Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Hoàn thiện hoạt động thanh tra của ngân hàng nhà nước Việt nam đối với quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn Hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.59 KB, 12 trang )

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Thanh tra Ngân hàng với tư cách là một chức năng thiết yếu của Ngân hàng Nhà
nước, một khâu quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước, là phương thức đảm bảo
pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý Nhà nước về ngân hàng. Làm tốt công tác này
sẽ góp phần đảm bảo an toàn hệ thống Tổ chức tín dụng nói chung cũng như hệ thống
Quỹ tín dụng nhân dân nói riêng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền,
phục vụ chính sách tiền tệ quốc gia, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trước thực trạng các Quỹ tín dụng nhân dân ở nước ta với quy mô quá nhỏ, năng
lực tài chính thấp, địa bàn hoạt động hẹp, trình độ cán bộ còn hạn chế, lại hoạt động trong
môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt với các ngân hàng thương mại nên gặp không
ít khó khăn. Đồng thời, với mặt trái của nền kinh tế thị trường, hoạt động ngân hàng của
các Tổ chức tín dụng nói chung và Quỹ tín dụng nói riêng còn xảy ra hiện tượng cạnh
tranh không lành mạnh, chất lượng cho vay và đầu tư chưa cao,… gây nên những hậu quả
nghiêm trọng trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Những tồn tại đó, bên cạnh
nguyên nhân thuộc về các Tổ chức tín dụng còn phải kể đến nguyên nhân thuộc về vai trò
quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong đó có Thanh tra ngân hàng.
Vì vậy, vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay là phải hoàn thiện hoạt động thanh tra
trong đó chú trọng vấn đề nâng cao hiệu quả và hiệu lực thanh tra nhằm đáp ứng yêu
cầu của quản lý Nhà nước đối với các Quỹ tín dụng nhân dân đồng thời giúp các Quỹ
tín dụng nhân dân hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả và đúng pháp luật cũng như
những quy định của Ngân hàng Nhà nước. Nhận thức được sự cần thiết đó, tác giả đã
chọn nghiê cứu đề tài: “Hoàn thiện hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước
Viê ̣t Nam đối với Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn Hà Nội”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục tài liệu tham khảo, nội dung cơ bản
của luận văn được kết cấu gồm 3 chương:


Chương I: Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh tra Ngân hàng đối với
các Quỹ tín dụng nhân dân
- Giới thiệu về Quỹ tín dụng nhân dân, sự cần thiết phát triển các Quỹ tín dụng


nhân dân trong hệ thống trung gian tài chính và sự cần thiết của hoạt động thanh tra ngân
hàng đối với các Quỹ tín dụng nhân dân.
- Nghiên cứu các vấn đề cơ bản mang tính lý luận về hoạt động thanh tra của Ngân
hàng Trung ương đối với các TCTD nói chung và các Quỹ tín dụng nhân dân trong nền
kinh tế thị trường nói riêng gồm một số vấn đề sau:
+ Khái niệm về thanh tra ngân hàng: Tại Việt Nam, theo luật NHNN, Luật Thanh
tra, Thanh tra Ngân hàng là thanh tra Nhà nước chuyên ngành về ngân hàng, được tổ
chức thành hệ thống thuộc bộ máy NHNN, thực hiện chức năng thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành về ngân hàng.
+ Mục đích, đặc điểm và nguyên tắc hoạt động của Thanh tra ngân hàng
+ Các phương thức hoạt đông của Thanh tra ngân hàng gồm: giám sát từ xa và
thanh tra tại chỗ
+ Các phương pháp thanh tra ngân hàng. Ở phần này, tác giả giới thiệu khái quát
phương pháp thanh tra truyền thống (phương pháp thanh tra tuân thủ) và phương pháp
thanh tra hiện đại (phưong pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro).
- Trong chương này, tác giả giới thiệu khái quát các nguyên tắc cơ bản về hoạt
đông thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả của uỷ ban Basel và hệ thống giám sát, xếp
hạng Tổ chức tín dụng theo Camels
- Đồng thời luận văn cũng khái quát một số kinh nghiệm của một số nước trên thế
giới về mô hình giám sát, thanh tra ngân hàng và kinh nghiệm thanh tra QTDND có thể
áp dụng cho Việt Nam nhằm giúp cho Thanh tra ngân hàng nước ta đảm đương được vai
trò của mình trong điều kiện hội nhập quốc tế.


