Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.36 KB, 93 trang )


1

2

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT



PHNG TH CM CHU



Hng tha k theo quy nh ca
phỏp lut Vit Nam hin hnh
nhng vn lý lun v thc tin





LUN VN THC S



H NI, 2007





Mục lục



Trang

Trang bìa phụ


Lời cam đoan


Mục lục


mở đầu
1

Ch-ơng 1: những vấn đề chung
5
1.1.
Khái niệm hàng thừa kế
5
1.2.
Sơ l-ợc tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về
hàng thừa kế
10
1.2.1.
Giai đoạn tr-ớc năm 1945
10

1.2.2.
Giai đoạn từ năm 1945 đến tr-ớc ngày 10/9/1990
14
1.2.3.
Giai đoạn từ ngày 10/9/1990 đến tr-ớc ngày 01/7/1996
19
1.2.4.
Giai đoạn từ ngày 01/07/1996 đến tr-ớc ngày 01/01/2006
22
1.2.5.
Giai đoạn từ 01/01/2006 đến nay
23
1.3.
Hàng thừa kế trong pháp luật một số n-ớc trên thế giới
25
1.3.1.
Hàng thừa kế trong pháp luật Pháp
25
1.3.2.
Hàng thừa kế trong pháp luật Nhật Bản
26
1.3.3.
Hàng thừa kế trong hệ thống pháp luật Thái Lan
29

Ch-ơng 2: pháp luật việt nam hiện hành về
hàng thừa kế
31
2.1.
Các hàng thừa kế theo quy định tại Bộ luật Dân sự Việt

Nam năm 2005
31
2.1.1.
Hàng thừa kế thứ nhất
34
2.1.2.
Hàng thừa kế thứ hai
47
2.2.2.
Hàng thừa kế thứ ba
50
2.2
Phân chia di sản theo hàng thừa kế và thừa kế thế vị
54

1
Mục lục



Trang

Trang bìa phụ


Lời cam đoan


Mục lục



mở đầu
1

Ch-ơng 1: những vấn đề chung
5
1.1.
Khái niệm hàng thừa kế
5
1.2.
Sơ l-ợc tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về
hàng thừa kế
10
1.2.1.
Giai đoạn tr-ớc năm 1945
10
1.2.2.
Giai đoạn từ năm 1945 đến tr-ớc ngày 10/9/1990
14
1.2.3.
Giai đoạn từ ngày 10/9/1990 đến tr-ớc ngày 01/7/1996
19
1.2.4.
Giai đoạn từ ngày 01/07/1996 đến tr-ớc ngày 01/01/2006
22
1.2.5.
Giai đoạn từ 01/01/2006 đến nay
23
1.3.
Hàng thừa kế trong pháp luật một số n-ớc trên thế giới

25
1.3.1.
Hàng thừa kế trong pháp luật Pháp
25
1.3.2.
Hàng thừa kế trong pháp luật Nhật Bản
26
1.3.3.
Hàng thừa kế trong hệ thống pháp luật Thái Lan
29

Ch-ơng 2: pháp luật việt nam hiện hành về
hàng thừa kế
31
2.1.
Các hàng thừa kế theo quy định tại Bộ luật Dân sự Việt
Nam năm 2005
31
2.1.1.
Hàng thừa kế thứ nhất
34
2.1.2.
Hàng thừa kế thứ hai
47
2.2.2.
Hàng thừa kế thứ ba
50
2.2
Phân chia di sản theo hàng thừa kế và thừa kế thế vị
54

2.2.1.
Phân chia di sản trong từng hàng thừa kế
54
2.2.2.
Trình tự h-ởng di sản giữa các hàng thừa kế
55
2.2.3.
Thừa kế thế vị
57
2.3.
Những ng-ời thuộc các hàng thừa kế mà không đ-ợc
quyền h-ởng di sản
61
2.3.1.
Ng-ời bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng,
sức khỏe hoặc về hành vi ng-ợc đãi nghiêm trọng, hành
hạ ng-ời để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh
dự, nhân phẩm của ng-ời đó
61
2.3.2.
Ng-ời vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi d-ỡng
ng-ời để lại di sản
62
2.2.3.
Ng-ời bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng
63

2
ng-ời thừa kế khác nhằm h-ởng một phần hoặc toàn bộ
phần di sản mà ng-ời thừa kế đó có quyền h-ởng

2.3.4.
Ng-ời có hành vi lừa dối, c-ỡng ép hoặc ngăn cản ng-ời
để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa
chữa di chúc, hủy di chúc nhằm h-ởng một phần hoặc
toàn bộ di sản trái với ý chí của ng-ời để lại di sản
64

Ch-ơng 3: Thực trạng áp dụng pháp luật Về
hàng thừa kế và những đề xuất
nhằm hoàn thiện pháp luật về hàng
thừa kế
66
3.1.
Thực trạng áp dụng pháp luật về hàng thừa kế
66
3.1.1.
Một số thành công

3.1.2.
Những hạn chế
71
3 2.
Những đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về hàng thừa kế
75
3.2.1.
Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về hàng thừa kế
75
3.2.2.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hàng
thừa kế

78

Kết luận
85

Danh mục tài liệu tham khảo
88













3
mở đầu

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế là một chế định quan trọng trong luật dân sự nói riêng và
trong pháp luật nói chung, bởi lẽ nó có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với
quyền sở hữu tài sản- một trong những quyền cơ bản của con ng-ời. Một bộ
phận không thể thiếu trong chế định này là những quy phạm điều chỉnh quan
hệ thừa kế theo pháp luật- hình thức thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và
trình tự thừa kế do pháp luật quy định. Nh- vậy, quy định hàng thừa kế là một

vấn đề then chốt trong điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật. Qua xác
định hàng thừa kế, ng-ời ta có thể xem xét chủ thể nào có quyền h-ởng di sản
của ng-ời chết để lại và phần di sản đ-ợc h-ởng là bao nhiêu. Do vậy, nếu
pháp luật về hàng thừa kế có những quy định khoa học, phù hợp với thực tiễn
sẽ giúp cho việc giải quyết vấn đề thừa kế đ-ợc nhanh gọn. Ng-ợc lại, nó sẽ là
nguyên nhân dẫn tới những tranh chấp, bất đồng. Xuất phát từ ý nghĩa quan
trọng đó, các n-ớc trên thế giới luôn quan tâm tới việc hoàn thiện quy định
pháp luật về hàng thừa kế. Với công tác xây dựng pháp luật về thừa kế, hay cụ
thể hơn là về hàng thừa kế cũng t-ơng tự việc xây dựng bất kỳ quy phạm nào
khác, nắm vững pháp luật hiện hành, phân tích đ-ợc những thành công cũng
nh- tồn tại của nó, hiểu rõ tình hình thực tiễn, cùng với một nhãn quan sâu
rộng về tiến trình phát triển của lịch sử pháp luật n-ớc nhà cũng nh- pháp luật
t-ơng ứng của các n-ớc trên thế giới sẽ giúp cho các nhà lập pháp xây dựng
đ-ợc những quy định tốt, có tính khả thi, đáp ứng nhu cầu xã hội một cách
hiệu quả.
ở n-ớc ta, pháp luật về thừa kế nói chung và pháp luật về hàng thừa kế
nói riêng không ngừng đ-ợc xây dựng, sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình
hình kinh tế - xã hội. Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 đ-ợc ban hành và có
hiệu lực từ ngày 01/01/2006 đánh dấu một b-ớc tiến quan trọng trong lịch sử

