Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG QUỐC GIA VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE BÀ MẸ, TRẺ SƠ SINH VÀ TRẺ EM GIAI ĐOẠN 2016-2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 58 trang )

BỘ Y TẾ

KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG QUỐC GIA VỀ
CHĂM SÓC SỨC KHỎE BÀ MẸ, TRẺ SƠ SINH VÀ TRẺ EM
GIAI ĐOẠN 2016-2020
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 4177/QĐ-BYT, ngày 03 tháng 8 năm 2016 của
Bộ trưởng Bộ Y tế)

HÀ NỘI, NĂM 2016


MỤC LỤC
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN ................................................................................... 5
CHƢƠNG II. THỰC TRẠNG, THÁCH THỨC VÀ CÁC ĐỊNH HƢỚNG
CHÍNH ĐỐI VỚI SỨC KHỎE BÀ MẸ, TRẺ SƠ SINH VÀ TRẺ EM HIỆN
NAY .......................................................................................................................... 9
I. THỰC TRẠNG VÀ THÁCH THỨC ............................................................ 9
1. Sức khỏe bà mẹ ............................................................................................. 9
2. Sức khỏe trẻ em ............................................................................................. 15
3. Hệ thống y tế, mạng lưới CSSKSS/SKBMTE .............................................. 23
II. CÁC ĐỊNH HƢỚNG CHÍNH...................................................................... 31
CHƢƠNG III. KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG ......................................................... 33
I. MỤC TIÊU ...................................................................................................... 33
1.1. Mục tiêu chung ........................................................................................... 33
1.2. Mục tiêu cụ thể ........................................................................................... 33
II. ĐỐI TƢỢNG VÀ CÁC CAN THIỆP THIẾT YẾU ................................... 35
2.1. Đối tượng can thiệp .................................................................................... 35
2.2. Các can thiệp thiết yếu ............................................................................... 35
III. CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH .......................................................................... 36
3.1. Nhóm giải pháp về cơ sở vật chất, trang thiết bị, thuốc thiết yếu, khoa học,
công nghệ ............................................................................................................. 36


3.2. Nhóm giải pháp đảm bảo tài chính, đổi mới phương thức chi trả nhằm tăng
khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ sơ sinh và
trẻ em .................................................................................................................... 36
3.3. Nhóm giải pháp đảm bảo nguồn nhân lực chuyên ngành và nâng cao năng
lực chuyên môn phụ sản/nhi-sơ sinh cho y tế các tuyến ...................................... 37
3.4. Nhóm giải pháp tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý, hoàn thiện cơ
chế chính sách có liên quan đến sức khoẻ bà mẹ, trẻ em ..................................... 38
3.5. Nhóm giải pháp tăng cường truyền thông và tuyên truyền vận động ........ 39
3.6. Nhóm giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin và cải thiện chất lượng báo
cáo thống kê y tế .................................................................................................. 40
3.7. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao tính sẵn có và chất lượng dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ bà mẹ trẻ em, chú trọng phát triển các dịch vụ chăm sóc sản khoa, chăm


sóc sơ sinh, chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ nhỏ ....................................................... 41
IV. CÁC KẾT QUẢ VÀ ĐẦU RA MONG ĐỢI .............................................. 44
Kết quả mong đợi 1: Cơ sở vật chất, trang thiết bị, thuốc thiết yếu được đảm bảo
nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu KCB ngày càng tăng của các đối tượng bà mẹ, trẻ
em ......................................................................................................................... 44
Kết quả mong đợi 2: Tài chính cho chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ sơ sinh, chăm
sóc nuôi dưỡng trẻ nhỏ được đảm bảo ................................................................ 44
Kết quả mong đợi 3: Nhân lực sản/nhi ở các tuyến, đặc biệt là tuyến cơ sở ở các
vùng khó khăn được cải thiện cơ bản................................................................... 45
Kết quả mong đợi 4: Năng lực quản lý/quản trị công tác chăm sóc sức khoẻ bà
mẹ và trẻ sơ sinh được nâng cao .......................................................................... 47
Kết quả mong đợi 5: Nhận thức, thái độ của người dân trong cộng đồng và lãnh
đạo các cấp được cải thiện, từ đó thay đổi hành vi và tăng cường sự ủng hộ đối
với công tác LMAT và CSSS, chăm sóc nuôi dưỡng trẻ nhỏ................................ 48
Kết quả mong đợi 6: Hệ thống thông tin, báo cáo thống kê về sức khoẻ sinh
sản/sức khỏe bà mẹ-trẻ em được cải thiện ........................................................... 49

Kết quả mong đợi 7: Nâng cao tính sẵn có, chất lượng và sự tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ sơ sinh .................................................................. 50
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN .............................................................................. 56
5.1. Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Kế hoạch hành động .......................... 56
5.2. Phân công trách nhiệm thực hiện .............................................................. 56
VI. DỰ KIẾN NHU CẦU KINH PHÍ ............................................................... 58


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BVĐK

Bệnh viện đa khoa

CSSKSS

Chăm sóc sức khoẻ sinh sản

CSSS

Chăm sóc sơ sinh

IMCI

Lồng ghép chăm sóc trẻ bệnh

KHHGĐ

Kế hoạch hoá gia đình

KMC


Chăm sóc Kangaroo

LHQ

Liên hợp quốc

LMAT

Làm mẹ an toàn

NCBSM

Nuôi con bằng sữa mẹ

PKĐKKV

Phòng khám đa khoa khu vực

PNCT

Phụ nữ có thai

SKBMTE

Sức khoẻ bà mẹ trẻ em

SKTD

Sức khỏe tình dục


TTYT

Trung tâm y tế

TVM

Tử vong mẹ

TVSS

Tử vong sơ sinh

TVTE

Tử vong trẻ em

TYT

Trạm Y tế

YSSN

Y sỹ sản nhi


CHƢƠNG I. TỔNG QUAN

Năm 2015 là mốc thời gian quan trọng để các quốc gia trong đó có Việt
Nam đánh giá việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Đối với

Việt Nam, năm 2015 cũng là năm kết thúc giai đoạn đầu thực hiện các mục
tiêu của Chiến lược về Dân số và Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020.
Theo số liệu mới nhất của Liên Hợp Quốc (LHQ), bất chấp nỗ lực của
cộng đồng quốc tế, trên phạm vi toàn cầu trong giai đoạn 1990 - 2013, tử vong
mẹ (TVM) và tử vong trẻ em (TVTE) chỉ giảm tương ứng là 45% và 49% so
với mục tiêu phải giảm là 75% và 67%. Như vậy ở mức độ toàn cầu sẽ không
đạt Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về giảm 2/3 tỷ suất TVTE và ¾ tỷ số
TVM vào năm 2015. Trong khi phần lớn các ca TVM và tử vong sơ sinh
(TVSS), TVTE là do các nguyên nhân có thể phòng tránh được bằng các can
thiệp đã được chứng minh rất có hiệu quả (ước tính chỉ riêng tập trung vào
can thiệp trong khi sinh, ngay sau sinh và tuần đầu sau sinh đã có thể giúp làm
giảm 2/3 số TVM và 3/4 số ca TVSS nhưng về số tuyệt đối, hàng năm trên thế
giới vẫn còn 289.000 trường hợp TVM (99% xảy ra ở các nước thu nhập thấp
và trung bình) và 6,3 triệu trường hợp TVTE 5 tuổi (trong đó TVSS chiếm
tới 45%).
Tuy không đạt về tốc độ cần phải giảm nhưng do số ca TVM đã giảm
nên trên phạm vi toàn cầu và ở nhiều quốc gia đang có sự chuyển đổi mô hình
bệnh tật và xu hướng TVM từ giảm dần các ca TVM do nguyên nhân trực tiếp
và bệnh truyền nhiễm sang tăng dần tỷ lệ TVM do nguyên nhân gián tiếp và
do các bệnh mãn tính không lây. Việc thay đổi này đòi hỏi các quốc gia trong
xây dựng chính sách, kế hoạch hành động cần có cách tiếp cận và giải pháp
can thiệp thích hợp với tình hình.
Nhằm tiếp tục triển khai Chương trình nghị sự sau năm 2015 (Post2015 Agenda), Hội nghị thượng đỉnh của LHQ, tháng 9/2015 tại New York,
Hoa Kỳ với sự tham gia của nguyên thủ 193 quốc gia thành viên đã thông qua
Chương trình nghị sự của LHQ về phát triển bền vững đến năm 2030 với 17
Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) và 169 chỉ tiêu cụ thể, trong đó các chỉ
tiêu về sức khỏe bà mẹ trẻ em (SKBMTE) chủ yếu tập trung tại Mục tiêu 2
“Xóa đói, đảm bảo an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy nông
nghiệp bền vững” và Mục tiêu 3 “Đảm bảo cuộc sống khỏe mạnh cho tất cả
mọi người thuộc mọi lứa tuổi”. Cũng liên quan đến lĩnh vực sức khỏe sinh sản

