Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Giải pháp marketing nhằm phát triển bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam (BIC)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 71 trang )

Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Giải pháp Marketing nhằm phát triển bảo hiểm
Xây dựng, lắp đặt tại Tổng Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư & Phát triển
Việt Nam (BIC)” là công trình nghiên cứu của riêng tôi và chưa được công bố trên
bất kỳ phương tiện thông tin nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện chuyên đề này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong nghiên cứu này đều được ghi rõ
nguồn gốc.
Tác giả chuyên đề tốt nghiệp
Trần Đức Lộc

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình và đầy trách nhiệm, hiệu quả
của thầy PGS.TS. Vũ Thành Hưởng, Khoa Kế hoạch phát triển, Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân trong suốt quá trình chuyên đề thực tập được thực hiện. Em cũng
xin gửi lời cảm ơn chân thành của mình tới các anh, chị tại Tổng Công ty bảo hiểm
Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam (BIC) đã tạo điều kiện thuận lợi cho em làm
tốt nhất bài chuyên đề thực tập này. Em xin chân thành cảm ơn.
Người thực hiện


Trần Đức Lộc

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

DANH MỤC VIẾT TẮT
Tên viết tắt
BIC
DNBH
DN
XDLĐ
VN

SV: Trần Đức Lộc

Nghĩa đầy đủ
Tổng Công ty bảo hiểm Ngân hàng
Đầu tư & Phát triển Việt Nam
Doanh nghiệp bảo hiểm
Doanh nghiệp
Xây dựng lắp đặt
Việt Nam

Lớp: Kế hoạch 54B



Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

MỤC LỤC

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

MỤC LỤC BẢNG, HÌNH
I.

Danh mục các bảng

II.

Danh mục các hình

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B



Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài

Sau khi xóa bỏ cơ chế kinh tế tập bao cấp để chuyển sang cơ chế thị trườnng thì
nền kinh tế nước ta có những chuyển biến mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực. Lĩnh vực
xây dựng và lắp đặt không nằm ngoài xu thế chung của nền kinh tế, lĩnh vực này đã
góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển đó. Nó tạo nên những cơ sở vật chất
kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, nhà máy xí nghiệp… cho nền kinh tế. Tuy nhiên, có một
vấn đề đặt ra là các công trình xây dựng thường là những công trình có giá trị lớn,
mà nguy cơ dẫn tới các tổn thất có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Chính vì vậy mà việc
tham gia bảo hiểm xây dựng cho những công trình đó là rất cần thiết.
Luật Xây dựng 2003 chỉ quy định chung chung việc mua bảo hiểm công trình
xây dựng như một hình thức tự nguyện là “chủ đầu tư, nhà thầu, nhà khảo sát, thiết
kế, giám sát thi công có nghĩa vụ mua bảo hiểm công trình và bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp” nên việc mua bảo hiểm công trình lâu nay vẫn chưa được chú trọng.
Thực tế hiện nay, khi sự cố công trình xảy ra, do chủ đầu tư và nhà thầu thi công
không mua bảo hiểm cho người lao động nên thông thường các nạn nhân và gia
đình phải chịu thiệt thòi rất nhiều, ngay cả khi gặp tai nạn dẫn đến tử vong. Chính vì
thế, ngày 13/11/2015 Chính phủ đã ban hành Nghị định 119/2015/NĐ – CP quy
định Bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng, và có hiệu lực từ ngày
10/2/2016. Nghị định quy định cụ thể về nguyên tắc tham gia Bảo hiểm bắt buộc
trong hoạt động đầu tư xây dựng; trách nhiệm tham gia, điều kiện triển khai, số tiền
bảo hiểm tối thiểu, nguyên tắc xác định mức phí bảo hiểm; quản lý nhà nước về
Bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng.
Tại Tổng Công ty Bảo hiểm BIDV (BIC), Bảo hiểm trong lĩnh vực xây dựng

được mang tên là Bảo hiểm Xây dựng và lắp đặt. Thực tế trước khi có Nghị định
trên thì Tổng Công ty đã triển khai Bảo hiểm Xây dựng, lắp đặt từ khá lâu, tuy
nhiên chủ yếu là dưới hình thức tự nguyện của các chủ đầu tư. Từ khi Nghị định
119/2015/NĐ-CP có ra đời và có hiệu lực đến nay, với việc chủ đầu tư phải chuyển
từ “tự nguyện” sang “bắt buộc” thì BIC cần phải thay đổi cách nhìn của mình đối
với thị trường bảo hiểm này. Do vẫn còn là một Nghị định mới có hiệu lực, nên thời
gian để đi vào thực tế đời sống là rất dài. Hơn nữa thực tế thị trường bảo hiểm tại
Việt Nam hiện nay đang có sự cạnh tranh rất gắt gao giữa các doanh nghiệp trong
6

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

-

-

-

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

và ngoài nước. Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập hiện nay, rất nhiều các Công ty,
Tập đoàn Bảo hiểm lớn trên thế giới đang lăm le xâm nhập thị trường Việt Nam.
Tổng Công ty bảo hiểm BIDV (BIC), với vai trò là 1 trong 10 công ty bảo hiểm phi
nhân thọ dẫn đầu về thị phần bảo hiểm gốc và là một trong những công ty bảo hiểm
có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thị trường, cần phải có những giải pháp phù

hợp đặc biệt là trong hoạt động Marketing để đưa Bảo hiểm Xây dựng, lắp đặt trở
nên phổ biến, sâu rộng,cạnh tranh hiệu quả hơn trong nền kinh tế- xã hội, cũng như
đem lại nguồn thu lớn cho doanh nghiệp.
Đã có một số nghiên cứu trước đó về lĩnh vực Bảo hiểm Xây dựng, lắp đặt này.
Tuy nhiên những nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở việc đánh giá thực trạng, đưa ra giải
pháp chung chung. Còn trong bối cảnh Nghị định 119/2015/NĐ-CP mới có hiệu
lực, cũng như việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới thì cần có
mộ nghiên cứu rõ ràng, tỉ mỉ về hoạt động Marketing trong sản phẩm bảo hiểm này.
Do đó em chọn đề tài cho mình là: “ Giải pháp Marketing nhằm phát triển Bảo hiểm
Xây dựng, lắp đặt tại Tổng Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư & phát triển Việt
Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ các vấn đề về Bảo hiểm Xây dựng, lắp đặt, Marketing trong kinh doanh bảo
hiểm.
Phân tích thực trạng hoạt động triển khai BH bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây
dựng thời gian qua, nhưng khó khăn gặp phải.
Xây dựng chiến lược Marketing, đề xuất giải pháp nhằm phát triển Bảo hiểm xây
dựng, lắp đặt.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Bảo hiểm Xây dựng, lắp đặt
Phạm vi nghiên cứu:
• Nội dung: Giải pháp Marketing để phát triển Bảo hiểm Xây dựng, lắp đặt
• Không gian: tại Tổng Công ty Bảo hiểm BIDV
• Thời gian: Đánh giá thực trạng 5 năm qua và đề xuất giải pháp cho những
năm tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết:
• Phân tích là nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau bằng cách phân
tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về đối tượng.