Chương II: Thực trạng hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với
các Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội
Trong chương 2, luận văn đã khái quát một số nét về quá trình hình thành, phát
triển của hệ thống QTDND Việt Nam nói chung và tình hình hoạt động của các QTDND
trên địa bàn Hà Nội nói riêng từ năm 2003-2007, cũng như khái quát về tổ chức bộ máy
thanh tra Chi nhánh NHNN thành phố Hà Nội. Luận văn cũng phân tích, đánh giá thực

trạng về tổ chức và hoạt động thanh tra của NHNN thành phố Hà Nội đối với các
QTDND trên địa bàn, trên cơ sở đó đánh giá những kết quả và hạn chế cũng như những
nguyên nhân của các hạn chế đó. Qua đó gởi ra những vấn đề suy ngẫm để đưa ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động thanh tra ngân hàng đối với các QTDND nói riêng
và TCTD nói chung, cụ thể:
- Khái lược về sự hình thành hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam và trên địa
bàn thành phố Hà Nội:
Đến nay, mô hình hệ thống QTDND nước ta gồm: Tổ chức trực tiếp kinh doanh
phục vụ thành viên và tổ chức liên kết phát triển hệ thống và hệ thống QTDND nước ta
bao gồm QTDND Trung ương với 24 chi nhánh hoạt động trên địa bàn 54 tỉnh, thành phố
và 940 QTDND cơ sở. Hoạt động của hệ thống QTDND tiếp tục tăng trưởng bền vững,
đã lấy lại được niềm tin của người dân. Tuy vậy, trong quá trình hoạt động của các
QTDND không tránh khỏi có sự sai phạm ở nơi này, nơi kia của một số QTDND.
Hà Nội là thủ đô của cả nước, là trung tâm đầu não về chính trị, văn hoá, khoa học
kỹ thuật, đồng thời là trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Với nhu
cầu bức xúc về vốn và chủ trương phát triển QTDND của Đảng bộ thành phố Hà Nội,
NHNN, hệ thống QTDND Hà Nội đã ra đời. Tính đến 31/12/2007, trên địa bàn Hà Nội
có 14 QTDND hoạt động trong đó có 02 quỹ mới là QTDN Bắc Sơn (cấp phép ngày
25/12/2006, khai trương hoạt động tháng 3/2007) và QTDND Hoàng Mai (cấp phép
10/8/2007, khai trương hoạt động tháng 11/2007).
- Phân tích tình hình hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân tại Hà Nội:


Phải nói rằng, từ khi hoạt động, các QTDND trên địa bàn Hà Nội đã đạt được
những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ (trừ 02 Quỹ mới thành lập), khẳng định được vị
trí và vai trò của mình, đáp ứng nhu cầu vay vốn phát triển nông nghiệp, hạn chế cho vay
nặng lãi, góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, xoá bỏ mặc cảm
cũ cả người dân về QTDND . Hiện nay, các QTDND ở Hà Nội ngày càng có nhiều người
tham gia làm thành viên của Quỹ, vốn điều lệ và các nguồn vốn khác ngày càng phát
triển, các Quỹ hoạt động ngày càng ổn định, phát triển bền vững thể hiện trên:

+ Số lượng thành viên: Theo số liệu thống kê thì số lượng thành viên tham gia các
QTDND tăng đều đặn, năm sau cao hơn năm trước, chứng tỏ các QTDND đã tạo dựng
được lòng tin của nhân dân và đó là cơ sở để các QTDND phát huy hiệu quả, vai trò của
mình trên địa bàn hoạt động.
+ Huy động vốn: Các QTDND ở Hà Nội đã huy động được khá nhiều vốn nhàn
rỗi của dân cư khu vực ngoại thành,..
+ Sử dụng vốn: Trung bình mỗi năm, các QTDND đã cho trên 7.000 lượt thành
viên vay vốn, tỷ lệ giữa doanh số cho vay trên doanh số thu nợ đạt trung bình trên 85%,
tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ trung bình là 0,26%, tỷ lệ này không phải là cao và có xu
hướng giảm, đây là điều rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, hiệu suất sử dụng vốn của các
QTDND có giảm hơn trước, thể hiện tỷ lệ tiền gửi tại các TCTD có xu hướng tăng lên từ
năm 2005 đến này, số dư vốn chưa sử dụng hết được các QTD gửi tại các TCTD với lãi
suất bằng lãi suất huy động của tổ chức.
+ Cơ cấu dư nợ cho vay của các QTDND khá đa dạng, phong phú. Do tiến trình
đô thị hoá mạnh nên việc đầu tư vào sản xuất nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm
dần, trong khi cho vay kinh doanh dịch vụ và phát triển ngành nghề phụ có xu hướng
tăng trưởng mạnh.
+ Kết quả kinh doanh: Chỉ tính riêng kết quả kinh doanh năm 2007, trong số 14
QTDND có 12 quỹ kinh doanh có lãi với tổng số lãi là 1.351 triệu đồng, giảm so với năm
2006 là 251 triệu đồng, do điều kiện tình hình kinh tế chung có dấu hiệu đi xuống giai


