Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Công tác tư pháp - hộ tịch ở cấp xã những vấn đề lý luận và thực tiễn ở tỉnh Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.49 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN HỮU ĐÍNH

CÔNG TÁC TƢ PHÁP - HỘ TỊCH Ở CẤP XÃ:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Ở TỈNH BẮC GIANG
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số:

60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Nho Thìn

HÀ NỘI - 2008

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực.

Tác giả luận văn

Nguyễn Hữu Đính

2




MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

06

CHƢƠNG 1: VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA BAN TƢ PHÁP, CÁN BỘ TƢ

12

PHÁP - HỘ TỊCH TRONG CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.1. Phân chia đơn vị hành chính và đặc điểm của chính quyền cấp xã

12

1.1.1 Phân chia đơn vị hành chính

12

1.1.2. Đặc điểm của chính quyền cấp xã

17

1.2. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Ban Tƣ pháp, cán bộ Tƣ

18


pháp - hộ tịch cấp xã
1.2.1. Vị trí, vai trò của Ban Tư pháp cấp xã

18

1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Ban Tư pháp, cán bộ Tư pháp - hộ tịch cấp xã

22

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BAN

38

TƢ PHÁP, ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƢ PHÁP - HỘ TỊCH CẤP XÃ
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức tƣ pháp cơ sở

38

2.1.1. Giai đoạn trước, từ năm 1945 đến năm 1960

38

2.1.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1980

41

2.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992

43


2.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến nay

45

2.2. Tổ chức và hoạt động của Ban Tƣ pháp cấp xã

46

2.2.1. Khái lược về Ban Tư pháp và đội ngũ cán bộ Tư pháp - hộ tịch cấp xã

46

2.2.2. Thực trạng hoạt động của Ban Tư pháp và đội ngũ cán bộ Tư pháp - hộ tịch

50

trên toàn quốc

3


2.2.3. Tổ chức và hoạt động của Ban Tư pháp, cán bộ Tư pháp - hộ tịch cấp

53

xã trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ

64


CHỨC, NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA BAN TƢ PHÁP,
CÁN BỘ TƢ PHÁP - HỘ TỊCH Ở XÃ
3.1. Phƣơng hƣớng, mục tiêu đổi mới tổ chức và hoạt động của Ban Tƣ

64

pháp, cán bộ Tƣ pháp - hộ tịch
3.1.1. Phương hướng chung

64

3.1.2. Mục tiêu

71

3.2. Các giải pháp hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của

72

Ban Tƣ pháp và đội ngũ cán bộ Tƣ pháp - hộ tịch cấp xã
3.2.1. Sửa đổi pháp luật hiện hành

72

3.2.2. Hoàn thiện mô hình, cơ cấu tổ chức của Ban Tư pháp

76

3.2.3. Xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn; cải tiến lề lối làm việc của Ban Tư


78

pháp
3.2.4. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng

82

chuyên môn, nghiệp vụ cơ sở vật chất công tác tư pháp cho đội ngũ cán bộ
Tư pháp - hộ tịch cấp xã.
3.2.5. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp ủy, chính quyền

85

địa phương và cơ quan tư pháp cấp trên đối với công tác tư pháp cấp xã và
đội ngũ cán bộ Tư pháp - hộ tịch cấp xã.
KẾT LUẬN

88

TÀI LIỆU THAM KHẢO

91

4


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là đơn vị cơ sở trong hệ thống