(SKSS)/SKBMTE, dự thảo Chiến lược toàn cầu về Sức khỏe phụ nữ, trẻ em
5


và vị thành niên (GSWCAH) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đề ra 3 nhóm
mục tiêu: (i) Mục tiêu về cứu sống - chấm dứt những trường hợp tử vong có
thể phòng tránh được; (ii) Mục tiêu về vươn tới - đảm bảo các tiêu chuẩn cao
nhất về y tế; và (iii) mục tiêu về chuyển đổi - đạt được các thay đổi có tính
chất chuyển đổi và bền vững.
Ngoài dự thảo Chiến lược toàn cầu về sức khỏe phụ nữ, trẻ em và vị
thành niên, mục tiêu “Loại trừ TVM, TVSS, TVTE do các nguyên nhân có thể
phòng tránh được” (ending preventable maternal, newborn and child deaths)
còn được nhấn mạnh trong các Chiến lược, Kế hoạch hành động khác của các
tổ chức LHQ như: Kế hoạch hành động về trẻ sơ sinh (ENPA), Chiến lược
loại trừ TVM do các nguyên nhân có thể phòng tránh được (EPMM)…
Để đạt được các mục tiêu trên, các giải pháp và nội dung can thiệp chủ
yếu được khuyến nghị, bao gồm:
1. Áp dụng cách tiếp cận chăm sóc liên tục theo vòng đời (continuum of
care – life course) - đặc biệt là chăm sóc trong thời kỳ mang thai, chăm sóc
trong và ngay sau khi sinh, chăm sóc tuần đầu sau sinh- và tiếp cận phổ cập
dịch vụ CSSK (universal access, universal health coverage) được nhấn mạnh.
2. Quan tâm giải quyết sự khác biệt trong sử dụng và tiếp cận dịch vụ
CSSK giữa các vùng miền, các nhóm dân cư để đảm bảo công bằng trong
CSSK.
3. Quan tâm đến tất cả các khía cạnh: tính tiếp cận, tính sẵn có, khả
năng chi trả và chất lượng của dịch vụ (AAAQ) trong việc cung cấp dịch vụ,
đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của người đỡ đẻ có kỹ năng.
4. Quan tâm đến các nguyên nhân gốc rễ (underlying causes), trong đó
đặc biệt nhấn mạnh vai trò của dinh dưỡng trong 1000 ngày đầu đời - từ giai
đoạn trong bụng mẹ cho đến 2 tuổi.

5. Tăng cường chất lượng số liệu báo cáo thống kê, hoạt động theo dõi
đánh giá các chỉ số.
Ở Việt Nam, trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo và đầu tư
của Đảng và Nhà nước, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS)
/SKBMTE đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Các chỉ số về SKBMTE
mà Việt Nam đạt được là khá tốt so với nhiều quốc gia có thu nhập bình
quân/đầu người tương tự. Tỷ số TVM đã giảm 3 lần từ 233/100.000 trẻ đẻ
sống vào năm 1990 xuống còn 69/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2014. TVTE
dưới 1 tuổi đã giảm gần 3 lần từ 44,4‰ vào năm 1990 xuống còn xuống còn
6


14,9‰ năm 2014. Tử vong trẻ em < 5 tuổi giảm hơn một nửa từ 58‰ vào
năm 1990 xuống còn xuống 22,4 năm 2014.
Mặc dù đã có sự cải thiện rõ rệt về tình trạng SKBMTE nhưng còn có
sự khác biệt khá lớn về TVM, TVTE và TVSS giữa các vùng, miền. TVSS
vẫn còn cao, chiếm đến 70% số TVTE dưới 1 tuổi và xu hướng giảm chưa rõ
rệt. Tốc độ giảm TVM, TVTE trong những năm gần đây đã có xu hướng chậm
lại. Tuy TVM và TVSS đã giảm mạnh, nhưng ước tính mỗi năm ở Việt Nam
vẫn còn khoảng 580 - 600 trường hợp TVM và trên 10.000 trường hợp TVSS.
Bên cạnh đó, tình trạng phá thai và vô sinh còn tương đối phổ biến.
Tình trạng phá thai lặp lại, phá thai không an toàn vẫn xảy ra. Nhiễm khuẩn
đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV/AIDS và ung
thư đường sinh sản còn cao. Việc khám, phát hiện, điều trị, theo dõi và tư vấn
sau điều trị chưa được quan tâm đúng mức. Sự kết nối giữa hệ thống dịch vụ
CSSKSS/SKBMTE và dự phòng các bệnh lây truyền từ cha mẹ sang con bao
gồm cả HIV còn hạn chế. Tỷ lệ phụ nữ nhiễm HIV từ chồng và bạn tình có xu
hướng gia tăng. Sức khỏe sinh sản/SKBMTE, sức khỏe tình dục (SKTD) ở
các nhóm đối tượng đặc thù còn nhiều thách thức. Tình trạng quan hệ tình dục
trước hôn nhân, tình dục không an toàn, mang thai ngoài ý muốn và phá thai,

mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục ở vị thành niên và thanh niên có
xu hướng gia tăng. Hiểu biết, hành vi về SKSS/SKTD của vị thành niên và
thanh niên còn nhiều hạn chế. Kiến thức, thái độ và hành vi về
CSSKSS/SKBMTE trong cộng đồng và ngay cả cán bộ y tế còn hạn chế.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên chủ yếu là do việc tiếp cận
dịch vụ chăm sóc trước, trong và sau sinh của người dân cũng như chất lượng
dịch vụ, nhất là ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải
đảo còn nhiều hạn chế. Phong tục, tập quán lạc hậu trong chăm sóc, nuôi
dưỡng bà mẹ, trẻ sơ sinh, trẻ em, tình trạng phụ nữ có thai không được quản lý
thai và đẻ tại nhà không có cán bộ y tế đỡ còn khá phổ biến ở khu vực miền
núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đặc biệt
ở các bệnh viện tuyến huyện chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc điều trị
cấp cứu sản khoa và sơ sinh. Nhân lực về chuyên ngành sản phụ khoa và nhi
khoa rất thiếu, đặc biệt là tại tuyến huyện. Hầu hết các bệnh viện huyện đều
bố trí khoa Sản chung với khoa Ngoại để tận dụng nhân lực. Tỷ lệ bác sĩ đa
khoa, bác sĩ chuyên khoa ngoại làm công tác sản khoa khá lớn. Năng lực
chuyên môn của nhân viên y tế làm công tác chăm sóc sản khoa, chăm sóc sơ
sinh (CSSS), đặc biệt là ở tuyến y tế cơ sở cũng còn có những hạn chế trong
việc phân loại, phát hiện nguy cơ, tiên lượng, theo dõi, cấp cứu và hồi sức sản
7


khoa, sơ sinh. Cán bộ y tế làm công tác sản phụ khoa, nhi khoa, nhất là ở
tuyến huyện, xã ít có cơ hội được tham gia các lớp tập huấn bổ túc, cập nhật
kiến thức và thực hành chuyên môn do thiếu kinh phí và không bố trí được
người làm thay. Bên cạnh đó, còn có biểu hiện chủ quan, chưa kịp thời, chưa
thực hiện nghiêm quy chế bệnh viện, quy định chuyên môn trong chẩn đoán,
tiên lượng và xử trí cấp cứu, hồi sức sản phụ, trẻ sơ sinh khi có tai biến xảy ra.
Nhằm thực hiện giai đoạn 2 và hiện thực hóa các mục tiêu của Chiến lược về
Dân số và Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020 cũng như hướng tới thực

hiện các chỉ tiêu của SDGs có liên quan đến SKSS/SKBMTE, Bộ Y tế xây
dựng Kế hoạch hành động quốc gia về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh
và trẻ em giai đoạn 2016-2020. Kế hoạch hành động đã xác định các giải pháp
và can thiệp cơ bản dựa trên các bài học kinh nghiệm, các thực hành tốt và các
bằng chứng khoa học cũng như cách tiếp cận và khuyến cáo cập nhật của quốc
tế.

8


CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG, THÁCH THỨC VÀ CÁC ĐỊNH HƢỚNG CHÍNH
ĐỐI VỚI SỨC KHỎE BÀ MẸ, TRẺ SƠ SINH
VÀ TRẺ EM HIỆN NAY

I. THỰC TRẠNG VÀ THÁCH THỨC
1. Sức khỏe bà mẹ
1.1. Tử vong mẹ
Tỷ số tử vong mẹ/100.000 trẻ đẻ sống đã giảm hơn 3 lần, từ 233 năm
1990 xuống còn 85 năm 2005 và 69 năm 20091 (mục tiêu đến năm 2015 là
58,3). Kết quả điều tra TVM ở Việt Nam 2006-2007 do Vụ SKBMTE kết hợp
với Viện Chiến lược và Chính sách y tế- Bộ Y tế thực hiện cho thấy tỷ số
TVM của Việt Nam là 63 trên 100.000 trẻ đẻ sống với khoảng giao động từ 42
- 84 ca TVM trên 100.000 trẻ đẻ sống2. Báo cáo tóm tắt “Xu hướng tử vong
mẹ từ 1990 đến 2015”3 của LHQ ước tính tỷ số tử vong mẹ năm 2015 tại Việt
Nam là 54/100.000 trẻ đẻ sống. Chênh lệch tỷ số tử vong mẹ từ năm 1990 đến
2015 là 61,2. Tốc độ giảm TVM trung bình trong cả giai đoạn 1990 đến 2015
đạt được 3,8%/năm. Cũng theo tài liệu này, so sánh với một số nước trong
khối ASEAN, cả tỷ số TVM và tốc độ giảm TVM của Việt Nam đạt được tốt
hơn của Philippin (114 và 1,1); Indonesia (126 và 5,0); Myanmar (178 và 3,7);