đoạn nửa cuối năm 2007, thêm nữa 02 quỹ mới thành lập hoạt động kinh doanh bị lỗ
(QTDND Bắc Sơn lỗ 37 triệu đồng, QTDND Hoàng Mai lỗ 202 triệu đồng, nguyên nhân
do công tác quản trị, điều hành hạn chế).
- Thực trạng mô hình tổ chức của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước- Chi nhánh Hà
Nội: Thanh tra ngân hàng tại NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
được gọi là Thanh tra Chi nhánh NHNN, là đơn vị tương đương cấp phòng thuộc tổ chức
bộ máy của NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố; Điều hành hoạt động Thanh tra của Thanh
tra Chi nhánh NHNN là Chánh Thanh tra chi nhánh, giúp việc Chánh thanh tra có các

Phó chánh thanh tra chi nhánh. Chánh Thanh tra chi nhánh do Giám đốc NHNN chi
nhánh tỉnh, thành phố đề nghị, Chánh Thanh tra NHNN trình Thống đốc NHNN bổ
nhiệm, miễn nhiệm. Các Phó Chánh thanh tra chi nhánh do Giám đốc chi nhánh NHNN
tỉnh, thành phố bổ nhiệm, miễn nhiệm; Thanh tra chi nhánh NHNN chịu sự điều hành
trực tiếp của Giám đốc NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố nhưng chịu sự chỉ đạo, hướng
dẫn nghiệp vụ thanh tra của Chánh thanh tra NHNN (do Thống đốc NHNN bổ nhiệm,
miễn nhiệm sau khi thống nhất ý kiến với Tổng thanh tra).
Tuy chưa có quy định cụ thể về tổ chức, song Chi nhánh NHNN thành phố Hà Nội
đã hình thành các tổ chuyên môn. Hiện nay, Thanh tra NHNN thành phố Hà Nội có 5 tổ
sau: (1) Tổ thanh tra các NHTM nhà nước; (2) Tổ thanh tra các NHTM cổ phần; (3) Tổ
giám sát từ xa và thanh tra các Văn phòng đại diện nước ngoài; (4) Tổ thanh tra các
TCTD phi ngân hàng; (5) Tổ tổng hợp và xét khiếu tố. Nhiệm vụ cụ thể của từng tổ do
Chánh thanh tra chi nhánh quy định.
Trách nhiệm giám sát và thanh tra của Thanh tra chi nhánh NHNN (được thực
hiện theo quy định tại Thông tư số 04/2000/TT-NHNN3): Thanh tra NHNN chi nhánh
thành phố Hà Nội chịu trách nhiệm giám sát và thanh tra các TCTD trên địa bàn gồm: các
chi nhánh, công ty trực thuộc của TCTD nhà nước; TCTD cổ phần; QTDND cơ sở; hoạt
động ngân hàng của các tổ chức khác không phải là TCTD được các cấp có thẩm quyền
cấp giấy phép (theo uỷ quyền). Thanh tra NHNN chỉ tiến hành thanh tra những đơn vị
này khi thấy cần thiết.


