Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động kể chuyện sáng tạo cho trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 83 trang )

+
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

HOÀNG HẢI YẾN

BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
HOẠT ĐỘNG KỂ CHUYỆN SÁNG TẠO CHO TRẺ
MẪU GIÁO LỚN (5 - 6 TUỔI)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Sơn La, năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

HOÀNG HẢI YẾN

BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
HOẠT ĐỘNG KỂ CHUYỆN SÁNG TẠO CHO TRẺ
MẪU GIÁO LỚN (5 - 6 TUỔI)

Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học giáo dục

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: Vũ Thị Minh Nguyệt

Sơn La, năm 2015



Lời cảm ơn
Bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất, em xin chân thành cảm
ơn cô giáo Vũ Thị Minh Nguyệt, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm cùng các thầy cô giáo Khoa
Tiểu học – Mầm non, phòng KHCN và QHQT, Trung tâm Thông tin - Thư viện
Trường Đại học Tây Bắc, Ban Giám hiệu cùng các cô giáo Trường Mầm non Bế
Văn Đàn – Phường Quyết Tâm – Thành phố Sơn La và Trường Mầm non Ngọc
Linh – Phường Quyết Thắng – Thành phố Sơn La đã tạo điều kiện cho chúng em
hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu khoa học này.
Sơn La, tháng 05 năm 2015
Tác giả

Hoàng Hải Yến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 4
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................. 6
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ................................................................. 6
5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 6
6. Giả thuyết khoa học........................................................................................... 7
7. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 7
8. Đóng góp của khoá luận .................................................................................... 7
9. Cấu trúc của khoá luận ...................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ........................................... 8
1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................................... 8

1.1.1. Đặc điểm của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong quan hệ với hoạt động kể
sáng tạo ................................................................................................................. 8
1.1.2. Đặc điểm tiếp nhận các hoạt động kể chuyện sáng tạo của trẻ ................. 16
1.1.3. Vai trò của hoạt động kể sáng tạo trong dạy trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ........ 19
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 23
1.2.1. Khảo sát điều tra ........................................................................................ 23
1.2.2. Kết quả điều tra ......................................................................................... 24
1.2.3. Một số vấn đề rút ra từ kết quả khảo sát ................................................... 27
TIỂU KẾT ........................................................................................................... 28
CHƢƠNG 2: BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG KỂ
CHUYỆN SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN .................................. 29
2.1. Sáng tạo nội dung truyện kể ......................................................................... 29
2.1.1. Mở rộng cốt truyện .................................................................................... 29
2.1.2. Sáng tạo cốt truyện mới ............................................................................ 31
2.1.3. Sáng tạo lời thoại của nhân vật ................................................................. 33
2.2. Sáng tạo trong ngôn ngữ kể của cô giáo ...................................................... 34
2.2.1. Sáng tạo trong giọng điệu kể chuyện ........................................................ 34


2.2.2. Sáng tạo trong ngữ điệu kể chuyện ........................................................... 36
2.3. Sáng tạo trong sử dụng các phương tiện hỗ trợ biểu cảm ............................ 39
2.3.1. Sáng tạo trong sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ (nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của
người kể) ............................................................................................................. 39
2.3.2. Sử dụng đồ dùng dạy học hỗ trợ biểu cảm................................................ 41
2.4. Sáng tạo trong các hoạt động ngoại khóa .................................................... 48
2.4.1. Tổ chức trò chơi đóng kịch phân vai......................................................... 48
2.4.2 Tổ chức ngoại khóa văn học ...................................................................... 55
TIỂU KẾT ........................................................................................................... 56
CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ................................................... 57
3.1. Mục đích thực nghiệm.................................................................................. 57

3.2. Thời gian, đối tượng và địa bàn thực nghiệm .............................................. 57
3.3. Điều kiện và tiêu chí thực nghiệm ............................................................... 57
3.4. Nội dung thực nghiệm .................................................................................. 58
3.5. Kết quả thực nghiệm .................................................................................... 58
TIỂU KẾT ........................................................................................................... 59
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non phát triển toàn diện là một vấn
đề quan trọng trong chiến lược phát huy nhân tố con người của Đảng và nhà
nước ta, là mục tiêu đào tạo của ngành học mầm non theo tinh thần Quy định
155, quy định mục tiêu kế hoạch đào tạo của Bộ Giáo Dục – 1990. Đảng và Nhà
nước ta luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Qua hơn 60 năm hoạt động, ngành giáo dục mầm non đã không ngừng đổi mới
về nội dung, phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức giáo dục trẻ nhận
thức. Một trong nhiệm vụ quan trọng hàng đầu ở trường mầm non là phát triển
toàn diện nhân cách cho trẻ. Vì thế, chăm sóc giáo dục toàn diện trẻ mầm non là
một vấn đề được đặc biệt quan tâm trong chiến lược phát huy nhân tố con người
của Đảng và Nhà nước. Chiến lược này được cụ thể hóa trong xây dựng chương
trình giáo dục mầm non.
Trong Cẩm nang công tác giáo dục mầm non 2010 - 2015, quan điểm chỉ đạo
trọng tâm là: “…đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách
để mọi tổ chức, cá nhân và toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục mầm non…”
(Nhà xuất bản Lao động, 2010). Quan điểm chỉ đạo này hoàn toàn phù hợp với xu
thế chung trên thế giới hiện nay về phát triển nền giáo dục quốc dân. Ở nhiều nước,

không chỉ ở những nước nghèo mà ngay cả ở những nước giàu, để phát triển sự
nghiệp giáo dục, họ đã tìm nhiều giải pháp để đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, trong
đó có xã hội hóa giáo dục mầm non.
Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Giáo dục mầm non chủ trương cải
tiến nội dung giáo dục dựa trên quan điểm kết hợp giữa các tri thức tự nhiên, xã
hội và nghệ thuật nhằm giáo dục trẻ một cách toàn diện. Trong đó, cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học được xem là phương tiện chính trong lĩnh vực phát
triển ngôn ngữ, phát triển tình cảm xã hội, phát triển thẩm mỹ cho trẻ. Việc đổi
mới phương pháp, đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động kể chuyện sáng tạo cho trẻ mầm non, hướng tới mục tiêu sử dụng tác phẩm
1


văn học giáo dục toàn diện nhân cách cho trẻ là việc làm cấp thiết, đòi hỏi nhiều
tâm huyết của các nhà quản lý, các nhà giáo dục và những ai quan tâm đến sự
nghiệp giáo dục mầm non.
1.2. Văn học là món ăn tinh thần của con người. Nó như mạch nguồn của
cuộc sống, làm rung động hàng triệu con tim của nhân loại. Tiếng nói trong văn
học là tiếng nói tình cảm, đó là những trăn trở, những suy nghĩ, những yêu
thương, giận hờn của con người đối với cuộc sống.
Đặc biệt hoạt động làm quen với văn học là một hoạt động không thể thiếu
ở lứa tuổi mầm non bởi lứa tuổi này trẻ rất nhạy cảm, giàu cảm xúc. Vì vậy việc
cho trẻ lứa tuổi mầm non làm quen với các tác phẩm văn học từ lâu đã được
đặt ra như một nội dung, một phương tiện vô cùng quan trọng trong chương
trình giáo dục trẻ. Là loại hình nghệ thuật ngôn từ, văn học có khả năng đi
vào lòng người một cách tự nhiên và sâu sắc. Đây chính là một trong những
phương tiện hữu hiệu nhất để hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ em một
cách toàn diện.
V.G Biêlinxki đã từng nói “Một cuốn sách viết cho thiếu nhi là để giáo dục,
mà giáo dục là một sự nghiệp vĩ đại, vì nó quyết định số phận con người” [4.26].