Lào (197 và 6,1); Cambodia (161 và 7,4).
Cũng tương tự như ở nhiều nước trên thế giới, TVM ở Việt Nam phần
lớn (khoảng 70% các trường hợp) là do các nguyên nhân trực tiếp, trong đó
chủ yếu là do băng huyết, sản giật và nhiễm khuẩn. Một trong những giải
pháp hữu hiệu nhằm cải thiện chất lượng chăm sóc sản khoa là thực hiện thẩm
định TVM đối với tất cả các trường hợp TVM. Ở Việt nam, hoạt động thẩm
định TVM đã được chính thức thực hiện trên phạm vi cả nước từ năm 2011.
Mặc dù còn nhiều hạn chế trong báo cáo, các dữ liệu thu thập được cũng đã
chỉ ra bức tranh tương đối toàn cảnh của TVM. Tổng số ca TVM được báo
cáo năm 2012 là 289, số ca đã được tiến hành thẩm định là 207, chiếm 71.4%.
1

Tổng cục Thống kê. Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt nam 2009-Mức sinh và mức chết ở Việt nam:

Thực trạng, xu hướng và những sự khác biệt. 2001, Hà Nội
2

Bộ Y tế. Điều tra tử vong mẹ, tử vong sơ sinh ở Việt Nam 2006-2007. 2009, Hà Nội

3

Trends in Maternal mortality: 1990 to 2015 – Estimates by WHO, UNICEF, UNFPA, World Bank

Group and the United Nations Population Division

9


TVM trong quá trình mang thai chiếm 18%, trong chuyển dạ và 24 giờ đầu
sau đẻ là 45%. Có đến 38% các trường hợp TVM xảy ra tại tuyến huyện, tỉnh,

và bệnh viện chuyên khoa so với 36% các trường hợp TVM xảy ra tại nhà.
Con số này ít nhiều chỉ ra chất lượng chăm sóc sản khoa của các cơ sở y tế
cũng như phản ánh mức độ nguy cơ của đẻ tại nhà. Cũng theo Báo cáo thẩm
định TVM năm 2012, mô hình 3 chậm trễ trong Làm mẹ an toàn [1]. Chậm
trong nhận biết các dấu hiệu nguy hiểm và ra quyết định sử dụng dịch vụ y tế;
2. Chậm tiếp cận đến cơ sở và dịch vụ y tế; và 3. Chậm trong tiếp nhận điều
trị thích hợp tại cơ sở y tế], được áp dụng để phân tích các nguy cơ TVM, và
mức độ ứng phó của chăm sóc sản khoa tại Việt nam. 159 trường hợp TVM
được phân tích có liên quan đến 3 chậm trễ, trong đó 69% liên quan đến chậm
1, 40% liên quan đến chậm 2, và 58% có liên quan đến chậm 34.
Có một điều đáng lưu ý là trong vòng 15 năm gần đây ở Việt Nam đã
có sự thay đổi theo hướng giảm dần tỷ lệ TVM do nguyên nhân trực tiếp và
tăng tỷ lệ tử vong do nguyên nhân gián tiếp. Theo Điều tra TVM 2001-2002,
các nguyên nhân trực tiếp gây TVM là 76,3% và nguyên nhân gián tiếp chiếm
23,7%5. Tỷ lệ tương ứng của Điều tra 2006-2007 là 68% và 18,7%. Số liệu
mới nhất (năm 2014) của Vụ SKBMTE cho thấy nguyên nhân trực tiếp chiếm
59,7% và có tới 35,4% là do nguyên nhân gián tiếp6. Điều này cho thấy tính
hiệu quả của các can thiệp về làm mẹ an toàn (LMAT), đặc biệt là các can
thiệp về cấp cứu, hồi sức sản khoa được triển khai trong thời gian qua ở nước
ta nhưng mặt khác cũng cho thấy sự cần thiết phải quan tâm hơn đến các can
thiệp nhằm làm giảm các nguy cơ dẫn đến TVM do các nguyên nhân gián tiếp
gây ra.
Thách thức:
- Còn có sự khác biệt khá lớn về tình trạng sức khoẻ và TVM giữa các
vùng địa lý, giữa các vùng kinh tế xã hội và giữa các nhóm dân tộc khác nhau.
Điều tra TVM 2006-2007 cho thấy TVM ở khu vực nông thôn miền núi là 108
[72-144] trên 100.000 trẻ đẻ sống, cao hơn 3 lần so với khu vực nông thôn
đồng bằng (36 trên 100.000 trẻ đẻ sống) và khu vực thành thị (40 trên 100.000
trẻ đẻ sống). Điều tra TVM tại 14 tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên do
Trường Đại học Y khoa Thái Bình tiến hành cho thấy tỷ số TVM là

119/100.000 trẻ đẻ sống, trong đó là vùng Tây Bắc là 242/100.000 trẻ đẻ sống
4 Bộ Y tế, Vụ SKBMTE. Báo cáo thẩm định tử vong mẹ 2012
5 Bộ Y tế, Vụ Sức khỏe sinh sản. Tử vong mẹ ở Việt Nam. Nhà xuất bản y học, 2004
6 Bộ Y tế, Vụ SKBMTE. Số liệu TĐTVM năm 2014

10


và Tây Nguyên là 108/100.000 trẻ đẻ sống. Điều tra TVM và TVSS gần đây
nhất tại 7 tỉnh miền núi phía Bắc do Dự án hỗ trợ y tế các tỉnh miền núi phía
Bắc tiến hành cho thấy tỷ số TVM trong dân tộc thiểu số, đặc biệt là dân tộc
H’mông cao hơn nhiều lần so với tỷ số TVM ở dân tộc Kinh (tỷ số TVM ở
các dân tộc H’mông, Thái, Dao, Nùng, Tày và Kinh lần lượt như sau: 210, 64,
52, 53, 43 và 12/100.00 trẻ đẻ sống)7.
- Về nguyên nhân TVM, số liệu ở cả 2 cuộc điều tra TVM ở khu vực
miền núi (Điều tra TVM tại 14 tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên 20072008 và Điều tra TVM,TVSS tại 7 tỉnh miền núi phía Bắc 2013-2014) đều
cho thấy tỷ lệ TVM do các nguyên nhân trực tiếp ở các tỉnh miền núi còn khá
cao so với cả nước và đáng quan ngại hơn là tỷ lệ này không có xu hướng
giảm (81,5% và 81,2%). Điều này cho thấy trong thời gian tới cần phải tập
trung đầu tư nhiều hơn nữa cho các vùng miền núi khó khăn các can thiệp
nhằm làm giảm các nguy cơ dẫn đến TVM do các nguyên nhân trực tiếp gây
ra như tăng cường chất lượng quản lý, chăm sóc thai nghén, đảm bảo kịp thời
các can thiệp về cấp cứu, hồi sức sản khoa trong các trường hợp nguy cơ…
- Tốc độ giảm TVM trong những năm gần đây đã có sự chậm lại. Báo
cáo của nhóm đánh giá độc lập thuộc Ủy ban Thông tin và Trách nhiệm giải
trình về sức khỏe phụ nữ và trẻ em của LHQ phân tích số liệu của 75 quốc gia
cho thấy, nếu như giai đoạn 1990-2003, Việt Nam đạt tốc độ giảm tỉ số TVM
trung bình năm là -5,2% thì trong giai đoạn 2003-2013 tốc độ này chỉ còn 4,6%/năm và Việt Nam nằm trong số 19 quốc gia có xu hướng giảm tỉ số
TVM chậm lại trong giai đoạn này. Tương tự như vậy, Báo cáo quốc gia kết
quả 15 năm thực hiện các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam

cũng cho thấy: nếu trong giai đoạn 1990-2005 tốc độ giảm bình quân hàng
năm đạt được là 9,8 trường hợp TVM trên 100.000 trẻ sơ sinh sống, thì đến
giai đoạn từ 2006-2014 chỉ còn 2,14 trường hợp TVM trên 100.000 trẻ sơ sinh
sống8.
1.2. Chăm sóc trước, trong và sau sinh
Phụ nữ đẻ cần được khám thai 3 lần trở lên nhằm phát hiện sớm các
nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe của bà mẹ và thai nhi. Trong các năm từ
2005 –2009, tỷ lệ phụ nữ sinh con được khám thai 3 lần trở lên tăng đều qua
7

DA Hỗ trợ y tế các tỉnh miền núi phía Bắc, Bộ Y tế. Điều tra TVM,TVSS tại 7 tỉnh MNPB 2013-

