắp đẻ tiêm Vetri - Amox liều lượng 1ml/10kg thể trọng,
nhằm kháng viêm cho lợn nái sau khi sinh. Sau khi nái đẻ xong tiêm
Oxytocin liều lượng 5ml/nái.
Trong quá trình nuôi con, nếu thấy nái có hiện tượng chảy dịch viêm
và sốt thì kịp thời tiêm 1 liều Vetrimoxin 1ml/10 kg thể trọng + Oxytocin
2ml/nái và vitamin C với liều 20ml/nái (kết hợp Calci trong trường hợp
nái yếu hay run chân).
Đối với nái đẻ nên hạn chế tắm, chỉ tắm cho nái trước đẻ 2 ngày kết hợp
với xịt sát trùng và xịt ghẻ. Hàng ngày chỉ vệ sinh gầm chuồng, sàn chuồng lợn
mẹ và lợn con bằng vôi bột, cạo và lau sạch máng ăn cho lợn mẹ, lợn con sau
mỗi bửa ăn, tránh làm ướt và làm lạnh lợn con gây tiêu chảy.
2.1.6.3. Qui trình chăm sóc lợn con theo mẹ
Chăm sóc lợn con theo mẹ có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao
năng suất chăn nuôi vì không chỉ ảnh hưởng đối với lợn con mà còn rất quan
trọng đối với cả lợn mẹ và lợn thịt sau này. Vì vậy cần có những kỹ thuật chăm
sóc và nuôi dưỡng lợn con ở giai đoạn theo mẹ phù hợp sao cho kết quả của
giai đoạn này sẽ đạt được những chỉ tiêu về: Tỉ lệ nuôi sống lợn con sơ sinh
cao, trọng lượng cai sữa của lợn con cao, tỉ lệ đồng đều của lợn con cao và nhất
là lợn con không mắc bệnh (đặc biệt là bệnh thiếu máu và tiêu chảy phân trắng).
Lợn con sau khi sinh ra được vuốt sạch nước ối ở mồm và mũi để
lợn con dễ thở. Lau khô mình lợn con. Buộc cách cuốn rốn 2,5cm, cắt rốn
cách 0,5cm từ vị trí buộc. Dùng kìm bấm khoảng 2/3 răng tránh trầy xước
gây viêm lợi. Thả lợn con vào lồng úm để giữ ấm cho lợn con, sau khi lợn
con đã cứng cáp cho bú sữa đầu. Bấm đuôi cho lợn con, kiểm tra rốn và
bôi lại cồn iod ở rốn lợn con.
Tiêm sắt cho lợn con lúc 3 ngày tuổi với liều 2ml/con, thiến cùng
ngày với tiêm sắt. Nhỏ thuốc phòng cầu trùng cho lợn con lúc 5 ngày tuổi,
sử dụng thuốc Vicox với liều lượng 0.5ml/con.
Kiểm tra sức khỏe của lợn con để xử lý nhanh nhất các vấn đề: tiêu
7
chảy, sưng khớp, viêm lợi, không đủ ấm. Giữ chuồng luôn khô ráo sạch sẽ
và điều chỉnh nhiệt độ cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
* Bổ sung thức ăn sớm cho lợn con:
- Mục đích:
+ Bù đắp phần dinh dưỡng thiếu hụt cho nhu cầu sinh trưởng phát triển
của lợn con khi sản lượng sữa mẹ giảm sau 3 tuần tiết sữa.
+ Rèn luyện bộ máy tiêu hóa của lợn con sớm hoàn thiện về chức năng, đồng
thời kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển nhanh hơn về kích thước và khối lượng.
+ Giảm bớt sự nhấm nháp thức ăn rơi vãi đối với lợn con để hạn chế được
các bệnh đường ruột của lợn con.
+ Giảm bớt sự khai thác sữa mẹ kiệt quệ và giảm tỷ lệ hao mòn của lợn
mẹ, từ đó lợn mẹ sớm động dục trở lại sau khi cai sữa lợn con.
+ Tránh sự cắn xé bầu vú lợn mẹ, hạn chế bệnh viêm vú.
+ Có điều kiện để cai sữa sớm cho lợn con, tăng hệ số quay vòng lứa
đẻ/nái/năm.
- Phương pháp tập ăn sớm:
Khi lợn con 4 - 5 ngày tuổi, tiến hành cho lợn con nhận biết và làm quen
với thức ăn. Thức ăn tập ăn phải đảm bảo có tính thèm ăn cao. Cần lựa chọn
loại thức ăn, cũng như phương pháp chế biến sao cho kích thích sự thu nhận
thức ăn của lợn con. Lợn con thường rất thích ăn thức dạng viên hay bột nhỏ
khô có mùi thơm. Phải cho lợn con làm quen với nguồn glucid, lipid, protid của
các loại thức ăn để hệ tiêu hóa của lợn con sớm bài tiết các enzyme tiêu hóa
thích hợp.
2.1.6.4. Nước uống
Do hệ thống nước thiếu nên trại sử dụng nước lấy từ suối dùng cho
chăn nuôi. Nước lấy từ suối được cho vào hồ chứa để xử lý bằng hóa chất
Chlorine. Với tỉ lệ 3-5g Chlorine /1000 lít nước trong thời gian 8-12h ( Có
điều kiện xử lý càng lâu càng tốt). Nước xử lý xong theo hệ thống 1 đến
từng ô chuồng cho lợn uống. Dùng máy bơm, bơm nước từ bồn chứa vào hệ
thống ống cho đến từng ô chuồng để tắm lợn và rửa chuồng. Trung bình mỗi
ngày trại sử dụng 320 m3 nước.
8
2.1.6.5. Vệ sinh phòng dịch
Trại áp dụng phương pháp phòng bệnh trừ dịch tổng hợp với công tác vệ
sinh thú y nghiêm ngặt. Cổng trước và sau của trại có hệ thống phun sát trùng
người và phương tiện ra vào trại. Khu sinh hoạt của cán bộ và công nhân được
xây dựng nơi tách biệt xa trại, cách nhau 50m. Nhân viên mới vào trại, phải ở
cách ly 3 ngày trước khi vào làm việc trong khu chăn nuôi. Nhân viên vào làm
việc trong khu chăn nuôi phải tắm sát trùng và mặc quần áo đồng phục lao động
của trại. Trước khi vào trại phải sát trùng ủng đi bằng dung dịch sát trùng đặt
trước cửa mỗi trại.
Hằng ngày, thường xuyên quét dọn, vệ sinh chuồng và xung quanh
chuồng, phun xịt thuốc sát trùng 2 lần/ tuần bằng thuốc sát trùng Omnicide.
Khi cai sữa lợn con xong thì chuồng trống được rửa sạch, rồi quét vôi nền
chuồng và xung quanh, sau đó phun thuốc sát trùng, để vài ngày rồi mới nhập
lợn mới.
Mỗi công nhân đều có quần áo lao động và ủng riêng trước khi vào trại,
công nhân phải thay quần áo, mang ủng, sau đó đi qua hố sát trùng mới được
vào trại. Khách tham quan vào trại phải được sự đồng ý của trưởng trại, và phải
sát trùng kỹ.
