Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Một số biện pháp dạy học kể chuyện cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 4 trường tiểu học vô tranh i huyện lục nam tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.72 KB, 76 trang )

Lời cảm ơn!
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Th.S. Trịnh Thị Hồng, người đã
nhiệt tình hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Em xin gửi lời cảm ơn tới Phòng khoa học trường Đại học Tây Bắc, Ban chủ
nhiệm khoa Tiểu học - Mầm non và các thầy cô giáo trong Thư viện nhà trường đã tạo
mọi điều kiện để em hoàn thành khóa luận này.
Xin cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo và các em học sinh trường Tiểu học
Vô Tranh I - huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang đã tham gia hợp tác trong quá trình
khảo sát, dạy thể nghiệm đề tài tại nhà trường.
Xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Hoàng Thị Hằng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TV : Tiếng việt
HS : Học sinh
DTTS : Dân tộc thiểu số
PPDH : Phương pháp dạy học
DH : Dạy học
SGK : Sách giáo khoa
GV : Giáo viên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lí do chọn khóa luận ...................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...........................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................................5


5. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................................5
6. Giả thuyết khoa học ....................................................................................................5
7. Phạm vi nghiên cứu .....................................................................................................6
8. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................6
9. Cấu trúc khóa luận .......................................................................................................6
NỘI DUNG .....................................................................................................................7
Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ...........................................................7
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ....................................................................................................7
1.1.1. Quan niệm về hoạt động kể chuyện ở tiểu học .....................................................7
1.1.2. Nhu cầu kể chuyện đối với học sinh tiểu học trong cuộc sống .............................8
1.1.3. Mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung và phương pháp dạy học Kể chuyện ở tiểu học ....9
1.1.3.1. Mục tiêu ..............................................................................................................9
1.1.3.2. Nhiệm vụ ...........................................................................................................10
1.1.3.3. Nội dung ...........................................................................................................11
1.1.3.4. Quan niệm về đổi mới phương pháp dạy học kể chuyện cho học sinh lớp 4 …12
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN ............................................................................................14
1.2.1. Mục đích khảo sát ................................................................................................14
1.2.2. Đối tượng khảo sát...............................................................................................14
1.2.3. Nội dung khảo sát ................................................................................................14
1.2.4. Phương pháp khảo sát ..........................................................................................14
1.2.5. Thời gian, địa bàn khảo sát ..................................................................................15
1.2.6. Kết quả khảo sát ..................................................................................................15
1.2.6.1. Hoạt động học tập của học sinh .......................................................................15
1.2.6.2. Hoạt động dạy học của giáo viên .....................................................................20
Chƣơng 2 BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG DẠY HỌC KỂ CHUYỆN
CHO HỌC SINH LỚP 4, TRƢỜNG TIỂU HỌC VÔ TRANH I - HUYỆN LỤC
NAM - TỈNH BẮC GIANG ........................................................................................27
2.1. Đối với kiểu bài nghe - kể lại câu chuyện vừa nghe trên lớp ............................27
2.1.1. Hướng dẫn học sinh nắm vững cốt truyện ..........................................................27
2.1.2. Hướng dẫn học sinh trau dồi nghệ thuật kể chuyện ............................................28



2.1.3. Sử dụng bài tập trắc nghiệm giúp học sinh nghe (hiểu và nhớ) ..........................29
2.1.4. Sử dụng câu hỏi gợi ý hướng dẫn học sinh đặt lời thuyết minh cho tranh ……29
2.2. Đối với kiểu bài kể chuyện đã nghe đã đọc ........................................................31
2.2.1. Lập tủ sách để cung cấp tư liệu cho giáo viên và học sinh của trường học
……………………………………………………………………………………...31
2.2.2. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa nói chuyện về các anh hùng, các danh nhân,
các gương người tốt việc tốt... nhân các ngày lễ, các ngày kỉ niệm ..............................32
2.2.3. Sử dụng câu hỏi hướng dẫn học sinh lập dàn ý của câu chuyện và kể lại câu
chuyện ............................................................................................................................34
2.3. Đối với kiểu bài Kể chuyện chứng kiến hoặc tham gia .....................................35
2.3.1. Tổ chức tham quan, du lịch và hoạt động ngoại khoá cho học sinh ...................35
2.3.2. Định hướng và hiện thực hiện hoá bằng cách đặt học sinh vào tình huống cụ thể,
phân tích tình huống ......................................................................................................36
2.3.3. Xây dựng các bước kể một câu chuyện được chứng kiến hoặc tham gia ...........37
2.3.4. Sử dụng câu hỏi hướng dẫn học sinh xây dựng cốt truyện .................................39
2.4. Chữa lỗi diễn đạt cho học sinh .............................................................................40
2.5. Luyện kể chuyện diễn cảm ....................................................................................41
TIỂU KẾT ....................................................................................................................45
Chƣơng 3: THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM ..................................................46
3.1. Mục đích của dạy học thể nghiệm ........................................................................46
3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thể nghiệm.........................................................46
3.3. Nội dung của dạy học thể nghiệm ........................................................................46
3.4. Giáo án thể nghiệm ...............................................................................................46
3.5. Kết quả thể nghiệm ………………………………………………………….......46
TIỂU KẾT ....................................................................................................................62
KẾT LUẬN ..................................................................................................................63
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................64



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Kể chuyện là một trong những phân môn rèn luyện cho học sinh (HS) tổng
hợp rất nhiều kĩ năng tiếng Việt (TV). Môn học không chỉ góp phần hình thành và
phát triển bốn kĩ năng cơ bản sử dụng TV đó là: Nghe, nói, đọc, viết không những để
HS tiếp tục học lên các bậc học cao hơn hoặc để giao tiếp trong sinh hoạt hàng ngày
mà còn giúp HS rèn luyện các thao tác tư duy như: Phân tích, tổng hợp, khái quát, hệ
thống... Đồng thời phân môn Kể chuyện góp phần không nhỏ trong việc nâng cao
phẩm chất tư duy và năng lực về nhận thức cho HS. Khi học Kể chuyện, các em còn
tiếp thu được những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá,
văn học Việt Nam và nước ngoài. Học tốt phân môn Kể chuyện còn góp phần hỗ trợ
đắc lực cho quá trình học phân môn Tập làm văn với hai hình thức luyện văn nói, và
văn viết. Điều quan trọng là tình yêu TV của các em sẽ được hình thành và phát triển
vững thông qua quá trình việc học bộ môn. Từ đó các em có ý thức giữ gìn sự trong
sáng của TV, góp phần hình thành nên nhân cách của con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
1.2. Mục tiêu dạy học phân môn Kể chuyện là luôn tạo hứng thú cho HS trong
học tập, mỗi giờ học Kể chuyện là một món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với
học sinh lứa tuổi tiểu học. Môn học nhằm thoả mãn nhu cầu được nghe kể chuyện,
đồng thời nó còn mang lại những xúc cảm thẩm mĩ cho tâm hồn trẻ thơ. Đặc biệt
những câu chuyện kể sẽ góp phần giáo dục các em một cách hết sức tự nhiên, nhẹ
nhàng và thoải mái. Góp nhặt từng chút màu sắc của cuộc sống từ ý nghĩa của mỗi câu
chuyện, thấm dần vào tâm hồn trẻ thơ, ám ảnh mãi giúp các em sẽ ngày càng tự hoàn
thiện nhân cách của mình. Hơn thế nữa, giờ Kể chuyện còn góp phần tích luỹ vốn văn
học, mở rộng vốn sống cho trẻ. Thông qua việc kể lại các câu chuyện dưới các dạng
bài khác nhau các em được tiếp xúc với nhiều tác phẩm văn học, điều này đồng nghĩa
với việc vốn văn học của các em được tích luỹ dần trong dạy học Kể chuyện. Đồng
thời thông qua các giờ Kể chuyện còn mở ra cho các em một tầm hiểu biết mới hơn,
rộng hơn về cuộc sống xung quanh, trí tưởng tượng của các em cũng ngày càng trở

nên phong phú nhờ vào việc được nghe hoặc được kể lại các câu chuyện trong những
giờ học hấp dẫn. Nhiều câu chuyện đã được nghe kể sẽ gieo vào tâm hồn trẻ thơ những
mơ ước, hoài bão về một tương lai tươi đẹp. Việc các em được kể lại câu chuyện bằng