7

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

Tổng hợp là liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được phân tích
tạo ra một hệ thông lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về đối tượng.
Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết:
• Sắp xếp các tài liệu khoa học theo từng mặt, từng đơn vị, từng vấn đề có
cùng dấu hiệu bản chất, cùng một hướng phát triển.
• Hệ thống hóa là sắp xếp tri thức thành một hệ thống trên cơ sở một mô
hình lý thuyết làm sự hiểu biết về đối tượng đầy đủ hơn.
Phương pháp mô hình hóa: Nghiên cứu các đối tượng bằng xây dựng gần giống với
đối tượng, tái hiện lại đối tượng theo các cơ cấu, chức năng của đối tượng.
Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm: Nghiên cứu và xem xét lại những
thành quả thực tiễn trong quá khứ để rút ra kết luận bổ ích.


-

-

5. Cấu trúc


Chuyên đề gồm 3 phần:
Chương I : Tổng quan về Bảo hiểm Xây dựng, lắp đặt và hoạt động
Marketing trong kinh doanh bảo hiểm
Chương II: Thực trạng triển khai Bảo hiểm Xây dựng lắp đặt tại Tổng Công
ty bảo hiểm BIDV (BIC)
Chương III: Giải pháp Marketing nhằm phát triển Bảo hiểm Xây dựng, lắp
đặt tại BIC

8

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XÂY DỰNG,
LẮP ĐẶT VÀ MARKETING TRONG LĨNH VỰC BẢO
HIỂM
1.1.

Tổng quan về Bảo hiểm Xây dựng, lắp đặt.

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của Bảo hiểm Xây dựng, lắp đặt.
1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm Xây dựng, lắp đặt.
Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (2000) quy định: Kinh doanh bảo
hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) nhằm mục đích sinh lợi,

theo đó DNBH chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo
hiểm đóng phí bảo hiểm để DNBH trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Bản chất của bảo hiểm: Là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người
cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Bảo hiểm hoạt động dựa trên
Quy luật số đông (the law of large numbers).
 Bảo hiểm xây dựng là bảo hiểm những thiệt hại phát sinh từ một rủi ro bất ngờ
hoặc từ trách nhiệm đối với người thứ ba trong việc xây dựng một công trình, có sử
dụng đến bê tông và xi măng.
Mục đích của bảo hiểm xây dựng là bù đắp về tài chính cho chủ đầu tư hay chủ
thầu để sửa chữa những thiệt hại bất ngờ xảy ra khi xây dựng một công trình, đây là
thiệt hại xảy ra cho chính bản thân công trình, cho các thiết bị và có thể là cho các
dụng cụ của công trường hoặc bồi thường thiệt hại gây ra cho người khác (trách
nhiêm dân sự).
Khi chủ thầu đã nhận một giao kèo (hoặc một phần giao kèo) xây dựng một
công trình thì phải chịu toàn bộ trách nhiệm về các công việc kể từ lúc bắt đầu công
việc cho đến lúc nghiệm thu chính thức công trình. Trong trường hợp có thiệt hại
cho công trình, người chủ thầu phải sửa chữa các thiệt hại này với chi phí riêng của
mình, từ đó đối với người chủ thầu là một mất mát về tài chính rất nặng nề, mà
thậm chí có thể dẫn đến phá sản.
 Bảo hiểm lắp đặt là một bảo đảm về thiệt hại do một sự cố bất ngờ gây ra hoặc
phát sinh từ trách nhiệm của người chủ công trình trong quá trình lắp đặt máy móc,
thiết bị cho một công trình.
Bảo hiểm xây dựng và bảo hiểm lắp đặt là hai loại hình bảo hiểm kỹ thuật. Từ
khi tiến hành khởi công xây dựng một công trình, một nhà máy mới, cho tới khi các
9

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B



Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

máy móc thiết bị được đưa vào sản xuất thì tất cả các giai đoạn đều gắn với các loại
hình bảo hiểm khác nhau trong bảo hiểm kỹ thuật.
Người ta có thể sử dụng đơn bảo hiểm xây dựng, đơn bảo hiểm lắp đặt riêng rẽ
cho một công trình hoặc sử dụng đơn bảo hiểm xây dựng để bảo hiểm luôn cho cả
công tác lắp đặt trong cùng một công trình xây dựng hay lắp đặt, thường được dựa
trên nội dung, tính chất của công việc.
1.1.1.2. Lịch sử hình thành
 Trên Thế giới Bảo hiểm XDLĐ (XDLĐ) là bộ phận của bảo hiểm kỹ thuật. Sự ra
đời và phát triển của bảo hiểm kỹ thuật luôn gắn liền với sự ra đời của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật. So với các loại hình bảo hiểm khác như bảo hiểm hàng
hải, bảo hiểm cháy thì bảo hiểm kỹ thuật ra đời muộn hơn rất nhiều. Bảo hiểm hàng
hải xuất hiện năm 1547, bảo hiểm hoả hoạn xuất hiện năm 1667 trong khi đó đơn
bảo hiểm kỹ thuật đầu tiên trên thế giới là vào năm 1859 ở Anh, đó là đơn bảo hiểm
đổ vỡ máy móc (machinary breaking policy). Nhu cầu tái thiết nền kinh tế sau chiến
tranh thế giới lần thứ hai và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và kỹ
thuật là động lực thúc đẩy bảo hiểm kỹ thuật phát triển mạnh mẽ đồng thời nó cũng
trở thành một trong những loại hình bảo hiểm quan trọng không thể thiếu đối với sự
phát triển của bất cứ nền kinh tế nào.
Đơn bảo hiểm xây dựng đầu tiên trên thế giới được cấp vào năm 1929 cho công
trình xây dựng cầu Lamberth bắc qua sông Thames ở London. Tiếp sau đó là vào
năm 1934, đơn bảo hiểm rủi ro lắp đặt được cấp ở Đức. Tuy nhiên cả hai đơn bảo
hiểm này chỉ giành được vị trí quan trọng trong giai đoạn xây dựng sau chiến tranh
năm 1945 và công cuộc phát triển sau đó trên thế giới của các nền kinh tế đang nổi
lên. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã thúc đẩy việc đưa ra các

phạm vi bảo hiểm mới, phức tạp hơn. Các đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất như là
bảo hiểm máy tính, bảo hiểm thiết bị điện áp thấp, bảo hiểm máy móc và thiết bị
xây dựng, bảo hiểm rủi ro đối với công trình xây dựng dân dụng xuất hiện. Bên
cạnh đó còn các đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh như bảo hiểm hư hỏng hàng
hoá trong kho và bảo hiểm mất lợi nhuận. Điều này cho thấy bảo hiểm kỹ thuật phát
triển rất nhanh, đa dạng về loại hình và ngày càng hoàn chỉnh, bao gồm các loại
hình chính sau:
- Bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu- Bảo hiểm xây dựng (CAR)
- Bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt (EAR)
- Bảo hiểm đổ vỡ máy móc (MBI)