4
pháp luật n-ớc nhà. Trong đó, những quy định về hàng thừa kế cùng với toàn
bộ chế định thừa kế đã kế thừa nhiều quy phạm trong các văn bản tr-ớc đây
song cũng có một số thay đổi cơ bản. Trải qua một thời gian thực hiện dù ch-a
phải là dài nh-ng với số l-ợng các vụ việc thừa kế theo pháp luật vốn đã diễn
ra phổ biến, cùng với sự phát triển đa dạng của các quan hệ sở hữu, nay lại
xuất hiện ngày một nhiều với tính chất phức tạp gia tăng, các quy phạm cũng
đã đ-ợc áp dụng nhiều lần trong cuộc sống, dần bộc lộ những -u điểm cũng
nh- hạn chế của chúng. Bởi vậy, b-ớc đầu, chúng ta cũng có thể đ-a ra một số
đánh giá về thực trạng pháp luật, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm

hoàn thiện hơn nữa pháp luật hiện hành.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề hàng thừa kế theo pháp luật đã từng đ-ợc nhắc đến trong một
số công trình khoa học nh-: "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam
từ năm 1945 đến nay" của Tiến sĩ Phùng Trung Tập; "Bình luận khoa học về
Thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam" của Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện; "Hỏi
đáp về pháp luật thừa kế" của Giáo s-, Tiến sĩ Đinh Văn Thanh và Trần Hữu
Biền; Luận văn Thạc sĩ luật học "Diện và hàng thừa kế theo quy định của Bộ
luật Dân sự năm 2005" của tác giả Phan Thị Kim Chi, Ngoài ra, nhiều bài
viết về đề tài này cũng đã đ-ợc đăng tải trên các tạp chí Luật học, Nhà n-ớc
và pháp luật, Dân chủ và pháp luật, Tòa án nhân dân,
Những bình luận sâu sắc, những ý kiến xác đáng về h-ớng hoàn thiện
pháp luật của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã đ-ợc ghi nhận làm cơ sở
hoàn thiện pháp luật về thừa kế. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chủ
yếu khai thác trên phạm vi t-ơng đối rộng lớn, có khi là toàn bộ chế định thừa
kế hoặc tất cả các vấn đề liên quan tới thừa kế theo pháp luật, hay công trình
có phạm vi nghiên cứu hẹp hơn cũng bao quát cả diện và hàng thừa kế. Với đề
tài "Hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn", chúng tôi tiếp tục nghiên cứu vấn đề thừa

5
kế nh-ng chỉ đi vào những vấn đề xoay quanh hàng thừa kế trong pháp luật
Việt Nam hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về hàng
thừa kế theo pháp luật thực định. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có
tham khảo pháp luật thừa kế Việt Nam trong suốt quá trình lịch sử và pháp
luật về thừa kế của một số quốc gia khác trên thế giới, các tài liệu chuyên
khảo và một số văn bản pháp luật liên quan,
4. Ph-ơng pháp nghiên cứu đề tài

Dựa trên cơ sở ph-ơng pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, khi
nghiên cứu đề tài này, chúng tôi kết hợp sử dụng nhiều ph-ơng pháp nh-:
phân tích, tổng hợp, so sánh, để làm sáng tỏ từng vấn đề, đồng thời đối chiếu
với những vấn đề liên quan, qua đó đ-a ra những nhận xét, đánh giá một cách
đa diện.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi tr-ớc hết tập trung tìm hiểu
về hàng thừa kế trong pháp luật Việt Nam hiện hành. Việc nghiên cứu trong
phạm vi hẹp nh- vậy hy vọng sẽ mang lại sự nhìn nhận t-ơng đối toàn diện và
sâu sắc về vấn đề pháp lý quan trọng này. Với cách tiếp cận vấn đề từ truyền
thống đến hiện đại, trên cơ sở tham khảo pháp luật một số n-ớc trên thế giới,
xuất phát từ việc đi sâu phân tích những thành công và hạn chế trong pháp luật
hiện hành về hàng thừa kế trên cả ph-ơng diện luật thực định cũng nh- thực
tiễn áp dụng, luận văn cũng h-ớng tới việc đ-a ra những kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về hàng thừa kế.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Liên quan tới lĩnh vực thừa kế, cho tới nay, một số công trình khoa học
đã công bố đều bình luận, đánh giá về thừa kế một cách khá toàn diện trên

6
phạm vi rộng. Luận văn thạc sĩ luật học "Diện và hàng thừa kế theo quy định
của Bộ luật Dân sự năm 2005" của tác giả Phan Thị Kim Chi khai thác t-ơng
đối sâu sắc vấn đề ng-ời thừa kế theo pháp luật nh-ng tập trung nhiều vào nội
dung diện thừa kế. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề thừa kế với phạm vi khá
hẹp là hàng thừa kế trong luận văn này sẽ đem lại những phân tích chuyên sâu
hơn xung quanh vấn đề hàng thừa kế, tìm hiểu lý do, bản chất trong các quy
định liên quan tới hàng thừa kế, đánh giá những ý nghĩa của các quy định đó
theo những cách nhìn nhận mới mẻ, từ đó đ-a ra một số kiến nghị nhằm góp
phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về hàng thừa kế.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 ch-ơng:
Ch-ơng 1: Những vấn đề chung
Ch-ơng 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về hàng thừa kế
Ch-ơng 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về hàng thừa kế và những đề
xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về hàng thừa kế.






7
Ch-ơng 1
Những vấn đề chung

1.1. Khái niệm hàng thừa kế
Thừa kế là một chế định không thể thiếu trong hầu hết pháp luật dân
sự của các n-ớc trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng qua các thời kỳ.
Nó đồng thời là "ng-ời anh em" với quyền sở hữu - chế định đ-ợc xem nh-
nền tảng, cái "gốc" trong dân sự, là một trong những căn cứ phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền sở hữu. Chế định thừa kế trong chừng mực nhất định là
sự bổ sung cho chế định quyền sở hữu trong việc điều chỉnh quan hệ tài sản
giữa các thành viên xã hội.
Thừa kế đ-ợc hiểu là sự dịch chuyển tài sản của ng-ời chết sang cho
những ng-ời còn sống. Sự dịch chuyển tài sản này một mặt thể hiện sự chuyển
giao về mặt vật chất, mặt khác mang ý nghĩa tinh thần lớn lao. Di sản thừa kế
nhiều khi có giá trị kinh tế, là "cơ nghiệp" của gia đình mà ng-ời thuộc thế hệ
tr-ớc truyền lại cho con, cháu, cũng có khi chỉ là những kỷ vật cho thế hệ sau
nhằm l-u giữ truyền thống gia đình. Về mặt đạo đức, có thể xem di chuyển di

sản chính là một cách thức "giúp" ng-ời để lại di sản thực hiện bổn phận ch-a
tròn đối với gia đình, ng-ời thân. Về mặt kinh tế, di sản là tài sản, là đối t-ợng
của những giao l-u dân sự, có khả năng mang lại lợi nhuận, do vậy, việc di
chuyển tài sản phải đảm bảo rằng tài sản đ-ợc chuyển giao có thể bảo tồn
đ-ợc giá trị trao đổi và tiếp tục sinh lợi.
Việc thực hiện quyền thừa kế chịu sự chi phối bởi rất nhiều yếu tố văn
hóa, lịch sử, xã hội, Thừa kế tài sản đã xuất hiện từ thời kỳ sơ khai của loài
ng-ời, trải qua mỗi giai đoạn phát triển, thừa kế lại mang những màu sắc khác,
phản ánh chế độ kinh tế - xã hội của thời kỳ đó. Quan hệ thừa kế là quan hệ
phát sinh giữa những ng-ời thừa kế với nhau trong việc phân chia di sản của