đơn vị hành chính bốn cấp của Nhà nước ta. Uỷ ban nhân dân cấp xã thực
hiện chức năng quản lý nhà nước tại địa phương, trực tiếp giải quyết các mối
quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân; đưa chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, trong đó lĩnh vực tư pháp giữ một vị
trí hết sức quan trọng. Để giúp UBND cấp xã thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về công tác tư pháp, trong tổ chức bộ máy UBND cấp xã có Ban Tư
pháp cùng cán bộ Tư pháp - hộ tịch chuyên trách.
Theo quy định của pháp luật, Ban Tư pháp không chỉ là cơ quan chuyên
môn của UBND cùng cấp, mà còn là tổ chức cấp cơ sở trong hệ thống các cơ
quan tư pháp từ Trung ương đến địa phương, chịu sự chỉ đạo và quản lý về
chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan tư pháp cấp trên.
Chế định về Ban Tư pháp là chế định mang tính truyền thống bền vững
trong lịch sử của Nhà nước ta. Ngay từ những năm đầu tiên của chính quyền
cách mạng, hệ thống các cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở đã được hình thành và từng bước được kiện toàn. Ban Tư
pháp, một mắt xích quan trọng trong hệ thống các cơ quan tư pháp, được
Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hàng loạt các văn bản pháp luật quy
định về tổ chức và hoạt động của Ban Tư pháp xã đã được ban hành, đặt cơ sở
pháp lý cho tổ chức tư pháp này không ngừng củng cố và tăng cường. Qua
hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, trải qua các giai đoạn lịch sử khác

5


nhau, dù thời bình hay thời chiến, dù cơ quan tư pháp cấp trên có sự thay đổi,
bộ máy chính quyền có cơ cấu tổ chức khác nhau, song Ban Tư pháp vẫn tồn
tại và khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong bộ máy nhà nước và
trong đời sống xã hội. Bằng hoạt động của mình, các Ban Tư pháp với hàng
vạn cán bộ đã góp phần vào việc giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội, tăng cường
quản lý nhà nước bằng pháp luật ở cơ sở.

Ban Tư pháp với ý nghĩa là một bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước
không phải bất biến, mà luôn phát triển, hoàn thiện trong tiến trình lịch sử của
Nhà nước ta. Trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay, Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996); Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (6-1997) đã xác định nhiệm vụ cải
cách hành chính, cải cách tư pháp, nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 09/12/2003 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách công tác tư pháp đến năm 2020 đều đặc biệt quan
tâm tới vấn đề này. Việc kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động
của Ban Tư pháp cùng đội ngũ cán bộ Tư pháp - hộ tịch - một bộ phận của
UBND cấp xã, một mắt xích quan trọng của ngành Tư pháp là một yêu cầu
cấp thiết. Những quan niệm, nhận thức, cơ sở pháp lý và thực tiễn tổ chức,
hoạt động của Ban Tư pháp đang là vấn đề quan tâm của các nhà lý luận và
hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật
Tuy nhiên trước yêu cầu mới đặt ra, đội ngũ cán bộ Tư pháp - hộ tịch cấp
xã đang bộc lộ những tồn tại, bất cập như cán bộ chuyên trách còn thiếu về số
lượng, yếu về nghiệp vụ; cán bộ chưa được chuẩn hoá, nhất là ở các xã vùng
núi, vùng sâu, vùng xa. Một bộ phận cán bộ Tư pháp - hộ tịch ở cơ sở chưa
được đào tạo cơ bản về chuyên môn, việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ tư pháp cấp xã chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời; sự luân

6


chuyển, bố trí cán bộ làm công tác tư pháp - hộ tịch chưa được quan tâm đúng
mức... điều này đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng công tác tư
pháp ở cơ sở.
Trong tình hình đó, việc tìm hiểu những cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ

chức, hoạt động của Ban Tư pháp, của đội ngũ cán bộ Tư pháp - hộ tịch cấp
xã không chỉ mang tính lý luận khoa học, mà còn có ý nghĩa thực tiễn, đáp
ứng yêu cầu bức xúc của việc kiện toàn, củng cố tổ chức và hoạt động của
Ban Tư pháp, tiêu chuẩn hoá cán bộ Tư pháp - hộ tịch cấp xã nói riêng và cải
cách hành chính, cải cách tư pháp nói chung trong quá trình hoàn thiện bộ
máy nhà nước hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên nên tôi đã chọn đề tài “Công tác Tƣ pháp
- hộ tịch ở cấp xã: những vấn đề lý luận và thực tiễn ở tỉnh Bắc Giang” để
nghiên cứu viết luận văn Cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, vấn đề tư pháp cấp xã đã được nhiều tổ chức, cá
nhân quan tâm, nghiên cứu. Một số công trình nghiên cứu về Ban Tư pháp đã
được đăng tải trên các sách báo pháp lý như các cuốn sách: “Công tác tư pháp
xã, phường, thị trấn” của tác giả Trần Lý (Nhà xuất bản Pháp lý, Hà Nội.
1983); “Công tác tư pháp xã, phường” của Bộ Tư pháp (Nhà xuất bản Pháp
lý, Hà Nội. 1984); các bài nghiên cứu đăng trên các tạp trí “Dân chủ và Pháp
luật”; “Nhà nước và Pháp luật” và các sách báo pháp lý khác; hoặc các tham
luận tại hội thảo, hội nghị chuyên đề về công tác tư pháp xã do Bộ Tư pháp tổ
chức vào các năm 1983, 1984, 2001... Tuy nhiên, những công trình khoa học
này mới chỉ nghiên cứu về những khía cạnh khác nhau của tư pháp cấp xã mà
chưa nghiên cứu, đánh giá được một cách đầy đủ, toàn diện, có hệ thống về
thực trạng tổ chức và hoạt động của Ban Tư pháp cùng đội ngũ cán bộ Tư
pháp - hộ tịch cấp xã với cái nhìn thực tiễn từ cơ sở để đề ra những biện pháp

7


nhằm củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Ban
Tư pháp cấp xã và đội ngũ cán bộ này.
3. Mục đích của luận văn

Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận, đối chứng
với thực tiễn về công tác tư pháp ở cấp xã (Ban Tư pháp, cán bộ, công chức
làm công tác tư pháp - hộ tịch ở cấp xã) từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật về Ban Tư pháp, cán bộ, công chức phụ trách
công tác Tư pháp - hộ tịch ở cấp xã, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020; Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban
Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,
nhân dân, đáp ứng yêu cầu công tác tư pháp ở cơ sở trong sự nghiệp xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ
X.
4. Phạm vi nghiên cứu
Chính quyền cơ sở và quản lý nhà nước của chính quyền cấp cơ sở là vấn
đề lớn, phức tạp. Trong phạm vi của một luận văn cao học, đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Ban Tư pháp cùng đội ngũ cán bộ Tư
pháp - hộ tịch cấp xã - một mắt xích trong hệ thống chính quyền bốn cấp của
Nhà nước ta, nhằm phục vụ cho công cuộc cải cách, kiện toàn bộ máy nhà
nước.
Do thời gian và năng lực có hạn, luận văn chỉ nghiên cứu về Ban Tư
pháp cùng đội ngũ cán bộ Tư pháp - hộ tịch cấp xã (không nghiên cứu về
chính quyền cấp xã nói chung) nên các cơ quan, đoàn thể khác ở địa phương,

8


luận văn chỉ đề cập những nội dung cơ bản có liên quan làm cơ sở lý luận cho
việc nghiên cứu trọng tâm.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin

và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về cải cách hành chính, cải cách tư pháp; xây
dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước nói chung và chính quyền địa phương nói
riêng.
Phương pháp luận trong nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng
của triết học Mác - Lênin. Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: Phương pháp khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống
kê...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với kết quả đạt được của luận văn, hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ
sở lý luận về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Ban Tư pháp cùng đội ngũ cán
bộ Tư pháp - hộ tịch chuyên trách cấp xã trong quản lý nhà nước ở cơ sở khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Những đề xuất của luận văn sẽ góp phần vào việc tìm kiếm mô hình tổ
chức, phương thức hoạt động của Ban Tư pháp cấp xã trong điều kiện xã hội
đang có nhiều chuyển đổi cũng như phương hướng xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về bộ máy quản lý nhà nước cùng đội ngũ cán bộ ở cơ sở. Kết quả
nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, nhà nghiên cứu,
các cơ quan có chức năng hoạch định chính sách về cơ sở trong quá trình xây

9


dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa nhất là đối với những nhà quản
lý, chỉ đạo công tác tư pháp ở các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội
tương tự như tỉnh Bắc Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:

Chương 1: Vị trí, vai trò của Ban Tư pháp, cán bộ Tư pháp - hộ tịch
trong chính quyền cấp xã.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Ban Tư pháp, đội ngũ
cán bộ Tư pháp - hộ tịch cấp xã.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu
quả hoạt động của Ban Tư pháp, cán bộ Tư pháp - hộ tịch cấp xã.