10

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

Bảo hiểm thiết bị điện tử (EEI)
Bảo hiểm mất thu nhập do máy móc ngừng hoạt động (Loss of profit following
machinery breakdown)
- Bảo hiểm hỏng hàng hoá nhà kho lạnh
- Bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí (Oil – Gas exploration and production
insurance).
 Ở Việt Nam, nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ đã được thực hiện từ trước những năm 70.
Thời kỳ này các công trình được bảo hiểm chủ yếu là nhà của các tướng tá cấp cao

trong quân đội Mỹ và chính quyền tay sai. Do không đảm bảo nguyên tắc số đông
bù số ít nên nghiệp vụ này không phát triển. Sau 1975, thì nghiệp vụ này vẫn chưa
được triển khai.
Sau khi nhà nước ban hành “Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam” (tháng 121987), nước vào giai đoạn mới thì bảo hiểm XDLĐ mới thực sự phát triển. Công ty
bảo hiểm đầu tiên được triển khai nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ đầu tiên ở Việt Nam
là Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam theo quyết định số 253/TCQĐ-91 ngày
7/8/1991 của Bộ tài chính.
Ngày 20/10/1994 Thủ tướng Chính Phủ ban hành nghị định 177CP quy định về
quản lý đầu tư và xây dựng, tại điều 52 nghị định này quy định rõ về việc các tổ
chức nhận thầu xây lắp, các tổ chức tư vấn phải mua bảo hiểm vật tư, nhà xưởng
phục vụ thi công, bảo hiểm tai nạn lao động, bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với
người thứ ba, bảo hiểm sản phẩm khảo sát thiết kế trong quá trình thực hiện dự án.
Phần này quy định bảo hiểm được mua tại một Công ty trong nước nếu như là dự án
của Việt Nam, những dự án của nước ngoài thì phải tuân thủ những quy định của
luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.Sau đó một loạt Công ty bảo hiểm được thành
lập: Bảo Minh, PJICO, Bảo Long, Vinare,…với nhiều văn phòng đại diện cùng với
sự có mặt của nhiều Công ty bảo hiểm nước ngoài làm cho sự cạnh tranh trên thị
trường bảo hiểm ngày một gay gắt hơn đòi hỏi các Công ty phải nâng cao chất
lượng về mọi mặt.
Ngày 13/11/2015 Chính phủ đã ban hành Nghị định 119/2015/NĐ – CP quy
định Bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng, và có hiệu lực từ ngày
10/2/2016. Nghị định quy định cụ thể về nguyên tắc tham gia Bảo hiểm bắt buộc
trong hoạt động đầu tư xây dựng; trách nhiệm tham gia, điều kiện triển khai, số tiền
bảo hiểm tối thiểu, nguyên tắc xác định mức phí bảo hiểm; quản lý nhà nước về
Bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng.
-

11

SV: Trần Đức Lộc


Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

Từ khi ra đời đến nay, bảo hiểm XDLĐ đã trở thành một trong những loại hình
mũi nhọn của các Công ty bảo hiểm trong toàn quốc, kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiểm XDLĐ mang lại doanh thu lớn, tỷ lệ tăng trưởng cao, tạo công ăn việc làm
cho người lao động…và như vậy đã tạo ra lợi ích chung cho toàn xã hội.
1.1.1.3. Đặc điểm của bảo hiểm Xây dựng, lắp đặt
Thứ nhất, bảo hiểm XDLĐ có nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau, mỗi loại
hình này đều nhằm đảm bảo cho một giai đoạn hoặc một khâu trong quá trình thực
hiện dự án. Ta có thể chia thành 2 giai đoạn sau:
 Giai đoạn tiền xây dựng và giai đọan xây dựng
- Bảo hiểm xây dựng
- Bảo hiểm lắp đặt
- Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
- Bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba.
 Giai đoạn xây dựng
- Bảo hiểm bảo hành công trình
- Bảo hiểm trách nhiệm kiến trúc sư.
Thứ hai, phạm vi và đối tượng bảo hiểm XDLĐ là rất rộng lớn mà trong đó bảo
hiểm XDLĐ là những mắt xích quan trọng không thể thiếu đƣợc trong quá trình
xây dựng một công trình. Nó là điều kiện tiên quyết để thực hiện các loại hình bảo
hiểm khác kèm theo. Bảo hiểm XDLĐ có mối quan hệ khăng khít với các loại hình
bảo hiểm khác.
Thứ ba, bảo hiểm XDLĐ thường được tiến hành đối với những dự án có quy mô

lớn. Nó cũng đòi hỏi nhà bảo hiểm phải là những Công ty bảo hiểm hàng đầu có uy
tín, có kinh nghiệm triển khai loại hình bảo hiểm này.
Thứ tư, do công trình kéo dài từ khi bắt đầu xây dựng đến khi kết thúc, bàn giao
và nghiệm thu công trình cho nên thời gian tiếp cận khai thác kéo dài tùy theo quy
mô của công trình là lớn hay nhỏ.
Thứ năm, trong một công trình xây dựng có thể có rất nhiều bên tham gia, từ đó
trong một đơn bảo hiểm có thể liên quan đến nhiều bên khác nhau, dẫn đến có nhiều
các đầu mối tiếp cận khác nhau kéo theo quá trình khai thác diễn ra rất phức tạp.
1.1.2. Vai trò của bảo hiểm Xây dựng, lắp đặt.
Về kinh tế vĩ mô: bảo hiểm XDLĐ giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia ổn
định trong những điều kiện khó khăn khi xảy ra thiệt hại cho các công trình xây lắp
lớn, đảm bảo cho các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng của một quốc gia được
thực hiện tốt và không bị gián đoạn thi công.

12

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

Về vi mô: bảo hiểm XDLĐ như một tấm lá chắn cuối cùng cho các nhà đầu tư và
các chủ thầu trước những nguy cơ thiệt hại về kinh tế do các rủi ro bất ngờ hoặc
thiên tai, thậm chí giúp cho họ tránh được nguy cơ phá sản khi các thiệt hại đó quá
lớn, giúp cho quá trình xây lắp diễn ra liên tục.
Bảo hiểm XDLĐ ra đời còn tạo tâm lý ổn định và yên tâm hơn cho những người

liên quan đến công trình xây lắp và là cơ sở quan trọng cho việc đầu tư vào những
lĩnh vực, những công trình có độ rủi ro cao.
Đối với ngành bảo hiểm: bảo hiểm XDLĐ ra đời khẳng định thêm vị trí của
ngành bảo hiểm trong nền kinh tế quốc dân, góp phần vào tiến triển phát triển
chung của đất nước. Việc khen thưởng kịp thời các cá nhân, đơn vị làm tốt công tác
đề phòng hạn chế tổn thất sẽ có tác dụng động viên người được bảo hiểm cũng như
các cơ quan chức năng khác như: Công an, lực lượng phòng cháy, chữa cháy và các
cơ quan kiểm tra, giám định khác tích cực hơn nữa trong công tác này.
Với những lý do nêu trên sự ra đời của nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ là một tất
yếu và đúng đắn. Nghiệp vụ này ngày càng khẳng định được vai trò của mình và có
những bước tiến vững chắc trong quá trình phát triển.
1.1.3. Nội dung của bảo hiểm Xây dựng, lắp đặt.
1.1.3.1.