8
ng-ời chết để lại kể từ thời điểm mở thừa kế- thời điểm ng-ời có tài sản chết.
Trong đó, thông th-ờng, những ng-ời thừa kế là những ng-ời cùng chung
sống trong một gia đình hoặc những ng-ời bà con thân thích khác của ng-ời
để lại di sản. Do vậy, sự điều chỉnh pháp luật đối với loại quan hệ này bên
cạnh tiêu chí bảo đảm sự chiếm hữu, sử dụng, định đoạt di sản của những
ng-ời thừa kế đ-ợc thuận lợi, cũng luôn cần tính đến yếu tố phù hợp với đạo
đức truyền thống, văn hóa dân tộc, từ đó gìn giữ tình đoàn kết, th-ơng yêu
giữa các thành viên trong gia đình, dòng tộc.
Xuất phát từ ý nghĩa to lớn đó, pháp luật các n-ớc đều quan tâm tới
vấn đề thừa kế nói chung và các hình thức chia thừa kế nói riêng, sao cho đảm
bảo sự dịch chuyển tài sản t-ơng đối đặc biệt này vừa chặt chẽ, thuận lợi, vừa
bảo vệ đ-ợc quyền hợp pháp của những ng-ời thừa kế. Theo đó, hai hình thức
thừa kế đ-ợc quy định: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo di chúc là thừa kế theo ý chí đ-ợc thể hiện trong di chúc
của ng-ời có tài sản. Trong di chúc, ng-ời lập di chúc chỉ định một hoặc một
số cá nhân, tổ chức là ng-ời thừa kế một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình.
Tuy nhiên, di chúc đó có đ-ợc thực hiện trên thực tế hay không phụ thuộc vào
việc xác định tính hợp pháp của di chúc, đồng thời phải dựa trên khả năng

những ng-ời thừa kế theo di chúc còn sống hay đã chết tr-ớc hoặc chết cùng
một thời điểm với ng-ời lập di chúc, cơ quan, tổ chức đ-ợc h-ởng thừa kế theo
di chúc còn tồn tại hay không còn vào thời điểm mở thừa kế, ng-ời đ-ợc chỉ
định làm ng-ời thừa kế theo di chúc có quyền hay không đ-ợc quyền nhận di
sản, đồng ý hay từ chối nhận di sản,
Pháp luật tr-ớc hết tôn trọng sự tự định đoạt của ng-ời lập di chúc
cũng nh- sự tự nguyện của những ng-ời h-ởng thừa kế theo di chúc. Song,
trong tr-ờng hợp ng-ời chết không để lại di chúc, di chúc không định đoạt
toàn bộ di sản hoặc bản di chúc vì lý do chủ quan hay khách quan nào đó mà
một phần hoặc toàn bộ nội dung của nó không thể thực hiện đ-ợc, pháp luật

9
dự liệu việc chia thừa kế theo pháp luật. Đó là hình thức thừa kế theo điều kiện
và trình tự thừa kế do pháp luật quy định. Tr-ớc một vụ việc thừa kế theo pháp
luật, cơ quan có thẩm quyền phải xem xét những ai là đối t-ợng có thể đ-ợc
h-ởng thừa kế, và sắp xếp họ theo các trình tự nh- thế nào để nhận di sản trên
thực tế. Thừa kế theo pháp luật chỉ dành cho các cá nhân thuộc diện thừa kế-
phạm vi những ng-ời đ-ợc thừa kế theo pháp luật, h-ởng di sản của ng-ời
chết để lại. Những ng-ời đó có một hoặc một số quan hệ gia đình với ng-ời để
lại di sản trong ba mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống và nuôi d-ỡng. Tuy
nhiên, không phải tất cả những ng-ời thuộc diện thừa kế đều đ-ợc h-ởng di
sản cùng một lúc mà họ đ-ợc h-ởng theo trình tự nhất định.
D-ờng nh- ch-a có một nguyên tắc chung nhất trong việc quy định
các trình tự thừa kế theo pháp luật. Một số quốc gia quy định thứ tự thừa kế
dựa trên các bậc quan hệ với ng-ời để lại di sản. Theo đó, di sản chủ yếu đ-ợc
phân chia cho những ng-ời theo huyết thống xuôi. Con (cháu) trực hệ có
quyền nhận di sản của ông bà, cha mẹ theo nguyên tắc con không h-ởng thì
cháu h-ởng. Cháu chỉ đ-ợc thừa kế của ông bà khi cha (mẹ) chúng đã chết, từ
chối h-ởng hay không có quyền h-ởng di sản. Cứ nh- vậy đến các bậc, các
đời sau. Một số quốc gia, trong đó có Việt Nam hiện nay không chia thừa kế

dựa trên các bậc thừa kế nh- vậy mà quy định các hàng thừa kế độc lập, mỗi
hàng thừa kế bao gồm một số ng-ời, việc h-ởng di sản của hàng thừa kế
tr-ớc sẽ loại trừ quyền h-ởng di sản của những ng-ời thuộc hàng thừa kế
sau. Do vậy, không khi nào có tr-ờng hợp những ng-ời thừa kế ở các hàng
thừa kế khác nhau lại cùng h-ởng thừa kế theo pháp luật. Cũng có n-ớc lại
quy định thứ tự thừa kế theo cách kết hợp hàng và bậc thừa kế. Với cách này,
quyền h-ởng thừa kế của những ng-ời thừa kế theo hàng sẽ bị ảnh h-ởng bởi
thứ tự bậc của ng-ời đó và có thể có tr-ờng hợp những ng-ời thừa kế ở các
hàng khác nhau lại cùng h-ởng di sản theo pháp luật do xem xét tới yếu tố bậc
thừa kế.

10
Luật thực định các n-ớc có quy định các hàng thừa kế song ch-a có
quy định thế nào là hàng thừa kế. Tuy nhiên, khái niệm này cũng ít nhiều
đ-ợc đề cập tới trong một số tài liệu chuyên khảo.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học - Đại học Luật Hà Nội,
"Hàng thừa kế là nhóm ng-ời có quan hệ cùng tính chất gần gũi với ng-ời để
lại di sản thừa kế" [32, tr. 64]. Khái niệm này đã nêu bật vấn đề cơ bản là hàng
thừa kế theo pháp luật luôn luôn bao gồm những ng-ời có quan hệ gần gũi với
ng-ời để lại di sản. Tuy nhiên, hiểu nh- thế nào là "nhóm ng-ời có quan hệ
cùng tính chất gần gũi" không phải là vấn đề đơn giản. Nhiều quan điểm thừa
nhận những ng-ời cùng một bậc trong quan hệ với ng-ời để lại di sản là
những ng-ời có quan hệ cùng tính chất gần gũi. Nh-ng những ng-ời thuộc về
các bậc khác nhau có quan hệ cùng tính chất gần gũi với ng-ời để lại di sản
hay không? Trong cùng một hàng thừa kế cha, mẹ, vợ, chồng và con của
ng-ời để lại di sản; ông bà nội, ngoại và các anh, chị, em ruột của ng-ời để lại
di sản; các cụ và bác, chú, cậu, cô, dì, ruột có phải là những ng-ời có quan hệ
cùng tính chất gần gũi? Họ là những ng-ời có quan hệ hôn nhân hoặc quan
hệ huyết thống với nhau, những ng-ời trong dòng tộc lại thuộc các bậc khác
nhau, có khi là quan hệ huyết thống trực hệ, có khi là quan hệ huyết thống

bàng hệ, Trong nhiều tr-ờng hợp nh- vậy, quả không dễ dàng có đ-ợc một
quan điểm đồng nhất.
Theo cuốn Từ điển Luật học- Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, "Trong
tr-ờng hợp không có di chúc thì hàng thừa kế là thứ tự -u tiên h-ởng di sản
theo quy định của pháp luật" [35, tr. 182-183]. Định nghĩa đã hàm chứa trong
nó yêu cầu phân chia những ng-ời thuộc diện thừa kế thành các hàng thừa kế
khác nhau với mức -u tiên h-ởng di sản khác nhau. Nh-ng, chúng ta thấy
quan điểm này lại "mắc" phải một vấn đề khác: Đâu chỉ có tr-ờng hợp không
có di chúc thì vấn đề thừa kế theo pháp luật mới đ-ợc đặt ra. Nhiều tr-ờng
hợp, mặc dù ng-ời thừa kế có để lại di chúc nh-ng di chúc đó không đ-ợc
thực hiện hoặc không thực hiện đ-ợc thì việc phân chia di sản thừa kế cũng

