Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế của các thương nhân việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.22 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
-------***-------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG
HOẠT ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ CỦA
CÁC THƯƠNG NHÂN VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện
Lớp
Khoá
Giáo viên hướng dẫn

: Nguyễn Như Trang
: Anh 7
: 43B - KT&KDQT
: ThS. Phan Thị Thu Hiền

Hà Nội– Tháng 06/2008


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... - 1 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO TRONG
HOẠT ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ ................................... - 4 1.1. Hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế...................................................................... - 4 1.1.1. Khái niệm hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế ........................... - 4 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế ..................... - 4 1.1.3. Vai trò của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế trong nền kinh tế
quốc dân. ................................................................................................ - 5 1.2. Rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế .............................................. - 7 1.2.1. Rủi ro trong kinh doanh ................................................................ - 7 1.2.2. Rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế ...................... - 16 1.3. Quản trị rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế ............................ - 19 1.3.1. Khái niệm quản trị rủi ro ............................................................ - 19 1.3.2. Vai trò của quản trị rủi ro với hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế ... - 20 CHƯƠNG II: RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ............................ - 26 2.1. Tổng quan về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế của các doanh
nghiệp Việt Nam ..................................................................................... - 26 2.2. Tình hình rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế tại Việt Nam. - 30 2.2.1. Nguy cơ rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế của Việt Nam .. - 30 2.2.2. Một số rủi ro thường gặp trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế
của Việt Nam ........................................................................................ - 35 2.3. Hoạt động quản trị rủi ro trong mua bán hàng hóa quốc tế tại các doanh


nghiệp Việt Nam.................................................................................................................. - 64 2.3.1. Nhận thức của các doanh nghiệp về rủi ro .................................. - 64 2.3.2. Thực trạng các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế tại Việt Nam. ............................................................. - 65 -


CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ .......................................................... - 68 3.1. Tính chất và mức độ rủi ro trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ............. - 68 3.2. Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế .......... - 70 3.2.1. Giải pháp vĩ mô........................................................................... - 70 3.2.2. Giải pháp vi mô........................................................................... - 76 KẾT LUẬN ..................................................................................................... - 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... - 83 -


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng mức lưu chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn
2000 – 2007...................................................................................................... - 27 Bảng 2.2 : Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu thời kỳ 2000 - 2007 ................ - 28 Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu sang một số thị trường chính thời kỳ 2000 – 2007 ............... - 28 Bảng 2.4: Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu thời kỳ 2000-2007 ................... - 29 Bảng 2.5: Kim ngạch nhập khẩu tại một số thị trường chính ............................. - 30 Bảng 2.6: Giá gạo thế giới giai đoạn 1990-2006 ............................................... - 38 Bảng 2.7: Giá dầu thô trên thế giới giai đoạn 1995-2008 .................................. - 40 -


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới muốn phát triển và trở nên thịnh
vượng thì không thể không có sự giao lưu về chính trị, kinh tế cũng như văn
hóa với cộng đồng thế giới. Sự thật này đã khiến nhiều quốc gia trên thế giới
xóa bỏ hận thù, hiềm khích, vượt qua không gian và những bất đồng về về ý
thức hệ để thực hiện hợp tác và phát triển các quan hệ kinh tế. Là một lĩnh
vực quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động mua bán hàng
hóa quốc tế đã ra đời và không ngừng phát triển. Tuy nhiên phải đến cuối thế
kỷ 20, hoạt động này mới thực sự phát triển mạnh mẽ khi mà xu hướng quốc
tế hóa kinh tế, tự do hóa thương mại là nhu cầu thực sự của đời sống kinh tế
và xã hội toàn cầu.
Sau Đại hội VI của Đảng, hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam,
trong đó bao gồm cả hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế thực sự được mọi
cấp, mọi ngành coi trọng và có điều kiện phát triển nhờ sự đổi mới mạnh mẽ
trong tư duy kinh tế. Hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế đã góp phần tạo
nên một cục diện mới cho nền kinh tế trong khoảng gần 20 năm trở lại đây.
Phải thừa nhận một thực tế là hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế của Việt

Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn, các mặt hàng mua bán ngày
một đa dạng, phong phú, các thị trường được mở rộng ra hầu khắp các nước
trên thế giới, góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Tuy nhiên, hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế không chỉ mang lại lợi
ích kinh tế mà còn làm phát sinh những nguy cơ có thể gây ra rủi ro, tổn thất,
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả kinh tế - xã hội của các doanh
nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thậm chí có thể dẫn đến sự

