Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty D&G Việt Nam trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.05 KB, 121 trang )

bộ giáo dục và đào tạo

trờng đại học kinh doanh và công nghệ hà nội

------------

Vũ THị HOA

GIảI PHáP NÂNG CAO NĂNG LựC CạNH TRANH
CủA CÔNG TY D&G VIệT NAM TRONG NềN KINH Tế THị TRƯờNG

Chuyên ngành : Kế TOáN KIM TOáN
Mã số: 60.34.03.01

Ngời hớng dẫn khoa học:
TS. NGUYễN ĐĂNG HUY


Hµ néi – 2015


trờng đại học kinh doanh và công nghệ hà nội
KHOA TàI CHíNH NGÂN HàNG

------------

Vũ THị HOA

GIảI PHáP NÂNG CAO NĂNG LựC CạNH TRANH
CủA CÔNG TY D&G VIệT NAM TRONG NềN KINH Tế THị TRƯờNG
Chuyên ngành : TàI CHíNH NGÂN HàNG


Mã số: 60.34.02.01

Ngời hớng dẫn khoa học:
GS.,TS. Vũ VĂN HóA


Hµ néi – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong
luận văn được thu thập từ thực tế . Kết quả của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào.
Học viên

Vũ Thị Hoa


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
WTO
SXKD
GDP
BHXH
BHYT
TSCĐ
TSLĐ
VLĐ
CBCNV
WEF

TLSX
SX
ĐKKD
TP
FDA
ĐHĐ

CSH
VNH

Nghĩa tiếng Việt
Tổ chức thương mại thế giới
Sản xuất kinh doanh
Tổng sản phẩm trong nước
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm y tế
Tài sản cố định
Tài sản lao động
Vốn lưu động
Cán bộ công nhân viên
Diễn đàn kinh tế thế giới
Tài liệu sản xuất
Sản xuất
Đăng ký kinh doanh
Thành phố
Cơ quan dược phẩm hoa kỳ
Đại hội đồng
Hội đồng
Chủ sở hữu
Vốn ngắn hạn



MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1

Cơ cấu lao động theo trình độ .....Error: Reference source not found

Bảng 2.2:

Cơ cấu lao động theo cấp quản lý .........Error: Reference source not
found

BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1

Biểu đồ biến động tài sản 2012-2014.... Error: Reference source not
found

Biểu đồ 2.2

Biểu đồ cơ cấu tài sản 2012-2014 ..........Error: Reference source not
found

Biểu đồ 2.3

Biểu đồ biến động nguồn vốn giai đoạn 2012-2014 .................Error:

Reference source not found

Biểu đồ 2.4

Biểu đồ cơ cấu nguồn vốn giai đoạn 2012-2014 .....Error: Reference
source not found

Biểu đồ 2.5

Biểu đồ giá trị tài sản & nguồn vốn (CSH) 2012-2014 ............Error:
Reference source not found

Biều đồ 2.6

Biểu đồ giá trị tài sản và nguồn vốn (CSH+VNH) 2012-2014
Error: Reference source not found

Biểu đồ 2.7

Cơ cấu lao động theo trình độ (%) .........Error: Reference source not
found

Biểu đồ 2.8

Cơ cầu lao động theo cấp quản lý(%) ....Error: Reference source not
found

Biểu đồ 2.9

Biểu đồ biến đổi doanh thu giai đoạn 2012-2014. . . Error: Reference

source not found

Biểu đồ 2.10

Khả năng thanh toán giai đoạn 2012-2014. . Error: Reference source
not found

Biểu đồ 2.11

Chỉ số nhãn hiệu tại Hà Nội........ Error: Reference source not found

Biểu đồ 2.12

Chỉ số nhãn hiệu tại TP Hồ Chí Minh. . . Error: Reference source not
found

Biểu đồ 2.13

Các thế mạnh cơ bản so với đối thủ .......Error: Reference source not
found


Biểu đồ 2.14

Mức độ hài lòng của khách hàng về sản phẩm so với sản phẩm đối
thủ cạnh tranh ...............................Error: Reference source not found

Biểu đồ 2.15

Thay đổi Lợi nhuận của công ty D&G Việt Nam (2012 – 2014)

.......................................................Error: Reference source not found