Bảng 4. Sử dụng thuốc sát trùng
Stt
1
Loại thuốc
Tỷ lệ pha
Mục đích
1:200
Chuồng không có lợn con
1:400
Phun quanh trại, áo quần, ủng
1:3200
Sát trùng người, chuồng có lợn,
Hố giàn lạnh khi có dịch
Omnicide
Rải lối đi trong và ngoài trại,
chà chuồng, sát trùng ủng
2
Vôi bột
3
Iodine
1:400
4
Cholorine
3-5g/1000l nước
Lau vú
Xử lý nước lợn uống
Công tác phòng bệnh trong trại được thực hiện bằng việc tiêm vaccine
phòng bệnh cho lợn nái, lợn hậu bị và lợn con. Quy trình phòng bệnh trên lợn
của trại :
9
Bảng 5. Vaccine cho lợn hậu bị
Tuần
Loại vaccin
Liều lượng
2
Parvo + AD
2ml/con
3
SFV + FMD
2ml/con
5
PRRS
2ml/con
6
Parvo + AD
2ml/con
Bảng 6. Vaccine cho lợn nái mang thai
Loại Vaccin
Tuần mang thai
10
SFV (Coglapest)
12
FMD
E.COLI 1
14
E.COLI 2
Liều lượng
2ml/con
+
2ml/con
2ml/con
Ngoài ra trại đã sử dụng kháng sinh trong việc phòng và trị bệnh viêm
vú, viêm tử cung, sót nhau cho lợn nái, theo qui trình:
+ Ngày lợn nái đẻ: tiêm kháng sinh (Vetrimoxin) với 1ml/10kg thể
trọng + 5ml Oxytocine
+ Ngày đẻ thứ 2: tiêm 5ml Oxytocine
+ Ngày đẻ thứ 3: tiêm kháng sinh (Vetrimoxin) với 1ml/10kg thể trọng
+ 5ml Oxytocine
+ Ngày đẻ thứ 5: tiêm kháng sinh (Vetrimoxin) với 1ml/10kg thể trọng
đối với heo hậu bị
Qua 3 ngày điều trị nếu lợn nái nào chưa khỏi viêm thì vẫn tiếp tục điều
trị cho đến hết.
2.1.7. Đánh giá chung
2.1.7.1. Thuận lợi
Trại có tổng diện tích đất rộng lớn, xa khu dân cư, gần đường giao
thông xung quanh trại là vườn cây thoáng mát thuận lợi cho chăn nuôi,
đảm bảo sức khỏe cho con người.
10
Hệ thống chuồng trại được xây dựng kiên cố theo qui mô trại kín
hiện đại đáp ứng được yêu cầu vệ sinh và phù hợp sinh lý phát triển của
từng loại lợn.
Có đàn lợn nái sinh sản có nguồn gốc rõ ràng, chất lượng cao đó
cũng là điều kiện cho chăn nuôi có hiệu quả cao.
Chuồng trại được xây dựng theo hệ thống trại kín đúng tiêu chuẩn
kỹ thuật, đúng vị trí nên tương đối sạch sẽ và kiểm soát được vật chủ
trung gian gây bệnh ký sinh trùng ngoài da truyền bệnh như chuột, muỗi...
Kho chứa thức ăn khô thoáng và cách xa bụi rậm nên hạn chế được ẩm
mốc và chuột cắn phá thức ăn.
Thức ăn do công ty cung cấp, giá bán lợn thịt cao nên chăn nuôi có
lãi tạo nguồn vốn để tiếp tục đẩy mạnh phát triển về số lượng và chất
lượng đàn lợn
Được sự quan tâm đầu tư của công ty như vốn, kỹ thuật có trình độ
cao, các thiết bị khoa học kỹ thuật hiện đại nên đảm bảo năng suất và chất
lượng sản phẩm hiệu quả chăn nuôi ngày một cao.
Trại luôn được tiếp cận với khoa học kỹ thuật mới, áp dụng kỹ
thuật tiên tiến vào chăn nuôi, đưa một số con giống mới có năng suất
phẩm chất tốt vào chăn nuôi có hiệu quả cao.
Luôn chủ động tích cực trong công tác phòng ngừa dịch bệnh do đó
tình hình dịch bệnh đã được khống chế không có dịch bệnh xảy ra.
2.1.7.2. Khó khăn
Trại tuy đã đầu tư khá lớn về cơ sở vật chất, kỹ thuật nhưng bên cạnh
những điều kiện thuận lợi vẫn còn một số khó khăn hiện nay của trại như:
nguồn điện , nguồn nước cung cấp cho hoạt động của trại còn thiếu, đây là khó
khăn gây trở gại lớn cho sản xuất hoạt động chăn nuôi của trại.
Tay nghề của một số công nhân chưa cao, hầu hết đây là nguồn lao động
phổ thông chưa có kiến thức cơ bản cũng như kỹ thuật chăn nuôi lợn, phải mất
một thời gian tập huấn hướng nghiệp mới thích nghi với công việc của mình.
Hơn nữa công nhân trong trại luôn bị xáo trộn và không ổn định.
Chăn nuôi công nghiệp là chăn nuôi ở trình độ kỹ thuật cao trên đối
tượng vật nuôi cho năng suất sản lượng cao nhưng lại dễ xảy ra dịch bệnh nếu
công tác chăm sóc trực tiếp của công nhân không tốt.
11
2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Một vài đặc điểm sinh lý lợn con
Theo Nguyễn Quang Linh, (2005) lợn con từ lúc sơ sinh đến lúc cai
sữa có nhiều đặc điểm sinh lý đặc trưng và đòi hỏi phải có sự chăm sóc
nuôi dưỡng tốt. Kĩ thuật nuôi dưỡng và chăm sóc lợn con bao gồm cả 2
giai đoạn : Giai đoạn lợn con theo mẹ và giai đoạn lợn con sau cai
sữa.Trong thời kỳ này lợn con gặp phải 3 đợt khủng hoảng lớn:
- Khủng hoảng thứ nhất là lúc mới đẻ ra (sơ sinh) lợn con từ chỗ
trong bụng mẹ được bảo vệ trong tử cung và được cung cấp dinh dưỡng
qua nhau.Lúc ra khỏi cơ thể mẹ, chúng trực tiếp chịu sự tác động của mô i
trường và những điều kiện sống khác.
- Khủng hoảng thứ 2 là lúc 21 ngày tuổi lợn con có tốc độ sinh
trưởng và phát triển nhanh nhưng sản lượng sữa mẹ giảm theo quy luật tiết
sữa. Trong khi đó khả năng tiêu hóa thức ăn nhân tạo của lợn con chưa có
dẫn đến thiếu dinh dưỡng cho nhu cầu phát triển của cơ thể.
- Khủng hoảng thứ 3 vào lúc cai sữa, từ chổ lợn con sống nhờ sữa
mẹ và cách thức ăn bổ sung thêm, lúc cai sữa lợn con phải tự độc lập sống
và lấy thức ăn hoàn toàn từ bên ngoài để đảm bảo cho nhu cầu sinh trưởng
và phát triển của chúng.