-1-


phá sản của một doanh nghiệp hoặc một ngành sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt
là trong một nền kinh tế mở, việc giao lưu, buôn bán với các đối tác nước
ngoài tiềm ẩn những rủi ro phức tạp trong khi Việt Nam lại chưa có nhiều
kinh nghiệm trong kinh doanh thương mại quốc tế thì những rủi ro này lại
càng đa dạng và khó lường hơn. Rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế đã và đang làm cản trở hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam,
làm cho hoạt động này tăng trưởng chưa xứng đáng với tiềm năng phát triển
của nước ta. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể phòng ngừa và giảm thiểu
những rủi ro này nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế, góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Muốn vậy, chúng ta cần phân tích
và nghiên cứu những rủi ro có khả năng xảy ra đối với các doanh nghiệp tham
gia hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế tại Việt Nam, từ đó có các biện pháp
phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Đây là một việc làm rất có ý nghĩa đối với hoạt
động mua bán hàng hóa quốc tế trong điều kiện chúng ta đang phải đối mặt
với nhiều nguy cơ rủi ro cao như hiện nay. Đây cũng chính là lý do tôi chọn
đề tài: “Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động mua bán hàng

hóa quốc tế của các thương nhân Việt Nam ” là đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.

Trong phạm vi khóa luận này, người viết đi sâu phân tích những rủi ro
các doanh nghiệp Việt Nam thường gặp phải khi tham gia hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế và qua đó, đề ra một số biện pháp cần thiết để phòng ngừa
và hạn chế những rủi ro này.
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
khóa luận có kết cấu như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro trong hoạt động mua
bán hàng hóa quốc tế
Chương II: Rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế của các
doanh nghiệp Việt Nam

-2-


Chương III: Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế
Với trình độ hạn chế, kinh nghiệm nghiên cứu chưa nhiều, chắc chắn
bài khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý
kiến đóng góp của thầy cô giáo và các bạn để có thể hoàn thiện thêm vốn kiến
thức về đề tài trên cũng như có một nền tảng vững chắc hơn cho việc học tập
và nghiên cứu sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Th.S Phan Thị Thu Hiền đã động viên và
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận này.

Hà Nội, ngày 23 tháng 5 năm 2008
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Như Trang

-3-



CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
1.1. Hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.1. Khái niệm hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế
Hoạt động mua bán hàng quốc tế là một bộ phận quan trọng trong hoạt
động thương mại quốc tế.
Theo khoản 8 điều 3 Luật Thương mại Việt Nam 2005:
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, trong đó bên bán có nghĩa
vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh
toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và chuyển
quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
Vậy thế nào là mua bán hàng hóa quốc tế?
Theo Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế, mua bán hàng
hóa quốc tế là hoạt động mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại
tại các quốc gia khác nhau. Và tại khoản 1 điều 27, Luật Thương mại Việt
Nam 2005 các hình thức mua bán hàng hóa quốc tế đã được liệt kê, bao gồm:
xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế
Trong phạm vi khóa luận, người viết nghiên cứu về hoạt động mua bán
hàng hóa hữu hình. Xét về mặt đặc điểm, ngoài những đặc điểm cơ bản, hoạt
động mua bán hàng hóa quốc tế khác với hoạt động mua bán hàng hóa trong
nước ở những điểm sau đây:
- Hàng hóa được di chuyển qua biên giới quốc gia. Ngày nay biên giới
này được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là biên giới cứng mà còn bao gồm
biên giới mềm. Ví dụ như: hoạt động mua bán hàng hóa diễn ra giữa một