Những ảnh hưởng của văn học tới trẻ là một quá trình lâu dài và bền bỉ. Văn học
mang đến cho trẻ những bài học giáo dục vô cùng phong phú, sinh động, hết sức
tự nhiên, không gò bó, không mang tính giáo huấn khuôn mẫu, nặng nề. Nó tác
động một cách từ từ, nhưng giá trị nhân văn của nó thì có thể tạo nên sức mạnh,
ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài tới sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Một câu chuyện cổ tích về chủ điểm gia đình có thể đánh thức ở các em ý thức
về trách nhiệm với những người thân trong gia đình, không còn sống ích kỷ
nữa…Câu chuyện “Sự tích cây vú sữa” là một bài học về tình yêu gia đình, tình
yêu của mẹ con. Người mẹ đã hóa thành cây vú sữa vì chờ đợi, mong mỏi con,
cũng chính vì vậy mà đã đánh thức được tình yêu của người con dành cho mẹ.
Văn học cũng giúp các em cảm nhận được những vẻ đẹp kỳ diệu của thế giới
xung quanh, từ môi trường tự nhiên đến môi trường xã hội, để các em biết thích
thú, biết yêu mến, nâng niu, giữ gìn cái đẹp của cuộc sống. Với tác dụng to lớn
2


mà văn học đem đến cho trẻ thơ, việc cho trẻ làm quen, tiếp xúc với tác phẩm
văn học là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong chương trình
giáo dục mầm non.
1.3. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là hình thức dạy học được tiến
hành thông qua hoạt động kể chuyện diễn cảm của giáo viên mầm non. Do trẻ
chưa tự tiếp nhận, cảm thụ được tác phẩm thơ, truyện nên cô giáo giữ vai trò
trọng yếu trong việc giúp trẻ làm quen, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong thế giới
nghệ thuật của tác phẩm. Hoạt động kể chuyện sáng tạo ngày càng được quan
tâm đổi mới để đạt chất lượng tốt nhất. Tuy vậy, trên thực tế, tại nhiều trường
mầm non, đặc biệt các trường mầm non thuộc khu vực miền núi, vùng sâu, vùng
xa, trong những điều kiện dạy học còn tồn tại quá nhiều khó khăn thì việc cho
trẻ tiếp xúc với hoạt động kể chuyện sáng tạo lại bị đặt xuống hàng thứ yếu. Qua
việc khảo sát kế hoạch cũng như thực tiễn giảng dạy tại hai trường mầm non là
Trường Mầm non Bế Văn Đàn – Phường Quyết Tâm – Thành phố Sơn La và

trường Mầm non Ngọc Linh – Phường Quyết Thắng – Thành phố Sơn La, chúng
tôi nhận thấy rằng việc sử dụng phương pháp chung và các biện pháp cụ thể
nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động kể chuyện sáng tạo cho trẻ mầm non nói
chung, trẻ ở độ tuổi mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) nói riêng còn bộc lộ những hạn
chế nhất định.
Thực tế chung ở trường mầm non hiện nay là giáo viên chưa giúp trẻ, đặc
biệt là trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) phát huy những khả năng tư duy, sáng tạo của
bản thân. Khi cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm văn học ta thường được nghe trẻ
kể lại những câu chuyện dập khuôn quen thuộc như một con đường mòn mà thiếu
sáng tạo, linh hoạt. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ
bản nhất là do khi cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học, tác phẩm chuyện, một số
giáo viên chưa hiểu rõ về vai trò, mục đích về việc sử dụng các tác phẩm văn học
để giáo dục toàn diện nhân cách của trẻ. Điều đó dẫn đến tình trạng thiếu chú
trọng, thiếu linh hoạt, sáng tạo trong việc sử dụng các biện pháp giúp trẻ tiếp nhận
truyện một cách có hiệu quả nhất.

3


Với những lý do trên, đồng thời dựa trên sự tiếp thu những thành tựu của các
công trình nghiên cứu khác, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: Biện pháp nâng cao
chất lượng hoạt động kể chuyện sáng tạo cho trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi).
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua quá trình tìm hiểu việc cho trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) tiếp xúc với
truyện qua đọc, kể sáng tạo các tác phẩm văn học nhằm xây dựng một số biện
pháp giúp trẻ phát huy sự sáng tạo trong các tác phẩm văn học một cách có hiệu
quả nhất, chúng tôi đã được nghiên cứu một số công trình khoa học trong nước
có đề cập những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu của mình.
Cuốn Giáo dục trẻ mẫu giáo qua truyện và thơ (1986) của tác giả Nguyễn
Thu Thủy có nhấn mạnh đôi nét giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện cổ tích.

Tác giả có những lưu ý để phương pháp kể chuyện của giáo viên được tốt hơn như:
Căn cứ vào diễn biến tâm trạng, hành động của nhân vật, thể hiện ngữ điệu.
Cuốn Phương pháp đọc, kể diễn cảm thơ, truyện cho trẻ lứa tuổi mầm non
của Nguyễn Xuân Khoa, NXB ĐHQG Hà Nội năm 1997 tác giả giúp bạn đọc
hiểu được vai trò của hoạt động đọc, kể diễn cảm thơ, truyện, nắm được cách
thức thực hiện kể chuyện lôi cuốn, thu hút trẻ vào hoạt động kể chuyện. Đồng
thời khơi gợi khả năng sáng tạo của trẻ, khai thác và phát huy trí tưởng tượng
cùng khả năng ghi nhớ của trẻ.
Cuốn Kể chuyện cho trẻ của Nguyễn Huy Đàn, nhà xuất bản Giáo dục
(2003) phân tích một số chức năng của hoạt động kể chuyện cho trẻ mầm non
nghe, cách lựa chọn truyện kể và cách kể chuyện hấp dẫn, cuốn hút trẻ nghe.
Tác giả cho rằng kể chuyện cho trẻ nghe là một hoạt động đầy hứng thú nhưng
cũng rất khó khăn, đòi hỏi người giáo viên phải dày công rèn luyện. Thành công
của nghệ thuật kể chuyện cho trẻ là ở sự thấu hiểu sâu sắc cái độc đáo của từng
truyện, sự giao cảm chân thành giữa người kể và người nghe, sự tái hiện đầy
nhiệt tình, tự nhiên một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ bằng những thủ pháp sư
phạm hoàn thiện.
Cuốn Phương pháp đọc kể diễn cảm của Hà Nguyễn Kim Giang, NXB
ĐHQG Hà Nội năm 2005 giúp người đọc nhận thức đúng đắn tầm quan trọng và
4