SƠ ĐỒ


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới. Điều này
được thể hiện rõ nét nhất ở sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào ngày 7 tháng 11 năm 2006. Việc tham
gia vào sân chơi mang tính toàn cầu này đã đem lại cho nền kinh tế nói chung và hoạt
động của doanh nghiệp nói riêng nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức.
Cơ hội là thị trường được mở rộng, dễ dàng hơn trong việc tiếp xúc với các công
nghệ, phương pháp sản xuất, quản lý mới, nhưng thách thức cũng rất nhiều, đó là sự
cạnh tranh gay gắt giữa doanh nghiệp “nhỏ bé” của chúng ta với những doanh nghiệp
“khổng lồ”, có nhiều tiềm lực, kinh nghiệm về sản xuất, quản lý và công nghệ tiên tiến
của nước ngoài.
Trước thực trạng đó, khả năng đứng vững và phát triển của doanh nghiệp tùy
thuộc vào việc doanh nghiệp có nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình hay
không. Vì vậy, việc đánh giá và tìm biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của một
doanh nghiệp là việc vô cùng cần thiết trong thời điểm này. Để doanh nghiệp có thể tồn
tại, phát triển, bản thân những nhà lãnh đạo doanh nghiệp phải biết đánh giá, tìm ra các
biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp mình.
Đối với ngành hàng tiêu dùng Việt Nam, mức độ cạnh tranh lại càng gay gắt hơn
vì doanh nghiệp của chúng ta phải cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn đầy tiềm
năng của Trung Quốc, các công ty của Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc với những sản
phẩm mang giá cả hợp lý và mẫu mã, màu sắc đa dạng, phong phú.
Xuất phát từ những đòi hỏi trên, tôi càng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của
việc nâng cao năng lực cạnh tranh đối với sự tồn tại, phát triển của công ty D&G Việt
Nam trong giai đoạn hội nhập hiện nay, vì vậy tôi chọn vấn đề “ Giải pháp nâng cao

năng lực cạnh tranh của công ty D&G Việt Nam trong nền kinh tế thị trường ” làm
đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở các lý thuyết về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, kết hợp với nghiên
cứu thực tiễn, phân tích, đánh giá thực trạng và xu hướng cạnh tranh của công ty D&G
VIỆT NAM, mục tiêu của luận văn là nhằm hệ thống hóa, áp dụng các kiến thức của

1


các môn học vào thực tiễn của doanh nghiệp nhằm tìm ra các biện pháp để nâng cao
năng lực cạnh tranh cho công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của đề tài là nghiên cứu năng lực cạnh tranh của công ty D&G VIỆT NAM.
Phạm vi của đề tài là nghiên cứu năng lực cạnh tranh của công ty trên địa bàn Hà
Nội, có tính đến xu hướng phát triển, cạnh tranh của ngành trong phạm vi trong nước
và quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp như: Phân tích kinh tế, phân tích thống kê,
quy nạp và diễn giải, quan sát, phỏng vấn, so sánh, lấy số liệu thực tế để phân tích, đối
chiếu, kết luận vấn đề.
5. Những đóng góp của luận văn
Hệ thống hoá lý luận chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung
và doanh nghiệp may nói riêng.
Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty D&G VIỆT
NAM. Chỉ ra những ưu điểm, tồn tại và các nguyên nhân.
Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty D&G VIỆT
NAM trong thời gian tới.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần lời cam đoan, Lời mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham

khảo… luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
Chương 2:THỰC TRẠNG SẢN XUẤT – KINH DOANH VÀ NĂNG
LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY D&G VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TẠI
CÔNG TY D&G VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY

CHƯƠNG 1
2


TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1 KHÁI QUÁT VỀ DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp
Trên phương diện lý thuyết có khá nhiều định nghĩa về một doanh nghiệp, mỗi
định nghĩa đều mang những khía cạnh, được nhấn mạnh tính đặc thù của doanh
nghiệp. Với tinh thần đó, tác giả luận văn này đã tổng hợp một số khái niệm doanh
nghiệp theo các đặc trưng trên.
Xét theo quan điểm luật pháp:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài sản, có
quyền và nghĩa vụ dân sự hoạt động kinh tế theo chế độ hạch toán độc lập, tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh tế trong phạm vi vốn đầu tư do doanh nghiệp
quản lý và chịu sự quản lý của nhà nước bằng các loại luật và chính sách thực thi
Xét theo quan điểm chức năng:
Doanh nghiệp được định nghĩa như sau: "Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức

sản xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá cả của
các yếu tố) khác nhau do các nhân viên của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị
trường những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận được khoản tiền chênh lệch
giữa giá bán sản phẩm với giá thành của sản phẩm ấy. (M.Francois Peroux).
Xét theo quan điểm phát triển
Doanh nghiệp là một cộng đồng người sản xuất ra những của cải. Nó sinh ra,
phát triển, có những thất bại, có những thành công, có lúc vượt qua những thời kỳ
nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng sản xuất, đôi khi tiêu vong do gặp phải
những khó khăn không vượt qua được " (trích từ sách " kinh tế doanh nghiệp của
D.Larua.A Caillat - Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội 1992)
Xét theo quan điểm hệ thống
Doanh nghiệp được các tác giả nói trên xem rằng " doanh nghiệp bao gồm
một tập hợp các bộ phận được tổ chức, có tác động qua lại và theo đuổi cùng một
mục tiêu. Các bộ phận tập hợp trong doanh nghiệp bao gồm 4 phân hệ sau: sản xuất,