2014(Dự thảo)
8

Bộ Kế hoạch Đầu tư Tổng cục Thống kê. Báo cáo quốc gia kết quả 15 năm thực hiện các mục tiêu phát

triển thiên niên kỷ của Việt Nam. 2015, Hà Nội

11


các năm, từ 84,6% năm 2005 tăng lên 87,7% năm 2009. Từ năm 2010, tỷ lệ
này được thay thế bằng tỷ lệ phụ nữ sinh con được khám thai trên 3 lần trở lên
trong 3 thai kỳ. Thống kê của Vụ SKBMTE cho thấy tỷlệ này đã tăng từ 79,1%
năm 2010 lên 86,68% năm 2011 và luôn đạt xấp xỉ 90% vào các năm tiếp theo
trong giai đoạn từ 2012-20149.
Tuy nhiên, tỷ lệ sử dụng dịch vụ chăm sóc trước sinh đạt thấp ở khu
vực miền núi và nông thôn; chỉ đạt dưới 50% ở 25 huyện nghèo nhất.
Bảo đảm cuộc đẻ được cán bộ y tế đã qua đào tạo đỡ là một trong các

yếu tố rất quan trọng giúp cuộc đẻ an toàn, góp phần làm giảm tai biến sản
khoa, giảm TVM và TVSS. Số liệu Báo cáo tổng kết công tác CSKSSS năm
2014 của Vụ SKBMTE cho thấy từ năm 2010 đến 2014, tỷ lệ phụ nữ sinh con
được cán bộ y tế đã qua đào tạo đỡ luôn duy trì ở mức cao từ 97-98%.
Chăm sóc sau sinh, đặc biệt là chăm sóc sớm ngay sau sinh là một trong
những giải pháp quan trọng để phát hiện và xử trí sớm các tai biến ở bà mẹ và
sơ sinh, góp phần giảm TVM và trẻ sơ sinh. Số liệu theo dõi cho thấy tỷ lệ bà
mẹ/trẻ sơ sinh được chăm sóc tuần đầu sau sinh trong các năm từ 2010-2014
đạt các tỷ lệ tương ứng là 79,0%, 75,4%, 77,9%, 76,95% và 78,7 %. Theo báo
cáo, các vùng Trung du & miền núi phía Bắc và đặc biệt là Đông Nam bộ
thường có tỷ lệ thấp hơn so với trung bình toàn quốc.
1.3. Sử dụng biện pháp tránh thai
Thực hiện Kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) đóng vai trò quan trọng
trong đảm bảo sức khỏe phụ nữ, trẻ em thông qua việc giúp phòng tránh thai quá
sớm, quá muộn hoặc quá nhiều lần. Theo Điều tra MICS 201410, có 75% (so với
77,8% của điều tra MICS 2011) phụ nữ tuổi từ 15-49 hiện đang có chồng hoặc
đang chung sống như vợ chồng cho biết có sử dụng biện pháp tránh thai. Biện
pháp phổ biến nhất là đặt dụng cụ tử cung (28,2%), tiếp đến là tính vòng kinh
(13,4%), bao cao su nam (11,8%), thuốc uống tránh thai (11,9%), xuất tinh ngoài
(5,4%), đình sản nữ (2,8%) và thuốc tiêm tránh thai (1,7%). Cũng theo Điều tra
MICS 2014, tổng nhu cầu KHHGĐ không được đáp ứng là 6,1%, hay nói cách
khác trong 100 phụ nữ từ 15-49 tuổi đã kết hôn hoặc đang chung sống như vợ
chồng thì có 6 người không được đáp ứng nhu cầu về KHHGĐ. Tỷ lệ này cao
hơn 1,8 điểm phần trăm so với điều tra MICs 2011 (4,3%) và cao hơn ở khu vực
Tây Nguyên, Trung du, miền núi phía Bắc, ở nhóm phụ nữ nghèo, phụ nữ dân
tộc thiểu số, đặc biệt là trong nhóm phụ nữ trẻ từ 15-19 và 20-24 tuổi.
9

Vụ SKBMTE, Bộ Y tế. Báo cáo tổng kết CTCSKSSS năm 2014


10

Tổng cục Thống kê. Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ 2014. Hà Nội, 2015

12


1.4. Giảm phá thai và phá thai an toàn
Số liệu thống kê của Vụ SKBMTE cho thấy tỷ số phá thai (số phá thai
/100 ca đẻ sống) đã giảm qua các năm từ 2010-2015 với số tương ứng là 0,28,
0,25, 0,18, 0,19, 0,19 và 0,17.
Về số phá thai phân theo tuổi thai, theo số liệu thống kê của Vụ
SKBMTE năm 2015, phần lớn (74,3%) các ca phá thai là phá thai sớm (dưới 7
tuần tuổi). Phá thai từ 7-12 tuần chiếm 22,9%. Các ca phá thai to (trên 12 tuần)
là các ca phá thai tiềm ẩn nguy cơ cao bị tai biến chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ (2,8%).
Cũng theo báo cáo trên của Vụ SKBMTE, năm 2015 cả nước ghi nhận
có 376 trường hợp tai biến phá thai so với 463 ca tai biến của năm 2014. Tỷ lệ
tai biến do phá thai là 0,14%, giảm so với năm 2014 (0,15%), 2013 (0,22%),
năm 2012 (0,24%) và năm 2011 (0,43%). Tỷ lệ tai biến do phá thai giảm thể
hiện phần nào năng lực kỹ thuật và chất lượng dịch vụ phá thai an toàn được
cải thiện hơn.
Thách thức
- Kiến thức, thái độ và hành vi trong quan hệ tình dục an toàn, sử dụng
biện pháp tránh thai của người dân còn hạn chế.
- Tính sẵn có, khả năng tiếp cận cũng như mức độ đa dạng các biện
pháp tránh thai cung cấp cho người dân cũng chưa cao.
- Chất lượng dịch vụ chăm sóc phá thai toàn diện ở khu vực nông thôn,
miền núi cần được cải thiện.
- Ở một số vùng đồng bào dân tộc việc phá thai không an toàn vẫn xảy
ra do phong tục tập quán lạc hậu, tình trạng dân trí.

1.5. Lây truyền HIV từ mẹ sang con
Hàng năm, ở Việt Nam có khoảng gần 2 triệu phụ nữ mang thai và ước
tính tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ mang thai là 0,25% thì mỗi năm
ở nước ta có hơn 5000 phụ nữ mang thai bị nhiễm HIV. Nếu không có can thiệp
thì với tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con khoảng 30-40%, ước tính mỗi năm
Việt Nam có khoảng 1500-2000 trẻ em sinh ra bị nhiễm HIV từ các bà mẹ bị
nhiễm HIV. Theo báo cáo năm 2009 của Cục Phòng, Chống HIV/AIDS, tỷ lệ
phụ nữ mang thai nhiễm HIV tăng nhanh ở một số tỉnh miền núi như Điện Biên
(2%) và Thái Nguyên (2,38%). Tuy nhiên, số liệu chính xác về số trẻ em nhiễm
HIV hiện vẫn chưa được thống kê đầy đủ. Các can thiệp về phòng lây truyền từ
mẹ sang con hiện đang được triển khai trên địa bàn toàn quốc với định hướng
mới dùng thuốc ARV dự phòng lây truyền từ mẹ sang con ngay khi phát hiện
13


mẹ bị nhiễm HIV mà không phải chờ đến tuần thai thứ 14 như hướng dẫn trước
đây. Cho đến cuối năm 2013, toàn quốc có 226 điểm cung cấp dịch vụ dự
phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, trong đó có 2 điểm tuyến trung ương, 92
điểm tuyến tỉnh, 132 điểm tuyến huyện chiếm khoảng 25% số huyện trong toàn
quốc. Số liệu của Cục Phòng, Chống HIV/AIDS cho thấy trong 9 tháng đầu
năm 2013 trong số 1.048.534 phụ nữ có thai được tư vấn xét nghiệm có
794.681 (chiếm 75%) trường hợp được xét nghiệm HIV. Trong đó, 449.718
trường hợp được xét nghiệm trong thời gian mang thai và 352.503 làm xét
nghiệm trong lúc chuyển dạ và phát hiện 1.031 trường hợp phụ nữ mang thai bị
nhiễm HIV11.
Thách thức: tỷ lệ phụ nữ có thai được xét nghiệm HIV đạt còn thấp và
số xét nghiệm trong chuyển dạ vẫn chiếm đến gần một nửa số trường hợp được
xét nghiệm. Mất dấu và tiếp cận điều trị ARV muộn đối với các trường hợp
nhiễm HIV còn cao. Cung ứng test xét nghiệm và thuốc ARV điều trị liên tục
cũng là vấn đề khó khăn, nhất là trong bối cảnh ngân sách và hỗ trợ quốc tế bị

cắt giảm.
1.6. Tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ
Tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ có liên quan chặt chẽ tới tình trạng dinh
dưỡng của trẻ nhỏ. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tình trạng dinh dưỡng không
đảm bảo của bà mẹ mang thai cũng là một trong các yếu tố chính dẫn đến đẻ non,
cân nặng sơ sinh thấp, tăng tử vong chu sinh và sơ sinh. Vì vậy có thể nói chăm
sóc dinh dưỡng cho các bà mẹ tương lai, đặc biệt là phụ nữ mang thai chính là
chăm sóc dinh dưỡng sớm cho trẻ. Số liệu từ Tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010
cho thấy tỷ lệ phụ nữ tuổi sinh đẻ bị suy dinh dưỡng là rất cao, hơn 1/4 phụ nữ
tuổi từ 15 đến 24 tuổi và 1/5 phụ nữ từ 25 đến 34 tuổi bị suy dinh dưỡng. Tỷ lệ
phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ bị thiếu năng lượng trường diễn năm 2005 là 22,7%,
năm 2010 là 21,2% - nghĩa là tỷ lệ này gần như không đổi sau 5 năm. Bên cạnh
đó, tỷ lệ uống vitamin A của người mẹ sau sinh có xu hướng giảm đi. Theo Tổng
điều tra dinh dưỡng năm 2010 có 58,7 % bà mẹ sau sinh được uống vitamin A thì
tỷ lệ này chỉ còn 42,3% năm 2015 theo Điều tra quốc gia về vi chất dinh dưỡng
2014-2015. Số liệu về tỷ lệ phụ nữ có thai được uống viên sắt dự phòng thiếu máu
cũng rất đáng quan tâm. Trong khi 57,6% phụ nữ bắt đầu bổ sung sắt trong 3
tháng đầu tiên của thai kỳ, thì chỉ có 25% bà mẹ được bổ sung sắt trong 6 tháng

11

Cục Phòng, Chống HIV/AIDS. Báo cáo tổng kết công tác phòngchống HIV/ADIS năm 2013, phương

hướng 2014

14


tiếp theo và có tới 14,7% phụ nữ không bổ sung sắt trong suốt thai kỳ12.
Điều tra quốc gia vi chất dinh dưỡng 2014-2015 của Viện Dinh dưỡng

cho thấy tỷ lệ thiếu máu của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và phụ nữ có thai đều
khá cao (25,5% và 32,8%)13. Điều tra này cũng cho thấy mức độ đáng báo
động về tỷ lệ thiếu kẽm ở phụ nữ có thai (80%) và ở trẻ em (70%) Việt Nam.
2. Sức khỏe trẻ em
Tử vong trẻ em

2.1.