11
phải đ-ợc tiến hành theo hình thức thừa kế theo pháp luật. Nh- vậy, khái niệm
này đã không bao quát hết các tr-ờng hợp thừa kế theo pháp luật.
Tác giả Phan Thị Kim Chi trong một công trình nghiên cứu về thừa kế
lại đ-a ra khái niệm:
Hàng thừa kế là thứ tự những ng-ời thuộc diện thừa kế đ-ợc h-ởng di sản
theo trình tự tuyệt đối trên nguyên tắc hàng gần loại trừ hàng xa, tùy thuộc vào
mức độ thân thích với ng-ời để lại di sản, không phân biệt giới tính, độ tuổi, địa
vị xã hội, không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự và những ng-ời
trong cùng một hàng thừa kế đ-ợc h-ởng phần di sản ngang nhau [22, tr. 11].
Có thể nói, đây là kết quả của một nghiên cứu khá sâu sắc, khái niệm
không chỉ đ-a ra thuộc tính của những ng-ời thừa kế mà còn nêu đ-ợc nguyên
tắc phân chia di sản thừa kế theo hàng. Điều này hoàn toàn phù hợp trong
pháp luật Việt Nam hiện nay, nh-ng nếu xét tới một vài quy định của pháp
luật Việt Nam d-ới chế độ cũ và pháp luật của một số n-ớc trên thế giới,
quyền h-ởng di sản đôi khi phụ thuộc vào giới tính, thân thế và trình tự h-ởng
di sản tuyệt đối trên nguyên tắc hàng gần loại trừ hàng xa có lẽ không đ-ợc
đảm bảo. Các n-ớc khác nhau, thậm chí trong cùng một quốc gia nh-ng vào

những thời điểm cụ thể lại quy định số l-ợng hàng thừa kế khác nhau. Từng
hàng thừa kế đôi khi bao gồm nhiều đối t-ợng, có những ng-ời có quan hệ
thân thích t-ơng đồng với ng-ời để lại di sản thừa kế, có khi không t-ơng
đồng. Nguyên tắc phân chia di sản trong cùng một hàng và giữa các hàng
cũng có nhiều khác biệt.
Bởi thế, hàng thừa kế là một khái niệm động và mang tính lịch sử, khó
có thể đ-a ra một định nghĩa luôn đúng trong mọi hoàn cảnh. Theo quan điểm
cá nhân, xét trên bình diện chung nhất, tôi cho rằng hàng thừa kế là nhóm
ng-ời có quan hệ thân thích với ng-ời để lại di sản, đ-ợc quy định thứ tự -u
tiên h-ởng di sản trong tr-ờng hợp chia thừa kế theo pháp luật, dựa trên những
nguyên tắc nhất định trong pháp luật của mỗi n-ớc ở từng giai đoạn lịch sử.

12
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn này, với tiêu chí tìm hiểu về pháp
luật Việt Nam hiện hành về hàng thừa kế, chúng tôi xin đ-a ra khái niệm sau
đây: Hàng thừa kế là một nhóm ng-ời thừa kế theo pháp luật có quyền ngang
nhau trong việc nhận di sản. Các hàng thừa kế đ-ợc sắp xếp theo một trật tự
tuyệt đối trên nguyên tắc những ng-ời ở hàng thừa kế tr-ớc có mối quan hệ
thân thích gần gũi hơn với ng-ời để lại di sản so với những ng-ời ở hàng thừa
kế sau. Việc h-ởng di sản của hàng thừa kế tr-ớc loại trừ quyền h-ởng di sản
của hàng thừa kế sau.
Để nhìn nhận đa chiều về vấn đề hàng thừa kế theo pháp luật Việt
Nam hiện hành, trong phần nội dung tiếp theo, chúng tôi xin trình bày về tiến
trình phát triển của pháp luật Việt Nam về hàng thừa kế và vấn đề hàng thừa
kế trong pháp luật một số n-ớc trên thế giới.
1.2. Sơ l-ợc tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam
về hàng thừa kế
1.2.1. Giai đoạn tr-ớc năm 1945
D-ới chế độ phong kiến, pháp luật ch-a dành nhiều sự quan tâm điều
chỉnh quan hệ thừa kế, đặc biệt là thừa kế theo pháp luật. Thừa kế mặc dù đã

bắt đầu đ-ợc đề cập trong pháp luật của triều đại nhà Lý; tuy nhiên, khi đó
ch-a có bất kỳ quy định nào về hàng thừa kế. Phải tới thế kỷ XV, d-ới triều
đại nhà Lê, vấn đề hàng thừa kế mới đ-ợc đặt ra. Bộ luật Hồng Đức quy định
khi cha mẹ chết không có chúc th- hoặc chúc th- không hợp pháp thì di sản
đ-ợc chia theo luật. Mặc dù ch-a thật rõ ràng, nh-ng theo tinh thần các điều
374, 375, 376, 380, 388 và một số điều khoản khác, có thể thấy pháp luật quy
định hai hàng thừa kế:
- Hàng thừa kế thứ nhất là các con (bao gồm cả con trai, con gái, con
vợ cả, con vợ lẽ, con nàng hầu; con nuôi cũng đ-ợc thừa kế nếu trong văn tự
nhận nuôi có ghi rõ cho thừa kế điền sản).
- Hàng thừa kế thứ hai là cha mẹ hoặc ng-ời thừa tự.

13
Nh- vậy, ng-ời vợ hoặc ng-ời chồng góa không thuộc bất kỳ hàng
thừa kế nào ở trên song nếu ng-ời chồng hoặc ng-ời vợ chết đi, ng-ời kia có
quyền thừa h-ởng một phần hoặc toàn bộ di sản cùng với ng-ời thừa tự hoặc
cha mẹ của ng-ời chết.
Theo quy định tại Bộ luật, quan hệ thừa kế trong hàng thừa kế thứ nhất
chỉ phát sinh khi cả cha và mẹ đều đã chết. Trong hàng này, phần di sản nhận
đ-ợc của các con vợ cả là nh- nhau, phần của các con vợ lẽ cũng bằng nhau
nh-ng kém phần của các con vợ cả; con nuôi đ-ợc thừa kế bằng nửa phần của
con đẻ, nếu không có con đẻ mà con nuôi ở cùng với cha mẹ nuôi từ bé thì
đ-ợc h-ởng cả, không ở cùng từ bé thì đ-ợc h-ởng gấp hai lần ng-ời thừa tự
của cha mẹ nuôi. Bên cạnh đó, bộ luật cũng quy định cho ng-ời con nuôi vẫn
đ-ợc h-ởng thừa kế bằng nửa phần ng-ời ăn thừa tự của ng-ời tuyệt tự trong
họ cha mẹ đẻ.
Quan hệ thừa kế trong hàng thừa kế thứ hai chỉ phát sinh khi hôn nhân
không có con mà một ng-ời chết. Phần mà vợ, chồng, cha, mẹ hoặc ng-ời
thừa tự nhận đ-ợc (nếu cha, mẹ chết) không bằng nhau và tùy thuộc vào một
trong ba tr-ờng hợp cụ thể mà nhà làm luật đã dự liệu: Vợ chồng không có