3


thương mại, tổ chức, nhân sự.
Ngoài ra có thể liệt kê hàng loạt những định nghĩa khác nữa khi xem xét
doanh nghiệp dưới những góc nhìn khác nhau. Song giữa các định nghĩa về doanh
nghiệp đều có những điểm chung nhất, nếu tổng hợp chúng lại với một tầm nhìn
bao quát trên phương diện tổ chức quản lý là xuyên suốt từ khâu hình thành tổ chức,
phát triển đến các mối quan hệ với môi trường, các chức năng và nội dung hoạt
động của doanh nghiệp cho thấy đã là một doanh nghiệp nhất thiết phải được cấu
thành bởi những yếu tố sau đây:
* Yếu tố tổ chức: một tập hợp các bộ phận chuyên môn hóa nhằm thực hiện các
chức năng quản lý như các bộ phận sản xuất, bộ phận thương mại, bộ phận hành chính.
* Yếu tố sản xuất: các nguồn lực lao động, vốn, vật tư, thông tin.
* Yếu tố trao đổi: những dịch vụ thương mại - mua các yếu tố đầu vào, bán

sản phẩm sao cho có lợi ở đầu ra.
* Yếu tố phân phối: thanh toán cho các yếu tố sản xuất, làm nghĩa vụ nhà
nước, trích lập quỹ và tính cho hoạt động tương lai của doanh nghiệp bằng khoản
lợi nhuận thu được.
Định nghĩa doanh nghiệp
Từ cách nhìn nhận như trên có thể phát biểu về định nghĩa doanh nghiệp như sau:
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, quy tụ các phương tiện tài
chính, vật chất và con người nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu
thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi ích của người tiêu dùng, thông
qua đó tối đa hóa lợi của chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu
xã hội.
Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân:
Tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn
tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, nó do Nhà nước khẳng định và xác
định. Việc khẳng định tư cách pháp nhân của doanh nghiệp với tư cách là một thực thể
kinh tế, một mặt nó được nhà nước bảo hộ với các hoạt động sản xuất kinh doanh, mặt
khác nó phải có trách nhiệm đối với người tiêu dùng, nghĩa vụ đóng góp với nhà nước,
trách nhiệm đối với xã hội. Đòi hỏi doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ tài
chính trong việc thanh toán những khoản công nợ khi phá sản hay giải thể.

4


Doanh nghiệp là một tổ chức sống trong một thể sống (nền kinh tế quốc dân)
gắn liền với địa phương nơi nó tồn tại.
Doanh nghiệp là một tổ chức sống vì lẽ nó có quá trình hình thành từ một ý
chí và bản lĩnh của người sáng lập (tư nhân, tập thể hay Nhà nước), quá trình phát
triển thậm chí có khi tiêu vong, phá sản hoặc bị một doanh nghiệp khác thôn tính.
Vì vậy cuộc sống của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào chất lượng quản lý của
những người tạo ra nó.

Doanh nghiệp ra đời và tồn tại luôn luôn gắn liền với một vị trí của một địa
phương nhất định, sự phát triển cũng như suy giảm của nó ảnh hưởng đến địa
phương đó.
1.1.2 Các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1.2.1

Doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều
lệ hoặc có cổ phần góp vốn chi phối được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. (Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003)
Doanh nghiệp nhà nước giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Trong thời gian qua, Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp trợ giúp doanh
nghiệp nhà nước như: miễn thuế, giảm thuế, cho vay ưu đãi, vay không phải thế
chấp, khoanh nợ, dãn nợ, chuyển nợ thành vốn ngân sách cấp, được trúng thầu
hoặc được giao thầu nhiều công trình do Nhà nước đầu tư v.v… Tuy vậy, những
yếu kém của doanh nghiệp nhà nước vẫn còn rất nghiêm trọng. Đó là: năng lực
cạnh tranh thấp do chất lượng kém, giá thành của nhiều sản phẩm còn cao, nhiều
mặt hàng có giá cao hơn mặt hàng cùng loại nhập khẩu (như sắt thép, phân bón,
xi-măng, đường); công nợ quá lớn, nợ quá hạn, nợ khó đòi ngày càng tăng; quy
mô doanh nghiệp quá nhỏ; công nghệ lạc hậu, có những doanh nghiệp còn làm ăn
thua lỗ kéo dài.
Trước tình hình đó, việc cải cách doanh nghiệp nhà nước đã trở nên hết sức
cấp bách, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, bởi nhiều
doanh nghiệp nhà nước đang cung ứng những hàng hóa, dịch vụ chủ yếu là chi phí
đầu vào của các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Do vậy, cải cách các doanh
nghiệp nhà nước là góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