vai trò của hoạt động đọc, kể diễn cảm các tác phẩm văn học và cách thức thực
hiện, vận dụng các phương pháp giáo dục nhằm giúp trẻ dễ dàng phát huy khả
năng sáng tạo của mình.
Cuốn Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học một số vấn đề lý luận và
thực tiễn của Hà Nguyễn Kim Giang, NXB ĐHQG Hà Nội năm 2006 cũng đã
nêu ra những kết quả nghiên cứu cơ bản của các nhà khoa học có tên tuổi trên
thế giới như: P.M Iacôp sơn, E.I Trikhiêva, A.V Zapôrôze… về khả năng, năng
lực tiếp nhận văn học của trẻ mầm non: Trẻ mầm non hoàn toàn có thể hiểu sâu

sắc (ở mức độ của trẻ) nội dung và tư tưởng tác phẩm văn học, có thể phân biệt
được hình ảnh nghệ thuật với hiện thực, chỉ ra và nhận xét được những phương
tiện biểu đạt hình tượng, ngôn ngữ, các thủ pháp nghệ thuật, có khả năng nắm
bắt được cơ bản cách xây dựng cốt truyện, cấu trúc và mối quan hệ giữa các
nhân vật…
Khóa luận tốt nghiệp Tìm hiểu khả năng nhớ truyện của trẻ mẫu giáo của
tác giả Nguyễn Thị Phúc dựa trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tiếp nhận văn học
của trẻ mầm non để khẳng định vai trò quan trọng của văn học đối với việc giáo
dục trẻ một cách toàn diện. Theo đó, các tác phẩm thơ, truyện tham gia tích cực
vào các lĩnh vực phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, phát triển tình cảm xã
hội, phát triển thẩm mỹ và phát triển thể chất cho trẻ. Như vậy, việc cho trẻ tiếp
xúc với thơ, truyện là việc làm cần thiết và có ý nghĩa.
Qua nghiên cứu các bài viết, các công trình liên quan đến đề tài nghiên cứu
chúng tôi nhận thấy các công trình này quan tâm sâu sắc đến vai trò của tác
phẩm văn học đối với việc giáo dục trẻ mầm non; khả năng của trẻ mầm non
trong việc tiếp nhận tác phẩm văn học; khẳng định sự cần thiết phải cho trẻ tiếp
xúc với tác phẩm văn học thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo của cô giáo.
Có tài liệu đã đề cập đến nghệ thuật đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học để tăng
cường khả năng sáng tạo các tác phẩm văn học của trẻ. Tuy nhiên, vấn đề nêu ra
ở tài liệu này chưa hướng vào từng độ tuổi cụ thể trong suốt giai đoạn trẻ ở bậc
học mầm non, từng đối tượng trẻ với trình độ khác nhau, điều kiện học tập khác
nhau; cũng như chưa nêu các biện pháp cụ thể giúp trẻ phát huy khả năng tự
5


sáng tạo của bản thân trong các tác phẩm văn học. Nhận thấy đây là một khoảng
trống có thể tiến hành khảo sát, nghiên cứu và đề xuất các biện pháp mang tính
ứng dụng, tôi chọn nghiên cứu vấn đề Biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động
kể chuyện sáng tạo cho trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi).
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các lý luận và thực tiễn về vấn đề kể sáng tạo tác
phẩm văn học, tôi tiến hành và xây dựng các biện pháp kể chuyện sáng tạo
cho trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi).
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khoá luận tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Xây dựng một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động kể chuyện
sáng tạo cho trẻ mẫu giáo lớn.
- Tổ chức các thực nghiệm sư phạm để khảo sát tính khả thi của các biện pháp
nâng cao chất lượng hoạt động kể chuyện sáng tạo cho trẻ mẫu giáo lớn mà khoá
luận đã đề xuất.
- Xử lí kết quả nghiên cứu.
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu các biện pháp cụ thể nâng cao chất lượng hoạt động
kể chuyện sáng tạo cho trẻ mẫu giáo lớn trong các trường mầm non.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Nhóm trẻ mẫu giáo (5 – 6 tuổi).
5. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và vấn đề có liên quan đến khoá luận.
- Đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động kể chuyện sáng tạo
cho trẻ mẫu giáo lớn tại các trường mầm non nhưng do khuôn khổ của khoá
luận, tôi chủ yếu hướng tới việc ứng dụng cho các trường mầm non trên địa
bàn tỉnh Sơn La.
6


- Khảo sát và thực nghiệm tại Trường Mầm non Bế Văn Đàn (Phường Quyết
Tâm – Thành phố Sơn La) và trường Mầm non Ngọc Linh (Phường Quyết Thắng

– Thành phố Sơn La).
6. Giả thuyết khoa học
Trên thực tế, tại các trường mầm non, việc nâng cao chất lượng hoạt động
kể chuyện sáng tạo cho trẻ mẫu giáo (5 – 6 tuổi) chưa được quan tâm đúng mức
dẫn đến tình trạng chất lượng của việc tiếp nhận tác phẩm văn học của trẻ mẫu
giáo ở độ tuổi này chưa cao. Nếu biện pháp tôi đề xuất trong khóa luận nghiên
cứu này được ứng dụng thì việc đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
của việc kể chuyện diễn cảm cho trẻ nghe và dạy trẻ kể diễn cảm chuyện đồng
thời nâng cao chất lượng hiệu quả của việc tiếp xúc, làm quen với tác phẩm văn
học của trẻ.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài, hệ thống hoá tài liệu để xây dựng
cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thống kê phân loại.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
8. Đóng góp của khoá luận
Khoá luận đạt chất lượng và được nghiệm thu sẽ bổ sung một số biện pháp
tổ chức hoạt động kể chuyện sáng tạo cho trẻ mẫu giáo (5 – 6 tuổi); là tài liệu
tham khảo cho sinh viên chuyên ngành giáo dục mầm non, khoa Tiểu học –
Mầm non, Trường Đại học Tây Bắc và những người quan tâm đến vấn đề này.
9. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khoá luận gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động kể chuyện sáng tạo
cho trẻ mẫu giáo lớn.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

7


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Đặc điểm của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong quan hệ với hoạt động
kể sáng tạo
1.1.1.1. Đặc điểm ngôn ngữ
a) Khái niệm ngôn ngữ
Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê): “Ngôn ngữ là hệ thống các âm, các từ và
các quy tắc kết hợp chung tạo thành phương tiện giao tiếp chung cho cộng
đồng”. (TĐTV - Trung tâm từ điển Ngôn ngữ Hà Nội, 1992, trang 683). Đồng
thời, ngôn ngữ cũng là phương tiện để phát triển tư duy, truyền đạt và tiếp nhận
những nét đẹp của truyền thống văn hóa – lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Không chỉ có vậy, ngôn ngữ tạo nên những con người có linh hồn. Ngôn
ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nên tư duy, nhân cách
của con người, thúc đẩy quá trình tự điều chỉnh hành động chính bản thân mình.
Đối với trẻ em, ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục
trẻ trở thành những con người phát triển toàn diện. Ngôn ngữ chính là cơ sở của
mọi sự suy nghĩ và là công cụ tư duy. Trẻ em có nhu cầu rất lớn trong việc nhận
thức thế giới xung quanh, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trẻ phải
dùng lời nói để nói lên những suy nghĩ cũng như cảm tưởng của mình về những
vấn đề đó.
b) Các chức năng của ngôn ngữ
Ngôn ngữ có 2 chức năng cơ bản:
* Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người
Giao tiếp là gì? Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa người này với người khác,
trong đó diễn ra quá trình trao đổi thông tin, nhận thức, tư tưởng, tình cảm của
con người… tác động đến nhau về mặt nhận thức, tình cảm và hành động. Giao