Về phối hợp hoạt động giữa Thanh tra NHNN thành phố Hà Nội với các phòng
ban khác của Chi nhánh: Hiện nay, trong các khâu của chu trình giám sát chung: cấp
phép; ban hành quy chế; tổ chức thanh tra (giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ); xử phạt,
thu hồi giấy phép, Thanh tra chi nhánh chỉ thực hiện giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ và
một phần của quá trình xử lý sai phạm (xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ
và hoạt động ngân hàng). Khi có những vấn đề liên quan đến việc thành lập TCTD nói
chung hay QTDND nói riêng, cho phép thay đổi nhân sự ban lãnh đạo, mở rộng hoạt
động, hoặc xử lý các QTDND,… Thanh tra ngân hàng chỉ tham gia ý kiến, những ý kiến

này rất quan trọng nhưng lại không có ý nghĩa quyết định nên nhiều khi trở thành hình
thức.
- Phân tích thực trạng hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với các
Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội
+ Thực trạng hoạt động giám sát từ xa
Qua thực tế giám sát cho thấy, các QTDND đều tăng trưởng nguồn vốn qua các
thời kỳ. Nguồn vốn huy động tại chỗ chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn. Trong
tổng nguồn vốn huy động, vốn huy động có kỳ hạn chiếm tỷ cao (trung bình trên 70%) do
vậy các QTD có thể chủ động về nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh; Tỷ lệ tài sản có
sinh lời trên tổng tài sản của các QTDND đều đạt từ 87% trở lên; tỷ lệ nợ quá hạn (nợ
xấu) có xu hướng giảm dần, đến nay dưới mức 0,2%, đây là tỷ lệ chấp nhận được; các
QTD đều hoạt động có lãi trừ 02 QTD Bắc Sơn và Hoàng Mai mới thành lập trong năm
2007; Tỷ lệ khả năng chi trả luôn > 1; Từ sau năm 2006, tất cả các QTD đều đạt tỷ lệ vốn
tối thiểu > 8%; Tổng dư nợ cho vay một khách hàng
+ Thực trạng hoạt động thanh tra tại chỗ
Trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra: Việc sưu tầm tài liệu, các văn bản pháp luật
thường chưa được chú trọng, nhiều khi xuống đơn vị rồi mới phát hiện ra có văn bản quy
phạm pháp luật mới, thanh tra chưa có mà phải mượn đơn vị; Việc thu thập thông tin liên
quan trực tiếp đến cuộc thanh tra cũng thường bị bỏ qua, đặc biệt rất ít khi thanh tra tại


chỗ lấy thông tin từ giám sát từ xa; Thanh tra chi nhánh cũng bỏ qua bước cuối cùng, việc
báo cáo của đơn vị được thực hiện tại buổi công bố quyết định thanh tra tại trụ sở của đơn
vị (giai đoạn 2), lãnh đạo QTD mới thực hiện báo cáo khái quát tình hình hoạt động của
QTD và không có báo cáo bằng văn bản do Thanh tra chi nhánh không làm công văn yêu
cầu đơn vị báo cáo bằng văn bản.
Giai đoạn tiến hành thanh tra: Trong giai đoạn này, các sai phạm thường gặp ở các
QTDND trên địa bàn được phát hiện qua các cuộc thanh tra tại chỗ gồm: Về quản trị,
điều hành, kiểm soát; Về hoạt động tín dụng; Về bảo đảm tiền vay; Về trích lập và sử
dụng dự phòng rủi ro; Về công tác quản lý tài chính, mua sắm và quản lý tài sản; Về thực

hiện các tỷ lệ an toàn trong hoạt động kinh doanh; Về công tác xây dựng trụ sở làm việc;
Về công tác xử lý, chỉnh sửa sau thanh tra.
Giai đoạn kết thúc thanh tra: Việc thông báo kết thúc việc thanh tra tại đơn vị
thường không bằng văn bản; Quá trình xây dựng báo cáo kết quả thanh tra thường mất
gần một tuần do các báo cáo của các thành viên trong đoàn chưa có sự thống nhất, dẫn
đến gây khó khăn cho người tổng hợp; Việc họp đoàn rút kinh nghiệm nhiều khi còn
mang tính hình thức, chưa đánh giá được hiệu quả thực sự của từng thành viên trong đoàn
thanh tra, chưa nêu được những hạn chế của Đoàn thanh tra để rút kinh nghiệm cho các
cuộc thanh tra sau.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước
đối với các Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội từ đó đưa ra những
đánh giá kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân.
+ Kết quả đạt được:
Hoạt động Thanh tra của NHNN thành phố Hà Nội đối với các QTDND trên địa
bàn đã thu được những thành công nhất định. Về cơ bản đã kiểm soát được hoạt động của
các QTDND, đặc biệt trong hoạt động tín dụng, thanh toán, không để xảy ra tình trạng đõ
vỡ tín dụng hay mất khả năng thanh toán. Qua thanh tra đã phát hiện khá nhiều các tồn
tại, sai phạm từ đó có biện pháp chấn chỉnh, xử lý kịp thời nên đã hạn chế được nguy cơ