10


CHƢƠNG 1
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA BAN TƢ PHÁP, CÁN BỘ TƢ PHÁP - HỘ
TỊCH TRONG CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

1.1. Phân chia đơn vị hành chính và đặc điểm của chính quyền cấp

1.1.1. Phân chia đơn vị hành chính:
Phân chia đơn vị hành chính và quản lý lãnh thổ địa phương từ xa xưa
đối với bất kỳ Nhà nước nào cũng phải tiến hành. Bởi lẽ:
+ Không một Chính phủ của một quốc gia nào chỉ thực hiện quyền lực
nhà nước của mình ở một chỗ, nơi toạ ngự của các cơ quan nhà nước Trung
ương. Do vậy, việc quản lý địa phương của Nhà nước luôn là một yêu cầu tất
yếu khách quan.
+ Phạm vi lãnh thổ quốc gia bao giờ cũng trùng với các phạm vi hoạt
động của Nhà nước, là dấu hiệu của Nhà nước. Lãnh thổ của mỗi quốc gia
bao giờ cũng rất rộng, với số lượng mật độ dân cư khác nhau. Để quyết định
của Nhà nước Trung ương được thực hiện trên toàn phạm vi lãnh thổ thì bất
kỳ Nhà nước nào cũng phải chia nhỏ lãnh thổ để tiện việc quản lý. Hay nói
cách khác, để quản lý được toàn bộ dân cư trên toàn bộ lãnh thổ của mình,
Nhà nước Trung ương không có cách nào khác phải chia nhỏ lãnh thổ của

mình ra các đơn vị hành chính nhỏ hơn để quản lý có hiệu quả.
Hiện nay, trên thế giới từ các tiêu chí khác nhau, chính quyền địa
phương được nhận thức dưới nhiều góc độ:
Quan điểm truyền thống và được nhiều người thừa nhận là chính quyền
địa phương được xây dựng gắn liền với đơn vị hành chính lãnh thổ.
11


Theo Micheal P Barber, chính quyền địa phương có thẩm quyền quyết
định và thực thi các vấn đề trong một giới hạn lãnh thổ và có thẩm quyền thấp
hơn thẩm quyền chung của cả nước (Local government means authority to
determine and to excute matters with - in a restricted area inside and smaller
than the whole state) [42, tr.1].
Quan điểm khác lại cho rằng, việc xác định chính quyền địa phương
không dựa trên cơ sở lãnh thổ mà dựa vào mức độ cung cấp dịch vụ: “Chính
quyền địa phương được hiểu là những đơn vị của chính quyền trực tiếp cung
cấp dịch vụ cho các công dân tại cấp trung gian thấp và thấp nhất”[43,
tr.148].
Dù được xem xét với nhiều góc độ khác nhau, nhưng thông dụng nhất
chính quyền địa phương được hiểu là sự tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước trên một đơn vị hành chính lãnh thổ (nhân tạo hoặc tự nhiên) nhằm thực
hiện quản lý và điều chỉnh các hoạt động xã hội và cai trị. Chính quyền địa
phương lấy đơn vị lãnh thổ là cơ sở nền tảng.
+ Lãnh thổ hành chính tự nhiên, tức là lãnh thổ được hình thành một
cách tự nhiên. Nhà nước Trung ương bắt buộc phải công nhận các ranh giới
hình thành một cách tự nhiên theo các đặc điểm dân cư, địa lý, phong tục tập
quán, truyền thống văn hoá, lịch sử… Đó là các cộng đồng dân cư bền vững,
Nhà nước cần phải thừa nhận trong quá trình thực hiện sự cai trị - quản lý của
mình trên toàn vẹn lãnh thổ quốc gia cũng như đối với từng lãnh thổ hành
chính riêng biệt. Thí dụ: Commun của các nước phương Tây; làng xã ở Việt

Nam, các thành phố cho dù các thành phố rất lớn, rất đông dân. Việc tổ chức
quản lý những vùng lãnh thổ này cần thiết phải tính đến nguyện vọng và ý chí
của cộng đồng dân cư. Các cơ quan quản lý nhà nước ở đây, ngoài cơ quan
quản lý hành chính còn có cả các cơ quan do dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu
ra. Việc tổ chức chính quyền ở đây mang nhiều tính tự quản, tự trị (đơn vị
hành chính cơ sở).