tiếp được thực hiện nhờ phương tiện cơ bản và quan trọng nhất là ngôn ngữ.
Giao tiếp là nhu cầu có tính bản năng của sinh vật bậc cao và là nhu cầu đặc
biệt thiết yếu với con người. Hoạt động giao tiếp có ngay từ khi xuất hiện con
8


người và xã hội loài người, và ngày càng phong phú, đa dạng. Con người và xã
hội không thể thiếu hoạt động giao tiếp. Nhờ có hoạt động giao tiếp, con người
mới dần hình thành và phát triển. Đặc điểm của hoạt động giao tiếp là bao giờ
cũng xảy ra trong một hoàn cảnh nhất định, với những phương tiện nhất định
nhằm tới một mục tiêu nhất định.
Lênin đã coi ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng của con người.
Ngôn ngữ không phải là công cụ giao tiếp duy nhất nhưng là công cụ giao tiếp
quan trọng nhất của loài người (xét ở tính thuận tiện và hiệu quả của việc giao
tiếp bằng ngôn ngữ). Loài người đã tiến hành giao tiếp bằng nhiều loại công cụ.
Nhưng những công cụ này dù có những ưu điểm mà ngôn ngữ không có nhưng lại
có nhiều hạn chế và không thể quan trọng bằng ngôn ngữ. Cử chỉ, nét mặt, dáng
điệu cũng là những phương tiện giao tiếp quan trọng. Nhưng so với ngôn ngữ,
chúng thật nghèo nàn và hạn chế. Không một cử chỉ, nét mặt nào có thể diễn đạt
một nội dung phức tạp, chẳng hạn: “Tại sao nói ngôn ngữ là một hiện tượng xã
hội đặc biệt?” Hơn nữa, nhiều cử chỉ có ý nghĩa không rõ ràng, chính xác. Có thể
người tạo ra cử chỉ nghĩ một đằng, người tiếp thu nó hiểu một nẻo.
Các loại hình nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, điêu khắc, khiêu vũ,… đều
là những phương tiện giao tiếp rất phong phú của con người. Chúng có những
khả năng to lớn và kì diệu nhưng vẫn bị hạn chế nhiều mặt so với ngôn ngữ.
Chúng không thể truyền đạt khái niệm và tư tưởng mà khơi gợi chúng trên cơ sở
những hình ảnh thị giác hay thính giác gây ra được ở người xem. Những tư
tưởng, tình cảm này thường thiếu tính chính xác, rõ ràng, thường rất đa nghĩa.
Ngay cả ở những hội nghị về âm nhạc, hội họa, điêu khắc,…người ta cũng
không thể nào chỉ giao tiếp nhờ các tác phẩm âm nhạc, hội họa hay điêu khắc

mà không cần dùng đến ngôn ngữ. Những hệ thống kí hiệu được dùng trong
giao thông, toán học, tin học, hằng hải, quân sự,…cũng tương tự như vậy.
Chúng chỉ được dùng trong những phạm vi hạn chế nên chỉ có thể là phương
tiện giao tiếp bổ sung bên cạnh phương tiện ngôn ngữ là cái được dùng chung
trong phạm vi toàn xã hội.

9


Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp còn thể hiện ở chỗ ngôn ngữ giúp con người có
thể tàng trữ những kinh nghiệm sản xuất để truyền từ đời này sang đời khác. Ngôn
ngữ giúp trao đổi tư tưởng, tình cảm, xác lập các mối quan hệ giữa các thành viên
trong cộng đồng xã hội. Thông qua sự nối kết tập thể này, ngôn ngữ là công cụ
giúp cho con người giao tiếp, trao đổi, và đi đến hiểu biết lẫn nhau. Không có sự
hiểu biết ấy, không thể có hành động chung của con người trong cuộc đấu tranh
chinh phục tự nhiên và không thể đạt được những tiến bộ trong lĩnh vực sản xuất
của đời sống con người. Cho nên nếu không có một thứ ngôn ngữ chung cho cả
cộng đồng dùng để giao tiếp, để thắt chặt các mối quan hệ thì xã hội cũng không
thể tồn tại được. Với ý nghĩa này, ngôn ngữ là một công cụ để giao tiếp thì đồng
thời cũng là một công cụ đấu tranh phát triển xã hội.
* Ngôn ngữ là công cụ tư duy của con người
Tư duy là giai đoạn nhận thức lí tính, nhận thức gián tiếp, khái quát. Khả
năng phản ánh thực tế dưới dạng khái niệm, phán đoán và kết luận tức là kết
quả của quá trình suy nghĩ, nhận thức. Trong quá trình tác động vào thế giới
xung quanh, con người đồng thời nhận thức các mặt khác nhau của nó. Việc
này diễn ra dưới dạng những cảm giác, tri giác, biểu tượng, khái niệm, phán
đoán, suy lí. Những cảm giác, tri giác, biểu tượng cho phép ta nhận thức được
một cách cảm tính các thuộc tính của sự vật, hiện tượng. Ở giai đoạn nhận
thức này, con người không nhận biết được mối liên hệ có tính quy luật, tất
yếu giữa các thuộc tính của một sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật, hiện

tượng với nhau.
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, là chỗ dựa để suy nghĩ và ghi lại kết quả
suy nghĩ của con người. Ngôn ngữ và tư duy thống nhất với nhau, không có
ngôn ngữ thì không có tư duy và ngược lại không có tư duy thì ngôn ngữ chỉ là
vô âm thanh trống rỗng, thực chất là không có ngôn ngữ.
Hai chức năng giao tiếp và tư duy được thực hiện không tách rời nhau mà
gắn bó chặt chẽ với nhau. Khi tư duy, hoạt động giao tiếp vẫn diễn ra không
ngừng và ngược lại khi giao tiếp, hoạt động tư duy vẫn diễn ra liên tục (để kiểm
tra, điều chỉnh thông tin).
10


c) Vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển của trẻ
* Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp
“Bản chất con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội” (Marx). “Con
người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng. Giao tiếp là một đặc trưng
quan trọng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng đối với
trẻ” (Lênin). Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể hiểu được nhau, cùng nhau
hành động vì những mục đích chung: lao động, đấu tranh, xây dựng và phát triển
xã hội.
Không có ngôn ngữ thì con người không thể giao tiếp được, thậm chí
không thể tồn tại được, nhất là trẻ em, một sinh thể yếu ớt rất cần đến sự chăm
sóc, bảo vệ của người lớn.
Ngôn ngữ chính là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành một
thành viên của xã hội loài người. Ngôn ngữ là một công cụ hữu hiệu để trẻ có
thể bày tỏ những nguyện vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để người lớn có thể
chăm sóc, điều khiển, giáo dục trẻ là một điều kiện quan trọng để trẻ tham gia
vào mọi hoạt động và trong hoạt động hình thành nhân cách trẻ.
* Ngôn ngữ là một công cụ để phát triển tư duy, nhận thức
Quá trình trưởng thành của trẻ bên cạnh thể chất là trí tuệ. Công cụ để phát