rủi ro có thể xảy ra. Kết quả là chất lượng hoạt động của các QTDND trên địa bàn có
nhiều chuyển biến tích cực, nguồn vốn huy động và dư nợ tăng trưởng, hoạt động kinh
doanh ổn định, có lãi đều đặn, tỷ lệ nợ xấu giảm, giữ được vai trò nhất định của kinh tế
tập thể trong lĩnh vực ngân hàng. Bước đầu đã có sự gắn kết giữa hai phương thức thanh
tra giúp hoạt động thanh tra của Thanh tra Chi nhánh đạt được những thành tựu đáng kể.
+ Hạn chế
Trong hoạt động giám sát từ xa: giám sát từ xa đối với các QTDND trên địa bàn
Hà Nội chưa toàn diện, hệ thống chỉ tiêu còn thiếu, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thanh tra ngân hàng chưa thiết lập được những yếu tố định tính mà thanh tra tại chỗ phải
đánh giá để cùng với đánh giá định lượng của giám sát từ xa xếp loại theo từng tiêu chí

của CAMELS. Việc xếp loại các QTDND như hiện nay mặc dù có đề cập đến 5 tiêu chí
của CAMELS nhưng chưa phải là đánh giá, xếp loại theo tiêu chuẩn CAMELS; Phần
mềm xử lý số liệu cho hoạt động giám sát từ xa viết trên môi trường FOX for DOS nên
có nhiều hạn chế; Sự phối kết hợp giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ còn ít, trên
thực tế, kết quả giám sát từ xa ít có tác dụng chỉ điểm mà mới dừng lại ở việc tích luỹ và
cung cấp số liệu cho thanh tra tại chỗ. Chính những hạn chế trên làm cho công tác giám
sát từ xa chưa thực sự phát huy được vai trò của mình, chưa có tác dụng ngăn ngừa, răn
đe. Khả năng dự báo, cảnh báo sớm còn hạn chế.
Trong hoạt động thanh tra tại chỗ: Chưa ban hành được cẩm nang thanh tra (sổ tay
thanh tra), do đó trong quá trình thực hiện nhiều lúc còn lúng túng, dẫn đến lãng phí thời
gian và chất lượng thanh tra chưa cao thể hiện; Trong quy trình thanh tra, đôi lúc chưa
chú trọng và làm tốt khâu chuẩn bị thanh tra; Kết luận thanh tra còn nêu chung chung,
thiếu cụ thể, không xác định được nguyên nhân, trách nhiệm của các tồn tại, sai phạm
nên chưa đưa ra được những đề xuất, kiến nghị cụ thể giúp đối tượng thanh tra sửa chữa,
khắc phục sai phạm; Cán bộ chuyên quản vẫn chưa phát huy được vai trò của mình trong
việc theo dõi, phân tích hoạt động của các QTDND mình chuyên quản; Cách viết báo cáo
kết quả thanh tra, cách đặt vấn để, nội dung còn khuôn sáo; Thời gian hoàn thành báo cáo
tổng hợp, dự thảo kết luận thanh tra còn chậm trễ. Cách lập biên bản làm việc với đối


tượng thanh tra chưa thống nhất, nhiều biên bản còn dài, chưa nêu được những sai phạm
cụ thể; Công tác xử lý sau thanh tra còn nhiều bất cập: Việc tiếp thu và thực hiện các kiến
nghị thanh tra của một số đơn vị chưa được nghiêm túc thực hiện; Nội dung các cuộc
thanh tra mới chỉ tập trung vào thanh tra tính tuân thủ trong việc thực hiện các nghiệp vụ
ngân hàng, các quy định của pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng do đó
các kiến nghị của Thanh tra chỉ giới hạn đối với các vi phạm mà Đoàn thanh tra phát
hiện. Các cuộc thanh tra tại chỗ chưa định hướng vào đo lường mức độ rủi ro để từ đó có
những biện pháp giúp các QTD hoạt động tốt hơn, có tình hình tài chính tốt hơn.
+ Nguyên nhân: Với mô hình tổ chức hai cấp như vậy, Thanh tra chi nhánh
NHNN bị hạn chế về tính độc lập; Thanh tra ngân hàng hiện nay chủ yếu vẫn thực hiện