1


lời của mình đã góp phần rèn luyện và phát triển kĩ năng nói, kỹ năng kể trước đám
đông. Từ đó, giúp các em tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp, say sưa, chủ động, sáng tạo
trong lời kể phấn đấu có lời kể hấp dẫn nhất. Chính vì vậy có thể nói kể chuyện là một
hoạt động nghệ thuật, dạy Kể chuyện cho HS tiểu học là dạy một môn học mang nhiều
yếu tố nghệ thuật, giúp cho HS hiểu sâu sắc hơn về xã hội, về con người và cuộc sống
xung quanh. Giờ học Kể chuyện ngoài mục tiêu giúp HS cảm thụ, thưởng thức những
câu chuyện bổ ích bên cạnh đó đòi hỏi HS (trình độ lớp 4, 5) phải có kỹ năng kể
chuyện, có khả năng thể hiện lại câu chuyện đó cho người khác nghe bằng tất cả vốn
ngôn ngữ, sự cảm thụ, kỹ thuật thể hiện và tình cảm, cảm xúc của mình một cách hiệu
quả và có tính sáng tạo nhất.
1.3. Tuy nhiên, thực tế dạy học Kể chuyện ở nhiều trường tiểu học hiện nay vẫn
chưa đáp ứng được hết những yêu cầu của môn học. Một số GV còn coi nhẹ môn Kể
chuyện cho rằng đây là môn học phụ không thật sự quan trọng đối với HS. Vì lẽ đó
nên GV chưa đầu tư cho việc dạy học Kể chuyện (từ việc rèn luyện kĩ năng kể chuyện
cho bản thân người dạy đến việc tìm ra những biện pháp dạy học phù hợp để hướng
dẫn cho HS). Đặc biệt ở một số trường tiểu học miền núi GV dạy Kể chuyện vẫn còn
mang tính khuôn mẫu công thức, đề cao tính chất môn học, chưa coi trọng tính nghệ
thuật nên giờ dạy ít khi đem lại cho HS một giờ học Kể chuyện thật sự thú vị, lôi cuốn,
thu hút các em. Điều này đã tác động rất lớn tới HS làm cho các em chưa hào hứng với
tiết học, thậm chí còn không thích học mặc dù Kể chuyện là món ăn tinh thần hấp dẫn
nhất, không thể thiếu được đối với trẻ thơ.
Việt Nam là đất nước có đặc điểm về địa lý và sự phân bố về các thành phần
dân cư trên các vùng miền khác nhau, sự phát triển về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn

hóa,… trong đời sống không đồng đều giữa đồng bằng và miền núi, giữa thành thị và
nông thôn nhất là trong lĩnh vực giáo dục ở các tỉnh miền núi hiện nay còn đang gặp
nhiều khó khăn. Bắc Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc, nơi tập trung nhiều thành
phần dân tộc thiểu số (DTTS) cùng sinh sống như: Dân tộc Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu,
Hoa,… Mỗi dân tộc đều có tiếng nói và chữ viết, bản sắc văn hóa riêng. Do đó đối với
HS nơi đây tiếng Việt là công cụ, phương tiện để tiếp thu tri thức nhưng lại đóng vai
trò là ngôn ngữ thứ hai. Bởi thế việc dạy và học tiếng Việt nói chung và dạy học Kể
chuyện nói riêng làm sao cho đạt hiệu quả là khó khăn lớn nhất của thầy và trò vùng
này. Vậy việc vận dụng đổi mới phương pháp dạy học đối với từng phân môn tiếng

2


Việt như thế nào cho phù hợp với đối tượng HS, và đặc biệt làm thế nào để nâng cao
chất lượng, hiệu quả dạy học Kể chuyện cho HS người dân tộc thiểu số? Đó là một vấn
đề đang được các nhà trường tiểu học và các thầy cô giáo trăn trở, quan tâm.
Là một sinh viên đang học năm cuối chuyên ngành Giáo dục tiểu học, xác định
sau này ra trường sẽ dạy học trên địa bàn có những tính đặc thù trên nên tôi đã mạnh
dạn tìm hiểu, nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp dạy học Kể chuyện cho học sinh
dân tộc thiểu số lớp 4 trường Tiểu học Vô Tranh I - huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang”
Hi vọng kết quả nghiên cứu sẽ là quá trình khám phá, tích lũy kiến thức nghiệp vụ cho
bản thân, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Kể chuyện cho học
sinh lớp 4 vùng miền núi sau này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đọc và kể chuyện văn học là một loại hình nghệ thuật có từ rất lâu đời. Nó xuất
hiện cả trước khi con người tìm ra chữ viết. Điều này được chứng minh bằng một kho
tàng văn học dân gian khổng lồ mà các bậc tiền nhân đã để lại cho chúng ta. Kể
chuyện đã sớm được đưa vào chương trình giảng dạy trong trường tiểu học và nó đã
được các em HS đón nhận rất hào hứng vì đây là một môn học lí thú và hấp dẫn. Tuy
nhiên để giảng dạy tốt môn học, GV cần có những hiểu biết về cơ sở lí luận và phương

pháp, kĩ thuật dạy học phân môn này. Xuất phát từ yêu cầu trên, nhiều nhà khoa học
đã đi sâu nghiên cứu vấn đề này nhưng số lượng các công trình hãy còn khiêm tốn.
Trước hết có thể kể tới là cuốn tài liệu “Kể chuyện” của đồng tác giả Đỗ Lê
Chẩn và Nguyễn Thị Ngọc Bảo. Trong phần lí luận chung, hai tác giả đã nêu tương đối
đầy đủ về vị trí, nhiệm vụ cũng như phương pháp của dạy học Kể chuyện ở tiểu học.
Phần hướng dẫn cụ thể, có sự định hướng cho GV các bước lên lớp cho từng bài cụ
thể.
Cuốn sách được GV tiểu học tìm đọc nhiều nhất đó là “Dạy kể chuyện ở trường
tiểu học” của tác giả Chu Huy. Theo tác giả, nhu cầu kể chuyện đối với HS tiểu học là
rất lớn. Ngoài việc xác định vị trí, nhiệm vụ rất quan trọng của phân môn Kể chuyện,
ông còn đề ra phương pháp và kĩ thuật lên lớp với những bài soạn mẫu làm cơ sở cho
GV tiểu học tham khảo trong quá trình dạy học.
Xuất phát từ quan điểm: TV - là công cụ, là phương tiện lĩnh hội tiếp thu nền
văn hoá của dân tộc, nền văn minh của nhân loại, dạy học tiếng Việt phải được coi
trọng từ thời thơ ấu, cần được tổ chức hướng dẫn giảng dạy thật khoa học từ bậc mầm