5



Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đã có
nhiều cố gắng tìm tòi, thử nghiệm nhằm tìm ra nội dung và phương pháp tổ chức quản
lý và điều hành có hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thực sự tự chịu
trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; còn nhiều ràng buộc từ các cơ quan chủ quản, chủ
yếu về phương án đầu tư, sắp xếp nhân sự; cơ chế quản lý vốn; còn quá nhiều đầu mối
quản lý doanh nghiệp, dẫn đến sự không thống nhất, khó khăn cho doanh nghiệp…
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là do toàn bộ hệ thống các ngành, lĩnh
vực thuộc kinh tế nhà nước quyết định, chứ không riêng doanh nghiệp nhà nước;
đồng thời, cũng không thể quan niệm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước tách rời
hệ thống chính trị. Cải cách doanh nghiệp nhà nước là một yêu cầu tất yếu, nhất là
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Bởi thế cần đưa doanh nghiệp
nhà nước ra cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Muốn vậy, phải tổ chức lại một cách cơ bản bộ máy giúp Chính phủ, các bộ,
chính quyền địa phương chỉ đạo công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước từ trên
xuống dưới. Tập trung sức lành mạnh hóa tình hình tài chính doanh nghiệp nhà
nước, xác định đúng giá trị doanh nghiệp, xử lý vấn đề lao động dôi dư và cơ chế
quản lý doanh nghiệp trong và sau khi cổ phần hóa.
1.1.2.2 Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ sở hữu và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ được thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tư nhân ở nước ta đã có quá trình phát triển
hơn 17 năm. Năm 2000, Luật Doanh nghiệp ra đời và đi vào cuộc sống; về cơ bản,
đã thể chế và hiện thực hóa được quyền tự do lựa chọn loại hình doanh nghiệp, tự
do thành lập doanh nghiệp, tự do tổ chức quản lý, tự do lựa chọn quy mô, địa bàn và
ngành, nghề, trừ một số ngành, nghề bị cấm theo quy định của pháp luật. Điểm nổi
bật là, các quyền tự do đó được thể chế hóa, tạo cho người dân thực sự được hưởng
và thực hiện các quyền đó.
Tuy nhiên, vấn đề đổi mới tư duy về thành phần kinh tế, nhất là về ý nghĩa, vai

trò và vị trí của doanh nghiệp tư nhân ở nước ta là một việc không dễ. Bởi vì, điều đó
trái với quan niệm truyền thống đang còn ảnh hưởng nặng đến việc thiết kế, định hình

6


xu hướng phát triển và điều hành xã hội. Đó chính là lý do làm cho các biện pháp đổi
mới, khuyến khích phát triển doanh nghiệp tư nhân luôn gặp khó khăn và lực cản.
Trong một môi trường kinh doanh như vậy khiến người dân dù ở cương vị nào
cũng không dám phát huy hết sức sáng tạo của mình để đạt được kết quả cao nhất
như mong muốn, phục vụ tốt nhất cho phát triển xã hội. Một nền kinh tế như vậy
không thể khai thác hết tiềm năng của nó để phát triển, thậm chí vô hình trung còn
tạo cơ hội cho một số người ngăn cản sức sáng tạo, tư duy, công việc của người
khác để trục lợi cá nhân. Riêng sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân luôn bị níu
kéo, cản trở và hạn chế. Do vậy:
Một là, cần thay đổi tư duy và quan điểm nói trên. Thấy rõ các loại hình doanh
nghiệp khác nhau trong nền kinh tế có những điểm mạnh, yếu khác nhau, bổ sung
cho nhau. Thị trường phát triển ngày càng cao và đa dạng, thì sự luân chuyển nguồn
lực, hàng hóa các loại ngày càng hiệu quả và linh hoạt.
Hai là, mở rộng tối đa, khuyến khích và hỗ trợ quyền kinh doanh của người
dân. Xây dựng và áp dụng thống nhất một hệ thống luật pháp đối với tất cả các loại
hình doanh nghiệp, không phân biệt nhà nước và tư nhân, không phân biệt trong
nước với ngoài nước.Thực hiện công bằng và bình đẳng về quyền kinh doanh,
quyền tài sản, về chính sách, chế độ ưu đãi. Xem xét và bãi bỏ các hình thức "bao
cấp" hiện đang dành cho doanh nghiệp nhà nước
Ba là, tin ở dân, ở chủ sở hữu và người quản lý doanh nghiệp tư nhân ngay từ
khâu xây dựng luật pháp. Pháp luật phải được xây dựng trên nguyên tắc bảo vệ lợi
ích của dân và dựa trên niềm tin về tính trung thực, tự giác, sẵn sàng thực thi đúng
pháp luật của người dân.
Bốn là, thực hiện nguyên tắc "chính phủ nhỏ, xã hội lớn" trong quản lý nhà

nước. Giảm bớt quyền của cơ quan và công chức nhà nước từ trung ương đến địa
phương, nhất là quyền "thẩm định", "phê duyệt", "chấp thuận", quyền cho phép và
cấp phép kinh doanh, v.v.. Đồng thời, phải "cá thể hóa" được trách nhiệm của công
chức trong thi hành công vụ.
1.1.2.3 Hợp tác xã
Đây là một loại hình tổ chức tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân
có nhu cầu góp vốn xây dựng, góp sức lập ra. Hợp tác xã được thành lập để tiến

7


hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Lợi nhuận là mục tiêu quan trọng
nhất trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ như tất cả mọi loại hình
doanh nghiệp khác.
Hợp tác xã cũng chưa thực hiện tốt chức năng dịch vụ đầu vào, đầu ra như
mong muốn của các nhà thiết kế chính sách bởi chủ yếu lực lượng tư thương, buôn
bán nhỏ đã tiêu thụ đại bộ phận sản phẩm cho nông dân và cung cấp dịch vụ, phân
bón, các loại nguyên liệu khác cho họ.
Thực tế phát triển kinh tế nói chung và hợp tác xã nói riêng trong mấy năm
qua chứng tỏ, Luật hợp tác xã cùng các chính sách phát triển kinh tế hợp tác chưa
phát huy được tác dụng như mong muốn. Biểu hiện cụ thể là trong khi số lượng hợp
tác xã giảm xuống, thì số lượng và quy mô của trang trại tăng lên rất nhanh trên
nhiều vùng trong cả nước. Số doanh nghiệp tư nhân mới được thành lập hằng năm
gấp 10 lần số hợp tác xã mới thành lập.
Bản chất của hợp tác xã nhấn mạnh đến "sự bình đẳng" của từng xã viên
không phân biệt đóng góp thực tế của họ; không chú trọng nhiều đến mối quan hệ
thuận giữa đóng góp và lợi ích được hưởng. Hợp tác xã cũng thực sự chưa phải là
con đường xóa đói, giảm nghèo, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác. Vì
vậy, hợp tác xã chưa phải là mô hình phù hợp khuyến khích lợi ích cá nhân, lấy lợi
ích cá nhân làm động lực trực tiếp nhất để phát triển.