Bảo hiểm xây dựng

a) Người được bảo hiểm
Trong bảo hiểm xây dựng, tất cả các bên có liên quan đến công trình xây dựng
và có quyền lợi trong công trình đã được nêu tên hay chỉ định trong bản phụ lục bảo
hiểm đều có thể là người được bảo hiểm. Cụ thể bao gồm:
Chủ đầu tư: là người chủ sở hữu vốn. Chủ đầu tư có thể là một tổ chức cá nhân bỏ
toàn bộ hoặc một phần vốn còn lại để đầu tư theo quy định của pháp luật. Trường
hợp vốn đầu tư của dự án chủ yếu thuộc sở hữu Nhà nước thì chủ đầu tư là người

được cấp quyết định đầu tư, chỉ định ngay từ khi lập dự án và giao trách nhiệm
quản lý, sử dụng vốn.
Chủ thầu: Là người ký kết hợp đồng XDLĐ với chủ đầu tư. Đó có thể là cá nhân
hay tổ chức có tư cách pháp nhân. Trong trường hợp có nhiều chủ thầu và chủ đầu
tư, để rõ ràng dùng khái niệm: chủ thầu chính và chủ thầu phụ.
Chủ thầu chính: Là người trực tiếp ký hợp đồng XDLĐ với chủ đầu tư, là người
đứng ra bao thầu toàn bộ công trình.
Chủ thầu phụ: Là người đảm nhận từng hạng mục riêng, chủ thầu phụ thường
không liên quan đến chủ đầu tư mà chỉ ký hợp đồng với chủ thầu. Họ có thể là
13

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

người xây thô, hoàn thiện, cung cấp nguyên vật liệu hay dọn dẹp công trình sau khi
xây dựng, lắp đặt xong.
 Các kiến trúc sư, kỹ sư, cố vẫn chuyên môn: Làm việc cho chủ thầu theo hợp
đồng. Cần chú ý rằng đơn bảo hiểm XDLĐ không bảo hiểm cho trách nhiệm những
người này mặc dù họ thuộc thành phần người được bảo hiểm.

-

-


b) Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm xây dựng bao gồm tất cả các công trình dân dụng, công
trình công nghiệp… mà kết cấu của nó có sử dụng xi măng và bê tông. Cụ thể chia
ra các công trình sau:
Các công trình xây dựng nhà ở, chung cư, khách sạn, trường học, bệnh viện, trụ sở
làm việc
- Nhà xưởng, kho tàng
- Các công trình thuỷ lợi như: kênh dẫn, kè chắn, hồ chứa nước...
Các công trình xây dựng dân dụng: cầu cống, đường sá, cầu cảng, san lấp mặt bằng
cho các khu công nghiệp, đô thị mới...
- Các nhà máy xi măng, thủy điện, nhiệt điện...
- Các công trình xây dựng khác.

c) Phạm vi bảo hiểm
 Các rủi ro trong phạm vi bảo hiểm
- Cháy, nổ (đặc biệt nguy hiểm đối với các toà nhà đang xây dựng, các lán trại đang
thi công và các vật liệu) và tổn thất do tiến hành các biện pháp chữa cháy.
- Sét đánh.
- Bị các phương tiện giao thông hay máy bay đâm vào.
- Lũ lụt, mưa gió, tuyết lở.
- Động đất, núi lửa phun, sóng thần.
- Đất đá sụt lở, đất trượt.
- Trộm, cắp.
- Thiếu kinh nghiệm, sơ suất, hành động ác ý hay cố tình nhầm lẫn của con người,
nhưng không phải là người được bảo hiểm hay đại diện của họ.
- Vụ nổ.
- Hiện tượng sập (công trình có thể bị sập nên cần bảo hiểm nó bằng một hợp đồng
về chế độ trách nhiệm trong 10 năm nhất là đối với việc thi công ở nước ngoài).
Phạm vi bảo hiểm của đơn bảo hiểm xây dựng còn bao gồm cả những tổn thất
của nguyên vật liệu xây dựng, các trang thiết bị lắp đặt, trong khi vận chuyển trên

khu vực công trường hay khi lắp đặt, tháo gỡ.
 Các điểm loại trừ: Các tổn thất xảy ra trực tiếp hay là hậu quả của chiến tranh hay
các hành động tương tự chiến tranh, đình công, bãi công, nổi loạn, gián đoạn hay
ngừng công việc theo lệnh của nhà chức trách, bao gồm:
14

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

-

-

-

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

Tổn thất do phản ứng hạt nhân, phóng xạ hạt nhân hay nhiễm phóng xạ
Tổn thất do hành động cố ý của người được bảo hiểm hay đại diện của họ
Các tổn thất có tính chất hậu quả, ví dụ: Tiền phạt do chậm trễ hay vi phạm hợp
đồng, mất thu nhập do thời gian xây dựng kéo dài...
Những hỏng hóc về cơ khí và hay về điện hay những trục trặc của các máy móc xây
dựng (nếu đơn Bảo hiểm xây dựng bao gồm cả máy móc xây dựng).
- Tổn thất do thiết kế sai, do nguyên vật liệu kém chất lượng hay sai chủng
loại.
Hao mòn, rỉ sét, ô xy hoá, giảm giá trị do để lâu không sử dụng hay dưới điều kiện

bình thường về nhiệt độ, áp suất.
Các mất mát hay thiệt hại của tài liệu, bản vẽ, biểu mẫu, chứng từ thanh toán, tiền
séc...
d) Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
Trong bảo hiểm xây dựng, giá trị bảo hiểm là vấn đề quan trọng và rất phức tạp.
Xác định được chính xác giá trị bảo hiểm sẽ giúp cho cả người bảo hiểm và người
được bảo hiểm tránh được các tranh chấp không cần thiết khi có tổn thất xảy ra. Các
giá trị phải xác định trong bảo hiểm xây dựng bao gồm:
Giá trị của phần công tác thi công xây dựng người được bảo hiểm có thể sẽ dùng
một trong các giá trị sau đây làm giá trị bảo hiểm cho phần này
Tổng giá trị khôi phục của công trình, nghĩa là giá trị khôi phục lại công trình trong
trường hợp có tổn thất xảy ra
- Giá trị dự toán của công trình theo hợp đồng xây dựng
- Giá trị bằng hoặc nhỏ hơn tổn thất lớn nhất có thể xảy ra.
Giá trị bảo hiểm của máy móc xây dựng: Giá trị bảo hiểm của máy móc xây
dựng phải là giá trị thay thế tương đương mục mới của máy đó (New Replacement
Value) tức là giá trị của một máy móc tương đương có thể mua tại thời điểm đó để
thay thế máy bị tổn thất
Giá trị bảo hiểm của trang thiết bị: Giá trị bảo hiểm đối với trang bị xây dựng
là tương đối khó xác định vì trang bị xây dựng rất nhiều hạng mục với nhiều giá trị
khác nhau. Có những hạng mục chỉ sử dụng trong khoảng thời gian nhất định tại
công trường sau đây lại di chuyển tới công trình khác. Chỉ một phần giá trị của
trang bị này được đưa vào giá thành của công trình.
Giá trị bảo hiểm đối với chi phí dọn dẹp: Cần dự kiến số chi phí cần thiết để di
chuyển chất phế thải xây dựng, đất đá, sau khi xảy ra tổn thất lớn nhất, ví dụ: chi
phí bơm nước, vét bùn, vận chuyển nhiều nhất đề phòng trường hợp xảy ra tổn thất
lớn nhất.
15