Trong những năm qua, TVTE ở Việt Nam đã giảm đáng kể. Theo Báo
cáo quốc gia kết quả 15 năm thực hiện các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ
của Việt Nam, tử vong TE<5 tuổi đã giảm hơn một nửa từ 58‰ vào năm 1990
xuống còn 22,1 năm 2015 (so với mục tiêu còn 19,3‰ vào năm 2015). TVTE
dưới 1 tuổi đã giảm xấp xỉ 2/3 từ 44,4‰ vào năm 1990 xuống còn 14,7‰ năm
2015.
Tử vong trẻ sơ sinh (NMR) là một chỉ số quan trọng vì chỉ số này liên
quan chặt chẽ với sức khỏe bà mẹ cũng như là chỉ báo quan trọng về tính tiếp
cận và chăm sóc y tế. Tuy nhiên, hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia của Việt
Nam vẫn chưa thu thập số liệu cho chỉ tiêu này. Theo ước tính từ các cuộc điều
tra, TVSS chiếm khoảng 70-75% số tử vong trẻ dưới 1 tuổi. Với cách ước tính
này, tỷ suất TVSS ở Việt Nam năm 2014 vào khoảng 10-11/1.000 trẻ sinh sống.
Báo cáo của nhóm đánh giá độc lập thuộc Ủy ban Thông tin và Trách nhiệm
giải trình về sức khỏe phụ nữ và trẻ em của LHQ ước tính tỷ suất TVSS là
9,5‰- trong đó sơ sinh sớm (0-6 ngày tuổi) là 6,9‰và sơ sinh muộn (7-28
ngày tuổi) là 2,6‰.
Theo nghiên cứu được đăng tải gần đây trên tạp chí Lancet, 5 nguyên
nhân chính gây TVTE là TVSS (44%), viêm phổi (13%), tiêu chảy (9%), sốt rét
(7%) và tai nạn thương tích (5%)14. Cũng theo nghiên cứu này, 4 nguyên nhân
chính gây tử vong ở trẻ sơ sinh là đẻ non (15%), ngạt (11%), nhiễm khuẩn nặng
(7%) và dị tật bẩm sinh (4%). Nhận định này cũng phù hợp với các nghiên cứu
trong nước về nguyên nhân chính gây TVSS.

Các nguyên nhân chính gây TVSS như đẻ non, ngạt, nhiễm khuẩn là
những nguyên nhân có thể phòng tránh được. Nâng cao chất lượng chăm sóc
12

Viện Dinh dưỡng. Tổng điều tra dinh dưỡng 2010

13

Viện Dinh dưỡng. Điều tra quốc gia vể vi chất dinh dưỡng 2014-2015

14

Liu et all.2015. Global, regional and national causes ò child mortality in 2000-2013 with projctions to

inform post-2015 priorities.Lancet

15


trước sinh, trong sinh, ngay sau sinh, đặc biệt hồi sức trẻ ngạt đúng, kịp thời là
những can thiệp tích cực và hiệu quả để giảm tử vong trẻ sơ sinh. Kinh nghiệm
thế giới cho thấy 80% số TVSS có thể phòng tránh được bằng các can thiệp
đơn giản, ít tốn kém15. Điều quan trọng là bà mẹ và trẻ sơ sinh phải được tiếp
cận sớm với các can thiệp trong trường hợp có nguy cơ.
Thách thức
- Cũng như TVM, còn có sự chênh lệch đáng kể về tỷ suất TVTE giữa
các vùng thành thị và nông thôn, giữa dân tộc kinh và dân tộc thiểu số và giữa
các vùng địa lý và kinh tế xã hội khác nhau. Tây Nguyên và Trung du và miền
núi phía Bắc là 2 vùng có tỷ suất TVTE dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi cao nhất cả
nước. Tỷ suất TVTE tại khu vực nông thôn cũng cao hơn gấp 2 lần so với khu

vực thành thị. Tỷ suất TVTE của dân tộc thiểu số cao gấp gần 3 lần so với ở
trẻ em dân tộc kinh. Năm 2013, ước tính tổng số tử vong dưới 5 tuổi ở Việt
Nam là khoảng 26.600 trẻ em.
- Tốc độ giảm tỷ suất TVTE đã chậm lại trong những năm gần đây. Theo
Báo cáo quốc gia kết quả 15 năm thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên
kỷ của Việt Nam, trong giai đoạn 1990-2004, tỷ suất TVTE dưới 5 tuổi duy trì
tốc độ giảm trung bình khoảng 2‰ /năm, đến giai đoạn 2005-2010 chỉ còn
0,6‰ /năm và từ 2011 - 2014, tốc này giảm xuống chỉ còn 0,5‰/năm. Tương
tự, trong giai đoạn 1990 - 2010, tỷ suất tử vong ở trẻ em dưới 1 tuổi giảm với
tốc độ 1,4‰/năm nhưng từ 2011-2014, con số này chỉ đạt 1,15‰/năm. Báo
cáo của nhóm đánh giá độc lập thuộc Ủy ban Thông tin và Trách nhiệm giải
trình về sức khỏe phụ nữ và trẻ em của LHQ cũng cho thấy, nếu như giai đoạn
1990-2000, Việt Nam đạt tốc độ giảm TVTE dưới 5 tuổi là 5%/năm thì đến
giai đoạn 2011-2013 tốc độ giảm chỉ còn 3,4%/năm.
- Mặc dù TVTE dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi đã giảm đáng kể nhưng tử
vong trẻ sơ sinh vẫn còn cao, chiếm khoảng 70-75% TVTE dưới 1 tuổi và
50% TVTE dưới 5 tuổi. Đáng lo ngại hơn, tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh tuy có
giảm nhưng tốc độ giảm rất chậm so với 2 chỉ số TVTE dưới 1 tuổi và dưới 5
tuổi. Điều này cho thấy công tác chăm sóc trước sinh cũng như chăm sóc, điều
trị, cấp cứu, hồi sức trong cuộc đẻ và chăm sóc ngay sau sinh đối với trẻ sơ
sinh còn nhiều bất cập và hạn chế.

15

WHO, UNICEF.2014. Every Newborn:an action plan to end preventable death: Executive summary.

Geneva: World Health Organization

16



Dinh dưỡng và nuôi dưỡng trẻ nhỏ

2.2.

Suy dinh dưỡng là nguy cơ lớn nhất liên quan đến TVTE. Theo ước
tính của WHO và UNICEF, từ 30 - 50% TVTE dưới 5 tuổi có liên quan đến suy
dinh dưỡng. Thành tựu giảm TVTE ở nước ta trong những thập kỷ qua chắc
chắn có phần đóng góp quan trọng của việc giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng.
Điều tra giám sát dinh dưỡng hàng năm của Viện Dinh dưỡng cho thấy
suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm đều và bền vững. Tỷ lệ suy dinh
dưỡng thể nhẹ cân (cân nặng trên tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 31,9%
năm 2001 xuống còn 17,5% năm 2010 và 14% năm 2015. Suy dinh dưỡng thể
thấp còi (chiều cao trên tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 43,4% năm 2000
xuống còn 29,3% năm 2010 và 24,9% năm 201516.
Thách thức
- Mặc dù đã có những cải thiện đáng kể về tình trạng dinh dưỡng trẻ em
nhưng tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em nước ta vẫn còn ở mức cao hơn các nước
trong khu vực. Điều đáng quan tâm là tỷ lệ suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi
đã giảm những hiện nay vẫn còn ở mức cao (24,9%). Ảnh hưởng của suy dinh
dưỡng thể thấp còi trong 2 năm đầu là rất quan trọng đến chiều cao khi trưởng
thành và sức khỏe nói chung. Vì vậy cần có những can thiệp dài hạn, tích cực
và toàn diện kể từ khi mang thai cho đến khi trẻ được 2 tuổi nhằm giảm tỷ lệ
suy dinh dưỡng nói chung và suy dinh dưỡng thể thấp còi nói riêng trong
chiến lược lâu dài nâng cao tầm vóc, thể lực của người Việt Nam.
- Sự khác biệt giữa các vùng miền cũng là một vấn đề tồn tại trong lĩnh
vực dinh dưỡng trẻ em. Tây Nguyên và vùng núi phía Bắc là 2 vùng có tỷ lệ
suy dinh dưỡng cả thể nhẹ cân và thấp còi cao nhất nước (20,9% và 24,6% so
với tỷ lệ chung cả nước là 15,3% đối với thể nhẹ cân) (31,9 % và 36,4 % so
với tỷ lệ chung cả nước là 25,9% đối với thể thấp còi)17.