1.1.2.4 Doanh nghiệp Công ty cổ phần
Đây là loại hình doanh nghiệp Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần Theo điều 77 Luật doanh nghiệp. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp các cổ đông có thể bán các cổ phần hoặc chuyển nhượng cổ phần của
mình cho các thành viên hay cá nhân khác số lượng cổ đông được bao gồm ít nhất ba
cổ đông và không hạn chế số cổ đông . Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ
đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty cổ phần có quyền phát
hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Công ty
cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh.về vốn của công ty. Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng
nhau hoặc gọi là cổ phần. Mỗi cổ phần được thể hiện dưới dạng văn bản chứng trỉ do

8


công ty phát hành bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu một hoặc
một số cổ phần của công ty gọi là cổ phiếu. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ
phiếu. Một cổ phiếu có thể phản ánh mệnh giá của một hay nhiều cổ phần. Việc góp
vốn vào công ty được thực hiện bằng việc mua cổ phần. Mỗi cổ đông có thể mua nhiều
cổ phần. về thành viên của công ty. Trong suốt quá trình hoạt động ít nhất phải có ba
thành viên tham gia công ty cổ phần.về trách nhiệm của công ty. Công ty cổ phần chịu
trách nhiệm bằng tài sản của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về các khoản nợ
của công ty trong phạm vi phần vốn đã góp vào công ty (đến hết giá trị cổ phần mà họ
sở hữu).Công ty cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.về phát hành chứng khoán. Công ty cổ phần có
quyền phát hành các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư
và các loại chứng khoán khác để huy động vốn. Cuối cùng là chuyển nhượng phần vốn
góp (cổ phần). Cổ phần của các thành viên được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các
cổ phiếu của công ty cổ phần được coi là hàng hoá, được mua, bán, chuyển nhượng tự

do theo quy định của pháp luật.
1.1.2.5 Loại hình doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn
Đây là loại hình doanh nghiệp phổ biến hiện nay đây là loại hình doanh
nghiệp có 2 thành viên trở lên và công ty TNHH 1 thành viên: Đối với công ty
trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên thuộc điều 38 luật doanh nghiệp là
doanh nghiệp trong đó có Thành viên của công ty có thể tổ chức, cá nhân; số lượng
thành viên công ty không vượt quá 50. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp
vào doanh nghiệp. Phần vốn của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định
tại Điều 43,44,45 của Luật Doanh nghiệp. Công ty TNHH có tư cách pháp nhân từ
ngày được cấp giấy phép kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được
quyền phát hành cổ phần về vốn của công ty. Vốn điều lệ của công ty được chia
thành nhiều phần bằng hoặc không bằng nhau. Công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai
thành viên chịu trách nhiệm bằng tài sản của công ty, các thành viên công ty chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn cam kết góp vào
công ty.về thành viên của công ty. Trong suốt quá trình hoạt động ít nhất phải có từ
hai thành viên và tối đa không quá 50 thành viên tham gia công ty. Về phát hành

9


chứng khoán: Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên không được quyền phát
hành cổ phần để huy động vốn. Phần vốn góp của các thành viên công ty được
chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
1.1.2.6 Loại hình doanh nghiệp công ty hợp danh
Đây là loại hình đặc trưng của công ty đối nhân trong đó có các cá nhân và
thương nhân cùng hoạt động lĩnh vực thương mại dưới một hãng và cùng nhau chịu
mọi trách nhiệm về các khoản nợ của công ty. Công ty hợp danh ở nước ta hiện nay
có một số quan điểm khác với cách hiểu truyền thống về công ty hợp danh. Theo đó
công ty hợp danh được định nghĩa là một loại hình doanh nghiệp, với những đặc

điểm pháp lý cơ bản sau:
Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty cùng nhau
kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh). Ngoài các thành viên
hợp danh, có thể có thành viên góp vốn.
Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình
về các nghĩa vụ của công ty;
Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh
Trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại
chứng khoán nào.
Như vậy, nếu căn cứ vào tính chất thành viên và chế độ chịu trách nhiệm tài
sản, thì công hợp danh theo Luật Doanh nghiệp có thể được chia thành hai loại:
Loại thứ nhất là những công ty giống với công ty hợp danh theo pháp luật các nước,
tức là chỉ bao gồm những thành viên hợp danh (chịu trách nhiệm vô hạn về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty). Loại thứ hai là những công ty có cả
thành viên hợp danh và thành viên góp vốn (chịu trách nhiệm hữu hạn) và cũng là
một loại hình của công ty đối nhân.
Các thành viên trong công ty hợp danh bao gồm : các thành viên hợp danh
trong đó có ít nhất 2 thành viên và thành viên đó là 1 cá nhân.Trách nhiệm tài sản
của các thành viên hợp danh đối với các nghĩa vụ của công ty là trách nhiệm vô hạn
và liên đới.