-4-



doanh nghiệp trong khu vực chế xuất và một doanh nghiệp ngoài khu chế xuất
được coi là hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, nhưng hàng hóa trong
trường hợp này không di chuyển khỏi biên giới quốc gia.
- Đồng tiền thanh toán là ngoại tệ của ít nhất một bên. Đây cũng không
phải là điểm tất yếu. Khi một doanh nghiệp Việt Nam mua hàng hóa của một
doanh nghiệp Mỹ, đồng tiền thanh toán là đôla Mỹ (USD) thì đồng tiền này là
ngoại tệ đối với Việt Nam nhưng không phải là ngoại tệ đối với Mỹ.
- Các bên tham gia hoạt động mua bán có trụ sở kinh doanh tại các nước
khác nhau. Đây chính là đặc trưng quan trọng nhất của yếu tố quốc tế.
1.1.3. Vai trò của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế trong nền kinh tế
quốc dân.
Ngày nay mọi người đều nhận thức được rằng một quốc gia không thể
đầy đủ, ấm no nếu như không phát triển quan hệ kinh tế quốc tế và thương
mại quốc tế trong đó không thể thiếu hoạt động mua bán hàng hóa giữa các
quốc gia. Lịch sử đã chứng minh rằng: nhiều quốc gia với nền kinh tế đóng,
sản xuất đã không có hiệu quả và buộc phải chuyển sang cơ chế quản lý kinh
tế mới. Vai trò của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế được thể hiện thông
qua ảnh hưởng của hoạt động này tới sự phát triển kinh tế và những lợi ích
kinh tế mà nó mang lại cho các quốc gia cũng như cho các doanh nghiệp. Vai
trò của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế đối với mỗi quốc gia được thể
hiện ở một số mặt cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đó là cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng sử dụng có hiệu quả
cao nguồn lực hiếm hoi. Các quốc gia sẽ tập trung vào sản xuất những ngành
mà mình có lợi thế tuyệt đối và tương đối, có nghĩa là một quốc gia sẽ tập
trung vào sản xuất những sản phẩm mà chi phí hoặc chi phí cơ hội quốc gia
này phải bỏ ra để sản xuất ra những sản phẩm đó thấp hơn so với các quốc gia
khác. Một quốc gia có được những lợi thế này là do có lợi thế về tự nhiên,
trình độ khoa học công nghệ, trình độ lao động, ngoài ra là do có sự khác biệt


-5-


về nguồn lực giữa các quốc gia cũng như sự khác nhau trong tỷ lệ các yếu tố
sản xuất được sử dụng để sản xuất ra các hàng hóa. Khi các quốc gia tận dụng
được những lợi thế này, năng suất lao động của quốc gia sẽ cao hơn, giá thành
các sản phẩm cũng sẽ thấp hơn. Nhờ đó khi tham gia trao đổi mua bán với các
quốc gia khác - xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế, nhập khẩu những sản
phẩm kém lợi thế - họ sẽ có lợi.
Thứ hai, hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế giúp mở rộng khả năng
sản xuất của mỗi quốc gia thông qua thị trường quốc tế rộng lớn. Nhờ có thị
trường tiêu thụ, các nhà sản xuất trong nước không ngừng đầu tư để phát triển
sản xuất, từ đó không những mở rộng quy mô sản xuất mà còn góp phần nâng
cao năng suất lao động cá biệt, hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thứ ba, hoạt động này giúp tạo vốn và kỹ thuật từ bên ngoài. Việc tăng
cường xuất khẩu để tự cân đối ngoại tệ trong cán cân thương mại, tạo nguồn
cung cấp tài chính cho nhập khẩu kỹ thuật công nghệ, máy móc, thiết bị hiện
đại từ bên ngoài đã góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Đây là
điều kiện vật chất rất quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Thứ tư, hoạt động xuất khẩu có tác dụng kích thích đổi mới trang thiết
bị, công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, qua đó kích thích lực
lượng sản xuất phát triển. Để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường thế giới về
quy cách, phẩm chất của sản phẩm, một mặt doanh nghiệp phải đổi mới trang
thiết bị công nghệ, mặt khác phải nâng cao trình độ tay nghề của người lao
động, học hỏi kinh nghiệm sản xuất và bản thân người quản lý phải không
ngừng học tập nâng cao sự hiểu biết và trình độ quản lý.
Thứ năm, hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế đã góp phần giải quyết
công ăn việc làm và nâng cao mức sống cho người lao động. Thông qua hoạt
động xuất khẩu, các quốc gia tăng cường đầu tư phát triển sản xuất, từ đó tạo

ra nhiều công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.

-6-


Thứ sáu, thông qua việc nhập khẩu những mặt hàng trong nước chưa
sản xuất được hoặc phải sản xuất với chi phí cao, những khiếm khuyết của
nền kinh tế đã được phần nào bổ sung, đáp ứng cho nhu cầu của sản xuất và
nhu cầu sống ngày càng cao của nhân dân.
Và cuối cùng, thông qua hoạt động trao đổi hàng hóa đã tăng cường uy
tín và vị thế của các quốc gia trên trường quốc tế. Nhờ có quan hệ giao dịch,
trao đổi hàng hóa mà quốc gia này có thể hiểu thêm về sự phát triển, văn hóa,
tập quán và con người của quốc gia khác.
Qua những phân tích trên ta có thể thấy, hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế cũng như sự phát
triển của một quốc gia, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế đang
diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Tuy nhiên, hoạt động mua bán hàng hóa quốc
tế cũng có những hạn chế nhất định đối với mỗi quốc gia, gây ra những thiệt
hại về kinh tế khi quan hệ trao đổi không bình đẳng và do những rủi ro gây ra.
1.2. Rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế
1.2.1. Rủi ro trong kinh doanh
1.2.1.1. Khái niệm rủi ro
Rủi ro là sự kiện không may mắn, hết sức đa dạng, phức tạp luôn gắn
liền với môi trường hoạt động của con người, trong đó không loại trừ hoạt
động kinh doanh. Người không dám chấp nhận rủi ro không thể tham gia vào
kinh doanh, đây là một chân lý. Tuy nhiên, một nhà kinh doanh thành đạt
không chỉ là người biết chấp nhận mạo hiểm trong kinh doanh mà còn là
người biết phân tích, đánh giá, lường trước rủi ro và tìm ra các phương án
thích hợp để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Vậy rủi ro là gì? Trên thế giới và
Việt Nam đã có nhiều nhà kinh tế, nhà kinh doanh bảo hiểm nghiên cứu, đưa