Đặc điểm sinh lý chủ yếu ở cơ thể lợn con:
Khả năng thích ứng kém của cơ thể lợn con là do môi trường sống
thay đổi đột ngột (từ trong bụng mẹ sang môi trường bên ngoài).
Lợn con có tốc độ sinh trưởng, phát triển nhanh nhưng lượng sữa mẹ
lại giảm theo quy luật tiết sữa.
Chức năng của các cơ quan chưa được thành thục và chưa được hoàn
thiện mà đặc biệt là cơ quan tiêu hoá (Đào Trọng Đạt và Phan Thanh
Phượng, 1986).
Trong thời gian bú sữa trọng lượng bộ máy tiêu hóa ở lợn con tăng
lên từ 10 đến 15 lần, chiều dài ruột non tăng lên gấp 5 lần, dung tích bộ
máy tiêu hóa tăng lên 40 - 50 lần. Lúc đầu dạ dày chỉ nặng 6 - 8gam và
chứa được 35-50g sữa nhưng chỉ sau 3 tuần đã tăng gấp 4 lần. Khả năng
tiêu hóa của lợn con rất hạn chế.
Theo A.V.Kavasnhixki dịch vị của lợn con dưới 1 tháng tuổi hoàn
12
toàn không có HCl tự do, vì lượng axit tiết ra ít và nó nhanh chóng liên kết
với các niêm dịch. Ngoài sự thiếu HCl tự do còn có sự giảm axit trong
dịch vị thức ăn với HCl làm cho hàm lượng HCl tự do rất ít hoặc hoàn
toàn không có trong dạ dày của lợn con bú sữa. Vì thiếu HCl tự do trong
dạ dày nên hệ vi sinh vật dễ lên men gây hiện tượng ỉa chảy ở lợn con.
Cơ năng điều tiết nhiệt của lợn con chưa hoàn chỉnh nên thân nhiệt
lợn con chưa ổn định, nghĩa là sự sinh nhiệt và thải nhiệt chưa cân bằng.
Khả năng điều tiết nhiệt của lợn con còn kém do nhiều nguyên nhân: Lớp
mỡ dưới còn mỏng, lượng mỡ dự trữ trong cơ thể lợn còn thấp. Hệ thần
kinh điều khiển cân bằng nhiệt chưa hoàn chỉnh. Diện tích bề mặt cơ thể
lợn còn cao, lợn con mất nhiệt lớn.
Do những đặc điểm trên mà khả năng điều tiết nhiệt của lợn dưới 3
tuần tuổi còn rất kém, nhất là trong tuần đầu mới đẻ ra cho nên nếu nuôi
lợn trong chuồng có nhiệt độ thấp và ẩm độ cao thì thân nhiệt lợn con hạ
xuống rất nhanh. Mức độ hạ thân nhiệt nhiều hay ít nhanh hay chậm chủ
yếu phụ thuộc vào nhiệt đọ của chuồng nuôi và tuổi của lợn con. Nhiệt độ
của chuồng nuôi càng thấp thân nhiệt lợn con hạ xuống càng nhanh, ngày
tuổi của lợn con càng ít thì thân nhiệt hạ xuống càng nhiều.
Trong giai đoạn này lợn con sinh trưởng rất nhanh, tầm vóc và thể
trọng tăng dần theo tuổi. Từ lúc sơ sinh đến lúc cai sữa trọng lượng của
lợn con tăng từ 10 đến 12 lần. Các cơ quan trong cơ thể cũng thay đổi và
tăng lên nhanh chóng. Hàm lượng nước giảm dần theo tuổi, vật chất khô
tăng dần, các thành phần hóa học trong cơ thể của lợn thay đổi nhanh
chóng.
Sau khi sinh, lợn con phải tự thích ứng hàng loạt với các điều kiện
khác với môi trường trong bụng mẹ. Nên lợn con rất dễ bị stress do nhiều
tác nhân gây ra.
Mặt khác, cơ thể chúng rất nhạy cảm với các yếu tố bất lợi tác động
lên cơ thể gia súc như: thay đổi chế độ chăm sóc đột ngột, điều kiện tiểu
khí hậu chuồng nuôi không phù hợp, tác động hàng loạt tác nhân gây bệnh
khác lên cơ thể lợn sơ sinh.
Vì vậy nuôi dưỡng gia súc non và lợn mẹ sau khi sinh là công việc
rất công phu. Cần phải đầu tư nhiều công sức mới đạt hiệu quả tăng trọng
và tỷ lệ nuôi sống cao.
13
2.2. Những hiểu biết chung về dịch bệnh tiêu chảy trên lợn con
2.2.1. Khái niệm bệnh tiêu chảy trên lợn con
Bệnh tiêu chảy trên lợn con là một bệnh gây tổn thất rất nhiều cho lợn
con trong thời kỳ theo mẹ, đồng thời làm giảm đi sức tăng trưởng của lợn
con trong giai đoạn sau khi lành bệnh.
Bởi vì, tiêu chảy là một hiện tượng rối loạn tiêu hóa, thay vì nhu động
ruột diễn ra bình thường thì trở nên co thắt quá độ làm cho những chất
chứa trong ruột non, ruột già thải qua hậu môn quá nhanh, dưỡng chất
không kịp tiêu hóa và ruột già chưa hấp thu được nước... tất cả điều tống
ra hậu môn với thể lỏng hoặc sền sệt. Hậu quả nghiêm trọng là cơ thể bị
mất nước, mất nhiều ion điện tích và ngộ độc các loại độc tố do vi khuẩn
gây bệnh tiêu chảy sản sinh ra, con vật suy nhược rất nhanh và có thể chết
rất nhanh nếu thú sơ sinh nhỏ tuổi, gầy ốm, kém sức chịu được (theo Võ
Văn Ninh, 2001).
2.2.2.2. Một số nguyên nhân gây ra tiêu chảy ở lợn con
Theo quan điểm sinh học hiện đại thì tiêu chảy là một phản xạ bảo vệ
của cơ thể trước những tác động trực tiếp đến cơ thể như: vi khuẩn, virus,
nhiệt độ, khẩu phần ăn… Khi tiêu chảy kéo dài thì con vật bị mất nước,
mất chất điện giải, máu cô đặc làm con vật gầy nhanh dẫn đến chết (Phùng
Ứng Lân, 1985).
Trong lịch sử nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy, nhiều tác giả đã
dày công nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân gây ra bệnh tiêu chảy kết quả
cho thấy nguyên nhân gây ra bệnh tiêu chảy rất phức tạp. Tuy nhiên tiêu
chảy là hiện tượng bệnh lý ở đường tiêu hóa, có liên quan rất nhiều yếu tố,
có yếu tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là nguyên nhân thứ phát.