10


1.1.2.7 Loại hình doanh nghiệp Công ty liên doanh
Đây là loại hình doanh nghiệp công ty do hai hay nhiều bên hợp tác thành
lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định giữa Chính phủ

Việt Nam với Chính phủ nước ngoài nhằm tiến hành hoạt động kinh doanh các lĩnh
vực của nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Đây là loại hình doanh nghiệp do các bên
tổ chức hợp thành
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế
Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận chủ yếu tạo
ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những năm gần đây, hoạt động của doanh nghiệp
đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy
động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục
hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia
giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo...
Doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các cơ cấu lớn
của nền kinh tế quốc dân như: Cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh
tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương.
Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là doanh nghiệp ngành công nghiệp tăng
nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh
hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
Có thể nói vai trò của doanh nghiệp không chỉ quyết định sự phát triển bền
vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các vấn đề
xã hội, thực tế đó đã được phản ảnh qua kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Sau khi các luật về đăng ký kinh doanh được ban hành và sửa đổi như: Luật
Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Ðầu tư trực tiếp của nước ngoài, Luật Hợp tác xã và
đặc biệt là Luật Doanh nghiệp đã đi vào cuộc sống, hoạt động trong khu vực doanh
nghiệp có nhiều thay đổi, môi trường thông thoáng hơn, sản xuất kinh doanh sôi
động hơn, vai trò của doanh nghiệp được ghi nhận và có nhiều tiến bộ :
1.1.3.1 Giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người
lao động
Trong những năm gần đây, số doanh nghiệp tăng nhanh đã giải quyết được
nhiều việc làm với thu nhập cao hơn cho người lao động. Số lao động mà khu vực


11


doanh nghiệp tuyển vào trong 3 năm là trên 2,1 triệu lao động, bình quân mỗi năm
gần 700 nghìn lao động, là con số đáng kể trong yêu cầu tạo ra việc làm mới cho
toàn xã hội.
Lao động ở khu vực doanh nghiệp có thu nhập cao hơn nhiều so với khu vực
cá thể và hộ gia đình. Tuy có mức thu nhập bình quân thấp nhất, nhưng doanh
nghiệp ngoài quốc doanh lại là khu vực đang thu hút nhiều lao động mới và có tốc
độ tăng thu nhập nhanh nhất trong ba khu vực. Tuy chiếm tỷ trọng không cao trong
tổng lao động toàn xã hội, nhưng lao động của khu vực doanh nghiệp lại là lực
lượng chủ yếu tạo ra nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và đóng góp lớn cho tăng
trưởng GDP. Thu nhập cao và tăng nhanh của lao động khối doanh nghiệp góp phần
cải thiện và nâng cao mức sống chung của toàn xã hội và tham gia vào quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp.
1.1.3.2 Doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển là yếu tố quyết định đến tăng
trưởng cao và ổn định của nền kinh tế những năm qua
Doanh nghiệp phát triển nhanh những năm gần đây đã làm cho tỷ trọng đóng
góp của khu vực này vào GDP tăng nhanh.
Lợi ích cao hơn mà tăng trưởng doanh nghiệp đem lại là tạo ra khối lượng
hàng hoá và dịch vụ lớn hơn, phong phú hơn, chất lượng tốt hơn, thay thế được
nhiều mặt hàng phải nhập khẩu, góp phần quan trọng cải thiện và nâng cao mức tiêu
dùng trong nước và tăng xuất khẩu, đó cũng là yếu tố giữ cho nền kinh tế ổn định và
phát triển những năm qua.
1.1.3.3 Doanh nghiệp phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu trong nền
kinh tế quốc dân và trong nội bộ mỗi ngành
Trước năm 2000, doanh nghiệp phát triển chủ yếu trong ngành công nghiệp
với vai trò quyết định là doanh nghiệp nhà nước. Ðến năm 2002, hoạt động của loại
hình doanh nghiệp có mặt ở hầu hết các ngành sản xuất kinh doanh. Trong đó,
doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chiếm trên 90% giá trị sản xuất toàn ngành,

thương mại, khách sạn nhà hàng chiếm từ 20-30%, xây dựng, vận tải trên 60%, hoạt
động tài chính ngân hàng chiếm 95-98%,... Một số ngành như hoạt động khoa học
và công nghệ, văn hoá, thể thao, cứu trợ xã hội, hoạt động phục vụ cá nhân và cộng
đồng, cũng xuất hiện trên 500 doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực này với
số vốn gần 7500 tỷ đồng, nộp ngân sách 206 tỷ đồng.