ra những khái niệm khác nhau về rủi ro.
Inrving Pferfer (Mỹ) cho rằng : “Rủi ro là tổng hợp của những sự ngẫu
nhiên có thể đo lường được bằng xác suất”[4]. Theo nhà kinh tế này, rủi ro

-7-


gắn liền với sự hiện diện ngẫu nhiên của sự vật, hiện tượng có thể đo lường
được bằng xác suất, có nghĩa là rủi ro là sự cố ngẫu nhiên không phụ thuộc
vào ý chí của con người.
Marilu Hurt MrCarthy thuộc viện khoa học kỹ thuật Georgia (Mỹ) lại
cho rằng: “Rủi ro là một tình trạng trong đó các biến cố xảy ra trong tương lai
có thể xác định được”[4]. Theo đó, kinh nghiệm của một công ty có thể cung
cấp chứng cứ về tần số của các biến cố riêng biệt trong quá khứ, do đó cho
phép các nhà quản trị xác định phân bổ xác suất xuất hiện của các biến cố
tương lai. Tuy vậy, sự xuất hiện của các biến cố còn bị ảnh hưởng bởi những
yếu tố tác động hiện tại.
Theo Từ điển kinh tế học hiện đại, “Rủi ro là hoàn cảnh trong đó một sự
kiện xảy ra với một xác suất nhất định hoặc trong trường hợp quy mô của sự
kiện đó có một phân phối xác suất”[4].
Còn trong tác phẩm: “Phương pháp mạo hiểm và phòng ngừa rủi ro
trong kinh doanh”, tác giả Nguyễn Hữu Thân, có viết: “Rủi ro là sự bất trắc
gây ra mất mát, thiệt hại”[4]. Bất trắc chính là những điều không lường trước
được. Như vậy theo khái niệm này thì, rủi ro phải là bất trắc gây ra hậu quả
cho con người, còn những bất trắc không gây ra tổn thất không phải là rủi ro.
Như vậy, đa số các nhà kinh tế và học giả đều cho rằng: rủi ro là những
điều không chắc chắn về những gì xảy ra trong tương lai nhưng có thể đo
lường được, xác định được ở một mức độ nào đó. Điều này có nghĩa là con
người có thể lường trước được những rủi ro có khả năng xảy ra và phòng
ngừa, hạn chế được những rủi ro ở mức tối đa.

1.2.1.2. Đặc điểm của rủi ro
Từ các khái niệm trên, ta thấy rủi ro trong kinh doanh có những đặc
điểm sau:
- Tính khách quan: rủi ro tồn tại khách quan, rủi ro có thể xảy ra bất cứ
lúc nào và không phụ thuộc vào ý chí của con người.

-8-


- Tính tương lai: rủi ro có tính tương lai vì khi tính đến rủi ro thì nó
chưa xảy ra, chúng ta chỉ dự đoán và đo lường trước rủi ro.
- Tính bất định: rủi ro mang tính bất định, con người chỉ có thể lường
trước được rủi ro chứ không thể đánh giá một cách chính xác về mức độ của
rủi ro cũng như khi nào thì rủi ro xảy ra.
- Tính khả năng: rủi ro có thể trở thành hiện thực nhưng cũng có thể
không xảy ra, không ai có thể khẳng định chắc chắn sẽ có hay không có rủi ro
mà chỉ có thể tính được xác suất xảy ra rủi ro là lớn hay nhỏ.
- Tính lịch sử: ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn khác nhau có những rủi ro
khác nhau. Có thể lấy ví dụ như khi khoa học kỹ thuật và công nghệ phát
triển, kỹ thuật đóng tàu hiện đại hơn đã khắc phục được nhiều yếu tố rủi ro
thiên tai trong vận tải biển nhưng cũng đồng thời mở ra nhiều hình thức
thương mại mới, thanh toán mới và nảy sinh những rủi ro mới.
1.2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng và nguyên nhân gây ra rủi ro trong hoạt
động kinh doanh
Qua theo dõi, nghiên cứu và phân tích quá trình kinh doanh của các
doanh nghiệp cho thấy các nhân tố ảnh hường và nguyên nhân gây ra rủi ro
trong kinh doanh có thể được chia thành hai nhóm như sau:
a) Các nhân tố ảnh hưởng và nguyên nhân khách quan:
Nguyên nhân khách quan gây ra rủi ro tổn thất cho doanh nghiệp là
những nhân tố thuộc môi trường tự nhiên, chính trị, kỹ thuật, xã hội, đặc biệt