triển tư duy, trí tuệ chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là hiện thực (sự hiện
hữu) của tư duy. Tư duy của con người có thể hoạt động được (nhất là tư duy
trừu tượng) cũng chính là nhờ có phương tiện ngôn ngữ. Tư duy và ngôn ngữ có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu không có ngôn ngữ thì quá trình tư duy của
con người không diễn ra được. Ngôn ngữ làm cho các kết quả của tư duy được
cố định lại, do đó có thể khách quan hóa nó cho người khác và cho bản thân chủ
thể tư duy. Ngược lại, nếu không có tư duy với sản phẩm của nó thì ngôn ngữ
chỉ là những âm thanh vô nghĩa.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ không chỉ có mục đích tự thân. Có ngôn ngữ, tư
duy của trẻ được phát triển. Đây là hai mặt của một quá trình biện chứng có tác
động qua lại ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhau. (Galperin: Ngôn ngữ giữ vai trò
quyết định sự phát triển của tâm lí trẻ em). Ngôn ngữ phát triển làm cho tư duy
11


phát triển. Ngược lại, tư duy phát triển càng thúc đẩy nhanh sự phát triển của
ngôn ngữ. Tư duy

Ngôn ngữ

Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học tập, vui chơi: những hoạt động chủ yếu của
trường mầm non. Giống như việc dạy trẻ tiếng mẹ đẻ ở các cấp học khác, phát
triển lời nói cho trẻ ở trường mầm non thực hiện mục tiêu “kép”. Đó là, trẻ học
để biết tiếng mẹ đẻ đồng thời sử dụng nó như một công cụ để vui chơi, học tập.
Ngôn ngữ được tích hợp trong tất cả các loại hình hoạt động giáo dục, ở mọi
nơi, mọi lúc. Như vậy, ngôn ngữ cần cho tất cả các hoạt động và ngược lại, mọi
hoạt động tạo cơ hội cho ngôn ngữ trẻ phát triển.
* Ngôn ngữ là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện
Sự phát triển toàn diện của trẻ bao gồm cả sự phát triển về đạo đức, chuẩn
mực hành vi văn hóa. Điều gì tốt, điều gì xấu; cần phái ứng xử giao tiếp như thế

nào cho phù hợp… không chỉ là sự bắt chước máy móc. Ngôn ngữ phát triển
sẽ giúp cho trẻ mở rộng giao tiếp. Điều này giúp trẻ có điều kiện học hỏi
những gì tốt đẹp nhất xung quanh. Cô giáo nói bằng lời cũng sẽ dễ dàng hơn
trong việc giải thích, nêu gương, thuyết phục trẻ, định hướng những hành vi đạo
đức cho trẻ.
Ngôn ngữ phát triển giúp trẻ sớm tiếp thu những giá trị thẩm mĩ trong thơ
ca, truyện kể, những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đầu tiên người lớn có thể đem
đến cho trẻ từ những ngày thơ ấu. Sự tác động của lời nói nghệ thuật như một
phương tiện hữu hiệu giáo dục thẩm mĩ cho trẻ.
Giai đoạn từ sơ sinh đến 6 tuổi, nhất là từ 3 – 6 tuổi, là giai đoạn siêu tốc
phát triển ngôn ngữ. Thành tựu phát triển tối ưu nhất thiết đòi hỏi phải có sự
giáo dục ngôn ngữ “kịp thời”, “đúng lúc” (khái niệm của các nhà giáo dục Nga
“vo vremia”). Những thành tựu phát triển lời nói ở lứa tuổi này là rất to lớn. Về
ngữ âm, đến 6 tuổi về cơ bản trẻ đã phát âm chính xác tất cả các nguyên âm, phụ
âm của tiếng mẹ đẻ. Về từ vựng, số lượng từ vựng tương đối lớn, trẻ có thể nói
lưu loát, biểu cảm. Về mặt ngữ pháp, hầu hết các mẫu câu tiếng Việt trẻ cũng đã
sử dụng vào lúc 6 tuổi. Sự thực là những giờ học ngôn ngữ đầu tiên đối với mỗi
con người là ngay từ khi lọt lòng mẹ. Trường mầm non là trường học đầu tiên. Ở
12


đây, có điều kiện, có cơ hội lớn hơn để giáo dục ngôn ngữ cho trẻ. Có thể khẳng
định rằng: Học tiếng mẹ đẻ là sự học tập quan trọng nhất, cần thiết nhất, bắt
đầu sớm nhất và cần được quan tâm nhất.
d) Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 – 6 tuổi
Phát triển ngôn ngữ là quá trình bao gồm nhiều giai đoạn mà lứa tuổi mẫu
giáo là lứa tuổi “hoàng kim” cho sự phát triển ngôn ngữ hiện tại và sau này. Lứa
tuổi 5 – 6 tuổi là bước ngoặt quan trọng nhất cần có những biện pháp tác động
đúng lúc và kịp thời vì mọi sự chậm trễ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển toàn
diện của trẻ. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Đặc

điểm của bộ máy phát âm: đặc điểm sử dụng từ loại và khả năng sử dụng câu, sự
phát triển tâm lí chung, yếu tố môi trường và giáo dục xung quanh,…
Về phát âm: Cơ quan phát âm của trẻ 5 – 6 tuổi đã phát triển và đang trong
quá trình hoàn thiện. Trẻ sử dụng thành thạo ngôn ngữ nói. Tai nghe âm vị của trẻ
phát triển khá tinh nhạy. Tuy nhiên, trẻ vẫn còn có lỗi ở các âm vị khó, ý nghĩa có
phần xa lạ đối với trẻ như: khúc khuỷu, nhuyễn,…Nhìn chung số trẻ mắc lỗi về phát
âm ở giai đoạn này đã ít hơn nhiều so với giai đoạn lứa tuổi trước.
Về vốn từ: Vốn từ của trẻ 5 – 6 tuổi tăng nhanh khoảng trên 1400 từ. Danh
từ và động từ vẫn chiếm ưu thế nhưng tính từ và các loại từ khác cũng đã được trẻ
sử dụng nhiều hơn. Ở lứa tuổi này trẻ đã tăng dần vốn từ, từ loại, khả năng hiểu
và sử dụng từ nên khả năng diễn đạt những suy nghĩ cũng rõ ràng, trẻ không bị
ảnh hưởng bởi ngôn ngữ hoàn cảnh. Điều này cũng phù hợp với sự phát triển
chung của trẻ. Trẻ càng lớn nhu cầu giao tiếp ngày càng rộng, không hạn hẹp bởi
môi trường gia đình, vốn ngôn ngữ xã hội tăng nhanh nhờ vậy sự hiểu biết, nhận
thức và tư duy phát triển rõ rệt nhất là tư duy trực quan hình tượng.
Về phát triển cấu trúc ngữ pháp: Ở lứa tuổi 5 – 6 tuổi câu nói của trẻ tương
đối hoàn chỉnh, rõ ràng, đầy đủ và thể hiện nội dung khá phong phú. Trẻ biết
phát triển các thành phần trong câu, thông thường trẻ sử dụng các dạng câu như:
Câu đơn mở rộng, câu ghép đẳng lập, câu ghép chính phụ, câu kể, câu cảm,…
Câu đơn giảm đi và số câu ghép, câu phức hợp tăng dần lên. Ngoài ra, trẻ còn
biết sử dụng liên từ, nhờ vậy câu nói của trẻ trở nên rõ ràng, mạch lạc. Điều đó
13