12


Các loại hình kinh tế trong doanh nghiệp phát triển đa dạng gồm nhiều thành
phần, trong đó doanh nghiệp nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm
tỷ trọng lớn, các loại hình doanh nghiệp tư nhân tuy còn nhỏ nhưng phát triển nhanh
và rộng khắp ở các ngành và các địa phương trong cả nước, loại hình kinh tế tập thể
đang được khôi phục và có bước phát triển mới.
Doanh nghiệp phát triển nhanh trong tất cả các ngành và ở khắp các địa
phương đã tạo ra cơ hội phân công lại lao động giữa các khu vực nông lâm nghiệp,
thủy sản và sản xuất kinh doanh nhỏ của hộ gia đình là khu vực lao động có năng
suất thấp, thu nhập không cao, chiếm số đông, thiếu việc làm sang khu vực doanh
nghiệp, nhất là công nghiệp và dịch vụ có năng suất cao và thu nhập khá hơn
1.1.3.4 Phát triển doanh nghiệp tác động đến giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội
Những năm gần đây, sản phẩm hàng hoá và dịch vụ do khối doanh nghiệp tạo
ra ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại mặt hàng, chất lượng hàng hoá, dịch
vụ được nâng lên, do đó đã giải quyết cơ bản nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ
ngày càng cao của toàn xã hội, góp phần nâng cao mức sống vật chất của dân cư và
tăng nhanh lượng hàng hoá xuất khẩu. Nhiều sản phẩm trước đây thường phải nhập
khẩu cho tiêu dùng thì nay đã được các doanh nghiệp sản xuất thay thế và được
người tiêu dùng trong nước tín nhiệm như: Ô tô, xe máy, phương tiện vận tải, các
mặt hàng đồ điện, điện tử, may mặc, thực phẩm, đồ uống, hoá mỹ phẩm, đồ dùng
gia đình, sản phẩm phục vụ xây dựng,...
Doanh nghiệp là khu vực chủ yếu tạo ra nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, nguồn

thu này tăng nhanh trong những năm qua là điều kiện để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng,
phát triển các hoạt động xã hội công (y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo…)
1.1.3.5 Vai trò của Doanh nghiệp trong an sinh xã hội Việt Nam hiện nay
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng: Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, hơn nữa trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng, lạm phát do các yếu tố trong nước cộng hưởng với
lạm phát toàn cầu, an sinh xã hội là mục tiêu rất quan trọng. Chính vì thế,
ngay cả khi chuyển hướng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội vẫn được coi là một
trong bốn mục tiêu quan trọng hiện nay của đất nước (kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tăng trưởng bền vững).

13


Tuy nhiên, trước những biến động khó khăn của tình hình kinh tế trong nước
và thế giới như hiện nay, dù Nhà nước có cố gắng như thế nào thì vấn đề an sinh xã
hội cũng khó mà được bảo đảm nếu như không có sự chia sẽ một cách chủ động
tích cực hơn của các chủ thể khác (doanh nghiệp, cộng đồng…).
Theo quan niệm của Hội đồng Thương mại thế giới, thì “trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp là sự cam kết trong việc ứng xử hợp đạo lý và đóng góp vào sự
phát triển kinh tế, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc sống của lực lượng lao động
và gia đình họ, cũng như của cộng đồng địa phương và của toàn xã hội nói chung”.
Có thể hiểu trách nhiệm thực hiện an sinh xã hội của doanh nghiệp là trách nhiệm
của doanh nghiệp trong thực hiện BHXH và hỗ trợ xã hội đối với người lao động và
cộng đồng, mang tính chất tất yếu và thường xuyên. Doanh nghiệp thực hiện an
sinh xã hội không đơn thuần chỉ là những hoạt động từ thiện, trợ giúp cộng đồng mà
nó còn là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho sự phát triển kinh tế bền vững,
thông qua việc quan tâm nâng cao chất lượng lao động và đời sống cho người lao
động, cho cộng đồng và cho toàn xã hội.
An sinh xã hội là một nội dung quan trọng và tất yếu trong trách nhiệm xã hội của

doanh nghiệp, có khả năng góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế,
đồng thời không mâu thuẫn với lợi ích kinh tế, lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì khi doanh
nghiệp thực hiện tốt an sinh xã hội sẽ góp phần tăng năng suất lao động, hiệu quả và lợi
nhuận, nâng cao tính cạnh tranh, tăng năng suất, thúc đẩy sự phát triển bền vững.
1.2 CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ
1.2.1 Cạnh tranh và các loại hình cạnh tranh doanh nghiệp
1.2.1.1 Khái niệm về cạnh tranh và cạnh tranh doanh nghiệp
a) Khái niệm về cạnh tranh
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1): “cạnh tranh (trong kinh doanh) là
hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các
nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm giành
các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất”.
Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D. Nordhaus trong cuốn kinh tế học
(xuất bản lần thứ 12) cho rằng: “cạnh tranh (competition) là sự kình định giữa các doanh