SV: Trần Đức Lộc


Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

Giá trị bảo hiểm của tài sản trên và xung quanh công trình: Đó là giá trị các
tài sản thuộc quyền quản lý, sở hữu chăm nom, coi sóc... của người được bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm là giá trị của các tài sản đó tại thời điểm bảo hiểm. Người được bảo
hiểm cần kê khai đúng giá trị thực của các tài sản đó để có cơ sở chính xác cho
người bảo hiểm bồi thường trong trường hợp xảy ra tổn thất thuộc trách nhiệm bảo
hiểm.
 Số tiền bảo hiểm được xác định theo giá trị bảo hiểm, bao gồm:
- Cấu trúc chủ yếu của công trình: Giá trị đầy đủ của công trình theo hợp đồng tại
thời điểm hoàn thành việc xây dựng, bao gồm:
• Chi phí cho công tác chuẩn bị mặt bằng (không tính chi phí giải phóng mặt bằng)
• Chi phí các hạng mục công trình xây dựng;
• Giá trị các công trình tạm phục vụ thi công như kênh dẫn nước, đê bảo vệ, hệ thống
chiếu sáng…
Trong trường hợp chi phí phát sinh làm tăng giá trị bảo hiểm người được bảo
hiểm phải khai báo kịp thời và nộp thêm phí bảo hiểm. Nếu không công ty bảo hiểm
sẽ áp dụng quy tắc tỷ lệ như đối với trường hợp bảo hiểm dưới giá trị.
- Giá trị trang thiết bị máy móc phục vụ xây dựng.
- Tài sản sẵn có hoặc xung quanh công trường.
- Chi phí dọn dẹp tổn thất (5-10 % hợp đồng xây dựng).
e) Phí bảo hiểm và thời hạn bảo hiểm
Không thể đặt ra được một biểu phí với tỷ lệ cố định cho bảo hiểm xây dựng vì
phí bảo hiểm cho mỗi công trình riêng biệt phải được tính toán dựa trên thông số kỹ

thuật của mỗi công trình và có tính đến trạng thái đất đai, điều kiện khí hậu tại khu
vực công trường… Phí bảo hiểm của một công trình xây dựng bao gồm hai phần
chính:
 Phí bảo hiểm tiêu chuẩn: Là phí bảo hiểm tính cho các rủi ro tiêu chuẩn. Việt Nam
đang áp dụng theo đơn bảo hiểm tiêu chuẩn của MUNICH RE, bao gồm:Phí cơ bản
tối thiếu + Các rủi ro thiên tai như: động đất, núi lửa… + Các rủi ro khác như: Cháy
nổ, trộm cắp, tay nghề kém, thiếu kinh nghiệm,…
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn = Phí cơ bản tối thiểu + Phụ phí rủi ro động đất + Phụ
phí rủi ro lũ lụt:
• Phí cơ bản tối thiểu: là mức phí tối thiểu trong một công trình xây dựng, được tính
bằng tỷ lệ phần nghìn của số tiền bảo hiểm.
• Phụ phí rủi ro động đất: Được tính cho từng loại công trình, phụ thuộc vào độ nhạy
cảm của công trình đối với rủi ro động đất và khu vực xây dựng công trình. Theo

16

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

-

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

mức độ tăng dần, độ nhảy cảm của công trình được xếp vào 5 loại: C, D, E, F, G. Ở
Việt Nam, phân chia theo khu vực động đất, gồm có hai khu vực.
Khu vực 1, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang,

Cao Bằng, Lạng Sơn, Yên Bái, Vĩnh Phúc, Hoà Bình, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phú
Thọ, Hà Tây, Bắc Thái (ít xảy ra động đất).
- Khu vực 0 gồm các tỉnh còn lại (hầu như không xảy ra động đất).
Hiện nay phụ phí cho rủi ro động đất được áp dụng theo bảng 1:
Bảng 1.1: Biểu phí rủi ro động đất áp dụng cho Việt Nam
Độ nhạy cảm của công
trình
C
D
E
F
G

Phụ phí rủi ro động đất
Khu vực 0
Khu vực 1
0
0,2
0
0,22
0
0,24
0
0,26
0
0,30
Nguồn: Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh

Tỷ lệ phí động đất được tính bằng phần nghìn/năm. Nếu một công trình xây
dựng có thời gian xây dựng trên hoặc dưới 1 năm được tính như sau:



-

Phụ phí rủi ro lũ lụt: được tính cho một năm căn cứ vào tính chất của từng loại công
trình chịu tác động của rủi ro lũ lụt. Tỷ lệ phí xác định theo năm và bằng phần
nghìn trên số tiền bảo hiểm. Việc xác định phụ phí cho rủi ro lũ lụt phụ thuộc vào
các yếu tố sau:
Tính chất của từng loại công trình chịu tác động của rủi ro lũ lụt
Khu vực rủi ro nơi tiến hành công trình xây dựng.
Bảng 1.2: Biểu phí rủi ro do bão và lũ lụt
Biểu phí rủi ro do bão
Biểu phí rủi ro do lũ lụt
Sức chịu
đựng của Khu vực Khu vực
Khu
Khu vực Khu vưc Khu vực
công trình
1
2
vực 3
1
2
3
I
0,05
0,10
0,15
0,05
0,15

0,25
II
0,10
0,15
0,20
0,20
0,20
0,30
III
0,15
0,20
0,25
0,25
0,30
0,40
Nguồn: Tổng Công ty Bảo hiểm VN

17

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

 Phụ phí mở rộng: Là phần phí bảo hiểm xác định cho phần trang thiết bị xây dựng,


máy móc xây dựng, tài sản sẵn có trên và xung quanh khu vực công trường, chi phí
dọn dẹp hiện trường, trách nhiệm pháp lý đối với bên thứ ba.
Thời hạn bảo hiểm được ghi rõ trong đơn bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm
thường là thời gian thi công công trình được tính từ khi bắt đầu khởi công công
trình (sau khi đã bốc dỡ vật tư, máy móc.. xuống công trường) cho đến khi hoàn
thiện hay chuyển giao hoặc đưa vào hoạt động. Trên thực tế, thời gian thi công
không nhất thiết phải trùng với thời hạn ghi trong hợp đồng. Nếu công trình hoàn
thành trước thời hạn thì hiệu lực của hợp đồng cũng chấm dứt ngay sau khi công
trình được bàn giao đưa vào sử dụng. Trong trường hợp thời gian thi công kéo dài
vượt quá thời hạn quy định thì người được bảo hiểm phải có yêu cầu gia hạn thêm
đối với hợp đồng bảo hiểm và phải thanh toán thêm phí bảo hiểm cho bên bảo hiểm
cho thời gian vượt quá này.
Thông thường thời hạn bảo hiểm bao gồm các thời gian sau:
- Lưu kho (vật liệu) trước khi xây dựng (tối đa là 3 tháng)
- Giai đoạn xây dựng
- Kiểm nghiệm, chạy thử nếu có máy móc.
- Bảo hành.
1.1.3.2.