cho thấy ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi có sự phát triển đáng kể về chất.
Tuy nhiên, trẻ vẫn còn hạn chế trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ, trẻ vẫn
dung các dạng câu thiếu thành phần, sai trật tự từ, dài dòng không mạch lạc,
không rõ ý,…mà nguyên nhân chủ yếu do vốn từ còn nghèo hoặc chưa biết sử
dụng các từ liên kết, chưa phát triển đúng trình tự logic của sự việc.
Về phát triển ngôn ngữ mạch lạc: Ngôn ngữ mạch lạc thể hiện trình độ phát

triển tương đối cao, không những về phương diện ngôn ngữ mà cả về phương
diện tư duy. Ở lứa tuổi mẫu giáo, trước đây trẻ sử dụng ngôn ngữ tình huống là
chủ yếu. Dần dần cuộc sống đòi hỏi trẻ phải mô tả lại cho người khác những
điều mắt mình thấy, tai nghe được. Ngôn ngữ mạch lạc có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với việc hình thành mối liên hệ qua lại trong nhóm trẻ và những người
xung quanh, đặc biệt là đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ.
1.1.1.2. Đặc điểm tư duy
Tư duy là một quá trình tâm lý của việc tìm kiếm và khám phá những điều
mới, quá trình phản ánh cụ thể và tổng hợp hiện thực khách quan.
Mối quan hệ thống nhất giữa tư duy và ngôn ngữ thể hiện ở chỗ nhờ có
ngôn ngữ mà ngay từ khi mở đầu của quá trình tư duy, con người nhìn nhận
hoàn cảnh có vấn đề, khi đó quá trình tư duy bắt đầu.
Có thể nói rằng: Nghĩa chứa đựng sự thống nhất của tư duy và ngôn ngữ.
“Từ mà không có nghĩa thì không phải là từ mà chỉ là âm thanh trống rỗng”.
Nghĩa của từ là kết quả của thao tác tư duy và có sản phẩm là sự khái quát. Mỗi
từ đều mang ý nghĩa khái quát, nhưng đối với trẻ em thì mỗi từ vẫn chỉ là đại
diện cho một sự cụ thể, riêng rẽ, ý nghĩa của mỗi từ khác với trẻ khác xa ý nghĩa
của từ đó đối với người lớn. Các biểu tượng phản ánh sự vật, hiện tượng một
cách sinh động hơn, rõ ràng hơn các khái niệm. Trẻ em nhận biết sự vật, hiện
tượng trong thế giới xung quanh, tức là trẻ học thêm các từ ngữ chỉ chính sự vật,
hiện tượng, đó cũng là lúc trẻ lĩnh hội cả phương thức tư duy bằng ngôn ngữ
(lĩnh hội ý nghĩa khái quát của từ, phương thức cấu tạo từ,…). Lúc trẻ sử dụng
từ ngữ để biểu đạt những suy nghĩ, tình cảm của mình bằng những từ ngữ cụ thể,
câu đơn giản là lúc trẻ sử dụng sản phẩm của quá trình tư duy.
14


1.1.1.3. Đặc điểm xúc cảm, tình cảm của trẻ
Ở lứa tuổi này, trẻ xuất hiện tình cảm bạn bè. Đời sống xúc cảm, tình cảm
ổn định hơn so với trẻ 4 – 5 tuổi, mức độ phong phú, phức tạp tăng dần theo các

mối quan hệ giao tiếp với những người xung quanh. Các sắc thái xúc cảm con
người trong quan hệ với các loại lứa tuổi khác nhau, vị trí xã hội khác nhau,
được hình thành như: tình cảm mẹ con, ông bà, anh chị em, tình cảm với cô
giáo, với người thân, người lạ,…
Tuy nhiên, đời sống xúc cảm của trẻ còn dễ dao động, mang tính chất tình
huống. Tình cảm trí tuệ của trẻ phát triển, mỗi nhận thức mới đều kích thích
niềm vui, hứng thú, sự say mê thích thú của trẻ, tính tò mò han hiểu biết, làm
nảy sinh nhiều xúc cảm tích cực, trong vui chơi, học tập, lao động tự phục vụ,
nhiều thành công thất bại củng cố sự phát triển tình cảm trí tuệ ở trẻ.
Tình cảm đạo đức: Do lĩnh hội được ý nghĩa các chuẩn mực hành vi tốt,
xấu. Trẻ ý thức được nhiều hành vi tốt đẹp cần thực hiện để vui lòng mọi người.
Tình cảm thẩm mỹ: Qua các tiết học nghệ thuật tạo hình, âm nhạc, tìm hiểu
môi trường xung quanh... Cùng với những nhận thức về cái đẹp tự nhiên, hài
hoà về bố cục, sắp xếp trong gia đình và lớp học, trẻ ý thức rõ nét về cái đẹp cái
xấu theo chuẩn (lúc đầu theo chuẩn của bé dần dần phù hợp với đánh giá của
những người xung quanh), xúc cảm thẩm mỹ, óc thẩm mỹ phát triển.
Sự phát triển ý chí: Do có khả năng làm chủ được nhiều hành vi, được
người lớn giao cho nhiều việc nhỏ... Trẻ dần dần đã xác định rõ mục đích của
hành động. Trẻ dần dần tách động cơ ra khỏi mục đích với sự cố gắng hoàn
thành nhiệm vụ. Trẻ muốn chơi trò chơi, trẻ muốn được nghe kể chuyện nhiều
hơn nhưng không được cô giáo đáp ứng, phải chuyển trò chơi mà trẻ không
thích. Tính mục đích càng ngày càng được trẻ ý thức và cố gắng hoàn thành
công việc. Tính kế hoạch xuất hiện, trẻ biết sắp xếp "công việc" vui chơi và
phải quét nhà, nhặt rau để khi mẹ về là mọi việc phải xong cho mẹ hài lòng.
Tinh thần trách nhiệm bản thân dần dần được hình thành ở trẻ. Sự phát triển ý
chí mạnh hay yếu tuỳ thuộc phần lớn vào sự giáo dục, các biện pháp giáo dục
của cha mẹ, cô giáo và những người lớn xung quanh.
15