phương pháp thanh tra tuân thủ, mới đang ở giai đoạn đầu tiếp cận với phương pháp
thanh tra hiện đại là thanh tra trên cơ sở rủi ro, nên hiệu quả thanh tra ngân hàng còn hạn
chế; Phần mềm giám sát đang sử dụng được viết trên FOX for Dos nên có nhiều hạn chế
như đã trình bày ở trên; Chưa có chế tài quy định các đối tượng thanh tra phải chấp hành
nghiêm túc các kiến nghị của Đoàn Thanh tra; Thanh tra còn xem nhẹ công tác xử lý,
chấn chỉnh sau thanh tra; Năng lực, trình độ của một số cán bộ thanh tra còn nhiều hạn
chế; Chưa xây dựng được khung sườn báo cáo chuẩn mực nên việc tổng hợp báo cáo gặp
nhiều khó khăn; Thanh tra NHNN thành phố Hà Nội chưa có quy định cụ thể nhiệm vụ
của các cán bộ chuyên quản đối với các QTDND nên việc phân công chuyên quản mang
tính hình thức; Với chính sách quản lý cán bộ và các chế độ tiền đãi ngộ trong nhiều năm
qua khiến Thanh tra ngân hàng khó có khả năng thu hút, tuyển dụng được nhân tài và
phát triển nguồn nhân lực một cách bền vững; Hạ tầng cơ sở hỗ trợ cho hoạt động thanh
tra, giám sát ngân hàng chưa được đảm bảo: Hệ thống kế toán còn nhiều bất cập so với
chuẩn mực quốc tế khiến cho các số liệu thống kê báo cáo có độ tin cậy chưa cao;
Nguyên nhân từ phía các QTDND: Năng lực quản trị, điều hành, kiểm soát còn rất hạn
chế, thấp hơn rất nhiều so với các TCTD khác.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà
nước đối với các Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội.


Từ những kết quả, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại được rút ra qua
nghiên cứu thực trạng công tác thanh tra đối với các QTDND trên địa ban thành phố Hà
Nôi, kết hợp với lý luận chung về thanh tra và kinh nghiệm trên thế giới về giám sát,
thanh tra ngân hàng, và để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển hệ thống Ngân hàng Việt
Nam trong điều kiện hội nhập, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt
động thanh tra ngân hàng Việt Nam.
Các giải pháp chủ yếu hoàn thiện hoạt động thanh tra gồm: Đi đôi với quá trình cải
cách, hoàn thiện mô hình tổ chức là quá trình đổi mới nội dung và phương thức tiến hành
hoạt động thanh tra, giám sát qua việc nghiên cứu các quy định và thông lệ quốc tế từ đó
vận dụng cho phù hợp với điều kiện thị trường và hạ tầng tài chính Việt Nam.

+ Xây dựng hệ thống chuẩn mực riêng về thanh tra, giám sát dựa trên các chuẩn
mực của uỷ ban BASEL: Để hoạt động Thanh tra ngân hàng có được hiệu quả như mong
muốn, chúng ta cần xây dựng một hệ thống chuẩn mực riêng trên cơ sở các chuẩn mực,
nguyên tắc BASEL nhằm vừa đảm bảo khả năng tiếp cận, hội nhập quốc tế đồng thời vẫn
phù hợp với trình độ phát triển và những đặc điểm của thị trường tài chính - tiền tệ Việt
Nam.
+ Đối phương thức giám sát từ xa: Hoàn thiện phương pháp và nội dung giám sát,
phân tích, bao gồm phần mềm giám sát, hoàn thiện phương pháp phân tích, đánh giá các
tiêu chuẩn nhằm đưa ra cảnh báo chính xác về tình trạng của đối tượng giám sát. Hoàn
thiện phương thức giám sát từ xa hiện nay đồng nghĩa với việc tiếp tục hoàn thiện chế độ
thông tin, báo cáo. Giải pháp cụ thể hoàn thiện hoạt động giám sát từ xa gồm:
+ Đối với phương thức thanh tra tại chỗ: Cải tiến xây dựng kế hoạch thanh tra, xây
dựng kế hoạch; Kết hợp các hình thức thanh tra tại chỗ như vừa thanh tra định kỳ theo
chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt vừa thanh tra đột xuất khi thấy QTDND nào
có dấu hiệu vi phạm pháp luật; Thiết kế mẫu báo cáo kết quả thanh tra của thành viên
Đoàn thanh tra thống nhất giúp Trưởng đoàn thanh tra và người tổng hợp được thuận
tiện, tránh tình trạng mỗi người viết một kiểu sẽ gây khó khăn cho người tổng hợp; Xây
dựng và triển khai áp dụng phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro; Tăng cường theo dõi,