12


Đặc điểm của các đơn vị hành chính tự nhiên này là được hình thành
trên các địa điểm quần cư (xóm làng, thị trấn, thị xã, thành phố), nó liên kết
dân cư trong một khối liên hoàn thống nhất. Mọi vấn đề của địa phương đều
liên quan chặt chẽ với nhau và cần phải được giải quyết trên cơ sở kết hợp hài
hoà các lợi ích nhà nước, dân cư. Cơ quan chính quyền ở đây không phải chỉ
là cơ quan cai trị mà còn là cơ quan thể hiện lợi ích chung của dân cư - cơ
quan tự quản. Nói cách khác, cơ quan chính quyền ở các đơn vị hành chính
trung gian có nhiệm vụ bảo đảm triển khai pháp luật, chính sách của Nhà
nước Trung ương tới cơ sở, thì cơ quan chính quyền ở đơn vị hành chính cơ
sở phải thể hiện lợi ích của dân cư nhiều hơn (mang tính tự quản).
+ Đơn vị lãnh thổ hành chính nhân tạo, là đơn vị được Nhà nước Trung
ương chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính trực thuộc theo nhu cầu quản
lý hay nhu cầu “cai trị” của Trung ương.
Việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở cấp chính quyền
này chủ yếu để thực hiện chức năng quản lý, đảm bảo lợi ích của Nhà nước,
tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ở đây chức năng quản
lý lãnh thổ về cơ bản do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện, cơ quan đại
diện (nếu có) chỉ đóng vai trò tư vấn.
Việc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trên các lãnh thổ
nhân tạo không cần phải tính đến các đặc điểm, đặc thù một cách nặng nề như

ở các đơn vị hành chính tự nhiên mà thiên về việc đáp ứng nhu cầu của các cơ
quan quản lý nhà nước cấp trên.
Ở nước ta, ngay từ khi giành được chính quyền (8/1945), Đảng và Nhà
nước rất quan tâm đến việc xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống chính
quyền địa phương. Ngày 22/11/1945 Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh số
63/SL quy định tổ chức HĐND và UBHC các cấp ở nông thôn và ngày
21/12/1945 ban hành Sắc lệnh số 77/SL về tổ chức chính quyền ở các thị xã,

13


thành phố. Theo tinh thần các văn bản này thì HĐND là cơ quan thay mặt cho
dân, UBHC vừa thay mặt cho dân, vừa đại diện cho Chính phủ (Điều 1 Sắc
lệnh 63/SL). Đây là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng về tổ chức và hoạt động
của các cấp chính quyền địa phương ở nước ta.
Việc quy định tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền địa phương
qua các thời kỳ cách mạng luôn mang tính kế thừa và phát triển theo hướng
đổi mới, hoàn thiện dần, ngày càng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
ở địa phương và được quy định trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959,
1980, 1992, cũng như tại các Luật Tổ chức và hoạt động của HĐND và
UBND (UBHC) của các năm 1958, 1962, 1983, 1989, 1994 và 2003.
Tinh thần của các văn bản pháp luật này đều xuất phát từ tư tưởng chung,
xuyên suốt sau đây:
Thứ nhất, phân chia địa giới hành chính lãnh thổ không tách rời với việc
thiết lập bộ máy chính quyền địa phương. (Theo quy định của Hiến pháp năm
1992, đơn vị hành chính nhà nước được phân định thành 4 cấp:
- Nước chia thành tỉnh - thành phố trực thuộc Trung ương;
- Tỉnh chia thành huyện - thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã; thành phố
trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện, thị xã;
- Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã chia

thành phường và xã; quận chia thành phường).
Thứ hai, luôn đặt chính quyền địa phương trong một thể thống nhất với
chính quyền nhà nước Trung ương; HĐND luôn xác định là cơ quan quyền
lực nhà nước và với xu hướng cùng với Quốc hội tạo thành một hệ thống cơ
quan quyền lực thống nhất.
Thứ ba, vai trò và sự can thiệp của Chính phủ đối với tổ chức và hoạt
động của HĐND là rất mờ nhạt.