3


non nên tác giả Nguyễn Xuân Khoa đã cho ra mắt bạn đọc cuốn “Phương pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo”. Dạy học Kể chuyện là một trong những phương
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mà tác giả đã đề cập rất tâm đắc. Trong đó đọc truyện
và kể chuyện cũng chính là một nghệ thuật của GV.
Cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2” do đồng tác giả Lê
Phương Nga và Nguyễn Trí biên soạn cũng đã đề cập đến đổi mới phương pháp DH
Kể chuyện. Nhóm tác giả đã định hướng xây dựng cách thức tổ chức, hoạt động chủ
yếu trong giờ Kể chuyện. Đặc biệt là nhấn mạnh đến việc rèn kĩ năng nghe và kĩ năng
kể cho người học.
Gần đây có rất nhiều sinh viên tích cực tham gia tìm hiểu nghiên cứu về dạy
học phân môn Kể chuyện ở tiểu học, tiêu biểu có: Đề tài “Truyện cổ tích và một số

biện pháp dạy học Kể chuyện cổ tích cho học sinh lớp 1, 2, 3” là khóa luận tốt nghiệp
của tác giả Phạm Thị Thu Thuỷ, sinh viên K46, khoa Giáo dục tiểu học trường Đại học
Sư phạm I - Hà Nội. Trong đề tài này, tác giả đã đưa ra một số biện pháp dạy học Kể
chuyện cổ tích ở lớp 1, 2, 3 khá cụ thể.
“Xác định quan niệm và biện pháp dạy học Kể chuyện ở tiểu học” là đề tài
nghiên cứu của tác giả Trần Thị Mến, sinh viên K47, khoa Giáo dục Tiểu học trường
Đại học Sư phạm I - Hà Nội. Ngoài việc thể hiện rõ quan niệm về việc dạy học Kể
chuyện cho học sinh tiểu học tác giả đã đề xuất một số biện pháp dạy học cơ bản ở tiểu
học, mang tính phổ biến, thông dụng, đã và đang được sử dụng ở các nhà trường tiểu
học hiện nay.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đây đều rất có giá trị và bổ ích đối với GV
tiểu học. Người dạy có thể tham khảo trong quá trình dạy học Kể chuyện theo chương
trình cải cách giáo dục. Đối với chương trình 2000 thì các công trình trên đây chỉ có
thể áp dụng với các lớp 1, 2, 3 và kiểu bài Nghe - kể lại câu chuyện vừa nghe trên lớp
ở lớp 4 - 5. Kết quả của các công trình nghiên cứu là tiền đề cơ sở, sự gợi ý cho nhiều
vấn đề trong dạy học Kể chuyện được nghiên cứu trong đề tài.
Ngoài việc tiếp thu, kế thừa kết quả của những công trình nghiên cứu đã trình
bày ở trên, trong phạm vi nghiên cứu dạy học phân môn Kể chuyện cho HS tiểu học,
tôi đã mạnh dạn đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu hoàn thiện và bổ sung một số biện
pháp dạy học cho hai kiểu bài mới trong chương trình Kể chuyện lớp 4 đó là: Kiểu bài
Kể chuyện đã nghe, đã đọc và kiểu bài Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia.

4


Điều mà chúng ta quan tâm hiện nay là GV dạy tiểu học hiểu và vận dụng lý thuyết ở
mức độ nào. HS được rèn kỹ năng kể chuyện ra sao? Và kỹ năng này có thực sự giúp
các em mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, thuận lợi trong học tập không? Muốn đạt được
điều đó đòi hỏi GV phải thấy được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc dạy và
học Kể chuyện ở nhà trường tiểu học, đồng thời phải có những biện pháp dạy học thật

hợp lý, phù hợp với đối tượng HS và sáng tạo linh hoạt trong quá trình tổ chức các
hoạt động dạy học. Đó cũng chính là những nội dung cơ bản mà khóa luận này muốn
gửi tới các thầy cô giáo đang dạy các trường tiểu học vùng miền núi cũng như những
ai quan tâm tới lĩnh vực này có một cách nhìn mới, toàn diện hơn về dạy học Kể
chuyện ở nhà trường tiểu học.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng dạy và học Kể chuyện cho HS DTTS lớp 4 ở trường Tiểu
học Vô Tranh I - huyện Lục Nam - Tỉnh Bắc Giang. Từ đó đề xuất một số biện pháp
dạy học phù hợp nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận: Đọc tài liệu, tổng hợp, phân tích tài liệu có liên quan đến
nội dung đề tài.
- Nghiên cứu tìm hiểu thực trạng dạy và học phân môn Kể chuyện ở trường
Tiểu học Vô Tranh I nói chung và dạy Kể chuyện của khối lớp 4 tại trường nói riêng.
- Trên cơ sở lí luận và thực tiễn đã nghiên cứu, đề tài đề xuất một số biện pháp
dạy học Kể chuyện cho HS DTTS lớp 4
- Soạn thiết kế một số giáo án mẫu có vận dụng các biện pháp dạy học đã đề
xuất vào dạy học một số bài cụ thể để khẳng định tính khả thi của đề tài.
5. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu toàn bộ những vấn đề liên quan tới hoạt động dạy và học Kể
chuyện cho HS DTTS lớp 4 ở trường Tiểu học Vô Tranh I - huyện Lục Nam - tỉnh Bắc
Giang.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu đề tài nghiên cứu thành công, đề xuất được những biện pháp dạy học cụ
thể, phù hợp có tính khả thi sẽ là tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa tiểu học, giáo
viên dạy học ở các trường tiểu học miền núi trong quá trình học tập và công tác. Là
sinh viên được tham gia tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện đề tài chính là một quá
trình tự học, tập dượt với công tác nghiên cứu khoa học, tìm tòi và khám phá kiến thức

5



nghiệp vụ bổ ích, thiết thực cho bản thân. Hi vọng đề tài nghiên cứu thành công sẽ góp
công sức nhỏ bé vào công cuộc đổi mới PPDH tiếng Việt, góp phần nâng cao hiệu quả
dạy học phân môn Kể chuyện cho HS tiểu học.
7. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành khảo sát hoạt động dạy học của giáo viên và hoạt động học tập
của HS khối lớp 4 trường Tiểu học Vô Tranh I - huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang
trong phân môn Kể chuyện.
Từ đó đề xuất một số biện pháp dạy học phù hợp với đối tượng HS nhằm nâng
cao hiệu quả dạy học phân môn Kể chuyện cho HS lớp 4 ở trường này.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên một số phương pháp như:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết, đọc và tìm hiểu tài liệu có liên quan tới đề
tài, từ đó phân tích, tổng hợp, khái quát để xử lí thông tin.
- Phương pháp khảo sát điều tra
Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu quan niệm của GV về dạy học Kể chuyện,
thực trạng hoạt động dạy và hoạt động học kể chuyện của GV và HS khối 4 trường
Tiểu học Vô Tranh I – huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang.
- Phương pháp quan sát
Dự một số giờ Kể chuyện ở khối 4 để nắm được cách thức dạy học của GV và
kĩ năng kể chuyện của HS ở lớp 4 trường TH Vô Tranh I nhằm bổ sung tăng kiến thức
nghiệp vụ, tăng độ chính xác khách quan cho việc điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Soạn, thiết kế mẫu một số giáo án minh
họa, dạy theo thiết kế nhằm vận dụng , kiểm tra tính khả thi của những biện pháp dạy
học đã đề xuất.
- Phương pháp tổng hợp thống kê
Tổng hợp các kết quả thu được từ quá trình tiến hành điều tra, quan sát và thực
nghiệm sư phạm.
9. Cấu trúc khóa luận

Ngoài phần mở đầu và kết luận khóa luận gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của khóa luận
Chương II: Một số biện pháp dạy học Kể chuyện cho HS lớp 4 vùng DTTS
trường Tiểu học Vô Tranh I - huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang
Chương III: Thể nghiệm

6


NỘI DUNG
Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Quan niệm về hoạt động kể chuyện ở tiểu học
Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên giải thích “kể” là nói rõ đầu đuôi, và
nêu ví dụ: Kể chuyện cổ tích: “kể” là quá trình thuật lại một sự việc có mở đầu, diễn
biến và kết thúc.
Tác giả Nguyễn Trí cho rằng: Kể chuyện là một phương thức tự sự, một
phương thức biểu đạt để kể lại các chuyện. Theo quan niệm này, muốn kể chuyện
chúng ta phải có chuyện để kể. Hay nói cách khác là người ta dùng cách kể chuyện khi
có chuyện muốn kể. Tác giả Chu Huy đã nói về thuật ngữ “kể chuyện” trong cuốn Dạy
học kể chuyện ở trường tiểu học, ông cho rằng “kể chuyện” bao gồm bốn phạm trù
ngữ nghĩa, nó chỉ loại hình tự sự trong văn học (phân biệt với loại hình trữ tình, loại
hình kịch) còn gọi là truyện hay tiểu thuyết. Ngoài ra nó còn là tên một phương pháp
nói trong diễn giảng, tên một loại văn thuật chuyện trong môn Tập làm văn, tên một
phân môn tiếng Việt ở chương trình tiểu học.
Ở phạm trù ngữ nghĩa thứ nhất, tác giả cho rằng kể chuyện là một loại hình
trong sáng tác văn học mà đặc trưng của nó là phải có tình tiết, tức là sự việc đang xảy
ra, đang diễn biến, có nhân vật với ngôn ngữ, tâm trạng, tính cách riêng. Theo đó thì
phạm trù ngữ nghĩa này chỉ đề cập tới “chuyện” mà chưa nói tới hoạt động “kể”.
Ở phạm trù ngữ nghĩa thứ hai, tác giả cho rằng kể chuyện là một phương pháp