Bảo hiểm lắp đặt

a Người được bảo hiểm
Người được bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt là các nhà xây dựng hoặc lắp đặt
cơ sở vật chất, một phần hoặc toàn bộ, được chỉ rõ trong hợp đồng bảo hiểm, cũng
có thể là nhà công nghiệp hoặc thực hiện hoặc cho thực hiện theo danh nghĩa của
mình những công việc lắp ráp hoạt động trên cơ sở vật chất đã được giao phó cho
nó về mục đích này.

-


f) Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm lắp đặt được hiểu là các máy móc lắp đặt, trang thiết bị
phục vụ cho công tác lắp đặt và một số công việc và hạng mục liên quan đến công
việc lắp đặt. Đối tượng được bảo hiểm được phân loại như sau:
Các máy móc các dây chuyền đồng bộ trong một xí nghiệp hay trong khi tiến hành
lắp đặt các máy móc thiết bị đó.
Các máy móc, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho lắp đặt.
Các phần việc xây dựng phục vụ cho công tác lắp đặt.
Trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba.
Chi phí dọn dẹp vệ sinh.
18

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

-

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

g) Phạm vi bảo hiểm
Ngoài những rủi ro được bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng, bảo hiểm lắp đặt
còn bảo hiểm thêm cho những rủi ro sau:
- Lỗi về lắp ráp phạm phải trong khi thi công.
Các nguyên nhân từ bên ngoài như do rơi vật lạ vào, đứt cáp, dây chuyền, hệ thống
nâng, sập toà nhà, sự va đụng…
Các nguyên nhân nội tại: Ví dụ như hậu quả do một sự thiếu hụt về máy móc kiểm

tra hoặc về an toàn do sự vụng về và lơ đễnh của nhân viên bên được bảo hiểm hoặc
của người thứ ba.

h) Giá trị và số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm đối với chi phí lắp đặt Phần này được tính bằng giá trị thay thế
mới của bất kỳ một máy móc hay thiết bị mới tương đương, bao gồm: Giá mua +
Cước phí vận chuyển + Phí bảo hiểm + Phí kho bãi + Thuế quan + Chi phí lắp đặt.
Giá trị này phải được điều chỉnh trước khi kết thúc thời hạn bảo hiểm theo sự
biến động của giá cả. Trong trường hợp số tiền bảo hiểm thấp hơn giá trị thực tế của
máy móc thiết bị thì khi có tổn thất xảy ra, sẽ bồi thường theo nguyên tắc “Bảo
hiểm dưới giá trị” như các loại hình bảo hiểm khác.
Giá trị bảo hiểm của việc xây dựng: Ví dụ như giá trị của việc xây dựng nhà
xưởng để lưu kho, bệ máy…và việc xây dựng này thường được hoàn tất trước khi
lắp ráp máy móc thiết bị.
Giá trị bảo hiểm đối với chi phí dọn dẹp vệ sinh: Thông thường giá trị này
được xác định trong khoảng 5 – 10% giá trị của tổng số thiệt hại.
Giá trị bảo hiểm đối với tài sản trên và xung quanh công trường (tương tự như
trong bảo hiểm xây dựng)
 Số tiền bảo hiểm: được xác định dựa vào giá trị các hạng mục nêu ở phầm trêm và
dựa và sự thoả thuận của bai bên. Thông thường số tiền bảo hiểm trong bảo hiểm
lắp đặt bằng giá trị bảo hiểm.
Đối với phần bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với
người thứ ba thì số tiền bảo hiểm hoàn toàn dựa vào sự thoả thuận giữa các bên.

-

i) Phí bảo hiểm và thời hạn bảo hiểm
Về cơ bản, phương pháp tính phí bảo hiểm lắp đặt giống với phương pháp tính
phí bảo hiểm xây dựng. Có một số điểm khác biệt đó là:
Phí cơ bản tối thiêu trong bảo hiểm lắp đặt là 300$ hoặc tương đương bằng loại tiền

khác.
19

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

-

-

-

-

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

Việc xác định phụ phí do rủi ro lũ lụt phụ thuộc vào sức chịu của công trình đối với
tác động của gió bão, lũ lụt. Hiện người ta chia ra làm ba loại có sức chịu đựng khác
nhau là loại I, II và III.
Trong công trình lắp đặt có thể có một phần công việc xây dựng và phần công
việc này cũng có thể bảo hiểm bằng đơn bảo hiểm lắp đặt. Khi đó cần lưu ý cách
tính phí như sau:
Nếu giá trị của phần xây dựng < 20% tổng giá trị của công trình thì mực tính phí
như tỷ lệ tính phí của bảo hiểm lắp đặt.
Nếu giá trị của phần công việc xây dựng từ 20-50% giá trị của công trình thì phí
bảo hiểm cho phần công việc này được tính riêng theo biểu phí trong bảo hiểm xây

dựng.
Nếu giá trị công việc xây dựng > 50% giá trị công trình thì áp dụng đơn bảo hiểm
xây dựng để bảo hiểm cho công việc này.
Tổng phí bảo hiểm lắp đặt = Phí tiêu chuẩn + Phụ phí mở rông tiêu chuẩn
Phí tiêu chuẩn = Phí tối thiêu + Phụ phí rủi ro do động đất + phụ hí rủi ro do bão

 Thời hạn bảo hiểm:
Tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên mà thời hạn bảo hiểm được ghi rõ
trong đơn bảo hiểm và có thể bao gồm một phần hoặc toàn bộ thời gian sau:
Lưu kho trước khi lắp đặt
Giai đoạn lắp đặt
Chạy thử (không tải và có tải).
Giai đoạn bảo hành tối thiểu.
1.1.3.3.