1.1.1.4. Đặc điểm phát triển trí nhớ
Trí nhớ là một quá trình tâm lí phản ánh những kinh nghiệm đã có của cá
nhân dưới hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi nhớ, giữ gìn và tái tạo lại sau
đó ở trong óc cái mà con người đã cảm giác, tri giác, xúc cảm, hành động hay
suy nghĩ trước đây.
Có thể nhận xét rằng trí nhớ của trẻ mẫu giáo mang tính trực quan hình
tượng, tính không chủ định nhờ tác động một cách tự nhiên của những ấn tượng
hấp dẫn bên ngoài. Trí nhớ không chủ định đang chiếm ưu thế ở tuổi mẫu giáo
mà biểu hiện rõ nhất là ở trẻ mẫu giáo bé và đi liền với nó là trí nhớ máy móc.
Điều đó có ý nghĩa là trẻ em không đặt ra cho mình một cách có ý thức mục đích
ghi nhớ một điều gì. Trí nhớ không chủ định có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát
triển của trẻ vì nhờ đó trẻ có thể ghi nhớ nhẹ nhàng nhiều ấn tượng đẹp đẽ cũng
như những tài liệu cần thiết cho trẻ sau này.
Vào cuối tuổi mẫu giáo, trí nhớ của trẻ có bước biến đổi về chất: trí nhớ có
chủ định xuất hiện và phát triển mạnh. Đó là loại trí nhớ có mục đích và phải
nhờ đến công cụ tâm lí như ngôn ngữ, sơ đồ, biểu đồ, chữ viết và mọi quy ước.
Có ý kiến cho rằng ở lứa tuổi mẫu giáo, trí nhớ máy móc dường như có ý nghĩa
hơn hẳn trí nhớ. Nhưng các nhà nghiên cứu lại cho rằng trẻ mẫu giáo ghi nhớ tốt
những gì mà trẻ hiểu. P. I. Zinchenco từ 30 công trình nghiên cứu trí nhớ của trẻ
đã đi đến kết luận: “Tài liệu nhớ nếu được hiểu rõ và gắn với mục đích hành
động thì được trẻ em ghi nhớ tốt hơn”. Nhờ tính mục đích của hành động mà vai
trò của trí nhớ được thay đổi trong đời sống tâm lí của trẻ mẫu giáo và trở thành
chức năng chủ yếu với những thao tác bên trong cấu trúc khiến cho hoạt động
nhận thức của trẻ tốt hơn. Trong đó, ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng
dối với sự phát triển trí nhớ có chủ định của trẻ, giúp trẻ nắm được tên và tìm
các phương tiện để hỗ trợ ghi nhớ. Trí nhớ có chủ định là loại trí nhớ rất cần cho
việc học tập ở trường phổ thông sau này.
1.1.2. Đặc điểm tiếp nhận các hoạt động kể chuyện sáng tạo của trẻ
1.1.2.1. Tiếp nhận gián tiếp
Lứa tuổi 5 – 6 tuổi chưa biết đọc chữ nên việc tiếp nhận và cảm thụ các tác

phẩm văn học, cụ thể là các câu chuyện kể chủ yếu thông qua khâu trung gian là
cô giáo – với tư cách là người đọc trực tiếp rồi đọc lại và kể lại trung thành nội
16


dung văn bản với ấn tượng sâu đậm, rõ nét nhất và những hiểu biết kỹ năng giá
trị hoàn toàn văn bản. Bên cạnh đó, trẻ có nhu cầu giãi bày những lời (ngôn ngữ
nói) điều mà cuộc sống phong phú đưa đến trong “tầm đón nhận” của trẻ. Bằng
con đường truyền thụ thông qua ngôn ngữ nói, trẻ mẫu giáo có thể tiếp nhận và
cảm thụ văn học nói chung, các hoạt động kể chuyện sáng tạo nói riêng trở nên
dễ dàng hơn. Tuy nhiên, đây là sự tiếp nhận một cách gián tiếp, trẻ thiếu đi sự
chủ động, khả năng trực giác, trực cảm. Vì thế mà đòi hỏi ở người giáo viên phải
có những bước chuẩn bị thật chu đáo, giáo viên phải tập trung đọc hoặc kể cho
trẻ nghe, kể lại có tính nghệ thuật thì mới có thể tác động và phát triển được sức
nghe của trẻ. Việc đọc phải mạch lạc, rõ ràng, phân biệt nhấn mạnh được sắc
thái biểu cảm ở những chỗ trọng tâm.
Ví dụ khi cô kể câu chuyện “Chú dê đen”, giọng của Dê trắng sợ sệt, nhút
nhát khi Chó sói quát hỏi, còn giọng của Dê đen thì cương nghị, dứt khoát khi
đối đầu với Chó sói. Qua đó, trẻ cảm nhận được tính cách cũng như tâm lý của
nhân vật mà chỉ qua giọng kể của cô giáo. Trẻ sẽ tri giác và cảm thụ được ngôn
ngữ nghệ thuật trong mỗi tác phẩm văn học. Bởi ngôn ngữ văn học là “ngôn ngữ
tình cảm”. Do đó phải tạo điều kiện cho trẻ có khả năng nghe ra, nhìn thấy và
cảm nhận được màu sắc xúc cảm của những điều mà mỗi tác phẩm văn học
muốn truyền tải đến bạn đọc, trẻ nhỏ. Điều đó đã thể hiện rằng trẻ đã cảm nhận
được như thế nào từ những câu chuyện. Hay nói cách khác đó là sự chuyển hóa
chủ thể tiếp nhận thành chủ thể văn học để tạo ra “năng lượng của sự có mặt”
chủ thể trong sự hòa cảm, chia sẻ, trong tình yêu thương thì mới có thể tạo ra
môi trường xúc cảm thẩm mỹ cho trẻ.
1.1.2.2.Tiếp nhận mang màu sắc xúc cảm
Tuổi mẫu giáo là thời kỳ nhạy cảm với những cái đẹp xung quanh. Có thể

coi đây là thời kỳ phát triển của những cảm xúc thẩm mỹ, những cảm xúc tích
cực, dễ chịu được nảy sinh khi trẻ tiếp xúc với điều hay, điều đẹp tạo nên trạng
thái tinh thần khoan khoái khiến trẻ cảm thấy gắn bó thiết tha với con người và
cảnh vật xung quanh, làm nảy nở ở trẻ lòng mong muốn làm những điều tốt lành
để đem niềm vui đến cho mọi người. Và điều đó chỉ có ở trong các bài thơ, câu
17


chuyện mang “cái đẹp” – cái nhân văn đến cho tâm hồn trẻ. Khi nghe cô giáo kể
một câu chuyện hay một bài thơ trẻ để ý qua ngôn từ cũng như cử chỉ, nét mặt
của cô rồi dần biến đổi thành chính cảm xúc của mình. Trẻ cũng sẽ nhăn mặt khi
nghe kể về những con vật độc ác, ghê sợ, hay trẻ cũng sẽ mỉm cười vui vẻ khi
nghe kể về những nhân vật ngốc nghếch, những chi tiết hài hước gây cười. Và
cũng sẽ có sự trầm tư, suy nghĩ, lo âu hồi hộp khi muốn biết xem tình huống tiếp
theo sẽ xảy ra như thế nào. Trẻ giường như sống trong thế giới huyền bí đó, trẻ
cũng sẽ học tập được những đức tính hay của các nhân vật và bên cạnh dó trẻ
cũng biết cách đánh giá được phẩm chất, tính cách của nhân vật qua những câu
chuyện mà cô kể.
1.1.2.3. Tiếp nhận với trí tưởng tượng phong phú
Nét nổi bật trong tâm lí trẻ em là sự phong phú về trí tưởng tượng. Sức
tưởng tượng của các em dường như vô bờ bến, không biết đến đâu là cùng.
Chúng dùng tưởng tượng để khám phá thế giới và tự thỏa mãn nhu cầu nhận
thức của mình. Trí tưởng tượng là một phần quan trọng của các quá trình tâm lí,
nó góp phần tích cực vào hoạt động tư duy và nhận thức của trẻ. Tưởng tượng
của trẻ được phát triển các hoạt động giáo dục. Qua các hoạt động giáo dục, trẻ
xâu chuỗi được các sự kiện bằng trí tưởng tượng phong phú của mình và tích lũy
được vốn biểu tượng trong từng hoạt động, sau đó trong những thời điểm và
hoàn cảnh cụ thể, trẻ sẽ có những sự liên tưởng cần thiết. Trẻ thơ rất cần có trí
tưởng tượng và vì vậy việc nuôi dưỡng trí tưởng tượng cho trẻ là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục mầm non.