trực quan sinh động bằng lời nói. Theo cách hiểu này, tác giả đã quan niệm kể chuyện
là một phương pháp dùng lời để trình bày một vấn đề một cách sinh động nhằm thu
hút sự chú ý của người nghe.
Nếu ở phạm trù ngữ nghĩa thứ nhất, tác giả xem kể chuyện chỉ hàm chứa nội
dung thì trong phạm trù ngữ nghĩa thứ hai, tác giả lại cho rằng kể chuyện là một hành
động nói. Vậy cộng hai phạm trù ngữ nghĩa trên lại với nhau chúng ta sẽ được một
cách hiểu đầy đủ về kể chuyện.
Ở thuật ngữ thứ ba và thứ tư thì kể chuyện được sử dụng là một danh từ để gọi
tên một thể loại văn trong phân môn Tập làm văn (văn kể chuyện) hoặc một phân môn
trong bộ môn TV ở TH (kể chuyện). Xét về bản chất, sở dĩ có tên gọi là (văn) Kể

7


chuyện hay (phân môn) Kể chuyện là do bản thân của chúng mang những nét đặc trưng
của kể chuyện. Điều đó có nghĩa là tên gọi có sau và nó phản ánh bản chất mà môn học
đó chứa đựng.
Tóm lại, dù theo quan điểm nào thì chúng ta cũng phải hiểu: Kể chuyện là một
hoạt động của lời nói, nhằm trình bày một sự việc có mở đầu, diễn biến và kết thúc.
1.1.2. Nhu cầu kể chuyện đối với học sinh tiểu học trong cuộc sống
Trong cuộc sống sinh hoạt của xã hội loài người, con người hằng ngày luôn trao
đổi thông tin với nhau. Để thoả mãn nhu cầu con người cần một phương tiện đó là
ngôn ngữ. Như ta đã biết, ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng là nói và viết. Việc sử dụng
lời nói để trao đổi với nhau về các vấn đề của cuộc sống, thật ra lúc đó con người đang
kể chuyện cho nhau nghe. Vì sao có thể khẳng định như vậy? Vì khi đó con người
đang tiến hành một hoạt động lời nói để trình bày một sự việc sao cho người nghe hiểu
được ý của mình.
Trong cuộc sống và lao động của người xưa, khi mà xã hội chưa phân chia giai
cấp, con người sống với nhau theo bầy đàn, sau một ngày săn bắt hái lượm, họ cùng
quây quần với nhau bên bếp lửa để kể cho nhau nghe những câu chuyện về những

cuộc săn bắt, hái lượm của họ.
Xã hội ngày càng phát triển, cùng với ngôn ngữ trình độ nhận thức của con
người cũng phát triển. Khi đó, trong quá trình lao động sản xuất của mình, họ lại kể
cho nhau nghe những câu chuyện có thể tự mình nghĩ ra hoặc của thế hệ trước để lại.
Những câu chuyện này chủ yếu nói về kinh nghiệm sản xuất hoặc giải thích các hiện
tượng thiên nhiên hay ước mơ chinh phục thiên nhiên của người xưa. Đó chính là kho
tàng văn học dân gian đồ sộ và vô cùng quý giá mà nhân loại bao thế hệ đã dành tặng
cho hậu thế.
Khi chữ viết xuất hiện cũng là lúc nền văn học viết ra đời, hơn bao giờ hết nhu
cầu kể chuyện của con người là rất cao. Điều này thể hiện ở việc con người ghi lại
những câu chuyện dân gian để tiếp tục kể lại và lưu truyền lâu dài cho đời sau. Song
song đó, con người luôn không ngừng đua nhau sáng tác thêm rất nhiều câu chuyện
mang hơi thở của thời đại nhằm đáp ứng nhu cầu về kể chuyện ngày càng cao của con
người.
Trẻ em từ khi bập bẹ tập nói, các em đã rất thích nghe kể chuyện. Những câu
chuyện của bà, của mẹ luôn là niềm hứng khởi đối với các em và nó đã để lại trong

8


lòng trẻ thơ những tình cảm tốt đẹp. Khi đến tuổi mẫu giáo, nhu cầu được nghe cũng
như được nói của các em lại tăng lên. Bộ môn Phương pháp cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học, định hướng cho GV mầm non tổ chức, hướng dẫn cho trẻ làm quen với
truyện và thơ là bộ môn quan trọng ở bậc mẫu giáo - giai đoạn đầu đời của con người.
Đến khi bước vào tuổi tiểu học, nhu cầu kể chuyện lại tiếp tục tăng, đặc biệt là
đối với các loại truyện cổ dân gian. Vì những truyện kể dân gian là những câu chuyện
rất gần gũi với các em, nó được ví như dòng nước mát bổ dưỡng tâm hồn với thế giới
cổ tích hoang linh kì diệu, các em đã được làm quen với chúng từ rất sớm. Những câu
chuyện này giúp các em nhận thức thế giới và chúng cũng giúp các em chính xác hoá
những biểu tượng đã có về tự nhiên và xã hội. Đồng thời truyện cổ từng bước cung cấp

thêm những khái niệm mới, mở rộng kinh nghiệm sống cho các em, đặc biệt là đối với
HS vùng DTTS thì đây lại là vốn kiến thức rất quan trọng. Những câu chuyện ấy luôn
ám ảnh, có tác dụng hình thành cho các em thái độ đối với cuộc sống xung quanh.
Puskin - một nhà thơ vĩ đại của Nga đã từng bộc bạch: “Buổi tối, tôi nghe kể những
câu chuyện cổ tích và lấy việc đó bù đắp những thiếu sót trong sự giáo dục đáng
nguyền rủa của mình. Mỗi truyện cổ tích ấy mới đẹp đẽ làm sao, mỗi câu truyện là một
bài ca”.
Tóm lại, trong cuộc sống hiện đại, xã hội ngày càng phát triển như ngày nay thì
nhu cầu được nghe, được kể chuyện ngày một lớn, không thể thiếu được đối với cuộc
sống của tất cả mọi người, mọi giới tính, mọi lứa tuổi trong xã hội. Đặc biệt nhu cầu
đó lại lớn hơn bao giờ hết và càng quan trọng đối với lứa tuổi học sinh tiểu học, giúp
trẻ được cảm thụ, thưởng thức văn học, rèn luyện nhiều kỹ năng trong học tập, là nền
móng vững chắc cho những kĩ năng sống của trẻ sau này.
1.1.3. Mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung và phương pháp dạy học Kể chuyện ở tiểu học
1.1.3.1. Mục tiêu
Theo tác giả Hoàng Hoà Bình, dạy học Kể chuyện ở tiểu học giúp các em đạt
được một số kiến thức, kĩ năng cơ bản về việc cảm thụ ngôn ngữ văn học, có thái độ
yêu thích môn học.
Cùng với phân môn Tập đọc, Kể chuyện bước đầu giúp trẻ được tiếp xúc với
ngôn ngữ văn học, đó là ngôn ngữ nghệ thuật chứa đựng đầy ắp tính thẩm mĩ. Đồng
thời rèn luyện kỹ năng nghe hiểu để vận dụng trong việc tiếp nhận các tác phẩm văn