Song cho dù bất cứ nguyên nhân nào dẫn đến tiêu chảy thì hậu quả của nó
cũng gây ra viêm nhiễm, tổn thương thực thể đường tiêu hóa và cuối cùng
là nhiễm trùng. Một số nguyên nhân dẫn đến lợn con bị tiêu chảy phổ biến
thường gặp:
Do bản thân gia súc non
Do đặc điểm sinh lý của lợn con trong những ngày đầu chưa kịp thích
nghi với môi trường mới. Bộ máy tiêu hóa chưa hoàn thiện về chức năng và
cấu trúc, các men tiêu hóa còn nghèo về số lượng và chất lượng, HCl phân tiết
ít làm cho pH trong dịch đường tiêu hóa cao tạo điều kiện thuận lợi cho vi
khuẩn độc hại đường tiêu hóa phát triển và gây bệnh
14
Đặc điểm của bộ máy tiêu hoá như dạ dày và ruột của lợn con trong 3
tuần tuổi đầu chưa có khả năng tiết dịch vị, thức ăn kích thích trực tiếp vào niêm
mạc mà tiết dịch vị, trong dịch vị có axit HCl hàm lượng và hoạt tính của men
Pepxin cũng rất ít.
Lượng HCl chỉ đủ để hoạt hoá men pepxinogen thành men pepxin. HCl
không đủ làm trương nở protein nên pepxin tác dụng kém hiệu quả. Không đủ
làm tăng độ toan dạ dày nên tạo điều kiện cho vi khuẩn bất lợi xâm nhập và phát
triển ở ruột non.
Sự phân tiết enzym ở dạ dày và ruột kém. Nếu ăn thức ăn kém chất lượng,
lợn con không tiêu hoá tốt dẫn đến tiêu chảy
Hệ thống thần kinh gia súc non chưa ổn định nên kém thích nghi với sự
thay đổi của ngoại cảnh. Lợn con ở thời kì bú sữa có tốc độ phát triển về cơ thể
rất nhanh nên đòi hỏi nhu cầu đầy đủ về đạm, khoáng, Vitamin trong khi đó sữa
mẹ ngày càng giảm về số lượng lẫn chất lượng nếu không bổ sung kịp thời lợn
còi cọc và dễ nhiễm bệnh.
Lớp đại nảo của lợn con chưa phát triển đầy đủ nên các phản xạ có
chức năng nói chung còn kém. Trong đó, phản xạ điều tiết nhiệt độ của cơ
thể rất kém nên lợn con dễ bị stress với những biến đổi nhiệt độ của môi
trường, làm giảm sức đề kháng dẫn đến tiêu chảy (Phùng Ứng Lân, 1985).
Do lợn con sinh ra không được cho bú sữa đầu hoặc sữa đầu của lợn
mẹ bị ngưng sản xuất. Theo Trần Thị Dân (2004), ở sữa đầu, ngoài các
chất thiết yếu còn chứa các loại kháng thể (globuline) khá cao, loại kháng
thể này chủ yếu là IgG. Tuy nhiên, vì sinh vật trong đường tiêu hóa
thường hiện diện trên bề mặt màng nhày ruột, đó là nơi IgG ít xuất hiện và
hoạt động không hữu hiệu.
Sau khi đẻ từ 30 phút đến 1h phải cho lợn con bú sữa đầu, nếu
không dễ đau bụng ỉa chảy (Lê Văn Phước, 1998). Ở lợn sơ sinh khả năng
hấp thu kháng thể trong sữa đầu chỉ xảy ra 36 - 48 giờ sau khi sinh. Cơ
chế này cũng giúp cho đường ruột của lợn sơ sinh giới hạn hấp thu những
chất gây bệnh. Nếu lợn con bú đủ sữa và hấp thu tốt kháng thể thì hiệu giá
kháng thể trong máu của lợn con sơ sinh gần bằng hiệu giá kháng thể của
lợn mẹ ở 24 giờ sau khi sinh.
Mỗi ngày lợn con cần 7mg sắt nhưng sữa mẹ chỉ cung cấp 1mg sắt
mỗi ngày. Lợn con dự trữ sắt ít (30mg), vì màng nhau là hàng rào hạn chế
15
vận chuyển từ mẹ sang bào thai ( Nguyễn Như Pho, 1995). Trong khi đó
tốc độ sinh trưởng của lợn con rất nhanh, lượng máu trong cơ thể cũng
phải tăng lên cho phù hợp, sự thiếu sắt sẽ làm ngưng trệ quá trình thành
lập hemoglobine của hồng cầu, dẫn đến thiếu máu sẽ làm giảm sức đề
kháng, nên lợn con dễ bị tiêu chảy.
Theo Niconxki (1983), trong quá trình phát triển lợn con chỉ tổng
hợp được vitamin A từ 20 ngày tuổi trở đi. Trong khi đó dạ dày thường
xuyên có sự thay đổi đều đặn các tế bào biểu bì, nên khi thiếu vitamin A
biểu mô niêm mạc xảy ra quá trình loạn dưỡng như rối loạn chức năng nhu
động, phân tiết và hấp thu của dạ dày ruột. Thiếu vitamin A làm giảm khả
năng tạo kháng thể trong máu. Do sừng hóa màng niêm mạc biểu mô nên
giảm khả năng tiết dịch của các tuyến, giảm tiết dịch tiêu hóa làm rối loạn
khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng trong ruột, thức ăn ứ đọng tạo điều
kiện thuận lợi cho vi khuẩn có hại phát triển, sinh hiện tượng loạn khuẩn.
Theo Phùng Ứng Lân (1986), do khả năng điều tiết thân nhiệt chưa
hoàn chỉnh nên lợn con rất nhạy cảm với sự thay đổi đột ngột của thời tiết,
nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp, ẩm độ chuồng nuôi cao sẽ dẫn đến tiêu chảy.
Ở lợn con sơ sinh lớp mỡ dưới da rất ít và thiếu mỡ nâu nên khả năng
sản sinh nhiệt kém. Mặt khác, diện tích bề mặt lớn hơn so với trọng lượng cơ
thể nên lợn con dễ bị mất nhiệt và rất nhạy cảm với lạnh. Khi stress lạnh kéo
dài, lợn con dễ bị rối loạn tiêu hóa dẫn đến tiêu chảy (Trần Thị Dân, 2003)
Do đặc tính lợn con hay liếm láp nước đọng nên dễ nhiễm vi khuẩn
gây bệnh vào đường ruột hay do lợn con ăn thức ăn của mẹ, bộ máy tiêu
hóa khó tiêu dẫn đến rối loạn tiêu hóa và tiêu chảy.
Theo Võ Văn Ninh (1985), thời kỳ lợn con mọc răng cũng gây tiêu
chảy cho lợn con. Hai giai đoạn lợn sốt và lợn con tiêu chảy là lúc 1 0 đến
17 ngày tuổi và 23 đến 29 ngày tuổi ứng với thời gian mọc răng sữa tiền
hàm số 3 hàm dưới và răng tiền hàm số 4 hàm trên.