con mà một ng-ời chết tr-ớc; vợ chồng có con, một ng-ời chết tr-ớc, con lại
chết; vợ chồng có con, một ng-ời chết tr-ớc, ng-ời kia đi lấy kẻ khác.
Nh- vậy, pháp luật quy định hai hàng thừa kế nh-ng không công nhận
sự bình đẳng h-ởng quyền thừa kế của những ng-ời trong cùng một hàng thừa
kế. Mặc dù vậy, việc cho ng-ời phụ nữ (mẹ, con gái) có quyền thừa kế và con
gái đ-ợc ngang hàng với con trai trong việc h-ởng di sản thừa kế theo pháp
luật đã thể hiện quan điểm tiến bộ của triều đại nhà Lê, thoát khỏi t- t-ởng gia
tr-ởng thông th-ờng thời đó. Điều này không thể tìm thấy trong các bộ luật
phong kiến khác. Trong Bộ luật Hồng Đức, chế định thừa kế nói chung, quy
định về hàng thừa kế nói riêng vừa nhằm củng cố sự tr-ờng tồn của dòng họ
vừa nhằm giữ gìn sự hòa thuận, th-ơng yêu nhau giữa các anh, chị, em trong

14
gia đình. Với lý do đó, thừa kế d-ờng nh- đã trở thành một chế định nổi bật
nhất, thể hiện những nét -u việt của pháp luật triều Lê.
Vào thế kỷ XVIII, d-ới thời nhà Nguyễn, pháp luật đã không kế thừa
đ-ợc những tiến bộ kể trên của triều Lê. Bộ luật Gia Long quy định hai hàng
thừa kế: hàng thừa kế thứ nhất là các con (không phân biệt con vợ cả, con vợ
lẽ, con nô tỳ; con nuôi hoặc con rể đ-ợc cha mẹ yêu dấu có thể đ-ợc châm
ch-ớc cho tài sản mà con thừa tự không đ-ợc phép can thiệp); nếu không có
con thì hàng thừa kế thứ hai là các thân thuộc trong gia tộc. Tuy nhiên, quyền
thừa kế theo pháp luật chủ yếu thuộc về con trai, con gái chỉ có quyền khi
trong gia đình không có con trai. Ng-ời vợ không có quyền thừa kế đối với di
sản của chồng. Pháp luật thừa kế nhà Nguyễn vì thế có thể nói mang đậm nét
bản chất của pháp luật phong kiến là bảo vệ quyền lực ng-ời gia tr-ởng, củng
cố chế độ gia đình phụ quyền.
D-ới thời Pháp thuộc, Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định nếu ng-ời để lại di
sản mà không có chúc th- thì tài sản đ-ợc chia theo quy định của pháp luật
theo thứ tự sau đây:
- Con trai, con gái của ng-ời để lại di sản đ-ợc chia đều nhau. Nếu

ng-ời đ-ợc thừa kế chết thì con cháu đang sống của họ đ-ợc thay mặt nhận
phần di sản ấy mà chia nhau;
- Nếu ng-ời để lại di sản không có con thì di sản đ-ợc để lại cho bố
mẹ, nh-ng phải giữ quyền lợi cho ng-ời vợ hoặc ng-ời chồng đang sống;
- Nếu không còn con cháu, cha mẹ thì di sản thuộc về ng-ời chính hệ
tôn thuộc gần nhất (ông bà bên nội), nh-ng vẫn phải giữ quyền lợi cho ng-ời
vợ hoặc ng-ời chồng;
- Nếu không còn ng-ời chính hệ tôn thuộc gần nhất thì di sản đ-ợc
truyền cho anh chị em ruột và đ-ợc chia đều nhau, anh chị em nào chết thì con
cháu của họ đ-ợc nhận thay;

15
- Nếu anh chị em ruột và con cháu của những ng-ời này cũng không
còn ai, thì di sản đ-ợc truyền lại cho ng-ời còn lại bên họ nội;
- Nếu thân tộc bên nội không còn ai, di sản truyền cho bên ngoại;
- Nếu thân tộc ngoại không còn ai, thì ng-ời vợ chính đ-ợc h-ởng toàn
bộ di sản ng-ời chồng để lại;
- Nếu không còn vợ góa thì di sản sung công vào nhà n-ớc.
Pháp luật thời kỳ này dành quyền h-ởng thừa kế chủ yếu cho những
ng-ời có quan hệ huyết thống với ng-ời để lại di sản. Vị trí của ng-ời vợ góa-
ng-ời có quan hệ hôn nhân với ng-ời để lại di sản- d-ờng nh- quá khiêm tốn
trong các thứ tự h-ởng di sản của ng-ời chồng quá cố để lại. Vợ chỉ đ-ợc
h-ởng một phần di sản khi chồng chết mà vợ chồng không có con và trong
tr-ờng hợp cha mẹ hoặc ông bà bên nội của chồng đ-ợc h-ởng di sản. Trong
tất cả các thứ tự h-ởng di sản, chỉ có ng-ời vợ chính có thể đ-ợc xếp vào diện
thừa kế mà cũng chỉ thuộc về hàng thừa kế cuối cùng, đ-ợc h-ởng phần di sản
của chồng khi không còn ai thân thích trong dòng tộc nội và ngoại của ng-ời
chồng đã mất. Dòng tộc bên nội cũng đ-ợc -u tiên tr-ớc dòng tộc bên ngoại
trong thứ tự h-ởng di sản của ng-ời quá cố. Nh- vậy, pháp luật Việt Nam thời
kỳ thực dân cũng ch-a thoát ra đ-ợc những ảnh h-ởng nặng nề của quan niệm

về gia đình phong kiến.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận thành công của Dân luật Bắc kỳ khi Bộ
luật này đã dành quyền h-ởng thừa kế cho con gái đ-ợc bình đẳng với con trai
của ng-ời để lại di sản thừa kế. Bên cạnh đó, vấn đề thừa kế thế vị đã đ-ợc đề
cập. Lần đầu tiên theo pháp luật Việt Nam, nếu ng-ời đ-ợc thừa kế chết thì
con cháu đang sống của họ đ-ợc thay mặt nhận phần di sản ấy mà chia nhau.
Có thể thấy, trong một số quy định về hàng thừa kế, quyền thừa kế của
ng-ời có quan hệ hôn nhân với ng-ời để lại di sản đã đ-ợc xác định; vị trí của
ng-ời vợ trong gia đình dù khiêm tốn song cũng đã đ-ợc công nhận; con gái
đ-ợc xếp ngang hàng với con trai trong các mối quan hệ thừa kế, nh-ng nhìn