9


học, cũng như sự chủ động linh hoạt trong từ ngữ, lời nói phục vụ cho hoạt động giao
tiếp.
Thông qua nghệ thuật ngôn từ HS được tiếp xúc với hình tượng văn học, phát
huy sự hình dung, tưởng tượng, sự rung động với những cảm xúc vui, buồn, yêu, ghét
của con người. Từ đó trẻ được hình thành và phát triển nhận thức, với những tình cảm

và thái độ đúng đắn trong cuộc sống như biết phân biệt đẹp xấu, thiện ác, đúng sai;
biết yêu thương, quý trọng tình cảm đối với trường lớp, thầy cô, bạn bè, quê hương,
đất nước; có lòng nhân ái vị tha; có ý thức về bổn phận, sự hiếu thảo với ông bà, cha
mẹ, người thân, biết tôn trọng nội quy, tôn trọng pháp luật, bảo vệ của công, bảo vệ
môi trường; Hướng tới cách sống tự tin, năng động, trung thực, dũng cảm; có ý thức
và nhu cầu nhận thức bản thân. Bước đầu rèn luyện và hình thành các kĩ năng cơ bản
như biết kể chuyện, biết tóm tắt câu chuyện, biết ghi nhớ, rút ra bài học ý nghĩa của
câu chuyện, biết nhận xét, nêu cảm nghĩ của mình về các nhân vật có trong truyện... để
vận dụng trong học tập trên lớp và cũng như trong cuộc sống.
1.1.3.2. Nhiệm vụ
Trong cuốn “Dạy Kể chuyện ở trường tiểu học”, tác giả Chu Huy đã chỉ ra
nhiệm vụ cơ bản của phân môn Kể chuyện đó là: bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm
vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển ngôn ngữ và tư duy cho trẻ. Các
nhiệm vụ cụ thể của Kể chuyện là bồi dưỡng đời sống tâm hồn, đem lại niềm vui cho
các em. Phân môn Kể chuyện đã đáp ứng nhu cầu nghe kể chuyện của trẻ. Đối với các
em nhu cầu này rất lớn (như đã nói đến ở phần trên). Các câu chuyện được sử dụng để
kể cho trẻ là các tác phẩm văn học nghệ thuật đã được chọn lọc kỹ để đưa vào chương
trình SGK. Các tác phẩm này có tác động rất lớn, làm lay động đến tâm hồn và xúc
cảm của trẻ, đồng thời nó còn lưu giữ, thúc đẩy trẻ phấn đấu vươn tới những điều tốt
đẹp trong tương lai.
Dạy học Kể chuyện còn góp phần trau rồi vốn sống và vốn văn học cho các em.
Trẻ được học kể chuyện từ khi chưa biết đọc biết viết, điều này cũng có nghĩa là trẻ
được tiếp xúc rất sớm với các tác phẩm văn học ở bậc cao hơn. Trong chương trình
tiểu học, học sinh được nghe và kể rất nhiều câu chuyện với nhiều thể loại khác nhau,
từ truyện cổ tích đến hiện đại, các tác phẩm văn học được chọn lọc trong nước và các
tác phẩm văn học trên thế giới. Nhờ đó vốn văn học của trẻ được mở rộng vô cùng
phong phú. Các câu chuyện kể với nhiều đề tài khác nhau đã đưa các em tới một thế

10



giới muôn sắc màu, lung linh và sống động của cuộc sống xung quanh về lĩnh vực tự
nhiên và xã hội. Các câu chuyện phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp chân thực cuộc sống
khách quan đó là: Nỗi khổ cực, bị áp bức bóc lột của người dân lao động xưa, bộ mặt
ích kỉ, tham lam, gian tà của giai cấp bóc lột, những phong tục tập quán, truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, những tấm gương trong thời chiến oanh liệt,… Tất cả đã
tích lũy cho cảm xúc được thăng hoa để chiến đấu hi sinh bảo vệ đất nước tươi đẹp
hôm nay. Vốn sống, vốn ngôn ngữ của các em được mở rộng cũng nhờ đó.
Chính vì vậy có thể khẳng định rằng Kể chuyện là phát triển ngôn ngữ và tư
duy cho trẻ. Qua việc nghe và kể các câu chuyện, trẻ được tiếp xúc với các hình tượng
nghệ thuật được thể hiện qua chất liệu ngôn từ đã được các nhà văn, nhà thơ say mê
lao động, gọt rũa, cô đúc một cách công phu. Các chi tiết, các hình ảnh nghệ thuật, tính
cách của nhân vật tạo nên một thế giới sống động trong tâm hồn trẻ thơ một cách hợp
lý, lô gic và tự nhiên. Trong quá trình nghe, kể trẻ được dấn thân, bị lôi cuốn vào câu
chuyện, trẻ hiểu sâu sắc nội dung và vận dụng nó một cách ngộ nghĩnh, đáng yêu theo
cách nhìn nhận của trẻ thơ.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng mục tiêu và nhiệm vụ dạy học Kể chuyện ở
hai bậc học trên có những nét tương đồng. Vì chương trình được thiết kế theo xu
hướng đồng tâm (lặp lại và nâng cao). Mục tiêu, nhiệm vụ dạy học Kể chuyện ở tiểu
học là sự tiếp nối phát triển ở mức cao hơn so với bậc học mầm non, Kể chuyện trong
trường tiểu học ngoài việc góp phần hoàn thiện nhân cách cho học sinh, Kể chuyện
còn là môn học tạo hứng thú, được thư giãn, giải trí phát huy tất cả sự thích thú và đam
mê của trẻ mà không có bất kỳ môn học nào có được ưu thế của nó.
1.1.3.3. Nội dung
Nội dung dạy học Kể chuyện nhằm củng cố kĩ năng kể đã được hình thành ở
các lớp dưới: Kiểu bài tập Kể chuyện, câu chuyện có độ dài khoảng trên dưới 500 chữ,
được in trong SGV. Sách giáo khoa chỉ trình bày tranh hoặc tranh kèm lời dẫn giải
ngắn gọn, HS phải nghe kể và trình bày lại câu chuyện.
Đồng thời nội dung dạy học Kể chuyện lớp 4 nhằm hình thành những kĩ năng
khó hơn như: Các em phải kể lại những câu chuyện đã được nghe hoặc đã đọc, hoặc

những câu chuyện các em đã được chứng kiến hoặc tham gia, khuyến khích sưu tầm
những câu chuyện ngoài SGK có nội dung hấp dẫn, mang tính cập nhật với đời sống,
có ý nghĩa giáo dục cao, rút ra được bài học sâu sắc. Để kể được câu chuyện thuộc

11


kiểu bài này, các em phải nhớ lại các tình tiết những câu chuyện mà mình đã được đọc,
nghe, kể, chứng kiến hoặc tham gia. Khi có ý tưởng, các em dựa vào cách thức xây
dựng câu chuyện đã được học ở phân môn Tập làm văn để sắp xếp lại các chi tiết và
kể. Tất nhiên nội dung của những câu chuyện này phải phù hợp với chủ điểm mà các
em được học.
Các chủ điểm học tập của lớp 4 gồm: Thương người như thể thương thân (lòng
nhân ái); Măng mọc thẳng (trung thực, tự trọng); Trên đôi cánh ước mơ (ước mơ);
Tiếng sáo diều (vui chơi); Người ta là hoa đất (năng lực, tài trí); Vẻ đẹp muôn màu (óc
thẩm mĩ); Những người quả cảm (lòng dũng cảm); Khám phá thế giới (du lịch, thám
hiểm) và tình yêu cuộc sống (lạc quan, yêu đời).
Như vậy phân môn Kể chuyện có sự hỗ trợ bổ sung đắc lực cho phân môn Tập
làm văn. Thông qua những câu chuyện sinh động các em nắm bắt, rung động sẽ là
những bài viết sinh động thuyết phục nhất.
1.1.3.4. Quan niệm về đổi mới phương pháp dạy học kể chuyện cho học sinh lớp 4
Như đã nói trên, kể chuyện là một hoạt động lời nói. Cho nên có thể nói phương
pháp đặc trưng của dạy học Kể chuyện là phương pháp dùng lời (kể). Tuy nhiên, do
dặc trưng của Kể chuyện là kể nên phương pháp này được sử dụng không giống như
đối với các phân môn khác. Điểm khác biệt đó là GV không phải dùng lời để thuyết
trình nội dung dạy học mà là dùng lời để kể và sau đó hướng dẫn học sinh cũng dùng
lời của mình để kể lại câu chuyện vừa được nghe giáo viên kể hoặc kể lại các câu
chuyện đã được nghe, đã được đọc hoặc được chứng kiến, tham gia. Nói như thế có
nghĩa là phương pháp kể là phương pháp của cả GV lẫn HS và điều quan trọng hơn cả
là làm sao rèn cho HS biết cách kể có được một kĩ năng kể chuyện như mục tiêu dạy