Giải quyết bồi thường

a Các nguyên tắc chung
Việc giám đinh và giải quyết bồi thường phải đảm bảo kịp thời, chính xác,
khách quan, thỏa đáng. Ngoài ra, do tính chất phức tạp và đặc điểm của các đối
tượng bảo hiểm, các nhà bảo hiểm có thể trực tiếp hoặc thuê giám định viên chuyên
nghiệp thức hiện công tác giám định.
j) Các bước trong giám định và bồi thường tổn thất
Bước 1: Nhân thông báo tổn thất và yêu cầu giám định
Khi tổn thất xảy ra, người được bảo hiểm có trách nhiệm báo ngay cho người
bảo hiểm, giữ nguyên hiện trường và thực hiện các biện pháp đề phòng để hạn chế

20

SV: Trần Đức Lộc


Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

-

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

tổn thất phát sinh thêm. Sau một khoảng thời gian nhất định hoàn thành những giấy
tờ sau và gửi cho người bảo hiểm:
- Thông báo chi tiết bằng văn bản về tổn thất
- Giấy yêu cầu giám định (theo mẫu của người bảo hiểm)
- Giấy chứng nhận bảo hiểm
- Hóa đơn thanh toán phí bảo hiểm
- Xác nhận của nhân chứng về tai nạn hoặc sự cố
Bước 2: Tiến hành giám định
Công tác giám đinh đòi hỏi giám định viên phải giải quyết các công việc sau:
- Xem xét hiện trạng tổn thất, chụp ảnh hiện trường.
- Thu thập các số liệu, hoá đơn chưng từ có liên quan đến tổn thất
- Lập biên bản giám định
Thẩm tra lại các bên có liên quan về tai nạn hoặc sự cố và các biện pháp đề phòng
hạn chế tổn thất phát sinh thêm.
Bước 3: Giải quyết khiếu nại và bồi thường
Hồ sơ khiếu nại và bồi thường bao gồm:
- Giấy chứng nhận bảo hiểm
- Các hoá đơn đóng phí bảo hiểm
- Giấy yêu cầu bồi thường
- Biên bản giám định

- Báo cáo của công an
- Lời khai của nạn nhân, nhân chứng.
Trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm căn cứ vào thời hạn bảo hiểm,
phạm vi bảo hiểm. Giới hạn trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm căn cứ
vào:
- Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
- Mức giới hạn trách nhiệm đối với bên thứ ba
- Giới hạn trách nhiệm đối với các tổn thất do các rủi ro bổ sung.
1.2.

Marketing trong lĩnh vực Bảo hiểm.

1.2.1. Khái niệm, chức năng, vai trò của Marketing trong lĩnh vực Bảo hiểm
1.2.1.1. Khái niệm của Marketing Bảo hiểm.
Marketing trong bảo hiểm là làm thỏa mãn tối đa mối quan hệ giữa người tiêu
dùng sản phẩm bảo hiểm của công ty và công ty.
Đặc thù của Marketing bảo hiểm là tính không thể động chạm được của sản
phẩm. Người tiêu thụ không thể nhìn thấy, không thể cầm trên tay, không thể
chỉ...như mọi sản phẩm, dịch vụ này không thể chạm vào được. Tính đặc thù này

21

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng


rất khó khăn trong việc tiếp cận Marketing; được tăng cường bởi những đặc thù
khác làm cho bảo hiểm trở thành một sản phẩm khác biệt.
-

-

-

-

1.2.1.2. Chức năng của Marketing Bảo hiểm.
Tổng hợp toàn bộ những nghiên cứu phục vụ cho nhà quản lý để làm sáng tỏ những
cơ hội và rủi ro của doanh nghiệp. Từ đó nhà quản lý lập nên sự cung cấp dịch vụ
một cách lý tưởng.
Lựa chọn đích từ đó đánh giá khối lượng và nhu cầu; Xác định những đặc điểm của
sản phẩm có thể đáp ứng sự mong đợi của đích này.
Dự tính về vịtrí của doanh nghiệp trên thị trường với các đối thủ cạnh tranh cùng
sản phẩm.
Đặt ra những vấn đề của sản phẩm : tính chất thực của sản phẩm hoặc của các dịch
vụ phối hợp, mặt bằng giá, phương pháp phân phối, phương pháp bán, thông tin về
sản phẩm, các hoạt động thương mại. Từ đó doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định
tung ra hay không một sản phẩm.
1.2.1.3. Vai trò của Marketing Bảo hiểm.
Marketing ngày nay đóng một vai trò trung tâm trong việc dịch chuyển thông tin
khách hàng thành các sản phẩm,dịch vụmới và sau đó định vị những sản phẩm này
trên thị trường. Các sản phẩm dịch vụ mới là câu trả lời của các công ty trước sự
thay đổi sở thích của khách hàng và cũng là động lực của sự cạnh tranh. Nhu cầu
của khách hàng thay đổi, các công ty phải đổi mới để làm hài lòng và đáp ứng nhu
cầu của khách. Vì vậy Marketing hiện đại có vai trò là:

- Xác định nhu cầu của khách hàng, thiết lập và lãnh đạo tiến trình đổi mới.
Phối hợp với các hoạt động nghiên cứu và phát triển khác để thúc đẩy tiến trình
thực hiện các sản phẩm mới, và nó là nhân tố quan trọng nhất tác động đến thành
công của một sản phẩm.
Giúp doanh nghiệp chỉ ra được những xu hướng mới, nhanh chóng trở thành đòn
bẩy, biến chúng thành cơ hội, giúp cho sự phát triển chiến lược và sự lớn mạnh lâu
bền của công ty.
1.2.2. Hoạt động nghiên cứu thị trường và phát triển Marketing mục tiêu.
1.2.2.1. Hoạt động nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là hoạt động tiên quyết của bất kì doanh nghiệp kinh
doanh nào chứ không riêng gì DNBH. Mục tiêu chủ yếu của nghiên cứu thị trường
là thu thập thông tin và xử lý thông tin về thị trường, nhằm xác định khả năng tiêu
thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Căn cứ vào kết quả xử lý thông tin thị trường mà
doanh nghiệp có cơ sở khoa học để đề ra những chính sách tiếp thị thích hợp (phân
22

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

đoạn thị trường, xác định thị trường mục tiêu, xác định bốn chính sách: sản phẩm,
giá cả, phân phối, xúc tiến yểm trợ) nhằm nâng cao khả năng thích ứng của sản
phẩm với thị trường luôn biến động. Bằng cách đó, doanh nghiệp mới có thể củng
cố, giữ vững thị trường, giá cả và mở rộng, chiếm lĩnh thị trường mới.