là những nhân tố thuộc môi trường kinh tế tác động và nằm ngoài sự kiểm
soát của doanh nghiệp.
- Môi trường tự nhiên: Môi trường tự nhiên vừa là tiền đề cho sự phát
triển kinh tế nhưng đôi khi lại là nhân tố tác động làm gia tăng nguy cơ rủi ro
trong kinh doanh thông qua các hiện tượng tự nhiên bất lợi như bão lụt, động
đất, núi lửa… Môi trường tự nhiên cũng là nhân tố làm giảm sút giá trị sử
dụng và giá trị thương mại của hàng hóa qua đó làm hoạt động sản xuất kinh

-9-


doanh trở nên khắc nghiệt, khó khăn hơn. Sự tác động của môi trường tự
nhiên bất lợi làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đầy bất định và
chứa nhiều rủi ro hơn.
- Môi trường chính trị: Sự ổn định chính trị là điều kiện vô cùng quan
trọng đảm bảo cho một quốc gia phát triển và thịnh vượng. Kinh doanh trong
một môi trường chính trị ổn định là điều kiện cần cho sự thành công của các
doanh nghiệp. Với một môi trường chính trị bất định, doanh nghiệp sẽ thường
xuyên gặp phải những rủi ro không lường trước được. Hậu quả của những
loại rủi ro này sẽ rất nghiêm trọng đối với doanh nghiệp bởi vì rủi ro chính trị
thường là nguyên nhân của nhiều rủi ro khác và tạo ra chuỗi rủi ro.
- Môi trường kỹ thuật: Kỹ thuật là nhân tố nền tảng quyết định sản xuất,
quyết định phát triển năng suất lao động trong mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh. Xét về phương diện nào đó, phát triển khoa học kỹ thuật cũng tạo ra
những rủi ro trong cuộc sống cũng như trong kinh doanh. Mặt khác, trong
kinh doanh, khi khoa học mới ra đời và nhanh chóng được áp dụng sẽ là nguy
cơ rủi ro trong đầu tư cho nhiều doanh nghiệp đang áp dụng kỹ thuật cũ. Để
phòng chống rủi ro loại này, nhiều doanh nghiệp phải mua quyền sử dụng các
phát minh, sáng chế nhằm tiếp cận kỹ thuật mới trong quá trình hoạt động
kinh doanh của mình.

- Môi trường xã hội: Trong kinh doanh không thể không đề cập đến môi
trường xã hội. Nếu có những hiểu biết sâu sắc về xã hội, doanh nghiệp sẽ tạo
dựng cho mình một nền tảng vững chắc trong kinh doanh. Nếu kinh doanh mà
thiếu tri thức về xã hội sẽ gặp phải nhiều rủi ro và bất trắc. Môi trường xã hội
có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh thông qua một số nhân tố thuộc
quan hệ xã hội, tôn giáo, văn hóa, đạo đức, tập quán,… Sự khác biệt về tôn
giáo, văn hóa, phạm trù đạo đức, tập quán luôn làm gia tăng tính bất định
trong quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp.

- 10 -


- Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý là toàn bộ những quy phạm,
quy tắc ứng xử, quy định về phạm vi, quyền hạn của cá nhân, tổ chức được
phép kinh doanh hành nghề trong một quốc gia, lãnh thổ. Môi trường pháp lý
minh bạch là một trong những cơ sở quan trọng giúp cho các doanh nghiệp ổn
định, yên tâm phát triển kinh doanh. Sự thay đổi theo hướng bất lợi của các
quy phạm, quy định của văn bản pháp lý, ví dụ như: thắt chặt quản lý, tăng
thuế xuất nhập khẩu, thuế nội địa,… hoặc có sự chồng chéo giữa các văn bản
pháp luật, là nguyên nhân làm tăng tính bất định, rủi ro trong kinh doanh làm
suy giảm niềm tin của các doanh nghiệp.
- Sự biến động của chu kỳ kinh doanh: Chu kỳ kinh doanh chính là sự
phát triển kinh tế theo chu kỳ, là quy luật kinh tế đặc trưng của nền kinh tế thị
trường. Một trong những biểu hiện của chu kỳ kinh doanh là khủng hoảng
kinh tế, là nguyên nhân làm gia tăng nguy cơ rủi ro cho doanh nghiệp. Nhận
thức được chu kỳ kinh doanh là điều cần thiết đối với các doanh nghiệp nhằm
điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp, qua đó hạn chế được rủi ro trong kinh
doanh.
- Cạnh tranh: Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường chính là những thủ
pháp của các doanh nghiệp nhằm giành được nhiều thị phần, uy tín và lợi