Do lợn mẹ:
Sữa mẹ là nguồn thức ăn chính và quan trọng nhất đối với lợn con
theo mẹ. Vì sữa mẹ là nguồn thức ăn có đầy đủ chất dinh dưỡng không có
loại thức ăn nào có thể thay thế được. Do đó sự chăm sóc nuôi dưỡng lợn
mẹ trong giai đoạn mang thai và nuôi con giữ vai trò quan trọng trong sinh
trưởng, phát triển và sức đề kháng của lợn con.
16
Do lợn mẹ ít sữa hoặc do lợn mẹ bị viêm vú, sót nhau, mắc một số
bệnh truyền nhiễm,...ảnh hưởng chất lượng sữa gây nên tình trạng tiêu
chảy ở lợn con. Theo Nguyễn Như Pho (1995), lợn mẹ mắc phải chứng
MMA ( Metritis Mastitis Agalactiae) lợn con bú sữa có sản vật viêm hoặc
liếm dịch viêm rơi vải trên nền chuồng gây viêm ruột tiêu chảy. Trên
những lợn mẹ kém sữa hay mất sữa, lợn con được bú ít hoặc không được
bú sữa đầu nên sức đề kháng kém, dễ phát sinh bệnh.
Do đặc điểm lượng sữa mẹ từ khi đẻ tăng dần đến cuối tuần thứ 3 và
giảm thấp trong khi đó nhu cầu dinh dưỡng của lợn con tăng. Vì vậy, nếu chúng
ta không cung cấp chất dinh dưỡng thì lợn con sẽ bị stress và dễ bị bệnh.
Lợn nái trong quá trình mang thai nếu nuôi dưỡng kém, thiếu các
chất khoáng như Cu, Zn, Fe,..., thiếu protein, thiếu vitamin A ( lúc mang
thai nếu cho lợn mẹ ăn thiếu vitamin A thì lợn con sinh ra cũng thiếu
vitamin A làm cho niêm mạc ruột non không được bảo vệ nên dễ bị nhiễm
các loại vi trùng Colibaccillus và Salmonella gây tiêu chảy). Nếu chế độ
chăm sóc nái mang thai không hợp lý nhất là 2 tháng cuối, làm cho bào
thai và lợn con sau khi sinh yếu sức sống và sức đề kháng là nhân tố mầm
bệnh dễ phát sinh, nhất là bệnh trên đường tiêu hóa.
Do lợn nái trong giai đoạn mang thai mắc bệnh làm rối loạn quá
trình trao đổi chất của bào thai, ảnh hưởng đến bào thai nên lợn con sinh
ra yếu ớt, trọng lượng sơ sinh của lợn con thấp, sức đề kháng kém, dễ mắc
bệnh ở đường tiêu hóa.
Do công tác tiêm phòng cho lợn mẹ không được thực hiện nghiêm
ngặt và đúng định kỳ. Lợn nái không được tiêm phòng vaccine nên lợn con
không nhận được kháng thể thụ động truyền qua sữa đầu, dẫn đến nguy cơ
nhiễm vi sinh vật và dẫn đến bệnh tiêu chảy ở lợn con.
Theo Võ Văn Ninh (1995), ở những đàn có lợn mẹ tốt sữa, sữa mẹ
nhiều và giàu chất dinh dưỡng, lợn con bú nhiều sữa không tiêu hóa kịp và
có nhiều dinh dưỡng khó tiêu bị đẩy xuống ruột già là môi trường thuận
lợi cho vi sinh vật có hại gây bệnh tiêu chảy cho lợn con theo mẹ. Lợn nái
đẻ lứa đầu có thể nhiều con không có sữa ( vú lép, tuyến sữa không phát
triển hoặc kém phát triển, không có vú hoặc núm vú không có lỗ tia). Lợn
mẹ bị nhiễm bệnh trước khi sinh mặc dù đã điều trị và khỏi triệu chứng
nhưng vẫn còn mang mầm bệnh như thương hàn, xoắn khuẩn,...khi mang thai
vi trùng xâm nhập qua màng nhau, gây sẩy thai hoặc lợn con đẻ ra có thể bị
nhiễm các vi trùng này.
17
Do thành phần của sữa mẹ có nhiều chất khô, mỡ khó tiêu nên lợn
con bú vào bị tích thực. Từ đó Ecoli tác động phân hủy sữa thành acid gây
viêm dạ dày ruột dẫn đến tiêu chảy.
Do điều kiện môi trường và ngoại cảnh:
Điều kiện môi trường và ngoại cảnh ảnh hưởng rất lớn đến nền chăn
nuôi và tạo mọi nguyên nhân dẫn đến bệnh tật. Yếu tố môi trường như
nhiệt độ, ẩm độ quá cao, quá lạnh, mưa tạt, gió lùa, vệ sinh chăm sóc kém,
nhốt lợn quá chật, kém vận động, không áp dụng đúng qui trình đỡ đẻ, ổ
úm dơ, đèn úm thiếu cũng là nguyên nhân gây tiêu chảy lợn con.
Khi mới sinh ra khả năng thích nghi và bảo vệ của lợn con rất kém,
lợn con nhạy cảm với thay đổi đột ngột của điều kiện ngoại cảnh. Chăm
sóc nuôi dưỡng không đúng kỹ thuật là tiền đề cho vi sinh vật phụ nhiễm
dẫn đến viêm nhiễm. Thiếu sót đầu tiên là lợn con không được bú sữa đầu
đầy đủ. Sữa đầu ngoài thành phần dinh dưỡng cao, còn chứa kháng thể mẹ
truyền qua giúp lợn con phòng chống bệnh trong 3 - 4 tuần lễ đầu.
Không úm lợn con hoặc úm lợn con không đúng qui cách, lợn con
sau khi rời khỏi bụng mẹ, không có hoàn cảnh sống ổn định mà chịu trực
tiếp các điều kiện sống luôn biến đổi nên hệ tiêu hóa hoạt động yếu, giảm
nhu động ruột, giảm phân tiết dịch tiêu hóa, đưa đến tình trạng không tiêu
rồi viêm ruột, tiêu chảy. Vệ sinh chuồng trại kém bao gồm không sát trùng
chuồng nái trước khi sinh, cho nái ăn thức ăn kém chất lượng, bị chua ôi,
thối, có chứa độc tố vi trùng hoặc nấm mốc, nguồn nước kém vệ sinh cũng
là nguyên nhân dẫn đến nhiễm trùng đường ruột và tiêu chảy.
Do cắt rốn, cột rốn lợn con không đúng kỹ thuật, vệ sinh rốn không
tốt lợn con bị viêm rốn, do bấm răng còn sót hoặc bấm răng không bằng
nên khi bú lợn con làm trầy vú mẹ và do lợn con bú sữa của vú bị viêm
gây tiêu chảy.
Theo Phùng Ứng Lân (1986), lợn con được vận động làm tăng trao
đổi chất nên tăng sức đề kháng với dịch bệnh, lợn con cũng có thể bị tiêu
chảy.