14


15


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Văn kiện
1. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
2. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 09/12/2003 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách công tác tư pháp đến năm 2020.
3. Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18/3/2002 hội nghị lần thứ 5 khoá IX về
đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn.
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X – Nxb. Chính trị Quốc gia,
H. 2006.
5. Văn kiện hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khoá X, Nxb.
Chính trị Quốc gia.
6. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 1997.

Văn bản pháp luật
7. Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg ngày 19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về
xây dựng hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư.
8. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.
9. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.

16


10.Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về tổ chức của Bộ Tư pháp.
11.Nghị định số 190/CP ngày 09/10/1972 của Hội đồng Chính phủ.
12.Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp.
13.Nghị định số 38/CP ngày 04/6/1993 của Chính phủ quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp.
14.Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ
công chức xã, phường, thị trấn.
15.Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ,
chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.
16.Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp.
17.Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản
sao từ sổ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.
18.Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký
và quản lý hộ tịch.
19.Nghị định 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 của Chính phủ quy định chi
tiết hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch
20.Nghị định 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về kiểm tra

và xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
21.Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004.
22.Pháp lệnh về hoà giải cơ sở năm 1998.

17


23.Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg ngày 07/01/2004 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt định hướng quy hoạch đào tạo bồi dưỡng công chức xã,
phường, thị trấn đến năm 2010.
24.Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội
vụ về tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.
25.Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945.
26.Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946.
27.Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946.
28.Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950.
29.Thông tư số 03/2004/TT-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 114/2003/NĐ-CP.
30.Thông tư số 02-TC ngày 26/02/1964 của Tòa án nhân dân tối cao về kiện
toàn tổ chức tư pháp xã, khu phố.
31.Thông tư liên bộ số 12/TTLB ngày 26/7/1993 của Bộ Tư pháp và Ban Tổ
chức cán bộ Chính phủ Hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
tổ chức cơ quan tư pháp địa phương.
32.Thông tư số 04/2005/TTLT/BTP-BNV ngày 05/5/2005 của liên Bộ Tư
pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ
chức cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về
công tác tư pháp ở địa phương
Tạp chí
33.Dương Thanh Mai - Phương hướng hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu
quả hoạt động của Ban Tư pháp và Tổ hoà giải ở cơ sở trong giai đoạn

hiện nay - Thông tin Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, số 02/1999.

18


34.Trần Huy Liệu - Thực trạng tổ chức và hoạt động của Ban Tư pháp xã,
phường, thị trấn - Thông tin Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, số 02/1999.
35.Đào Viễn Trung - Tư pháp xã lịch sử dạn dày, tương lai vững chắc Thông tin Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, số 02/1999.
36.Nguyễn Đình Hảo - Thực trạng tổ chức và hoạt động của Ban Tư pháp xã,
phường, thị trấn và Tổ hoà giải ở TP. Hà Nội - Thông tin khoa học pháp lý
- Bộ Tư pháp, số 02/1999.
37. Lê Thị Thu Ba - Định hướng đổi mới, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư
pháp cấp xã trong giai đoạn hiện nay của - Thông tin Khoa học pháp lý - Bộ
Tư pháp, số 5/2003.
38.Nguyễn Văn Khuê - Thực trạng công tác tư pháp và đội ngũ cán bộ Tư
pháp cấp xã ở tỉnh Nam Định của - Thông tin Khoa học pháp lý - Bộ Tư
pháp số 5/2003.
39.Thực trạng công tác tư pháp và đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã ở tỉnh Hà
Giang - Thông tin Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, số 5/2003.
Sách tham khảo
40.Báo cáo tổng kết năm 1990 của Bộ Tư pháp.
41.Lênin Toàn tập, tập 12, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. 1978.
42.Barber (Micheal P): Local government (fouth edition), The M&E
handbook series, Macdonald and Eevans. Ltd.1978.
43.Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); Phục vụ và duy trì, cải thiện hành
chính công trong một thế giới cạnh tranh, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.
2003.

19




×