1.2.2.2. Quá trình nghiên cứu thị trường:
Xác định vấn đề nghiên cứu: Trong giai đoạn này cần phải xác định mục tiêu
nghiên cứu, các vấn đề cần giải quyết, các thông tin đã có và các thông tin cần thu
thập. Nghiên cứu thị trường đòi hỏi cho phi. Do vậy việc xác định mục tiêu nghiên
cứu trước khi tiến hành nghiên cứu là tối cần thiết.
Xây dựng kế hoạch nghiên cứu: Trong kế hoạch nghiên cứu cần mô tả chính xác
các đặc trưng của nghiên cứu và thủ tục để tiến hành nghiên cứu, thường mở đầu
bằng việc nhắc lại những mục tiêu nghiên cứu và những câu hỏi cần giải đáp.
Cụ thể hơn trong một kế hoạch nghiên cứu gồm: chọn những phương pháp luận
và các thông tin cần thu thập, các phương pháp thu thập và xử lý thông tin có ích;
cuối cùng là lập ngân sách cần thiết cho nghiên cứu.
Thực hiện nghiên cứu: Đây chính là quá trình thu thập và xử lý thông tin hữu ích
cần thiết cho việc ra quyết đinh. Công việc nghiên cứu có thể do bộ phân marketing
của doanh nghiệp tiến hành hoặc thuê ngoài, tùy theo mục tiêu để chọn lọc và tổng
hợp thông tin.
Chuẩn bị và trình bày báo cáo

a Nội dung nghiên cứu
 Thăm dò thị trường: các nghiên cứu thăm dò có mục tiêu thu thập và xử lý thông tin
thị trường về những vấn đề:
- Số lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấpcủa đối thủ trên thị trường.
- Tình hình cung cầu trên thị trường.
- Tìm hiểu chiến lược Marketing của đối thủ, so sánh với chiến lược của doanh

nghiệp.
- Phân tích mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh.
- Mức độ hiểu biết của khách hàng về sản phẩm dịch vụ và mức độ thỏa mãn của họ.
- ...v…v…
 Thử nghiệm thị trường: dùng để thu thập những thông tin thị trường cần thiết mà
việc thăm dò trực tiếp không thu được. Phương pháp thử nghiệm thị trường có thể
dùng nghiên cứu hai vấn đề sau:
- Thử sản phẩm mới: nhằm giới thiệu với khách hàng một sản phẩm mới, hay chính
sách mới, sau đó đánh giá mức độ yêu thích của khách hàng, khả năng của họ. Bằng

23

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

cách này, doanh nghiệp có cơ sở để cải tiến sản phẩm trước khi tung ra thị trường,
tránh việc thật bại trên thị trường.
- Thử nghiệm thị trường nhằm đưa sản phẩm đến một thị trường mới. Thử nghiệm thị
trường cũng dùng để thử nghiệm các nội dung quảng cáo để lựa chọn nội dung
quảng cáo thích hợp. lựa chọn chính sách giá cả, lựa chọn tên gọi sản phẩm, dịch
vụ….
 Phân đoạn thị trường: đây là mộ công việc hết sức quan trọng. Do đó, để phân đoạn
có khoa học, khách quan, doanh nghiệp cần phải có thông tin đầu đủ về khách hàng
của mình.

 Dự báo thị trường:
Nhằm vạch ra những xu thế phát triển trong tương lai của những yếu tố thị
trường để vạch ra chính sách phù hợp. Những bài toán quan trọng của dự báo thị
trường là dự báo doanh thu, dự báo rủi ro,…
k) Thu thập thông tin thị trường
Có nhiều phương pháp thu thập thông tin hiệu quả, nhưng phổ biến nhất hiện
nay là:
 Phương pháp bàn giấy: dùng các hình thức thống kê, tổng hợp thông tin, phân tích.
Đây là phương phá phổ biến dễ thực hiện, chi phí thấp và tồn tại trong mọi doanh
nghiệp.
 Phương pháp nghiên cứu hiện trường: Đây là phương pháp mang lại hiệu quả cao
song quá trình thực hiện đòi hỏi trình độ chuyên nghiệp cao. Phương pháp này
mang tính cọ xát thực tế thị trường nhiều nên thông tin cung cấp rất chính xác. Hai
hình thức chủ yếu của phương pháp này là quan sát và phỏng vấn.
 Phương pháp điều tra chọn mẫu: là phương pháp tùy thuộc rất lớn và mẫu được
chọn. Vì mẫu đó có tính đặc trưng riêng nên thông tin thu thập được có thể chỉ áp
dụng được cho các mẫu con nhất định. Việc nhân rộng cho các đối tượng khách
hàng sẽ có xác suất thấp, sai lệch lớn. Có hai cách điều tra chủ yếu là: điều tra toàn
bộ và điều tra không toàn bộ.
1.2.2.3. Phát triển Marketing mục tiêu.
Marketing mục tiêu là việc phát triển phối thức tiếp thị riêng cho một hoặc nhiều
phân khúc thị trường. Marketing mục tiêu trái ngược với marketing đại trà, là hình
thức tiếp thị một sản phẩm cho toàn bộ thị trường.
Marketing mục tiêu trải qua 3 giai đoạn như sau:
 Marketing đại trà: Người bán sản xuất, phân phối và kích thích tiêu thụ đại trà một
mặt hàng cho tất cả các người mua.
24

SV: Trần Đức Lộc


Lớp: Kế hoạch 54B


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS.TS. Vũ Thành Hưởng

 Marketing đa dạng hoá sản phẩm: Người bán sản xuất 1hay nhiều loại mặt hàng






nhằm tạo ra sự phong phú đa dạng cho người mua trên thị trường.
Marketing mục tiêu: Người bán xác định ranh vạch ranh giới các đoạn thị trường,
lựa chọn 1 (hoặc 1vài) đoạn thị trường làm thị trường mục tiêu và soạn thảo chương
trình marketing nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường mục tiêu đã chọn.
Tiến trình của marketing mục tiêu là S-T-P. Trong đó:
S: Market Segmentation (Phân đoạn thị trường)
T: Target Market (Thị trường mục tiêu)
P: Market Positioning (Định vị thị trường)

a
Phân đoạn thị trường.
 Khái niệm: Là quá trình phân chia người tiêu dùng thành từng nhóm trên cơ sở
những điểm khác biệt về nhu cầu, tính cách hay hành vi.
 Yêu cầu: Có nhiều cách để phân khúc thị trường, nhưng không phải tất cả các cách
phân khúc thị trường đều có hiệu quả. Để đảm bảo hữu ích tối đa, các khúc thị
trường phải có các đặc điểm sau:

- Đo lường được: về quy mô, sức mua và các đặc điểm của khúc thị trường.
- Đủ lớn: những khúc thị trường này phải đủ lớn và sinh lời xứng đáng cho việc phục
vụ, thực hiện riêng một chương trình marketing.
- Có thể tiếp cận được: các khúc thị trường này phải đảm bảo tiết kiệm được và phục
vụ có hiệu quả.
- Có thể hoạt động được: các khúc thị trường phải khác biệt nhau về quan niệm và
đáp ứng khác nhau đối với các yếu tố marketing-mix và chương trình marketing
khác nhau.
- Có thể hoạt động được: có thể xây dựng những chương trình có hiệu quả để thu hút
và phục vụ những khúc thị trường đó.
 Những tiêu thức phổ biến để phân khúc thị trường người tiêu dùng.
Ta có thể mô hình hóa các biến số chủ yếu trong phân đoạn thị trường người
tiêu dùng như sau:

Bảng 1.3: Cơ sở để phân đoạn thị trường
Cơ sở phân đoạn
Địa lý

Tiêu thức phân đoạn
Miền ( miền Bắc, miền Trung, miền Nam)
Vùng (thành thị, nông thôn)
Tỉnh, huyện, quận, xã, phường…

25

SV: Trần Đức Lộc

Lớp: Kế hoạch 54B



×