- Bên cạnh tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em hiện còn ở mức cao, chúng ta
cũng đang phải đối mặt với tình trạng thừa cân, béo phì ở trẻ em tại khu vực
thành thị, những nơi có điều kiện về kinh tế - xã hội thuận lợi và phát triển
cũng như tình trạng gia tăng các bệnh mạn tính không lây liên quan đến dinh
dưỡng. Đây thực sự là gánh nặng kép về dinh dưỡng mà Việt Nam cần phải
giải quyết trong các năm tới.
- Mặc dù thiếu vitamin A thể nặng hầu như đã được loại trừ ở trẻ em, thể
Viện Dinh dưỡng. Điều tra giám sát dinh dưỡng hàng năm.

16
17

Viện Dinh dưỡng Quốc gia. Số liệu điều tra năm 2015.

17


tiền lâm sàng vẫn đang còn tồn tại có ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Với
tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em là 13%, Việt nam được xếp ở mức
trung bình về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng18.
- Bên cạnh các thành tựu đã đạt được, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ
(NCBSM) còn nhiều tồn tại, thách thức cần phải khắc phục trong thời gian tới.
Chỉ 62% trẻ sơ sinh ở Việt Nam được bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh19.
Việt Nam hàng năm có khoảng 1,5 triệu trẻ em được sinh ra – như vậy có
khoảng 600 nghìn trẻ không được bú sữa mẹ trong giờ đầu. Có thể thấy sữa
mẹ trong giờ đầu - nguồn vắc xin quý cho trẻ đã bị lãng phí.
NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu là yếu tố quan trọng trong việc
giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi. Tuy nhiên, tỷ lệ NCBSM hoàn
toàn trong 6 tháng đầu tại Việt Nam được cải thiện rất ít. Chỉ có 19,6% trẻ dưới
6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn20. Như vậy chỉ có 1 trong số 5 bà mẹ

NCBSM hoàn toàn trong vòng 6 tháng đầu và cứ 10 bà mẹ thì có 3 người
(31%) nuôi con chủ yếu bằng sữa mẹ (sữa mẹ + thức uống khác) trong vòng 6
tháng đầu. Bên cạnh đó, số liệu từ Tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010 cho
thấy, có tới 20% bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho trẻ bú.
Theo một nghiên cứu định lượng được dự án A&T tiến hành năm 2011
về Nuôi dưỡng trẻ nhỏ, trở ngại lớn nhất và phổ biến nhất trong việc không cho
trẻ bú sớm là do bà mẹ nghĩ rằng mình không đủ sữa ngay sau khi sinh. Trở
ngại tiếp theo là người mẹ không được tư vấn đầy đủ về tầm quan trọng của
việc cho trẻ bú sớm. Bên cạnh đó, tỷ lệ mổ đẻ cao, đặc biệt ở Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh và các bệnh viện tư nhân khiến cho việc bắt đầu cho trẻ bú
diễn ra muộn hơn vì người mẹ đang ở trong tình trạng sức khỏe yếu và không
được ở bên cạnh đứa trẻ.
Mặc dù có nhiều nỗ lực trong các hoạt động về NCBSM nhưng bản
thân nhiều đơn vị trong Ngành Y tế cũng chưa thực hiện đầy đủ các hoạt động
khuyến khích NCBSM. Với các lý do khác nhau, nhiều cán bộ y tế còn chưa
quyết tâm và dành thời gian để hỗ trợ bà mẹ NCBSM cũng như còn thiếu kiến
thức và kỹ năng về tư vấn NCBSM. Về phía cộng đồng, ít người dân tin rằng
bà mẹ có thể có đủ sữa cho trẻ bú hoàn toàn trong vòng 6 tháng đầu, trong khi
đó lại tin tưởng vào việc cho ăn bổ sung sớm sẽ làm trẻ cứng cáp.
- Việt Nam triển khai thực hiện Bệnh viện bạn hữu trẻ em từ năm 1992 tại
18

Viện Dinh dưỡng. Điều tra quốc gia vể vi chất dinh dưỡng 2014-2015

19

Viện Dinh dưỡng Quốc gia. Tổng điều tra dinh dưỡng – 2010

20


Viện Dinh dưỡng Quốc gia. Tổng điều tra dinh dưỡng – 2010

18


các cơ sở sản khoa và nhi khoa. Sáng kiến này nhằm bảo vệ, khuyến khích và
hỗ trợ NCBSM. Cho đến nay, chỉ có 59 bệnh viện Trung ương và tỉnh trong số
12.146 bệnh viện (chưa đến 1%) được cấp giấy chứng nhận bệnh viện Bạn
hữu trẻ em (BVBHTE). Việc duy trì và mở rộng số lượng BVBHTE còn gặp
nhiều khó khăn do thiếu kinh phí cũng như hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật từ
các tổ chức quốc tế còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, việc thiếu kinh phí và cam
kết giám sát duy trì tiêu chuẩn BVBHTE của các Sở Y tế cũng là một lý do
khiến cho số lượng BVBHTE tăng không nhiều.
- Năng lực của các cán bộ y tế tư vấn nuôi dưỡng trẻ nhỏ ở tất cả các
tuyến còn hạn chế. Chương trình đào tạo về NCBSM đã được xây dựng và đưa
vào giảng dạy tại các trường Trung học Y tế, tuy nhiên cần phải được cập nhật
kiến thức thường xuyên. Chưa xây dựng được một chương trình đào tạo lại về
NCBSM cấp quốc gia cho các cán bộ y tế các tuyến. Năng lực tư vấn nuôi
dưỡng trẻ nhỏ của đội ngũ cán bộ y tế tuyến xã và y tế thôn bản còn hạn chế.
- Việc quảng cáo quá mức và việc tặng quà của các công ty sữa đã ảnh
hưởng không nhỏ đến niềm tin của bà mẹ trong việc lựa chọn sản phẩm thay
thế sữa mẹ hơn là việc NCBSM. Kết quả nghiên cứu năm 2011 trên 10 tỉnh
của Dự án Nuôi dưỡng và phát triển cho thấy Việt Nam có tỷ lệ xem truyền
hình cao (gần 99% bà mẹ xem truyền hình), trong khi hơn 80% bà mẹ xem các
quảng cáo về sữa bột ít nhất 1 lần 1 tuần, thì chỉ có gần 40% bà mẹ được xem
các chương trình tuyên truyền về NCBSM trên truyền hình. Như vậy, vấn đề
đặt ra là làm thế nào để quản lý được hoạt động quảng cáo của các công ty sữa
cũng như tăng cường truyền thông về NCBSM trên các phương tiện thông tin
đại chúng nếu chúng ta muốn hỗ trợ, khuyến khích và bảo vệ NCBSM21.
- Việc cho trẻ ăn dặm sớm (bắt đầu từ tháng thứ 2) là hiện tượng phổ biến

ở Việt Nam. Lý do chính là vì người mẹ cho con cai sữa sớm và bắt đầu ăn
dặm, khiến cho đứa trẻ không muốn bú mẹ nữa. Việc người mẹ quay trở lại
làm việc cũng là một lý do quan trọng. Cho trẻ ăn bổ sung quá sớm là không
phù hợp đối với nhu cầu của trẻ sơ sinh, cả về số lượng và chất lượng. Thức ăn
bổ sung ở Việt Nam thường có mật độ dinh dưỡng thấp, chế độ ăn uống không
đa dạng. Tỷ lệ cho ăn bổ sung hợp lý ở trẻ từ 6 - 8 tháng tuổi là rất thấp, chỉ có
51,7%, như vậy có tới gần một nửa số trẻ có nguy cơ bị suy dinh dưỡng. Bên
cạnh đó, có tới 16% trẻ không được ăn đủ bữa, 28% trẻ không được ăn đủ
năng lượng và 18% trẻ không được ăn thức ăn giàu sắt22
21

A & T, 2012

22

Viện Dinh dưỡng, 2010

19


- Nuôi dưỡng trẻ nhỏ trong các tình trạng khẩn cấp, nhóm trẻ dễ bị tổn
thương cũng cần được ưu tiên và đánh giá thường xuyên. Nhóm này bao gồm
trẻ mồ côi, trẻ nhiễm hoặc phơi nhiễm HIV, trẻ sống trong vùng bị ảnh hưởng
bởi thiên tai, trẻ có nguy cơ cao, trẻ thuộc đối tượng di cư hoặc giãn dân.
Thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ hợp lý đặc biệt quan trọng đối với các bà
mẹ có HIV dương tính và con của họ nhằm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV từ
mẹ sang con qua sữa mẹ và giảm nguy cơ mắc bệnh tiêu chảy và suy dinh
dưỡng do các thức ăn thay thế không hợp vệ sinh. Bà mẹ có thể lựa chọn:
NCBSM và dùng thuốc kháng virus hoặc không NCBSM để tránh lây nhiễm
HIV qua sữa mẹ nhưng trẻ lại có nguy cơ tử vong vì nhiễm khuẩn do mắc

bệnh tiêu chảy hoặc bệnh về đường hô hấp. Nghiên cứu của FANTA-2 vào
năm 2009 về việc nuôi dưỡng trẻ nhỏ đối với những phụ nữ nhiễm HIV dương
tính ở hai thành phố có tỷ lệ nhiễm HIV cao tại Việt Nam cho thấy khá nhiều
thách thức để tìm được nguồn thức ăn thay thế an toàn23.
Tiêm chủng mở rộng

2.3.