nhuận trong kinh doanh. Cạnh tranh có thể kích thích sản xuất phát triển bằng
cách nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí, mang lại nhiều lợi ích cho xã
hội nhưng cũng không tránh khỏi những biện pháp thiếu lành mạnh, cá lớn
nuốt cá bé dẫn đến tiêu diệt lẫn nhau. Nếu như doanh nghiệp không xác định
cho mình một chỗ đứng, không có chiến lược kinh doanh tốt, sách lược mềm
dẻo, không ngừng cải tiến chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động,
giảm giá thành sản phẩm… thì không có khả năng cạnh tranh trong một nền
kinh tế mở và tất nhiên sẽ thất bại trên thương trường.
- Lạm phát: Lạm phát được biểu hiện qua sự mất giá của đồng tiền trước
khả năng thanh toán. Lạm phát ngoài tầm kiểm soát của chính phủ sẽ có ảnh

- 11 -


hưởng xấu đến môi trường kinh doanh, làm cho hoạt động kinh doanh không
có hiệu quả, làm tăng mức độ rủi ro trong đầu tư, khi doanh nghiệp bỏ một
lượng vốn rất lớn nhưng sau một thời gian kinh doanh không thu hồi được
vốn tính theo giá trị cũ. Nếu lạm phát quá nhanh, mọi người sẽ đầu cơ nhiều
hàng hóa, từ đó hạn chế lưu thông , trao đổi hàng hóa, đương nhiên sản xuất
cũng không thể phát triển.
- Cung cầu và giá cả hàng hóa: Sự biến đổi của giá cả hàng hóa là do tác
động giữa cung và cầu trên thị trường, là một trong những nhân tố thường
nằm ngoài tầm kiểm soát của các cá nhân và tổ chức. Nằm ngoài ý chí của
con người, giá cả có thể làm cho các cá nhân, tổ chức này gặp may mắn
nhưng cũng có thể làm cho các cá nhân, tổ chức khác gặp rủi ro.
- Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là sự thể hiện một đơn vị tiền tệ này
đổi được bao nhiêu đơn vị tiền tệ khác. Sự biến đổi tỷ giá hối đoái ảnh hưởng
rất lớn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp. Khi xuất khẩu nếu tỷ giá giảm
hoặc khi nhập khẩu nếu tỷ giá tăng thì sẽ làm giảm lợi nhuận trong kinh
doanh.

- Thiếu thông tin về kinh tế, xã hội: Khi doanh nghiệp không tiếp cận
được nguồn thông tin hoặc sai lệch thông tin dẫn đến những sai lầm trong
công tác xây dựng chiến lược đầu tư, lựa chọn thị trường, ngành hàng… khi
ra quyết định kinh doanh. Tuy đây không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra
rủi ro nhưng nó có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động của các doanh nghiệp
cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự ảnh hưởng này còn phụ thuộc vào
quy mô hoạt động kinh doanh, từ đó quyết định đến mức độ nghiêm trọng của
rủi ro.
- Khách hàng hoặc người thứ ba gây ra rủi ro: Trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh, cá nhân và tổ chức phải quan hệ với rất nhiều người và tổ chức
khác nhau. Chính từ mối quan hệ này đã phát sinh các nhân tố có thể gây ra
rủi ro, tổn thất cho cá nhân hoặc tổ chức.