học đề ra. Do đó có thể xem kể vừa là phương pháp dạy học vừa là mục tiêu mà dạy
học phải hướng tới. Chính vì lẽ đó, việc sử dụng lời kể của GV mang tính chất làm
mẫu phải thật chuẩn mực. GV phải lựa chọn ngôn ngữ sao cho chính xác, trong sáng,
giản dị, dễ hiểu và có tính thẩm mĩ cao, đặc biệt là phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh
lí của HS. Đồng thời lời kể của GV phải truyền tải được nội dung, ý nghĩa của câu
chuyện. Giọng kể có ngữ điệu truyền cảm tác động trực tiếp tới người nghe, kết hợp
với tín hiệu không lời.
Phương pháp thứ hai có thể kể đến trong dạy học Kể chuyện là phương pháp
gợi mở, vấn đáp. Phương pháp này được sử dụng để giúp HS tìm hiểu truyện và để

12


hướng dẫn HS kể lại. Thông qua việc hướng dẫn trả lời hệ thống câu hỏi của GV, HS
sẽ ghi nhớ được cốt truyện, các tình tiết quan trọng của truyện để kể lại, từ đó rút ra
được ý nghĩa của câu chuyện. Trong lúc HS kể, nếu các em có quên một vài chi tiết thì
câu hỏi sẽ có tác dụng khơi gợi như cách dạy truyền thống giúp các em nhớ lại, tái
hiện lại để tiếp tục phát triển lời kể thay vì GV phải nhắc nội dung cho các em.
Phương pháp này còn được sử dụng trong việc hướng dẫn HS lập dàn ý, gạch những ý
chính về cốt truyện câu chuyện. Như vậy phương pháp gợi mở, vấn đáp trong kể
chuyện ngoài tác dụng giúp cho các em khắc sâu hơn nội dung, ý nghĩa của câu
chuyện nó còn góp phần hình thành kĩ năng kể chuyện cho các em từ thấp đến cao, từ
dễ đến khó, giúp cho HS em nào cũng có thể tự tin tham gia vào tiết học này.
Một phương pháp không thể thiếu trong dạy học Kể chuyện đó là phương pháp
quan sát. Trong khi kể chuyện, GV luôn hướng dẫn các em quan sát tranh ảnh coi đó
là điểm tựa để kết hợp nghe, tái hiện và ghi nhớ nội dung câu chuyện. Ngoài ra tranh
ảnh còn có tác dụng kích thích sự chú ý và trí tưởng tượng bay bổng, phát huy sự sáng
tạo trong lời kể của người học.
Trong dạy học Kể chuyện, GV còn sử dụng phương pháp sắm vai, hoạt động
hợp tác nhóm. Phương pháp này được sử dụng khi HS tập kể lại câu chuyện theo lối

phân vai.
Mỗi phương pháp có một ưu thế riêng chính vì vậy GV cần sử dụng phối hợp
nhuần nhuyễn và linh hoạt các phương pháp trên.
Tóm lại: Kể chuyện là hoạt động sử dụng lời nói để trình bày một sự việc có
mở đầu, diễn biến và kết thúc. Thông qua kể chuyện người ta trao đổi thông tin với
nhau đồng thời nó giúp cho con người tự hoàn thiện và phát triển nhân cách cho mình.
Vì Kể chuyện có tầm quan trọng rất to lớn, cần thiết diễn ra hàng ngày nên nhu cầu về
kể chuyện của tất cả mọi người (kể cả trẻ nhỏ cho đến người lớn) là rất cao. Kể chuyện
không phải là một hình thức giải trí thông thường mà nó là một hoạt động lời nói, là
một hình thức sinh hoạt văn hoá và là một hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Kể chuyện ở
tiểu học có nội dung và phương pháp rất riêng, cho nên người GV cần phải nắm vững
lý thuyết, vận dụng sáng tạo để việc dạy học Kể chuyện đạt hiệu quả cao nhất.
Kể chuyện là một hoạt động lời nói. Cho nên kể chuyện là hoạt động nghệ thuật
của lời nói có ngữ điệu, cách ngắt giọng, cường độ giọng, cử chỉ, điệu bộ.... màu sắc
cá nhân. Câu chuyện được kể lại mang dấu ấn của người kể từ lời văn, đến giọng điệu

13


lẫn cảm xúc. Sản phẩm đó là do sự kết hợp giữa cảm thụ, thưởng thức tác phẩm kết
hợp với sự tái hiện, kỹ năng kể chuyện của người kể. Cái đích mà người dạy Kể
chuyện luôn muốn hướng tới cho người học của mình đó là sáng tạo sáng tạo trong kể
chuyện là yếu tố cực kỳ quan trọng.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Mục đích khảo sát
Đề tài tiến hành khảo sát hoạt động dạy học và học tập phân môn Kể chuyện
của GV và HS khối lớp 4 trường Tiểu học Vô Tranh I - huyện Lục Nam - tỉnh Bắc
Giang. Tìm hiểu về các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học của GV, cũng như sự
hợp tác học tập của HS trong phân môn Kể chuyện.
Quá trình khảo sát đề tài đi sâu tìm hiểu về tâm lý HS, mức độ hứng thú và khả

năng nhận thức của các em trong quá trình học phân môn Kể chuyện. Từ đó, nhằm tìm
ra những ưu điểm và hạn chế cụ thể trong quá trình dạy và học để từ đó có những định
hướng đề xuất biện pháp dạy học thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả đối với môn học.
1.2.2. Đối tượng khảo sát
Đề tài khảo sát dựa trên các đối tượng:
- Khảo sát hoạt động dạy Kể chuyện của GV dạy học khối lớp 4.
- Khảo sát hoạt động học tập của HS lớp 4.
- Hoạt động dạy - học Kể chuyện của GV, HS khối 4.
1.2.3. Nội dung khảo sát
Đề tài tiến hành khảo sát những nội dung sau:
- Chương trình SGK các bài học của phân môn Kể chuyện lớp 4.
- Tìm hiểu các phương pháp, hình thức dạy và học phân môn Kể chuyện lớp 4,
tại trường Tiểu học Vô Tranh I - huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang.
- Tìm hiểu các thiết bị dạy học được sử dụng hỗ trợ minh họa trong dạy Kể
chuyện lớp 4.
- Tìm hiểu về tâm lý và nhận thức hứng thú của HS khi học phân môn Kể
chuyện.
1.2.4. Phương pháp khảo sát
- Phương pháp dự giờ.
- Phương pháp trò chuyện, quan sát, phỏng vấn trực tiếp.
- Phương pháp trắc nghiệm.

14


- Phương pháp điều tra.
1.2.5. Thời gian, địa bàn khảo sát
- Thời gian khảo sát:
Tháng 1, 2 năm 2015: Tham quan trường lớp, trò chuyện với GV và HS.
Tháng 3 năm 2015: Dự giờ, phát phiếu điều tra.