Giảm các bệnh lây nhiễm có thể phòng ngừa được bằng tiêm chủng góp
một phần quan trọng trong giảm tỷ lệ bệnh tật và TVTE nước ta. Từ tháng 10
năm 2000, Việt Nam đã được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận là nước đã
thanh toán bệnh bại liệt và đến năm 2005 được công nhận là nước đã loại trừ
uốn ván sơ sinh. Theo quy định của Chương trình tiêm chủng mở rộng, trẻ em
trước ngày sinh nhật đầu tiên cần được tiêm một mũi vắc xin BCG phòng lao,
ba mũi DPT phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván, ba liều vắc xin phòng bại liệt,
một liều vắc xin phòng sởi, ba mũi tiêm phòng viêm gan B và 3 mũi vắc xin
Hib phòng viêm màng não. Điều tra MICs 2014 cho thấy, trong vòng năm đầu
có 98,0% trẻ em được tiêm BCG, 96,3% được tiêm Bạc hầu - Uốn ván – Ho
gà mũi 1, có 93,5%% được tiêm mũi 2 và 88,6% được tiêm mũi 3. Số liệu
tương tự đối với vắc xin phòng bại liệt như sau: mũi 1: 96,9%, mũi 2: 95,1%
và mũi 3: 91,9%. Các loại vắc xin đạt tỷ lệ tiêm còn thấp là: tiêm phòng sởi
trong vòng năm đầu (86,2%) và tiêm phòng VGB sơ sinh (78,5%). Tính chung
cho tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin phòng bệnh trước
ngày sinh nhật đầu tiên là 75,6%.
Bên cạnh những thành tựu đã nêu trên, chương trình tiêm chủng mở
rộng vẫn còn phải giải quyết một số thách thức liên quan đến vấn đề công
bằng trong cung cấp dịch vụ. Theo Điều tra MICs 2014, tỷ lệ trẻ tiêm chủng
đầy đủ ở nhóm dân tộc Kinh/Hoa đạt được cao hơn nhóm trẻ em dân tộc thiểu
23


Sethuraman, 2011

20


số. Nhóm trẻ em thuộc nhóm 20% hộ nghèo nhất cũng có tỷ lệ tiêm chủng
thấp hơn so với trẻ em thuộc các nhóm có mức sống khá giả hơn.
2.4.

Chăm sóc trẻ bệnh
Phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là một trong những nguyên nhân hàng
đầu gây tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi. Từ năm 1994, chương trình phòng
chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính đã được triển khai thực hiện ở nước ta.
Nội dung chính của chương trình là giáo dục kiến thức cho bà mẹ biết cách
phát hiện sớm dấu hiệu của bệnh, đưa trẻ đến cơ sở y tế kịp thời; huấn luyện
cán bộ y tế cơ sở biết chẩn đoán và điều trị đúng; cung cấp thuốc thiết yếu phù
hợp và hiệu quả để điều trị viêm phổi. Theo điều tra MICs 2014, có 3% trẻ em
dưới 5 tuổi được khai báo có triệu chứng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính trong
vòng 2 tuần trước thời điểm phỏng vấn. Trong đó 81,1% được đưa đến cơ sở y
tế và 88,2% được điều trị bằng kháng sinh. Số điều trị ở cơ sở y tế tư nhân cao
hơn (56,4%) so với cơ sở y tế nhà nước (42,6%).
Phòng chống tiêu chảy
Chương trình phòng chống tiêu chảy được bắt đầu triển khai ở nước ta
từ năm 1983. Nội dung chính của chương trình là điều trị bù nước, điện giải
sớm, an toàn (bằng đường uống) kết hợp với chăm sóc dinh dưỡng tốt cho các
trường hợp tiêu chảy ở trẻ em. Cũng giống như chương trình phòng chống
nhiễm khuẩn hô hấp cấp, chương trình phòng chống tiêu chảy được lồng ghép
vào chiến lược Lồng ghép chăm sóc trẻ bệnh (IMCI) từ năm 1999.

Theo số liệu điều tra MICS 2014, có 8,6% trẻ em dưới 5 tuổi được khai
báo có triệu chứng tiêu chảy cấp trong vòng 2 tuần trước thời điểm phỏng vấn.
Tỷ lệ này cao hơn ở vùng Tây nguyên, vùng trung du-miền núi phía Bắc, ở
nhóm trẻ nhỏ 0-11 tháng tuổi, nhóm trẻ sống trong các hộ gia đình nghèo nhất,
nhóm trẻ thuộc dân tộc thiểu số. Cũng theo điều tra MICS 2014, có 79,6% trẻ
em dưới 5 tuổi được khai báo có triệu chứng tiêu chảy cấp trong vòng 2 tuần
trước thời điểm phỏng vấn có đi tìm lời khuyên hoặc phương pháp điều trị từ
các cơ sở y tế hoặc người cung cấp dịch vụ y tế và nhà thuốc. Có 50,9% trẻ
em khi bị tiêu chảy được uống gói ORS hoặc dung dịch ORS pha sẵn, 41,1%
được uống các loại dung dịch tự pha chế tại nhà (nước gạo rang, nước cơm
pha muối, nước luộc rau…) và 16,9% được uống viên kẽm hoặc sirô kẽm.
Lồng ghép chăm sóc trẻ bệnh
Hoạt động IMCI là sáng kiến của WHO và UNICEF nhằm lồng ghép
21


các chương trình ngành dọc hiện có như chương trình phòng chống tiêu chảy,
nhiễm khuẩn hô hấp cấp, dinh dưỡng, tiêm chủng mở rộng, phòng chống sốt
rét...với mục tiêu nâng cao chất lượng, hiệu quả chăm sóc, điều trị trẻ bệnh
nhằm giảm tỷ lệ TVTE.
Chiến lược IMCI được giới thiệu vào nước ta từ năm 1996 và được Bộ
Y tế chính thức phê duyệt cho triển khai thực hiện trên diện rộng từ năm 1999
và IMCI được coi là một trong các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và
tăng cường hoạt động chăm sóc trẻ bệnh tại các tuyến y tế và cộng đồng. Cho
đến nay hoạt động IMCI đã được triển khai ở hầu hết các tỉnh/ thành phố
trong cả nước. Nội dung IMCI đã được đưa vào chương trình giảng dạy tại 7
trường Đại học và 19 trường Trung học Y tế và hàng ngàn cán bộ y tế đã được
tập huấn cập nhật về nội dung này.
Thách thức đối với các hoạt động IMCI: Mặc dù IMCI được coi như là
một chiến lược hành động nhằm giảm bệnh tật, TVTE nhưng việc triển khai

vẫn còn rất nhiều khó khăn ở tất cả các tuyến. Các nguyên nhân chính dẫn đến
hiện trạng này có thể kể đến như sau:
Tại Trung ương, các thành viên trong Ban điều hành đã có nhiều thay
đổi nhưng chưa được kiện toàn lại. Việc không có một Vụ, Cục nào của Bộ Y
tế được phân công chịu trách nhiệm chính về quản lý nhà nước về hoạt động
IMCI nên việc kiểm tra, giám việc triển khai hoạt động lồng ghép chăm sóc
trẻ bệnh rất hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Văn phòng IMCI ở Viện Vệ sinh
Dịch tễ Trung ương cũng gặp nhiều khó khăn trong việc huy động cán bộ kỹ
thuật tham gia các hoạt động. Một trở ngại lớn nữa là do không có kinh phí
hàng năm từ Bộ Y tế cho việc triển khai IMCI ở các tỉnh nên các hoạt động
chủ yếu phụ thuộc vào nguồn tài trợ từ các dự án của các tổ chức quốc tế.
Chính vì vậy, mặc dù IMCI đã được triển khai từ nhiều năm nay nhưng mới
chỉ bao phủ được khoảng hơn 1/3 số huyện trong cả nước, và trong mỗi huyện
cũng chỉ có một số ít xã triển khai hoạt động này.
Tại tuyến tỉnh, huyện: do nguồn lực hạn chế, trách nhiệm pháp lý cho
việc triển khai chưa cao nên ban điều hành hoạt động không đều, chỉ đạo, phối
hợp giữa tuyến tỉnh và huyện thiếu chặt chẽ, hoạt động phụ thuộc nhiều vào
tuyến trung ương, còn thụ động trong khâu lập kế hoạch.
Về mặt kỹ thuật, 3 thành tố được khuyến cáo trong nội dung IMCI chưa
được triển khai một cách đồng bộ. Các hoạt động IMCI chủ yếu là triển khai
thành tố I – đào tạo cán bộ, một phần trong thành tố II - cải thiện hệ thống y
tế. Thành tố 3 với nội dung rất quan trọng là cải thiện thực hành tại gia đình
22


và cộng đồng thì hầu như chỉ mới áp dụng được ở một số tỉnh. Đây là một hạn
chế rất lớn trong hoạt động IMCI vì việc nâng cao kiến thức thực hành chăm
sóc trẻ tại gia đình và cộng đồng là yếu tố góp phần quan trọng làm giảm đáng
kể TVTE, đặc biệt là trẻ sơ sinh.
3. Hệ thống y tế, mạng lƣới CSSKSS/SKBMTE

3.1.