Tính hoang đường là đặc trưng cơ bản về tưởng tượng của trẻ mầm non.
Đặc điểm của nó là thiên về những điều kì diệu khác thường. Đó là thế giới thần
tiên của truyện cổ tích, trong đó có những ông Bụt, bà Tiên tốt bụng, với những
phép biến hóa thần thông và những nàng công chúa xinh đẹp, những chàng
hoàng tử dũng cảm, thông minh,…Tưởng tượng hoang đường là thế mạnh của
trẻ thơ. Điều đó giải thích tại sao trẻ em nào cũng thích truyện cổ tích.
Có thể nói, trí tưởng tượng là một năng lực không thể thiếu để cảm thụ và
sống với các tác phẩm văn học. Trẻ thơ đã sẵn có trong đầu trí tưởng tượng phong
18


phú, bay bổng nên khi gặp những hình ảnh đẹp đẽ, kì ảo của tác phẩm văn học thì
trí tưởng tượng của trẻ sẽ càng được thăng hoa. Như vậy, trẻ sử dụng trí tưởng
tượng của mình để tiếp thu sáng tạo nghệ thuật, và ngược lại, trí tưởng tượng
phong phú, bay bổng trong các tác phẩm văn học cũng sẽ chấp cánh cho những
ước mơ, những hoài bão và sự sáng tạo của trẻ.
1.1.3.4. Tiếp nhận ngây thơ
Có thể thấy rằng văn học phản ánh những gì gần gũi trong môi trường sống
của trẻ như làng quê, cánh đồng, khu phố, trường, lớp … bên cạnh đó là những
sự vật, hiện tượng có trong thiên nhiên hay những sự việc có liên quan đời sống
hàng ngày của trẻ. Trẻ cũng bắt đầu nhận ra có một xã hội con người rằng buộc
và có mối liên hệ với nhau.
Tất cả điều đó chính là đối tượng miêu tả của văn học. Văn học chỉ phong
phú trong sự đa dạng và đa dạng trong sự độc đáo nhưng lại không mất đi cái
hồn nhiên, tự nhiên vốn có từng tồn tại trong cuộc sống. Vì vậy mà cô giáo cần
cung cấp cho trẻ nguồn thông tin đầy đủ và chính xác về hiện thực cuộc sống.
Trong sự đầy đủ đó, trẻ tiếp nhận ngây thơ theo cách mà trẻ đang có, đang tồn
tại hay nói cách khách là “phải hướng văn học đi từ cái hồn nhiên và trở thành
cái có ý thức và từ cái có ý thức trở thành cái hồn nhiên”.
Trẻ khao khát được biết tất cả nhưng chấp nhận sự giải thích không đầy đủ

khoa học. Điều đó phản ánh quan niệm đơn sơ, ngây thơ của trẻ trong lĩnh hội
thế giới và văn học. Trong cảm thụ văn học trẻ thường vận dụng kinh nghiệm
trực tiếp và nguyên hợp, không phân biệt sự khác nhau giữa chúng. Các em chưa
đòi hỏi lý lẽ mà đòi hỏi hợp lý tình cảm trong khuân khổ hạn hẹp của mình. Khi
giải thích với trẻ cần nhất quán không nên làm xấu đi hình tượng nhân vật của
trẻ đang ưa thích bởi sự tiếp nhận đó mới chỉ mang tính chủ quan.
1.1.3. Vai trò của hoạt động kể sáng tạo trong dạy trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
1.1.3.1. Kể chuyện góp phần thoả mãn nhu cầu nghe kể chuyện của trẻ
Từ lúc bập bẹ tập nói, trẻ nhỏ đã rất thích nghe kể chuyện. Những câu
chuyện của bà luôn là niềm hứng khởi đối với các em và nó đã để lại trong lòng
các em những tình cảm tốt đẹp. Khi đến tuổi mẫu giáo, nhu cầu được nghe cũng
19


như được kể chuyện của các em lại tăng lên. Những câu chuyện cổ tích thường
được đưa vào chương trình giáo dục ở các lớp mẫu giáo. Đặc biệt đối với trẻ 5 –
6 tuổi nhu cầu nghe kể chuyện và được kể chuyện ngày càng tăng, đặc biệt là
đối với loại truyện cổ dân gian. Vì những truyện kể dân gian là những câu
chuyện rất gần gũi với trẻ, trẻ em đã được làm quen với chúng từ rất sớm.
Những câu chuyện này giúp trẻ có thể nhận thức thế giới và chúng cũng giúp trẻ
có thể chính xác hoá những biểu tượng đã có về tự nhiên và xã hội. Đồng thời
chúng từng bước cung cấp thêm những khái niệm mới và mở rộng kinh nghiệm
sống cho trẻ. Những câu chuyện ấy còn hình thành cho các em thái độ với cuộc
sống xung quanh.
1.1.3.2. Kể chuyện góp phần rèn kĩ năng tiếng Việt và năng lực cảm thụ văn học
cho trẻ
Cảm thụ văn học là một hoạt động đặc thù trong việc giúp trẻ tiếp nhận văn
học. Cơ sở, nguồn gốc của cảm thụ là sự nhân hóa tự nhiên bên trong của trẻ
thông qua quá trình hoạt động. Cấu trúc của cảm thụ là sự đan xen phức tạp của
các yếu tố: tri giác, lý giải, tưởng tượng, cảm xúc. Cũng có thể hiểu cảm thụ văn

học tức là khi đọc (nghe) một câu chuyện trẻ không những hiểu mà còn xúc
cảm, tưởng tượng và thật sự gần gũi, “nhập thân” với những gì đã đọc. Với trẻ
mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi khi được nghe một câu chuyện, trẻ có thể suy ngẫm, có
thể tưởng tượng, liên tưởng để từ đó trẻ rung cảm một cách thực sự, và từ đó
giúp trẻ hiểu tác phẩm. Để cảm thụ văn học trẻ có thể rèn luyện, trau dồi từng
bước để nâng cao trình độ cảm thụ văn học, giúp trẻ phát triển kĩ năng tiếng
Việt được tốt hơn.
Như vậy, muốn cảm thụ toàn vẹn tác phẩm, thì trước hết trẻ phải được tìm
hiểu về nội dung, cốt truyện, hướng dẫn cách ghi nhớ, cách kể lại, cách diễn đạt
ngôn ngữ, cách phối hợp điệu bộ, cử chỉ, nét mặt,... Kể chuyện có tính chất tổng
hợp nên hình thành và rèn luyện cho trẻ nhiều kĩ năng như: kĩ năng ghi nhớ ý
nghĩa và kĩ năng ghi nhớ máy móc, kĩ năng kể chuyện và kĩ năng nói trước đám
đông, kĩ năng phân tích và kĩ năng cảm thụ văn học, kĩ năng tiếng Việt, kĩ năng
đóng các hoạt cảnh theo nội dung truyện.
20


×