16
chung, hàng thừa kế trong pháp luật của chế độ thực dân phong kiến tr-ớc hết
và chủ yếu bảo vệ quyền h-ởng di sản của những ng-ời có quan hệ huyết
thống nội tộc với ng-ời để lại di sản. Điều đó góp phần tạo nên bản chất pháp
luật thừa kế của chế độ thực dân, phong kiến là bảo vệ tài sản của nội tộc và
củng cố gia đình ý thức hệ phong kiến. Bản chất pháp luật thừa kế Việt Nam ở
thời kỳ mới (sau năm 1945) sẽ hoàn toàn khác biệt.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến tr-ớc ngày 10/9/1990
Vào những năm đầu tiên của Nhà n-ớc Việt Nam dân chủ cộng hòa
non trẻ, trong bối cảnh toàn dân phải ra sức chống chọi với "giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm", công tác xây dựng pháp luật còn nhiều khó khăn là một tất
yếu, chúng ta ch-a thể có ngay một hệ thống pháp luật đầy đủ. Do vậy, cùng
với việc từng b-ớc ban hành văn bản pháp luật mới, pháp luật của chế độ cũ
vẫn đ-ợc áp dụng, trừ những điều khoản trái với nền dân chủ vừa đ-ợc thiết
lập. Trên bình diện chung nhất, có thể thấy rằng pháp luật quốc gia nói chung
đã thể hiện bản chất của một nhà n-ớc dân chủ. Theo Điều 9 Hiến pháp năm
1946, "đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi mặt". Quy định này d-ờng
nh- trở thành một "tuyên ngôn" chính thức khẳng định quyền bình đẳng giới -
một điều không dễ chấp nhận trong thời phong kiến, thực dân. Theo đó, những

quy định về thừa kế cũng thoát ra khỏi những ảnh h-ởng tàn tích của t- t-ởng
cũ kỹ, lạc hậu, nặng nề về trọng nam khinh nữ. Tuy nhiên, trên thực tế, trong
suốt khoảng thời gian chừng 5 năm, từ tháng 9/1945 đến tháng 9/1950, Nhà
n-ớc không ban hành bất kỳ văn bản nào quy định về hàng thừa kế.
Lần đầu tiên, với sự ra đời của Sắc lệnh 97-SL ngày 22/5/1950, pháp
luật Việt Nam d-ới chế độ mới quy định về hàng thừa kế. Theo tinh thần của
Điều 9, Điều 10 sắc lệnh, chỉ có một hàng thừa kế theo pháp luật, gồm: vợ góa
hoặc chồng góa, các con của ng-ời để lại di sản. Ngoài ra, các cháu của ng-ời
để lại di sản là ng-ời thừa kế thế vị trong tr-ờng hợp cha hoặc mẹ của cháu
chết tr-ớc ông bà nội, ngoại. Nh- vậy, việc quy định cho ng-ời chồng góa, vợ

17
góa ngang hàng với các con trong việc h-ởng di sản của ng-ời chết để lại cho
thấy vị trí của quan hệ hôn nhân tr-ớc đây bị xem nhẹ bên cạnh quan hệ huyết
thống nội tộc vốn dĩ luôn đ-ợc đề cao trong pháp luật cũ nay b-ớc đầu đã
đ-ợc coi trọng. Nh-ng chỉ với một hàng thừa kế đơn giản nh- vậy chắc chắn
sẽ phát sinh những tr-ờng hợp phân định di sản gặp khó khăn. Đối với những
quan hệ hôn nhân đa phu hoặc đa thê, đặc biệt là hôn nhân đa thê- quan hệ
chắc hẳn tồn tại không ít trong xã hội mới b-ớc ra khỏi chế độ phong kiến, xã
hội mà trong đó "trai năm thê bảy thiếp", có phải chăng tất cả những ng-ời vợ
(chồng) đều cùng đ-ợc h-ởng di sản mà ng-ời chồng (vợ) mất đi để lại hay
chỉ duy nhất một ng-ời trong số họ mà thôi? Các con cũng không đ-ợc quy
định cụ thể là con đẻ, con nuôi, Ai trong số các con hay tất cả các con cùng
h-ởng di sản? Pháp luật không có quy định rõ ràng, sự thiếu nhất quán trong
áp dụng vào thực tiễn sẽ phát sinh từ đó. Ngoài ra, việc quy định chỉ một hàng
thừa kế khi áp dụng trong thực tiễn có thể nảy sinh nhiều tr-ờng hợp di sản
không có ng-ời thừa kế. Mặc dù vậy, cũng có thể xem quy định trên là tiền đề
để các văn bản pháp luật về thừa kế sau đó tiếp tục kế thừa và phát triển.
Nhằm khắc phục tình trạng còn thiếu văn bản pháp luật về thừa kế,
dựa trên thực tiễn xét xử, ngày 18/9/1956, Bộ T- pháp đã ban hành Thông t-

1742-NBC, trong đó diện thừa kế có sự mở rộng hơn nhiều. Tuy ch-a có quy
định cụ thể về hàng thừa kế nh-ng tại Điều 4, 5 của Thông t- thì thứ tự thừa
kế theo pháp luật đã b-ớc đầu đ-ợc xác định:
- Thứ tự thứ nhất gồm có: Vợ hoặc chồng và các con của ng-ời chết (là
những ng-ời đ-ợc h-ởng di sản tr-ớc những ng-ời thân thuộc khác của ng-ời
để lại di sản);
- Thứ tự thứ hai gồm có: Cha mẹ của ng-ời để lại di sản; sau cha mẹ
đến các hàng thừa kế khác.
Ngoài ra, các cháu nội, ngoại của ng-ời để lại di sản đ-ợc thừa kế thế
vị trong tr-ờng hợp cha hoặc mẹ của cháu chết tr-ớc ông, bà.

18
Trong thứ tự thừa kế thứ nhất có ng-ời chồng góa hoặc vợ góa và các con
của ng-ời để lại di sản- đó là quy định mang tính kế thừa của Sắc lệnh 97-SL.
Hàng thừa kế thứ hai là một sự bổ sung hoàn toàn mới mẻ. Quy định này cùng
với quy định về thừa kế thế vị chính là những biểu hiện thành công của Thông
t- này. Tuy nhiên, Thông t- 1742 vẫn còn không ít hạn chế bên cạnh một số
tồn tại t-ơng tự nh- quy định của Sắc lệnh 97-SL đã phân tích ở trên. Theo
tinh thần của Thông t-, mặc dù ng-ời chồng góa hoặc vợ góa thuộc về thứ tự
thừa kế thứ nhất nh-ng trong t-ơng quan với một quy định khác, họ lại không
đ-ợc h-ởng thừa kế trong một hàng cố định nào, quyền thừa kế của họ phụ
thuộc vào điều kiện: "Nếu ng-ời chết không có con cháu thì vợ hoặc chồng
của ng-ời chết chỉ đ-ợc h-ởng một nửa, còn một nửa thuộc về cha, mẹ hoặc
những ng-ời thừa kế khác của ng-ời chết". Với quy định này, việc bảo vệ
quyền thừa kế của ng-ời chồng hoặc vợ góa, đặc biệt là vợ góa trên thực tế
gặp không ít vấn đề nan giải, nhiều tr-ờng hợp không xác định đ-ợc những
ng-ời thừa kế theo hàng. Bên cạnh đó, quy định "các hàng thừa kế khác" trong
thứ tự thứ hai h-ởng di sản thừa kế là một thuật ngữ không rõ ràng, dễ dẫn đến
những cách lý giải khác nhau, tạo ra sự áp dụng pháp luật không thống nhất
giữa các tòa án khi giải quyết những vụ việc t-ơng tự.