giám sát, đôn đốc việc thực hiện kiến nghị thanh tra và xử lý nghiêm các vi phạm; Tăng
cường sự phối kết hợp giữa Thanh tra ngân hàng với bộ phận kiểm tra, kiểm soát của các
QTDND.
- Kiện toàn và tăng cường nguồn nhân lực cho Thanh tra ngân hàng.
Các giải pháp bổ trợ: Tăng cường quản lý nhà nước đối với hệ thống Quỹ tín dụng
nhân dân; Hoàn thiện các quy định về an toàn hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân; Phát
triển hệ thống công nghệ thông tin, chế độ thông tin báo cáo; Hoàn thiện hệ thống kế
toán, các chuẩn mực kế toán qua đó tạo điều kiện nâng cao chất lượng công tác thanh tra,
giam sát; Tăng cường sự hợp tác giữa hai cơ quan có cùng mục tiêu đảm bảo an toàn hệ
thống QTDND và quyền lợi hợp pháp của khách hàng là Thanh tra ngân hàng và Bảo

hiểm tiền gửi Việt Nam; Tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác Thanh tra ngân hàng,
nghiên cứu, vận dụng chuẩn mực quốc tế về Thanh tra ngân hàng vào Việt Nam
Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị đối với : Chính phủ, các Bộ,
Ngành có liên quan; Ngân hàng Nhà nước, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước; Cấp uỷ,
chính quyền địa phương các cấp; Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương nhằm tạo điều kiện
cho các giải pháp có thể được triển khai.
Quán triệt mục đích nghiên cứu của đề tài, kết hợp giữa lý luận và thực tiến, luận
văn đã có những đóng góp sau:
- Làm rõ thêm các vấn đề cơ bản của hoạt động thanh tra ngân hàng đối với các
TCTD nói chung và đối với các QTDND nói riêng trong nền kinh tế thị trường, trong đó
lý giải được sự cần thiết của công tác Thanh tra ngân hàng đối với các QTDND; đồng
thời giới thiệu được các nguyên tắc cơ bản về hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng
hiệu quả của uỷ ban BASEL và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về mô hình tổ
chức của Thanh tra ngân hàng cũng như Thanh tra ngân hàng đối với các QTDND.
- Phân tích thực trạng về tổ chức và hoạt động thanh tra của Thanh tra NHNN
thành phố Hà Nội đối với các QTDND trên địa bàn. Trên cơ sở đó nêu bật được những


hạn chế, tồn tại, khuyết điểm và xác định rõ nguyên nhân yếu kém của công tác thanh tra
đối với các QTDND.
- Trên cơ sở định hướng phát triển ngành ngân hàng, phát triển hệ thống QTDND
và những nguyên nhân của những hạn chế trong công tác thanh tra đối với các QTDND
tại NHNN thành phố Hà Nội, đề xuất một số giải pháp nhằm mục đích đổi mới, hoàn
thiện công tác thanh tra ngân hàng đối với QTDND nói riêng và các TCTD nói chung.
Tuy nhiên, tác giả cũng nhận thức sâu sắc rằng, đổi mới toàn diện hoạt động thanh
tra, giám sát của Thanh tra ngân hàng đối với các QTDND là một quá trình, đòi hỏi phải
có thời gian, cũng như những nỗ lực không chỉ của cán bộ thanh tra, ban lãnh đạo Thanh
tra Chi nhánh, lãnh đạo NHNN mà còn là sự quan tâm của Chính phủ trên con đường đổi
mới chung của cả nền kinh tế.
Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu, học hỏi song do thời gian, kinh nghiệm và kiến

thức còn hạn chế, luận văn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, tác giả mong
muốn nhận được sự tham gia đóng góp của các nhà khoa học, các thầy giáo, cô giáo cùng
bạn bè, đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.



×