Tháng 4 năm 2015: Khảo sát giáo án và thể nghiệm dạy học.
- Địa bàn khảo sát:
Thực hiện khóa luận này tôi tiến hành tìm hiểu, khảo sát thực tế hoạt động dạy
và học của GV và HS lớp 4 tại trường Tiểu học Vô Tranh I - huyện Lục Nam - tỉnh
Bắc Giang.
1.2.6. Kết quả khảo sát
1.2.6.1. Hoạt động học tập của học sinh
Qua quá trình dự giờ, khảo sát bằng phiếu điều tra về hứng thú học tập phân
môn Kể chuyện cho HS lớp 4 Trường Tiểu học Vô Tranh I - huyện Lục Nam - tỉnh
Bắc Giang. Tôi nhận thấy rằng: 73,2% các em HS khối lớp 4 trong nhà trường đều có
hứng thú học phân môn Kể chuyện. Tuy nhiên hoạt động dạy học ở đây chưa được đề
cao, những tiết dạy Kể chuyện GV thường cho HS học các môn tự chọn khác như ôn
Toán, ôn tiếng Việt, Tập làm văn. Khi trao đổi trực tiếp, các thầy cô lí giải: Do HS học
môn Toán, Tập làm văn chưa đạt yêu cầu, ở lớp luôn thiếu thời gian, thời gian tự học ở
nhà ít, hoặc không hiệu quả. Một số GV trong trường lại cho rằng môn Kể chuyện là
môn phụ, không quan trọng đối với HS. Đồng thời qua tìm hiểu chúng tôi nhận thấy
90% HS là con em vùng nông thôn, nguồn sống dựa vào sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu. Chính vì vậy điều kiện sống của HS còn gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài thời gian
học tập trên lớp về nhà các em còn phải phụ giúp bố mẹ công việc đồng áng, việc nhà.
Do vậy việc học tập của các em chưa được đầu tư thời gian thích đáng. Chất lượng học
tập môn tiếng Việt còn thấp, nhiều HS đọc còn ngọng, phát âm sai (sai phụ âm, phần
vần, dấu thanh) từ đó dẫn đến việc luyện kĩ năng kể chuyện cũng bị ảnh hưởng nhiều
về khâu diễn đạt của người kể, nhút nhát, thiếu tự tin khi tham gia phần luyện tập kể
chuyện.
Để khảo sát về hứng thú học tập, đề tài có câu hỏi : “Em có yêu thích phân môn
Kể chuyện hay không?” Kết quả thu được là:

15



Mức độ

Số lƣợng

Tỉ lệ



25

61%

Bình thường

13

31,7%

Không

3

7,3%

Câu hỏi 2: “Các em có thích nghe Kể chuyện không?” Kết quả thu được là:
Mức độ

Số lƣợng

Tỉ lệ


Rất thích

30

73,2%

Bình thường

10

24,4%

Không

1

2,4%

Như vậy còn lại 26,8% số HS thờ ơ hoặc chưa yêu thích môn học Kể chuyện.
Đây cũng là vấn đề đặt ra cho các GVTH là làm sao để huy động 100% HS đều có
hứng thú học tập, thấy thực sự thích thú, say mê đối với giờ học. Học xong cảm thấy
hữu ích thiết thực đối với bản thân. Kích thích các em sẽ có sự tìm tòi, khám phá thêm
nhiều câu chuyện hay ngoài SGK giúp mở rộng vốn sống, vốn hiểu biết phong phú. Để
tìm hiểu vấn đề này tôi đã đưa ra câu hỏi 3: “Ngoài những câu chuyện trong SGK em
có thường xuyên tìm đọc những câu chuyện khác trên sách, báo không?” kết quả thu
được là:
Mức độ

Số lƣợng


Tỉ lệ

Thường xuyên

13

31,7%

Thỉnh thoảng

26

63,4%

Không

2

4,9%

Bên cạnh sự tìm tòi khám phá của các em kết hợp với những câu chuyện GV kể
trên lớp thì các em rất cần có sự quan tâm phối hợp của ông bà, cha mẹ HS. Câu hỏi 4:
“Các em có thường xuyên được ông bà, cha mẹ, anh chị… kể chuyện cho nghe
không?”. Kết quả là:
Mức độ
Thường xuyên

Số lƣợng
5


16

Tỉ lệ
12,2%


Đôi khi

20

48,8%

Không bao giờ

16

39,0%

Câu hỏi 5: “Bố mẹ có hay mua sách báo cho em đọc không?”. Kết quả là:
Mức độ

Số lƣợng

Tỉ lệ

Thường xuyên

9


22%

Đôi khi

28

68,3%

Không bao giờ

4

9,7%

Chính vì vậy sự quan tâm, chăm sóc của gia đình là rất cần thiết bởi không chỉ
học ở trường mà các em còn được học ở ngay cả gia đình nơi các em sinh sống. Phần
lớn các em đều là HS DTTS, giao tiếp hằng ngày hầu hết bằng tiếng mẹ đẻ. Do vậy
thói quen dùng ngôn ngữ phổ thông còn hạn chế. Qua trao đổi với GV trực tiếp giảng
dạy khối 4 trường Tiểu học Vô Tranh I, 100% HS phải sử dụng ngôn ngữ phổ thông
trong các giờ học. Mặc dù tỷ lệ các em chưa thông thạo tiếng phổ thông, thói quen sử
dụng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, cách dùng từ và diễn đạt từ còn chưa lưu loát chiếm 1/3.
Vì phạm vi tiếp xúc , môi trường học tiếng Việt còn hẹp, ngoài phạm vi từ trường học
đến làng - bản, vì xa trung tâm thi thoảng mới được đến chợ, nên vốn từ của các em
còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy khi tham gia bài học về kiểu bài kể câu chuyện đã
được chứng kiến, tham gia các em rất lúng túng. HS chưa biết kể theo lời của từng
nhân vật trong chuyện hoặc các em chủ yếu là đọc lại truyện, hoặc là học thuộc lòng
từng câu, từng chữ trong sách để nói lại, chứ chưa phải kể.
Vì vậy tôi đưa ra câu hỏi 6: “Trong gia đình em thường giao tiếp bằng ngôn
ngữ nào?” kết quả thu được là:
Ngôn ngữ


Số lƣợng

Tỉ lệ

Tiếng việt

7

17,1%

Tiếng dân tộc

34

82,9%

Có tới 82,9% các em đều sử dụng tiếng mẹ đẻ. ( tiếng dân tộc TS) Điều đó cũng
là một khó khăn đối với các thầy, cô về việc luyện tập TV ở nhà của các em.

17


Ngoài việc tiếp xúc với những người thân trong gia đình, giao tiếp ngoài xã hội
cũng có vai trò quan trọng góp phần bồi dưỡng vốn TV của các em. câu hỏi 7: Em có
hay đi chợ cùng bố mẹ không? Kết quả thu được là:
Mức độ

Số lƣợng


Tỉ lệ

Thường xuyên

12

29,3%

Thỉnh thoảng

23

56,1%

Không bao giờ

6

14,6%

Câu hỏi 8: Em có hay tham gia kể chuyện về bản thân, gia đình, bản làng, quê
hương mình ở lớp hoặc ở các hoạt động ngoại khóa không? Kết quả thu được :
Mức độ

Số lƣợng

Tỉ lệ




11

26,8%

Không

30

73,2%

Như vậy 73,2% các em còn e ngại, rụt rè, chưa dám kể về hoặc không dám kể
hay chia sẻ chuyện về bản thân, gia đình, bản làng, quê hương mình cho bạn bè trong
lớp nghe. Nguyên nhân do các em thiếu tự tin về ngôn ngữ của mình, vốn từ ít, chưa
biết cách diễn đạt suy nghĩ của mình hoặc không có nhu cầu chia sẻ, giao tiếp.
Ngoài môi trường gia đình, nhà trường thì các phương tiện thông tin đại chúng
cũng góp phần nâng cao sự hiểu biết, tiếp cận với thời đại, giúp các em phát triển một
cách toàn diện về nhân cách cũng như vốn hiểu biết tiếng phổ thông. Câu hỏi 9: “Nơi
em sinh sống (gia đình, bản làng) có những phương tiện thông tin đại chúng nào?” kết
quả thu được như sau:
Phƣơng tiện

Số lƣợng

Tỉ lệ

Tivi

36

87,8%


Đài

3

7,3%

Máy tính (internet)

2

4,9%

Hầu hết các phương tiện thông tin đại chúng các em đều đã tiếp cận, điều đó
cũng góp phần nâng cao hiểu biết hiện tại, tiếp xúc với ngôn ngữ phổ thông trên các
phương tiện.