Mạng lưới cung cấp dịch vụ CSSKBMTE

Mạng lưới cung cấp dịch vụ y tế nói chung và dịch vụ CSSKBMTE nói
riêng ở Việt Nam được bao phủ rộng khắp. Các cơ sở y tế cũng như mạng lưới
cung cấp dịch vụ CSSKBMTE được thiết lập từ trung ương đến tỉnh, huyện,
xã và thôn bản. Theo số liệu khảo sát năm 2013 của Vụ SKBMTE, ở tuyến
tỉnh, ngoài các khoa sản, khoa nhi ở 156 bệnh viện tuyến tỉnh và đa khoa khu
vực, chưa kể hệ thống tư nhân, toàn quốc có 11 bệnh viện chuyên khoa phụ
sản, 12 bệnh chuyên khoa nhi, 9 bệnh viện sản nhi. 100% huyện/thị có trung
tâm y tế (TTYT) /BV tuyến huyện, trong đó có các khoa sản và nhi hoặc
nội/nhi. 97,9% tổng số xã phường có trạm y tế (TYT). Ngoài ra còn có 595
phòng khám đa khoa khu vực (PKĐKKV) đang hoạt động trên toàn quốc24.
Nhìn chung, hệ thống cung ứng dịch vụ y tế ở nước ta đang dần được
đổi mới, cải thiện; từng bước được đầu tư nâng cấp để đáp ứng nhu cầu CSSK
ngày càng cao của nhân dân. Nhiều tiến bộ khoa học, y học đã được áp dụng
trong chẩn đoán, phát hiện sớm và điều trị; nhiều kỹ thuật cao, phức tạp đang
được thực hiện trong các bệnh viện như thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai
hộ, mổ nội soi,…
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được,việc cung cấp các dịch vụ y tế,
trong đó có dịch vụ CSSKBMTE hiện nay ở Việt Nam còn nhiều bất cập như:
mô hình tổ chức nhiều biến động; việc tổ chức lại mô hình y tế tuyến huyện
thành bệnh viện huyện, TTYT dự phòng, phòng y tế, và việc phân công lại
nhiệm vụ giám sát hoạt động của TYT đã phần nào tạo ra sự mất ổn định, xáo
trộn về nhân lực và năng lực cung cấp dịch vụ ở tuyến y tế cơ sở (đánh giá
thực trạng y tế dự phòng tuyến huyện năm 2014 của Cục Y tế dự phòng cho
thấy chỉ có 28,9% huyện áp dụng mô hình TTYT huyện thực hiện đồng thời
cả 2 chức năng dự phòng và điều trị, 71,1% số huyện áp dụng mô hình y tế
tuyến huyện có bệnh viện huyện, TTYT dự phòng và phòng y tế). Quy định về

chức năng nhiệm vụ của các đơn vị y tế tuyến huyện hiện vẫn còn nhiều bất
cập, gây hạn chế trong việc thực thi các nhiệm vụ chuyên môn; chưa có sự
gắn kết chặt chẽ giữa các tuyến; còn tách biệt giữa phòng bệnh và khám, chữa
24

Vụ SKBMTE,Bộ Y tế. Báo cáo khảo sát mạng lưới CSSKSS năm 2013

23


bệnh; tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trung ương còn nặng nề. Chính
sách tài chính y tế còn nhiều bất cập, đặc biệt là các phương thức chi trả dịch
vụ y tế. Tình trạng lạm dụng các dịch vụ y tế (đặc biệt là lạm dụng xét
nghiệm, lạm dụng thuốc,…) còn khá phổ biến. Chưa xây dựng được hệ thống
hiệu quả để kiểm soát và đánh giáchất lượng dịch vụ y tế, trong cả các cơ sở
công lập và tư nhân25.
3.2.

Tình hình nhân lực chuyên ngành sản - nhi

Số lượng và phân bố nhân lực:
Theo số liệu Khảo sát mạng lưới CSSKSS năm 2014 của Vụ SKBMTE,
cả nước có 37.639 cán bộ chuyên môn y tế đang làm việc trong các cơ sở
thuộc mạng lưới CSSKSS ở 3 tuyến tỉnh, huyện và xã, trong đó bao gồm: Bs
trở lên: 8.896 người, hộ sinh/ y sỹ sản nhi (YSSN): 28.743 người. Phân bổ
theo tuyến và theo trình độ như sau:
Tuyến tỉnh: 11.653 (Bs trở lên: 4897 người = 42,02%,
Hộ sinh/YSSN: 6757 người = 57,98%).
Tuyến huyện: 13.123 (Bs trở lên: 3909 người = 29,79%,
HSSN: 9217 người = 70,21%).

Tuyến xã: 12.863 (Bs trở lên 90 = 0,7%,
Hộ sinh/YSSN: 12.773=99,30%).
Khó khăn, thách thức:
Nhân lực về chuyên ngành sản phụ khoa và nhi khoa rất thiếu, đặc biệt
tại tuyến huyện. Hầu hết các bệnh viện huyện đều bố trí khoa Sản chung với
khoa Ngoại để tận dụng nhân lực. Tỷ lệ bác sĩ đa khoa, bác sĩ chuyên khoa
ngoại làm công tác sản khoa khá lớn (chiếm khoảng 1/3). Việc bố trí cho các
cán bộ đi tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn cũng gặp rất nhiều khó khăn
do không đủ cán bộ làm việc.
Số liệu khảo sát tình hình mạng lưới CSSKSS năm 2013 cho thấy,
trong hệ thống y tế công, cả nước hiện mới đạt 0,33 BS chuyên khoa sản (kể
cả định hướng)/10.000 dân; 0,2 BS nhi/10.000 dân; 3,48 y sỹ sản nhi-hộ
sinh/10.000 dân (trong khi đó nhu cầu đến năm 2020 cần đạt 1,2 BS sản, 1,2
BS nhi/10.000 dân và 4,5 hộ sinh và 4,5 điều dưỡng nhi/10.000 dân).
Tại tuyến xã mới có 73,3% TYT xã có hộ sinh từ trung học trở lên, nếu
25

Báo cáo JAHR 2014

24


tính cả YSSN và hộ sinh sơ học, thì tỷ lệ này là 91,3%. Như vậy, còn khoảng
trên 8% TYT chưa có YSSN hoặc hộ sinh trung học trở lên, Đặc biệt, tại 62
huyện nghèo, vẫn còn 15,4% TYT chưa có YSSN hoặc hộ sinh từ trung học
trở lên.
Theo báo cáo của các địa phương, toàn quốc có khoảng trên 12.000
thôn bản vùng khó khăn cần được bố trí cô đỡ thôn bản làm việc, tuy nhiên,
tính đến hết năm 2014 mới có 1.737 cô đỡ thôn, bản được đào tạo theo các
chương trình 6 -18 tháng trong khuôn khổ một số chương trình, dự án.

Tại tuyến huyện, có tới 25,61% bệnh viện đa khoa (BVĐK) huyện
không có BS chuyên khoa sản (từ định hướng trở lên) và 56,4% không có BS
chuyên khoa nhi (từ định hướng trở lên). Đối với 62 huyện nghèo thì tỷ lệ các
khoa sản, khoa nhi không có BS chuyên khoa sản, chuyên khoa nhi làm việc
còn cao hơn. Cụ thể có tới 39% số huyện không có BS chuyên khoa sản (từ
định hướng trở lên) làm việc. Tỷ lệ huyện nghèo không có BS chuyên khoa
nhi (từ định hướng trở lên) làm việc còn cao hơn: 83%.
Ở các bệnh viện tỉnh, khoa Sản trung bình có khoảng 10 bác sỹ (nhiều
tỉnh chỉ có 5-7 BS), tính chung (cả khoa sản và khoa nhi) có tới 1/3 là bác sỹ
đa khoa đang làm sản và nhi. Mỗi đêm trực thường chỉ bố trí được 1 bác sỹ
phụ trách. Thiếu cán bộ chuyên ngành, trực nhiều và liên tục đã ảnh hưởng
đáng kể đến việc theo dõi và xử trí khi có tình huống bất thường xảy ra, đặc
biệt khi có quá đông sản phụ thì càng dễ xảy ra sai sót. Bên cạnh đó, còn có
biểu hiện thiếu ý thức trách nhiệm, chủ quan, chưa kịp thời, chưa thực hiện
nghiêm quy chế bệnh viện, quy định chuyên môn trong chẩn đoán, tiên lượng
và xử trí cấp cứu, hồi sức sản khoa, sơ sinh khi có tai biến xảy ra.
Đào tạo kỹ năng thực hành còn nhiều hạn chế. Cơ hội thực hành trên
người bệnh rất ít, vì vậy để đào tạo kỹ năng cần phải dựa vào đào tạo thực
hành trên mô hình (tiền lâm sàng). Tuy nhiên mô hình đào tạo thường không
được trang bị đầy đủ, kể cả tại hệ thống trường đại học, cao đẳng, trung cấp y
(đào tạo chính quy) và các bệnh viện, trung tâm CSSKSS (đào tạo lại). Điều
này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo, đặc biệt là đào tạo thực
hành và năng lực thực hành của CBYT.
Năng lực chuyên môn của cán bộ y tế
Năng lực chuyên môn của cán bộ y tế làm công tác chăm sóc sản khoa,
chăm sóc sơ sinh, đặc biệt tại các tuyến y tế cơ sở còn nhiều hạn chế trong
việc phân loại, phát hiện nguy cơ, tiên lượng, theo dõi, cấp cứu và hồi sức sản
khoa, sơ sinh. Ít cơ hội được tham dự tập huấn chuyên môn do kinh phí hạn
25



×