- 12 -


b) Các nhân tố ảnh hưởng và nguyên nhân chủ quan:
- Thái độ của doanh nghiệp đối với rủi ro: Đây rất có thể là một nhân tố
quan trọng làm tăng hoặc giảm rủi ro trong kinh doanh. Nếu như doanh
nghiệp chủ quan, xem thường, không quan tâm, mất cảnh giác… thì rủi ro sẽ
xảy ra thường xuyên hơn và hậu quả của nó cũng nặng nề hơn. Ngược lại, nếu
doanh nghiệp luôn quan tâm, cảnh giác thì rủi ro sẽ ít xảy ra ít hơn. Khi lo sợ
và quan tâm đến rủi ro thì doanh nghiệp sẽ nghiên cứu và có biện pháp phòng
chống tốt hơn từ đó có thể hạn chế rủi ro xảy ra.
- Sai lầm trong lựa chọn chiến lược kinh doanh, chính sách và cơ chế
hoạt động của doanh nghiệp. Những sai lầm của cá nhân, tổ chức về việc lựa
chọn chiến lược kinh doanh thường gây ra những hậu quả nặng nề kéo dài.
Đây có thể được coi là nguyên nhân lớn nhất gây ra rủi ro cho doanh nghiệp,
dẫn đến lãng phí về tiền bạc, sức người và khủng hoảng niềm tin.
- Sự yếu kém về năng lực quản trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ:

Trình độ, năng lực quản lý của các nhà quản trị chưa tương xứng với trách
nhiệm được phân công, với quy mô của tổ chức, trình độ năng lực chuyên
môn của các chuyên gia, chuyên viên, đội ngũ hành chính… chưa đáp ứng
được yêu cầu, trình độ tay nghề của công nhân không đảm bảo cho sản xuất
luôn là nguyên nhân gây ra rủi ro cho doanh nghiệp, sự thành bại của các
doanh nghiệp phần lớn phụ thuộc vào năng lực quản trị, trình độ chuyên môn
và tay nghề của người lao động.
- Thiếu đạo đức trong kinh doanh: Tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề
nghiệp… của mọi thành viên tổ chức không theo chuẩn mực chung luôn đe
dọa đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thiếu tinh thần trách
nhiệm thường không hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, gây trở ngại đến
công việc chung, làm mất uy tín cho doanh nghiệp. Không có đạo đức dẫn
đến biển thủ, lừa đảo, chiếm dụng, vi phạm cam kết trong hoạt động kinh
doanh.

- 13 -


1.2.1.4. Phân loại rủi ro:
Trên thực tế tồn tại rất nhiều loại rủi ro. Ở mỗi lĩnh vực khác nhau,
ngoài những rủi ro chung còn gặp phải những rủi ro riêng. Trong hoạt động
kinh doanh cũng như trong đời sống kinh tế xã hội, việc phân loại rủi ro là hết
sức cần thiết để hiểu và nắm bắt được rủi ro, từ đó có thể đưa ra những
phương pháp quản trị rủi ro tốt nhất. Có nhiều tiêu thức để phân loại rủi ro.
Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu:
a) Căn cứ vào tính chất của rủi ro
Theo căn cứ này, có hai loại rủi ro: rủi ro thuần túy và rủi ro suy đoán.
- Rủi ro thuần túy: là rủi ro chỉ mang lại những thiệt hại, mất mát, nguy
hiểm như: mất cắp, hỏa hoạn, tai nạn giao thông,… làm phát sinh một khoản
chi phí để bù đắp thiệt hại nên cần phải phòng tránh hoặc hạn chế.

- Rủi ro suy đoán: là rủi ro mà trong đó những cơ hội tạo ra thuận lợi
gắn liền với những nguy cơ gây ra tổn thất. Loại rủi ro này là động lực thúc
đẩy hoạt động kinh doanh và có tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
b) Căn cứ vào khả năng bảo hiểm
Trên góc độ của người kinh doanh bảo hiểm, rủi ro được chia thành rủi
ro được bảo hiểm, rủi ro không được bảo hiểm và rủi ro phải bảo hiểm riêng.
- Rủi ro được bảo hiểm: là những rủi ro có tính bất ngờ, ngẫu nhiên, xảy
ra ngoài ý muốn của người được bảo hiểm.
- Rủi ro không được bảo hiểm: là những rủi ro không được người bảo
hiểm nhận bảo hiểm hoặc không được người bảo hiểm bồi thường trong mọi
trường hợp. Đó là rủi ro đương nhiên xảy ra, chắc chắn xảy ra, hoặc các thiệt
hại do nội tỳ, bản chất của hàng hóa, do lỗi của người được bảo hiểm, thiệt
hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm trễ, những rủi ro có tính chất thảm họa
mà con người không lường trước được quy mô, mức độ và hậu quả.
- Rủi ro phải bảo hiểm riêng: là những rủi ro mà muốn được bảo hiểm
thì phải thỏa thuận thêm, thỏa thuận riêng.