Nhằm khắc phục những điều bất cập nảy sinh trong thực tiễn áp dụng
Thông t- 1742, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông t- số 594-NCPL
ngày 27/8/1968 h-ớng dẫn đ-ờng lối xét xử các tranh chấp về thừa kế. Theo
đó, những ng-ời thừa kế đ-ợc quy định theo thứ tự hàng thừa kế:
- Hàng thứ nhất gồm có: Vợ góa (vợ cả góa, vợ lẽ góa) hoặc chồng
góa, các con đẻ, các con nuôi, bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi;
- Hàng thứ hai gồm có: Anh chị em ruột và anh chị em nuôi, ông bà
nội và ngoại.
Bên cạnh đó, Thông t- cũng quy định việc phân chia di sản đ-ợc thực
hiện theo nguyên tắc những ng-ời thừa kế ở hàng đầu đ-ợc h-ởng toàn bộ di

19
sản; nếu không có những ng-ời thừa kế ở hàng này hoặc tuy có nh-ng họ đều
từ chối quyền h-ởng di sản thì những ng-ời thừa kế ở hàng tiếp theo đ-ợc
h-ởng di sản.
Nh- vậy, hai hàng thừa kế đã đ-ợc xác định cụ thể hơn dựa trên các
mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi d-ỡng với ng-ời để lại di sản thừa
kế. Tuy nhiên, trong hàng thừa kế thứ nhất, quy định "bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ
nuôi" đ-ợc h-ởng di sản thừa kế của con cho phép ng-ời áp dụng pháp luật
hiểu rằng trong tr-ờng hợp thông th-ờng, bố mẹ đẻ đ-ợc quyền nhận di sản
của con khi con chết, còn nếu ng-ời để lại di sản thừa kế đã là con nuôi của
ng-ời khác thì bố mẹ nuôi là ng-ời h-ởng di sản của họ, còn bố mẹ đẻ thì
không. ở đây, pháp luật đã triệt tiêu quan hệ huyết thống bởi quan hệ nuôi
d-ỡng trong khi về bản chất, đó là quan hệ nhân thân gắn bó nhất và không
thể loại trừ theo quan niệm truyền thống. So với Sắc lệnh 97-SL và Thông t-
1742, văn bản này đã bổ sung thêm trong hàng thừa kế thứ hai những ng-ời có
quan hệ huyết thống trực hệ bề trên là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
những ng-ời có quan hệ huyết thống bàng hệ cùng bậc là anh ruột, chị ruột,
em ruột và thậm chí có cả anh chị em nuôi. Khái niệm "anh, chị, em nuôi" chỉ
là một khái niệm của đời sống để nói về những ng-ời là con của bố mẹ nuôi

và những ng-ời con nuôi của bố mẹ đẻ xét trong quan hệ với ng-ời để lại di
sản. Pháp luật nói chung, pháp luật hôn nhân và gia đình nói riêng không có
quy định nào về anh, chị, em nuôi. Giữa ng-ời để lại di sản thừa kế và anh,
chị, em nuôi (theo cách hiểu dân gian) không hề có bất kỳ mối quan hệ hôn
nhân, huyết thống hay nuôi d-ỡng nào với nhau, không hề có quyền và nghĩa
vụ làm đại diện hay giám hộ cho nhau tr-ớc pháp luật. Việc quy định "anh,
chị, em nuôi" thuộc hàng thừa kế thứ hai của ng-ời để lại di sản thừa kế có lẽ
đã thật sự thuyết phục?
Tuy có những điều còn hạn chế nh- trên nh-ng chúng ta không thể
phủ nhận thành công của Thông t- 594 cũng nh- vai trò của nó trong việc
phát triển chế định thừa kế nói chung và các quy định về thừa kế theo pháp

20
luật nói riêng. Đánh giá về thành công của Thông t- này, Tiến sĩ Phùng Trung
Tập nhận định:
Thông t- này đã thể hiện bản chất pháp luật thừa kế của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở n-ớc ta theo 5 nguyên tắc cơ bản là: Nhà n-ớc chiếu theo pháp
luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản t- hữu của nhân dân; nam nữ đều bình đẳng
về quyền h-ởng thừa kế; củng cố và phát triển tình đoàn kết, th-ơng yêu trong
nội bộ gia đình, tăng c-ờng tinh thần phấn khởi sản xuất của mọi ng-ời; tôn
trọng quyền tự định đoạt bằng di chúc của ng-ời có di sản, đồng thời bảo hộ
thích đáng quyền thừa kế của một số ng-ời theo pháp luật; Ng-ời h-ởng thừa
kế đ-ợc h-ởng tất cả các quyền lợi về tài sản do ng-ời chết đề lại nh-ng chỉ
phải chịu trách nhiệm thi hành các nghĩa vụ do ng-ời chết để lại trong phạm
vi di sản đã nhận đ-ợc [24, tr. 115-116].
Nhằm giải quyết tốt hơn những vụ việc thừa kế xảy ra trong thực tiễn,
ngày 24/7/1981, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông t- số 81-TANDTC,
trong đó quy định hai hàng thừa kế:
- Hàng thứ nhất bao gồm: Vợ góa (vợ cả góa, vợ lẽ góa), hoặc chồng
góa; các con đẻ và con nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố nuôi, mẹ nuôi;

- Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh,
chị, em ruột; anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha và anh chị
em nuôi.
Quy định hai hàng thừa kế nói trên về cơ bản giữ nguyên nội dung
hàng thừa kế theo quy định tại Thông t- 594. Do vậy, Thông t- này vẫn ch-a
khắc phục đ-ợc một số tồn tại của Thông t- 594 nh- đã trình bày ở trên.
Thành công của Thông t- 81 là ở chỗ văn bản này đã quy định những
tr-ờng hợp một ng-ời tuy thuộc hàng thừa kế nh-ng lại không có quyền
h-ởng di sản do ng-ời đó đã có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền
h-ởng di sản và quyền để lại di sản của ng-ời khác, nh-:

21
- Ng-ời đã giết ng-ời để thừa kế hoặc đã đối xử quá tàn tệ với ng-ời
để lại di sản;
- Ng-ời đã giết ng-ời thừa kế cùng hàng để nhằm chiếm đoạt toàn bộ
hoặc một phần di sản mà ng-ời đó có quyền h-ởng thì không đ-ợc thừa kế
của ng-ời để lại di sản và của ng-ời bị giết.
Quy định trên đã bao quát đ-ợc một số sự kiện liên quan đến quyền
h-ởng di sản của ng-ời thừa kế trong hàng- điều mà pháp luật thừa kế tr-ớc
đó ch-a thể làm đ-ợc. Với việc loại trừ một số đối t-ợng tuy thuộc hàng thừa
kế nh-ng vẫn không đ-ợc h-ởng di sản, pháp luật đã thể hiện tính giáo dục rất
cao, phù hợp với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
Cũng tại Thông t- 81, lần đầu tiên, quyền thừa kế của vợ, chồng, các
con vị thành niên và các con của ng-ời để lại di sản tuy đã tr-ởng thành nh-ng
không có khả năng lao động và túng thiếu đ-ợc thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung của di chúc đã đ-ợc pháp luật quy định và bảo vệ. Họ là những
ng-ời thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất, đ-ợc h-ởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc với kỷ phần bắt buộc bằng 2/3 của một suất
thừa kế đ-ợc chia theo pháp luật.
1.2.3. Giai đoạn từ ngày 10/9/1990 đến tr-ớc ngày 01/7/1996

Vấn đề thừa kế đ-ợc quy định riêng tại một pháp lệnh- Pháp lệnh thừa
kế năm 1990. Sự ra đời của văn bản có hiệu lực pháp lý khá cao này cho thấy
Nhà n-ớc ta đã dành sự quan tâm nhiều hơn tới điều chỉnh quan hệ thừa kế.
Trong đó, Điều 25 sắp xếp những ng-ời thừa kế theo pháp luật thành ba hàng
thừa kế nh- sau:
- Hàng thứ nhất: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của ng-ời chết;
- Hàng thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của ng-ời chết;