18


Từ việc tìm hiểu tâm lí HSTH khi học phân môn Kể chuyện, điều tra thực trạng
học phân môn Kể chuyện với câu hỏi: “Trong khi học phân môn Kể chuyện các em
gặp khó khăn gì?”. Thông qua số phiếu thu được tôi nhận được rất nhiều câu trả lời,
mỗi em đều gặp những khó khăn riêng. Qua xử lí số liệu kết quả thu được từ 41 HS
khối 4 có tới 80% các em còn gặp khó khăn khi đóng vai nhân vật trong tác phẩm và
kể lại câu chuyện, 4% các em gặp khó khăn khi nhớ cốt truyện, còn lại 16% gặp khó
khăn khi nghe thầy cô kể chuyện. Như vậy 80 % HS còn gặp khó khăn trong quá trình
đóng vai, nhập vai nhân vật trong giờ học Kể chuyện. Đó cũng là một hạn chế của HS
DTTS, có thể do nhiều lí do nhưng chủ yếu do các em ngại thể hiện bản thân do cách
diễn đạt, do vốn ngôn ngữ còn nhiều hạn chế.

Khi hỏi về: “Các hoạt động tập thể mà em thường tham gia ở trường” đa số
các em chưa hứng thú tham gia hoạt động thi kể chuyện, do các em chưa hiểu hết ích
lợi của phân môn Kể chuyện.
Câu 11: “Theo em tác dụng của việc học Kể chuyện là gì ?”
Tìm hiểu về vấn đề này tôi nhận thấy 73% các em đã xác định được tác dụng
của việc học Kể chuyện là “giúp các em hiểu biết hơn về thế giới xung quanh con
người, tự nhiên, xã hội, các sự vật, sự việc… Đồng thời còn giúp các em nói (kể) mạnh
dạn, tự tin trước đám đông”. Còn lại 27% các em đều cho rằng được vui chơi, được
thư giãn, được thoải mái trong giờ học của việc học Kể chuyện là chủ yếu các em
được nghe những câu chuyện hấp dẫn.
Các em có thể chưa tiếp cận với các phương pháp Kể chuyện phù hợp với trình
độ, khả năng của mình mà mỗi em có một cách thể hiện nội dung câu chuyện khác
nhau. Trong nội dung này với câu hỏi: “Em thường kể chuyện theo như thế nào ?”
Qua điều tra tôi thu được kết quả như sau:
38% các em quan niệm là kể phải cố gắng bắt chước kể lại giống hệt thầy cô đã
kể cho các em nghe, 52% học thuộc lòng câu chuyện và kể lại thật diễn cảm, còn lại
10% là kể lại câu chuyện theo lời của mình.
Qua việc khảo sát ở trên chúng ta nhận thấy rằng có rất nhiều yếu tố tác động
đến hứng thú, khả năng nghe và kể lại chuyện ở trong chương trình học cũng như
những câu chuyện các em được chứng kiến tham gia ngoài cuộc sống. Bên cạnh sự
nhiệt tình giảng dạy, tâm huyết với nghề, GV cần có sự đổi mới phương pháp dạy học
sáng tạo và hiệu quả cho phù hợp với đối tượng HS DTTS, nhằm khắc phục những

19


mặt hạn chế, trang bị cho các em vốn hiểu biết TV cũng như kĩ năng kể chuyện góp
phần giúp các em học tốt môn học này ở lớp trên, rèn luyện kỹ năng nói và kể ở bậc
học cao hơn.
1.2.6.2. Hoạt động dạy học của giáo viên

Trường Tiểu học Vô Tranh I là một trường thuộc đơn vị hành chính xã thuộc
địa bàn mền núi có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Ngày 22 tháng 9 năm
2009 trường được công nhận là trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia cấp độ I. Năm học
2014 - 2015 trường có tổng số 17 lớp học, được phân ra làm 3 khu, điều kiện cơ sở vật
chất ở đây số phòng học còn thiếu, bàn ghế cho HS ngồi chưa đúng qui cách, đồ dùng
dạy học, thư viện, trang thiết bị còn thiếu. Nhà trường có tổng số 28 GV trong đó có
15 GV trình độ Đại học, 5 GV trình độ cao đẳng, 8 GV trình độ trung cấp. Hiện nay số
GV có trình độ trung cấp đã và đang học các lớp liên thông lên Đại học vừa học, vùa
làm. Trường có 3 GV đạt GV dạy giỏi cấp huyện, 5 GV dạy giỏi cấp trường.
Năm học 2014 - 2015 khối lớp 4 có hai lớp với tổng số 41 HS. Trong đó có 38
HS DTTS chiếm 93%. HSDTTS chủ yếu là dân tộc Hoa, Sán Dìu, Nùng, Tày… 100%
HS đi học đúng độ tuổi (10 - 11 tuổi).

Lớp

Tổng số HS

HSDTTS

Tỉ lệ

4B1

20

18

90%

4B2


21

20

95%

Để nâng cao hiệu quả dạy học thì không chỉ đổi mới nội dung chương trình
SGK mà còn cần cả sự đổi mới các PPDH sao cho phù hợp.
Sự kết hợp giữa cái cũ và cái mới luôn là tiền đề để phát triển cái mới. Vậy đổi
mới phương pháp dạy học là đổi mới như thế nào? Có phải là thay thế phương pháp
dạy học cũ bằng phương pháp dạy học mới hay không? Về mặt bản chất là đổi mới các
phương pháp dạy học cụ thể, các phương tiện và hình thức dạy học, trên cơ sở khai
thác triệt để ưu điểm của các phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương
pháp mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học. Như vậy
mục đích cuối cùng của PPDH Kể chuyện là làm thế nào để HS phải thực sự thích học,
phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, luôn tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo trong quá

20


trình lĩnh hội tri thức và lĩnh hội kiến thức để có được tri thức ấy nhằm hoàn thiện
nhân cách của mình.
Để điều tra tôi đưa ra câu hỏi: “Khi dạy học Kể chuyện thầy, cô thường sử dụng
phương pháp dạy học nào?”. Thì kết quả thu được như sau:
Các phƣơng pháp

Số GV sử dụng

Tỉ lệ


Phương pháp trực quan

28

100%

Phương Pháp đàm thoại

28

100%

Phương pháp luyện tập

28

100%

Phương pháp thảo luận

28

100%

Qua phân tích số liệu, tôi thấy rằng các PP mà các GV khối 4 trường Tiểu học
Vô Tranh I thường sử dụng vẫn là các PP truyền thống như: PP quan sát, luyện tập
thực hành, trực quan, đàm thoại, thảo luận. Các PP mới như PP trò chơi, PP nêu vấn
đề… đang được đưa vào áp dụng. Do rất nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính
là điều kiện vật chất, kĩ thuật của trường chưa đáp ứng đầy đủ, HS chưa tích cực chủ

động trong việc chiếm lĩnh tri thức. Mặt khác GV chưa quan tâm đầu tư đúng mức đến
công việc tìm tòi và vận dụng biện pháp tích cực để nâng cao hiệu quả dạy học môn
TV nói chung và phân môn Kể chuyện nói riêng.
Với câu hỏi: “Rèn kỹ năng kể chuyện cho HS thầy (cô) thường sử dụng đồ dùng
trực quan nào dưới đây?” Kết quả là:
Đồ dùng trực quan

Số lƣợng

Tỉ lệ

Tranh minh hoạ, đồ vật, mẫu vật.

28

100%

Công nghệ thông tin.

0

0%

100% các thầy cô đều sử dụng tranh minh hoạ để phục vụ cho bài dạy Kể
chuyện của mình. Khi được hỏi thêm về nguồn gốc của đồ dùng trực quan thì kết quả
là các thầy cô lấy từ phòng thư viện của nhà trường, chưa có sự sáng tạo, thiết kế thêm
ngoài những phương tiện đó.
Vận dụng các phương pháp vào dạy học phân môn Kể chuyện có đạt hiệu quả
hay không phụ thuộc vào cách thức tổ chức một giờ Kể chuyện của GV. Câu hỏi:


21


×