Khi cai sữa, lợn con có khuynh hướng ăn nhiều hơn, trong khi đó, hệ
thống enzym chưa phân tiết đầy đủ. Vì vậy, thức ăn sẽ không tiêu hóa được sẽ là
môi trường thuận lợi cho vi khuẩn có hại ở đường ruột lợn con phát triển, làm
phá vở trạng thái cân bằng của hệ vi sinh vật đường ruột, gây rối loạn tiêu hóa
dẫn đến tiêu chảy.(Trương Lăng , 2003)
18
Việc thiết kế máng ăn không hợp lý, làm thức ăn rơi vãi, heo con
liếm láp thức ăn của lợn mẹ cũng dẫn đến tiêu chảy. Theo Võ Văn Ninh
(1985), lợn con mới biết ăn, thức ăn không phù hợp với hệ thống tiêu hóa
hoặc chứa nhiều độc tính sẽ gây tiêu chảy cho lợn con.
Do vi sinh vật:
Hệ vi sinh vật đường ruột ở lợn con: Trong đường ruột của lợn con
có hàng trăm ngàn tỷ vi khuẩn, số lượng vi khuẩn có lợi thường bị suy
giảm do kháng sinh, hoá chất và nấm mốc độc hại có trong sữa mẹ và
trong thức ăn cũng như do các bất lợi về môi trường khác như nóng ẩm,
khí thải chuồng nuôi...
Vi sinh vật là nguyên nhân luôn hiện diện trong mọi trường hợp của
bệnh tiêu chảy trên lợn con, có thể nói đây là tác nhân chủ yếu của bệnh
tiêu chảy lợn con. Sự nhiễm trùng đường ruột thường xảy với các loại
mầm bệnh trong chuồng trại, do mầm bệnh từ lợn mẹ truyền sang hoặc
mầm bệnh có trong thức ăn, nước uống. Bình thường các vi khuẩn đường
ruột luôn luôn ở thế quân bình đảm bảo sự tiêu hóa bình thường cho cơ thể
vật chủ, thế quân bình của vật chủ dựa vào 2 cơ chế:
+ Tranh giành nhau một chất chuyển hóa cân bằng cho sự phát triển.
+ Tiết ra Teriocin có tính chất kháng sinh đối với vi khuẩn khác
nhưng không có tác dụng đối với vi khuẩn tiết ra nó.
Theo Nguyễn Như Pho (1995), hệ vi khuẩn đường ruột được biểu thị
qua sơ đồ:
Vi sinh vật có lợi:
Lactobacillus
Acidophillus
Nấm men
Saccharomyces
Tiết chất có tính kháng sinh
Vi sinh vật có hại
Các vi sinh vật gây bệnh
Tiết độc tố
Sơ đồ 2.1. Hệ vi khuẩn đường ruột của lợn
19
Các nghiên cứu về bệnh lý và vi sinh vật học thú y đã nhận thấy
rằng hiện tượng tiêu chảy của lợn con có liên quan đến sự cân bằng vi
khuẩn có lợi và có hại trong đường ruột của lợn.
Theo Đào Trọng Đạt và cs (1995) trong hệ tiêu hóa của động vật, hệ vi
sinh vật luôn luôn ổn định đảm bảo cân bằng cho hệ tiêu hóa, khi đó phần lớn
các vi khuẩn có lợi là vi khuẩn lactic, vi khuẩn này chiếm 90% và hoạt động
hữu ích cho đường ruột. Nếu sự cân bằng này bị phá vỡ thì những vi khuẩn có
hại cạnh tranh phát triển gây rối loạn đường tiêu hóa, gây tiêu chảy (nhất là lợn
con theo mẹ), loại vi khuẩn thường gặp là E.coli và samonella…
Bảng 6. Một số mầm bệnh gây nhiễm trong đường tiêu hóa
Tên mầm bệnh
Tên bệnh
Virus
Corona (TGE virus) Parvovirus
Viêm dạ dày ruột truyền nhiễm
Coronavirus (PED virus)
Dịch tiêu chảy ở lợn con
Rotavirus
Tiêu chảy do Rotavirus
Vi khuẩn
Clostridium perfringens type A
Tràng độc huyết
Clostridium perfringens type C
Viêm ruột hoại tử
E.coli
Tiêu chảy do E.coli
Salmonella
Phó thương hàn
Treponema hyodysenteriae
Hồng lỵ
Campylobacter coli
Tiêu chảy do Campylobacter
Nguyên sinh động vật
Isospora suis
Cầu trùng
Cryptosporidium spp
Cầu trùng
Eimeria
Cầu trùng
(Theo Nguyễn Như Pho 2001)
Trong điều kiện sinh lý bình thường vi khuẩn có lợi và vi khuẩn có
hại chung sống hoà bình theo tỷ lệ hoà hoãn là 85/15 (thuật ngữ tiếng Anh
gọi tình trạng này là eubiosis). Nếu số lượng vi khuẩn có hại tăng lên, tỷ lệ
hoà hoãn bị phá vỡ (thuật ngữ tiếng Anh gọi tình trạng này là dysbiosis),
dẫn đến rối loạn tiêu hoá, suy giảm khả năng miễn dịch niêm mạc ruột,
suy giảm sức kháng bệnh của lợn. Khi loạn khuẩn xảy ra, số lượng vi
20
khuẩn có lợi giảm thấp còn vi khuẩn có hại như E.coli lại tăng cao. Người
ta chứng minh virus cũng là tác nhân gây tiêu chảy như: Rotavius,
Enterovirus, Coronavirus... Các độc tố nấm men, nấm mốc trong thức ăn
cũng gây tiêu chảy. Một số mầm bệnh gây nhiễm trong đường tiêu hóa
được trình bày qua bảng 2.2.
Ký sinh trùng tác động thông qua việc cạnh tranh chất dinh dưỡng
với ký chủ, tiết nội hoặc ngoại độc tố, làm giảm sức đề kháng và làm tổn
thương niêm mạc đường tiêu hóa, tạo điều kiện cho các tác nhân khác tấn
công gây bệnh. Các độc tố nấm men, nấm men có trong thức ăn cũng gây
tiêu chảy.
Theo Hurgerford (1990), đã liệt kê 55 nguyên nhân gây tiêu chảy trên
lợn, trong đó 9 nguyên nhân do virus, 15 nguyên nhân do vi khuẩn, 9 nguyên
nhân do ký sinh trùng, 7 trường hợp ngộ độc và 15 trường hợp bắt nguồn từ
các bệnh nội khoa.
2.2.1.3. Cơ chế sinh bệnh tiêu chảy ở lợn con
Tiêu chảy là phản ứng có lợi cho cơ thể, nhằm loại thải nhanh những chất
độc hại ra khỏi đường tiêu hóa của thú. Tuy nhiên, với đặc điểm là tăng nhu động
ruột, tăng tiết dịch ở ruột sẽ làm giảm sự hấp thu các dưỡng chất.