22
- Hàng thứ ba: Cụ nội, cụ ngoại của ng-ời chết, bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của ng-ời chết; cháu ruột của ng-ời chết là bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
Điểm tiến bộ dễ nhận thấy là Pháp lệnh thừa kế đã quy định mở rộng
số l-ợng hàng thừa kế. Những ng-ời đ-ợc h-ởng di sản trong từng hàng cũng
ít nhiều thay đổi. Tại hàng thừa kế thứ nhất, ng-ời đang là con nuôi của ng-ời
khác đ-ợc bình đẳng với những ng-ời con khác của ng-ời để lại di sản trong
việc h-ởng di sản thừa kế của cha đẻ, mẹ đẻ. Đây là một điểm khác biệt cơ
bản so với Thông t- 81 và tr-ớc đó là Thông t- 594 (ng-ời đã là con nuôi chỉ
đ-ợc nhận di sản thừa kế từ cha nuôi, mẹ nuôi mà không có quyền h-ởng thừa
kế của cha đẻ, mẹ đẻ). Ngoài ra, số ng-ời thừa kế trong hàng thừa kế thứ nhất
có thể đ-ợc bổ sung trong tr-ờng hợp con riêng và cha d-ợng, mẹ kế đã thể
hiện đ-ợc nghĩa vụ chăm sóc, nuôi d-ỡng nhau nh- cha con, mẹ con thì họ
đ-ợc thừa kế của nhau khi một bên chết tr-ớc theo tinh thần của Điều 28 Pháp
lệnh. Khi con riêng và cha d-ợng, mẹ kế có đủ điều kiện đ-ợc thừa kế theo
pháp luật của nhau ở hàng thứ nhất thì con đẻ của ng-ời đó cũng đ-ợc thừa kế
thế vị trong tr-ờng hợp ng-ời đó chết tr-ớc hoặc chết cùng một thời điểm với
cha d-ợng, mẹ kế.
Trong hàng thừa kế thứ hai, anh nuôi, chị nuôi, em nuôi không còn là

những ng-ời đ-ợc h-ởng di sản thừa kế nh- quy định của các văn bản thừa kế
liền tr-ớc đó nữa. Với những cơ sở nh- đã phân tích ở tiểu mục 1.2.2, chúng
tôi cho rằng sự thay đổi này là hoàn toàn phù hợp, tạo ra sự đồng nhất giữa các
quy định của pháp luật thừa kế và pháp luật hôn nhân và gia đình.
Đặc biệt, hàng thừa kế thứ ba đã bao gồm những ng-ời thừa kế lần đầu
tiên đ-ợc pháp luật d-ới chế độ mới quy định, đó là cụ nội, cụ ngoại của ng-ời
chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của ng-ời chết; cháu ruột
của ng-ời chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột. Họ đều là
những ng-ời có quan hệ huyết thống bàng hệ hoặc trực hệ với ng-ời để lại di

23
sản. Với việc bổ sung hàng thừa kế thứ ba này, pháp luật đã bảo vệ ở mức độ
ngày càng cao quyền thừa kế của những ng-ời có cùng huyết thống với ng-ời
để lại di sản.
Điều 20 Pháp lệnh thừa kế quy định về ng-ời thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc. Quy định này đã tiếp tục phát -u điểm của Thông
t- 81, bảo vệ triệt để quyền lợi về tài sản cho những ng-ời thừa kế ở hàng thứ
nhất bị truất quyền h-ởng di sản bởi di chúc.
Pháp lệnh thừa kế cũng quy định những tr-ờng hợp số l-ợng ng-ời
thuộc hàng thừa kế theo pháp luật có thể bị giảm bớt:
- Ng-ời đ-ợc thừa kế theo pháp luật kh-ớc từ quyền h-ởng di sản;
- Ng-ời thừa kế không có quyền h-ởng di sản do đã bị kết án về một
trong số các hành vi trái pháp luật ;
- Ng-ời thừa kế nh-ờng quyền h-ởng di sản cho ng-ời thừa kế khác.
Đây cũng là một quy định kế thừa thành công của Thông t- 81, thể hiện
sự tôn trọng của pháp luật đối với quyền tự do ý chí của ng-ời thừa kế, đồng thời
bảo vệ đạo đức trong gia đình cũng nh- xã hội. Pháp lệnh thừa kế đ-a ra một số
tr-ờng hợp thuộc hàng thừa kế mà không đ-ợc h-ởng di sản do vấn đề vi phạm
đạo đức hoặc vi phạm pháp luật với ng-ời để lại di sản hoặc với những ng-ời
đồng thừa kế khác nhằm củng cố trật tự gia đình, tình cảm th-ơng yêu, gắn bó

giữa những ng-ời có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi d-ỡng với nhau. Bên
cạnh đó, pháp luật cũng tôn trọng tối đa quyền của ng-ời thừa kế thuộc hàng khi
quy định ng-ời đó có thể kh-ớc từ hoặc nh-ờng quyền h-ởng di sản cho ng-ời
thừa kế khác. Tuy nhiên, việc kh-ớc từ và nh-ờng quyền h-ởng di sản không
đ-ợc h-ớng dẫn cụ thể trong Pháp lệnh cũng nh- bất kỳ văn bản pháp lý có
liên quan nào khác nên vấn đề áp dụng trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn.
Mặc dù vẫn còn những hạn chế nh- vậy, chúng ta vẫn phải khẳng định
rằng quy định về hàng thừa kế tại Điều 25 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 không

24
những phù hợp với thực tế xã hội mà còn duy trì và củng cố đ-ợc truyền
thống, bản chất của quan hệ thừa kế- một loại quan hệ tài sản gắn với yếu tố
nhân thân hết sức đặc biệt.
1.2.4. Giai đoạn từ ngày 01/07/1996 đến tr-ớc ngày 01/01/2006
Các quy định trong lĩnh vực dân sự đ-ợc tập hợp trong một văn bản
mang tính pháp điển hóa cao nhất, Bộ luật Dân sự 1995 ra đời. Chế định thừa
kế đ-ợc quy định tại phần riêng (Phần thứ t-) với khá nhiều điều luật (56 điều).
Trong đó, khoản 1 Điều 679 quy định ba hàng thừa kế:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của ng-ời chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của ng-ời chết;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngoại của ng-ời chết, bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của ng-ời chết; cháu ruột của ng-ời chết là
bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
Có thể thấy, ba hàng thừa kế theo quy định trên hầu nh- không thay
đổi so với quy định tại Pháp lệnh thừa kế tr-ớc đó. Nh- vậy, Bộ luật đã kế
thừa những thành tựu cơ bản trong quy định về hàng thừa kế của Pháp lệnh,
tiếp tục góp phần tích cực giải quyết các vụ việc thừa kế theo pháp luật.
Ngoài ra, khoản 2 và 3 Điều 679 cũng quy định quyền bình đẳng trong

việc h-ởng di sản và trình tự h-ởng di sản thừa kế theo hàng. Theo đó, những
ng-ời cùng hàng đ-ợc h-ởng phần di sản bằng nhau; những ng-ời ở hàng thừa
kế sau chỉ đ-ợc h-ởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế tr-ớc do đã
chết, không có quyền h-ởng di sản, bị truất quyền h-ởng di sản hoặc từ chối
nhận di sản.
Liên quan tới hàng thừa kế, Bộ luật Dân sự cũng bao quát đ-ợc các
vấn đề nảy sinh nh-: thừa kế thế vị (Điều 680), những ng-ời thuộc hàng mà

×