14


nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị trường”. Hai tác giả này cho
rằng cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo (perfect competition) - là cạnh tranh
trong một ngành mà trong đó mọi người tin rằng hành động của họ không gây ảnh hưởng
tới giá cả thị trường, không một người mua, người bán duy nhất nào có thể gây ảnh hưởng
có ý nghĩa tới giá cả thị trường. Thị trường phải có nhiều người bán, nhiều người mua.
Như vậy để có cạnh tranh phải có các điều kiện tiên quyết sau:
Phải có nhiều chủ thể cùng nhau tham gia cạnh tranh.
Việc cạnh tranh phải diễn ra trong môi trường cạnh tranh cụ thể, có các ràng buộc
chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân thủ như các ràng buộc của luật
pháp, của thông lệ kinh doanh, của các thỏa thuận giữa người mua với người bán…
Cạnh tranh có thể diễn ra trong khoảng thời gian không cố định (ngắn hoặc

dài) và nó cũng diễn ra trong một khoảng không gian cũng không nhất định (hẹp
hoặc rộng).
b) Khái niệm về cạnh tranh doanh nghiệp
Nếu xét cạnh tranh dưới góc độ Doanh nghiệp thì thực chất Cạnh tranh là sự
ganh đua về lợi ích kinh tế, về chủ thể tham gia thị trường. Đối với khách hàng bao
giờ họ cũng muốn mua được hàng hóa có chất lượng cao mà giá cả lại rẻ, còn các
doanh nghiệp lại muốn được tối đa hóa lợi nhuận của mình. Với mục tiêu là lợi
nhuận các doanh nghiệp phải tìm cách giam chi phí, dành giật khách hàng về phía
mình. Từ đó cạnh tranh đã xảy ra.
Trong nền kinh tế thị trường mong muốn tồn tại và phát triển trong cạnh tranh
luôn là mục đích tự thân của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế đó khách
hàng là người tự do lựa chọn nhà cung ứng, là nhân tố quyết định sự tồn tại của các
doanh nghiệp. Họ không phải tự tìm kiếm đến các doanh nghiệp như trước đây mà
buộc các doanh nghiệp phải tìm kiếm khách hàng cho mình và khai thác nhu cầu
nơi họ. Nghĩa là muốn khách hàng tiêu thụ sản phẩm thì các doanh nghiệp nên đưa
sản phẩm của mình tới khách hàng để họ biết, cảm nhận được và có quyết định
dùng hay không dùng. Với cơ chế thị trường có được một khách hàng là rất khó
khăn, các doanh nghiệp phải giữ từng khách hàng, giành giật từng khách hàng.
Doanh nghiệp nào cũng muốn đưa sản phẩm của mình tới tay khách hàng. Nếu
doanh nghiệp nào nhanh hơn thì doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng trong cạnh tranh.

15


Quy luật chọn lọc nghiệt ngã này đã chia doanh nghiệp thành hai nhóm chính,
đó là nhóm doanh nghiệp năng động và nhóm doanh nghiệp trì trệ. Chính điều đó
đã khiến các doanh nghiệp phải nhanh chóng thích nghi nếu không sẽ không có cơ
hội phát triển và dẫn tới tình trạng bị phá sản. Vì vậy trong quá trình chuyển đổi nền
kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh là
con đường cơ bản để các doanh nghiệp thích nghi và tồn tại được.

Có thể nói cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là
một tất yếu xảy ra và nó đóng một vai trò quan trọng với tất cả doanh nghiệp đó.
1.2.1.2 Nguyên nhân và mục đích của cạnh tranh
a) Nguyên nhân của cạnh tranh
Trong nền sản xuất hàng hóa do tồn tại nhiều chủ sở hữu khác nhau, tồn tại
với tư cách là những đơn vị kinh tế độc lập, trong quá trình sản xuất kinh doanh nên
phải cạnh tranh với nhau.
Do điều kiện sản xuất của mỗi chủ thể kinh tế lại khác nhau nên chất lượng
hàng hóa và chi phí sản xuất khác nhau, kết quả sản xuất kinh doanh giữa họ không
giống nhau.
Để dành lấy các điều kiện thuận lợi, tránh được những rủi ro bất lợi trong sản
xuất và lưu thông hàng hóa, dịch vụ, tất yếu giữa họ có cạnh tranh với nhau.
b) Mục đích của cạnh tranh
Mục đích trực tiếp của hoạt động cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể kinh
tế là:
Thứ nhất: Giành những lợi thế để hạ thấp giá cả của các yếu tố "đầu vào" của các
chu trình kinh doanh và nâng cao mức giá "đầu ra" sao cho với chi phí thấp nhất mà
vẫn có thể đạt được mức lợi nhuận cao nhất.
Thứ hai: Giành được thị phần cao nhất cho sản phẩm và dịch vụ mà mình cung cấp.
Thứ ba: Giữ được thị phần, giữ được khách hàng hay nói một cách khác là giữ
được “lòng trung thành” của khách hàng trên cơ sở sản phẩm và dịch vụ của mình.
1.2.1.3 Hai loại hình cạnh tranh trong kinh tế
Cạnh tranh là sản phẩm và là quy luật vốn có bên cạnh các quy luật về giá trị,
quy luật cung cầu trong nền kinh tế thị trường. Căn cứ vào tình lành mạnh, khoa
học pháp lý đã xác định các hình thức tồn tại của nó là cạnh tranh lành mạnh, cạnh

16



×