Nguyên nhân không do vi sinh vật
Stress
giảm
sức đề
kháng
Nhiễm
trùng
đường
tiêu
hóa
Độc tố vi sinh vật
tấn công niêm
mạc ruột
Viêm ruột
Kích
thích nhu
động ruột
Ức chế thần kinh
giao cảm
Tiêu chảy
Giảm nhu động ruột
Thức ăn ứ lại
không tiêu hóa
Vi sinh vật có
hại phát triển
Thiếu dinh
dưỡng
Mất nước
chất điện
giải
Nhiễm độc
Chết
Sơ đồ 2.2. Cơ chế sinh bệnh tiêu chảy trên lợn con
21
Nhiều tác giả cho rằng từ 1 – 25 ngày sau khi sinh lợn con thiếu HCl
tự do làm giảm khả năng tiệt trùng của dạ dày – ruột tạo điều kiện thuận lợi
cho vi khuẩn có hại trong đường ruột phát triển, gây thối rữa. Từ đó, sinh
ra các sản phẩm như indol, crezol và một số khí độc như CH 4, NH3…. Các
vi khuẩn và độc tố tác động lên niêm mạc ruột gây viêm ruột, tăng nhu
động ruột gây tiêu chảy, mất nước, mất chất điện giải, máu cô đặc, rối loạn
tuần hoàn và trao đổi chất cơ thể trúng độc, thú bị suy nhược nặng và chết.
Theo Nguyễn Như Pho (1995), cơ chế sinh bệnh được trình bày qua
sơ đồ 2.3
2.2.3. Đặc điểm của một số bệnh gây tiêu chảy trên lợn con theo mẹ
2.2.3.1. Bệnh viêm dạ dày ruột (Transmissible Gastroenteritis - TGE)
Trên thế giới, năm 1956, sau khi nghiên cứu bệnh viêm dạ dày - ruột ở
lợn con, Niconxki đã chính thức công bố nhóm virus Corona hướng biểu bì
đường ruột là nguyên nhân gây bệnh viêm dạ dày - ruột (Phùng Ứng Lân, 1985)
TGE do một virus thuộc nhóm Coronavirus họ Coronaviridae gây ra.
Virus được phủ lớp bọc dễ bị phá hủy bởi các chất sát trùng, nhiệt độ cao và ánh
sáng mặt trời. Virus kháng acid, nên có thể đi qua dạ dày và gây nhiễm vào ruột,
sống được lâu dài trong môi trường lạnh và ẩm.
Khi Virus TGE vào trong tế bào, hàng ngàn phần tử virus được giải phóng
và nhiễm sang các tế bào khác. Sau 4 - 5 chu kỳ nhân lên của virus, hầu hết tế
bào ở niêm mạc đường tiêu hóa lợn sơ sinh đều hoại tử.
Virus tạo nên cho cơ thể thú đáp ứng miễn dịch, miễn dịch cơ thể đạt mức
tối đa vào khoảng 2 - 3 tuần sau khi sinh nhiễm bệnh. Đồng thời cũng tạo ra một
đáp ứng miễn dịch cục bộ trong dịch ruột với 2 loại kháng thể có hoạt động khác
nhau. Một xuất hiện ngay lúc virus định vị vào tế bào ruột và loại thứ hai xuất
hiện trễ hơn ở heo mắc bệnh.
Điều cần lưu ý là có 3 loại Coronavirus gây ra bệnh dạ dày - ruột trên lợn :
- Virus gây ngưng kết huyết và viêm não tủy gây ói mữa và gầy còm trên
heo bú mẹ. Đây là trạng thái trung gian giữa cảm nhiễm hệ thống thần kinh
ngoại biên và trung ương.
- TGE Coronavirus gây viêm dạ dày ruột truyền nhiễm và Coronavirus 777
gây bệnh dịch tiêu chảy heo con. Cả hai đều gây hội chứng tiêu chảy cấp ở mọi
lứa tuổi, gây tiêu chảy mãn tính và còi trên heo cai sữa. Tuy nhiên, TGE
Coronavirus là nguyên nhân chủ yếu gây tiêu chảy cấp trên heo sơ sinh.
22
Thời gian nung bệnh từ 1 – 2 ngày, thể bệnh nặng thường xuất hiện ở heo
con dưới 2 tuần tuổi, heo sơ sinh và heo nái nhiễm lúc gần sanh. Vì vậy, những
heo nái ở chuồng có dịch TGE thường sinh ra heo con khỏe mạnh nhưng sau đó
vài giờ đến 24 giờ sẽ có tiêu chảy nặng, nôn mữa (đó là TGE). Lúc đầu phân ít,
lỏng chảy dọc xuống chân sau và đuôi. Sau đó, vùng da dính phân ướt, bốc mùi
khó chịu. Phân có màu vàng hơi xanh chứa một ít cặn sữa. Mắt trũng sâu, lông
xù, khát nước nhiều. Heo chết sau 2 - 5 ngày, nếu chăm sóc tốt heo sống 6 - 8
ngày thường có thể hồi phục.
Heo con dưới 10 ngày tuổi tử số có thể lên đến 100%. Heo lớn hơn 2 - 3
tuần tuổi có triệu chứng nhẹ hơn và chết ít hơn có thể do chúng bú mẹ và thu
được miễn dịch qua sữa. Heo cảm nhiễm vào cuối thời kỳ bú sữa mẹ hoặc lúc
cai sữa thường tỏ ra rất yếu ớt. Heo con bệnh nặng có cơ thể nhỏ bé nên không
chịu nổi sự mất nước và chất điện giải nhanh chóng. Heo nái nhiễm bệnh ngay
hoặc sau khi sinh thường bị sốt, mệt mỏi. Heo nái nôn mữa, tiêu chảy xanh xám,
giảm ăn kéo dài hoặc bỏ ăn. Heo nái mới sinh giảm sữa hoặc mất sữa. Heo nái
đang mang thai có thể sẩy thai.
Mổ xác thấy lợn con gầy ốm, mất nước, dạ dày chứa sữa đông đặc,
ruột non căn phồng và chứa dịch màu vàng, thành ruột non mỏng, dạ dày
bị viêm và xuất huyết một vài nơi.
Chẩn đoán có thể dựa vào triệu chứng lâm sàng kết hợp với sự quan
sát nhung mao ruột bằng kính hiển vi.