- 14 -


c) Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh rủi ro
Đây là những rủi ro do các yếu tố thuộc môi trường tự nhiên, môi
trường văn hóa- xã hội, môi trường kinh tế, môi trường tác nghiệp… gây ra.
Sự thiếu ổn định của các yếu tố này có thể dẫn đến rủi ro cho các doanh
nghiệp.
- Rủi ro do thiên nhiên: là rủi ro do các hiện tượng thiên nhiên như:
bão, lũ lụt, hạn hán, sóng thần, sét đánh, núi lửa… gây ra. Những rủi ro này
thường dẫn đến những thiệt hại to lớn về người và của và làm cho các doanh
nghiệp bị tổn thất nặng nề.
- Rủi ro do môi trường văn hóa – xã hội: là những rủi ro do sự thiếu

hiểu biết về phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lối sống, nghệ thuật, đạo đức…
của các dân tộc khác cũng như việc không nắm được sự thay đổi các chuẩn
mực giá trị, hành vi của con người, cấu trúc xã hội, các định chế,… từ đó dẫn
đến cách hành xử không phù hợp, gây thiệt hại, mất mát, mất cơ hội kinh
doanh cũng như giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
- Rủi ro do môi trường chính trị - pháp luật: Môi trường chính trị - pháp
luật có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp,
nếu môi trường này ổn định sẽ giúp giảm thiểu rất nhiều rủi ro cho các doanh
nghiệp. Chỉ có những doanh nghiệp biết nghiên cứu kỹ, nắm vững và có
chiến lược, sách lược phù hợp với môi trường chính trị - pháp luật mình đang
kinh doanh thì mới có cơ hội thành công.
- Rủi ro do môi trường kinh tế: Mọi hiện tượng diễn ra trong môi trường
kinh tế như: tốc độ phát triển kinh tế, khủng hoảng, lạm phát,… đều ảnh
hưởng trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp, gây ra những rủi ro, bất ổn. Đặc
biệt các hiện tượng như: tỷ giá hối đoái thay đổi, giá cả hàng hóa biến động…
sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Rủi ro do môi trường hoạt động của doanh nghiệp: Rủi ro có thể phát
sinh ở cả môi trường hoạt động bên trong như tổ chức bộ máy, văn hóa doanh

- 15 -


nghiệp, tuyển dụng, đãi ngộ nhân viên, tâm lý của người lãnh đạo…hay bên
ngoài doanh nghiệp như quan hệ với khách hàng (cả nhà cung cấp đầu vào lẫn
người tiêu thụ đầu ra), đối thủ cạnh tranh…
1.2.2. Rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế
1.2.2.1. Đặc điểm riêng của rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế
Ngoài những đặc điểm chung đã nêu ở trên, rủi ro trong hoạt động mua
bán hàng hóa quốc tế còn có những điểm khác biệt cơ bản sau đây:
- Tần suất rủi ro: Trong quá trình kinh doanh mua bán hàng hóa quốc tế,

mỗi doanh nghiệp phải đối mặt với rất nhiều nguy cơ rủi ro ở tất cả các lĩnh
vực khác nhau thuộc môi trường kinh doanh trong và ngoài nước, tức là bao
gồm rất nhiều nhân tố ảnh hưởng thuộc nguyên nhân khách quan, chủ quan
tác động làm gia tăng rủi ro. Qua đó cho thấy rằng rủi ro trong hoạt động mua
bán hàng hóa quốc tế thường xảy ra với tần suất lớn hơn.
- Mức độ nghiêm trọng của rủi ro: Hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế
thường được thực hiện giữa các đối tác có khoảng cách địa lý xa, với những
thương vụ có giá trị lớn nên khi xảy ra rủi ro thường rất nghiêm trọng, khó có
thể nhanh chóng hạn chế tổn thất và gây thiệt hại lớn về tài sản cho các cá
nhân và tổ chức. Mặt khác trong quá trình kinh doanh, các doanh nghiệp
thường gặp phải những hiểm họa, nguy cơ nghiêm trọng như: hiểm họa tự
nhiên, sự cầm giữ của chính quyền, chiếm đoạt của các thế lực chính trị,
khủng hoảng kinh tế, sụt giá, cạnh tranh kinh tế… cũng làm gia tăng mức độ
nghiêm trọng của rủi ro.
- Tính đa dạng, phức tạp của rủi ro: hoạt động mua bán hàng hóa quốc
tế là hoạt động rất phức tạp liên quan đến các yếu tố như: chủ thể kinh doanh,
ngôn ngữ, luật áp dụng, tạp quán thương mại quốc tế, sự di chuyển hàng hóa
và chứng từ, tiền tệ và thanh toán quốc tế… nên rủi ro xảy ra trong quá trình
mua bán hàng hóa quốc tế diễn ra hết sức đa dạng, phức tạp. Thực tế cho thấy
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế thường xảy ra những rủi ro mang tính

- 16 -



×