2.2.3.2. Dịch tiêu chảy lợn - PED virus (Porcine Epidemic Diarrhoea)
Dịch tiêu chảy cấp xảy ra trên heo mọi lứa tuổi, lần đầu tiên được xác
định là do porcine epidemic diarrhea virus (PEDV) tại Việt Nam. Bệnh lan rộng
nhanh chóng ở các tỉnh miền Đông Nam bộ, gây ảnh hưởng lớn đến kinh tế chăn
nuôi heo do làm tăng tỷ lệ bệnh, tỷ lệ chết cao đặc biệt trên heo con theo mẹ từ
50 – 100%. Bước đầu đã xây dựng kỹ thuật nested RT-PCR để chẩn đoán phân
biệt virut gây viêm dạ dày ruột truyền nhiễm (TGEV) và dịch tiêu chảy cấp trên
heo (PEDV) trong các ổ dịch năm 2008-2010. Trong 284 mẫu ruột và phân được
thu thập từ heo con có biểu hiện bệnh đặc trưng của dịch tiêu chảy, kết quả đã
cho thấy 41,90% số mẫu dương tính với PEDV. Không phát hiện được mẫu
dương tính với TGEV. Kết quả chẩn đoán cho thấy tỉ lệ mẫu dương tính với
PEDV ở ruột (58,14%) cao hơn mẫu phân (16,96%). (Tạp chí KHKT Thú y số
5 năm 2012)
23
16 chủng virut PED thu thập từ các ổ dịch tiêu chảy cấp trên heo được
khuếch đại bằng kỹ thuật nested RT-PCR và giải trình tự để tìm hiểu đặc trưng
kiểu gien và mối liên hệ dịch tễ phân tử của virut gây bệnh giữa các nước. Các
chủng PEDV ở Việt Nam có sự tương đồng gien rất cao với các chủng phân lập
từ các nước láng giềng như Trung Quốc (JS-2004-2) và Thái Lan
(07np01, Ku01cb08) với sự khác biệt rất nhỏ, lần lượt là 0,56 – 2,86%, 0,00 –
1,71%. Do đó, có thể dự đoán nguồn gốc PEDV gây dịch tiêu chảy ở Việt Nam
là từ các nước láng riềng có mối quan hệ gần về mặt địa lý. Các chủng virut
PED ở Việt Nam bắt đầu hình thành sự đa đạng (đột biến điểm) ở các địa
phương khác nhau như Bình Dương, Đồng Nai và Tp.HCM. ( Tạp chí KHKT
Thú y số 7 năm 2012)
Theo trung tâm ứng dụng kĩ thuật Đồng Nai nghiên cứu thì đối với
bệnh tiêu chảy cấp, các tác nhân gây bệnh rất đa dạng bao gồm virus, vi khuẩn
và nguyên sinh động vật, trong đó virus là tác nhân gây hại lớn nhất. Nhìn
chung. Clostridium perfringens được phát hiện 48 %, E. coli 20 %, C.
difficile 10 %, rotavirus 9 % trong các trường hợp tiêu chảy cấp. Trong số các
virus, nhóm rotavirus và hai coronavirus là PEDV (Porcine Epidemic Diarrhea
Virus) và TGEV (Transmissible Gastroenteritis Virus) là nguy hiểm nhất với tỷ
lệ gây chết có thể lên đến đến 100% đối với heo con duới 7 ngày tuổi.
Thời gian nung bệnh 1- 3 ngày, tập trung trên lợn con theo mẹ và
giai đoạn cai sữa, với đặc điểm tử số thấp, tiêu chảy nặng, lây lan nhanh ,
phân vàng nhiều nước, ói mửa là triệu chứng điển hình, lợn con mất nước
nặng, gầy sút nhanh, bỏ bú, đi đứng xiêu vẹo, thường nằm chồng lên nhau,
có thể chết sau 3 – 5 ngày nếu không kịp thời cấp nước và chất điện giải.
Mổ xác thấy dạ dày lợn con trống rỗng, chứa dịch màu vàng, ruột non và
ruột già chứa đầy dịch. Chẩn đoán dựa vào các triệu chứng điển hình như:
lây lan nhanh, ói mửa, tiêu chảy phân lỏng, phân vàng.
2.2.3.3. Tiêu chảy do Rotavirus
Leman và cộng sự (1992), bệnh tiêu chảy ở lợn con do các loài virus
thuộc nhóm Rotavirrus, TGE virus (Transmissble Gastrogenteritis) và PED
virus (Porcine Epidemic Diarrhoea) gây ra. Hiện nay công ty GHEN Nhật Bản
đang sản xuất kháng thể lòng đỏ trứng kháng Rotavirus, TGE virus và PED
virus dạng bột phòng trị bệnh tiêu chảy lợn con.
Thời gian nung bệnh từ 18 - 24 giờ, với các đặc điểm như lợn con
lười bú, lười vận động, ói mửa, tiêu chảy và lây lan nhanh, thời gian tiêu
24
chảy kéo dài ( 4 - 6 ngày), phân màu vàng, có nhiều bọt khí và chất nhầy,
bệnh nặng trên lợn con theo mẹ và nhẹ hơn trên lợn con cai sữa. Mổ xác
thấy lợn con gầy ốm, dạ dày chứa nhiều chất đông đặc, ruột non căng
phồng do sinh hơi và chứa đầy dịch màu kem, đỉnh nhung mao ruột bị bào
mòn.
Chẩn đoán dựa vào triệu chứng lâm sàng: ói mửa xuất hiện trước khi
tiêu chảy, mổ khám thấy đỉnh nhung mao ruột bị bào mòn, không xuất
huyết và loét ở ruột.
2.2.3.4. Tiêu chảy do Salmonella ( gọi là bệnh phó thương hàn)
Thời gian nung bệnh: 3 - 4 ngày, lợn con theo mẹ và sau cai sữa mắc
bệnh cao hơn các lứa tuổi khác. Thể viêm ruột cấp tính xảy ra trên lợn con
theo mẹ, tiêu chảy phân vàng, nhiều nước, sốt, sau vài ngày vi trùng xâm
nhập vào phổi gây viêm phổi, có thể xuất huyết ở vùng da mỏng. Sau 5 - 6
ngày mắc bệnh lợn con suy nhược nặng, nằm liệt, có thể co giật nhẹ rồi
chết.
Bệnh tích trên lợn con: thành dạ dày chứa nhiều chất nhầy, viêm
ruột, xuất huyết nhiều nơi, màng treo ruột sưng và xuất huyết, lách xung
huyết và rất dai, phổi có khi viêm, xuất huyết.
2.2.3.5. Tiêu chảy do E.coli
Thời gian nung bệnh không xác định được, lợn con theo mẹ và lợn
con cai sữa mắc bệnh cao hơn lứa tuổi khác, khi bệnh nhẹ lợn con bú ít, ăn
ít, sốt nhẹ 39,5 - 400C. Khi nặng lợn con bỏ bú, bỏ ăn hoàn toàn, sốt đến
410C. Lợn con bị bệnh trở nên uể oải, lông xù, mắt sâu, niêm mạc mũi,
mắt trắng bệch, đôi khi có sắc thái vàng, lợn con gầy còm, giảm trọng
lượng hằng ngày so với những con khác.
Lợn con tiêu chảy ở 0 - 4 ngày tuổi có phân màu vàng kem hoặc hơi
xanh với rất nhiều nước, ở 4 - 21 ngày tuổi có phân màu trắng hoặc xám
trắng. Trong trường hợp nặng lợn con mất phản ứng rõ rệt với các kích
thích, run cơ, co giật, có thể chết. Mổ xác thấy trên lớp niêm mạc có
những vết loét điểm hay vết loét mảng, lợn mắc bệnh có thể kèm theo
viêm ruột cata, tụ huyết hay xuất huyết, vi nhung bị bất triển, số lượng
bạch cầu, đại thực bào tăng, đi tản ra xoang. Chẩn đoán dựa vào triệu
chứng lâm sàng, chẩn đoán trong phòng thí nghiệm.
25