Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Khoá luận tốt nghiệp việc tuyển chọn và sử dụng quan lại thời trần (1226 1400)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.18 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH sử
===#T)CQGS===

LÝ THỊ THU HÀ

VIỆC TUYỂN CHỌN VÀ sử DỤNG
QUAN LẠI THỜI TRẦN (1226 -1400)

KHÓA LUÂN TỐT NGHIẼP ĐAI HOC
••••

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
Th.s. NGUYỄN YĂN NAM

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận này là kết quả của sự tận tình, sự góp ý chân thành của tất cả các
thầy giáo, cô giáo và sự nỗ lực của bản thân tôi ttong suốt thời gian học tập ttong
Khoa Lịch Sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Tôi xin gửi lời cảm cm chân thành tới các thầy cô giáo trong Khoa Lịch Sử
đã truyền đạt cho chúng tôi một kho tàng kiến thức hết sức bổ ích và nhiều điều
thú vị trong quá trình học tập tại ngôi trường này. Đặc biệt là tôi xin bày tỏ lòng
biết cm sâu sắc của mình đến Th.s Nguyễn Văn Nam đã tận tình chu đáo hướng
dẫn tôi thực hiện khóa luận này.
Với nhận thức và khả năng còn hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên
bài khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong được


sự đóng góp nhiệt tình của quý thày cô giáo và các bạn đồng nghiệp. Đó sẽ là
hành trang quý giá giúp tôi hoàn thiện kiến thức sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngày tháng năm 2016 Sinh

LÖI CAM DO AN

viên
Lý Thị Thu Hà


Toi xin cam doan de täi lä do chinh toi thuc hien, nhüng täi lieu tham khäo
cö nguön lieu trich dän rö rang, cu the. Toi cüng xin cam doan de tai näy khöng
trang voi bat ky de täi näo.
Toi xin chiu träch nhiem hoän toän voi noi düng cüa de täi.
Ngäy thäng näm 2016

Sinh vien
Ly Thi Thu Hä


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi xã hội phân chia thành giai cấp và cùng với đó là sự xuất hiện của nhà
nước thì chính trị và con người chính trị cũng ra đời. Con người chính tri có vai
trò rất to lớn, họ là nhân tố quyết định đến sự vận động và phát triển của chính trị
nói riêng và toàn xã hội nói chung. Neu quyền lực chính trị được xác lập trên thực

tế thông qua bộ máy nhà nước hay tổ chức chính quyền nhà nước thì nhà nước đó
hoạt động như thế nào, có thực hiện được chức năng của nó hay không lại phụ
thuộc rất nhiều vào yếu tố con người chính trị.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta thường xuyên phải đối mặt
với nhiều mối đe dọa của thiên tai, địch họa và các vấn nạn ngoại xâm. Bởi thế mà
việc tập hợp và sử dụng ngưòi tài của quốc gia, xây dựng bộ máy chính trị thống
nhất, củng cố khối đại đoàn kết quân dân phải đặt lên hàng đầu. Đe giải quyết
được nhiệm vụ ấy các triều đại phong kiến Việt Nam cần phải có một đội ngũ
quan lại có đủ năng lực, việc tuyển chọn và sử dụng quan lại là vấn đề cần thiết
nhằm xây dựng lên một hệ thống quan trường vững chắc, góp phần củng cố và
phát triển hom nữa quyền lực của triều đại. Tuyển chọn và sử dụng quan lại, đưa
họ tham gia vào bộ máy hành chính, cống hiến những tài đức được coi là “nguyên
khí” xây dựng quốc gia.
Trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam, nhất là vào thời thịnh trị có “vua
sáng tôi hiền” luôn coi trọng nhân tài. Nhân tài được xem là “quốc bảo” là “tinh
hoa của dân tộc”, là “rường cột” là “nguyên khí” của quốc gia. Thân Nhân Trung
từng nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước càng
mạnh và lớn lao, nguyên khí suy thì nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy bậc
vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo, nuôi dưỡng và đào tạo
nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí”. Từ đây, chúng ta có thể thấy được vị trí, vai
trò của nhân tài trong xã hội là cực kỳ quan trọng, họ là một phần của lịch sử dân
tộc.
5


Đến thời Tràn, kế thừa các triều đại trước đó việc tuyển chọn quan lại đã dàn
đi vào quy củ, có quy định rõ ràng. Phương thức tuyển dụng quan lại thòi Trần
khá phong phú. Quan lại được tuyển chọn bằng nhiều hình thức và cốt yếu là
tuyển chọn người có thực tài tham gia vào bộ máy nhà nước, điều này đã giúp cho
vương triều Trần trong suốt thời gian tồn tại của nó đã đạt được nhiều thành tựu

rực rỡ trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội.
Nghiên cứu quá trình tuyển chọn và sử dụng quan lại thời Trần không chỉ
góp phần làm rõ các hình thức tuyển chọn, phân bổ và sử dụng đội ngũ quan lại
mà còn chứng minh tổ chức thi cử, phân bổ và sử dụng quan lại ở giai đoạn này
đã có bước phát triển hơn hẳn so với các giai đoạn trước đó. Thông qua các kết
luận của công trình nghiên cứu về những đặc điểm và những tác động của quá
trình tuyển chọn và sử dụng quan lại thời nhà Tràn, liên hệ và rút ra những kinh
nghiệm càn thiết vận dụng vào công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
Xuất phát từ lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Việc tuyển chọn và sử
dụng quan lại thời Trần (1226-1400)” làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước đến nay, dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đã có không ít tác
giả đề cập đến vấn đề đào tạo và sử dụng đội ngũ quan lại cũng như việc dùng
người trong chính trị của các nhà nước phong kiến Việt Nam trong lịch sử. Tiêu
biểu có các công trình nghiên cứu sau đây:
Tác phẩm thông sử “Đại Việt sử kí toàn thư’ ’ của Ngô Sĩ Liên do Nhà xuất
bản Văn học ấn hành năm 2009 đã cung cấp tư liệu về cách thức tuyển chọn quan
lại thòi Trần. Nhưng do tác phẩm chỉ đặt vấn đề trong mối quan hệ vói các lĩnh
vực khác như chính trị, văn hóa, xã hội nên chỉ cung cấp một cách sơ lược những
tư liệu về việc tuyển chọn quan và sử dụng quan lại của các triều đại chứ chưa có
nhận xét đánh giá về cách thức tuyển chọn quan lại, tác động của các chính sách
tuyển chọn và sử dụng vói lịch sử vương triều Trần.
Cuốn “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú là cuốn chính sử
6


cung cấp những sự kiện xác thực nhất về việc tuyển chọn quan và sử dụng quan
lại của các triều đại phong kiến trong đó có nhà Tràn. Trong đó có hẳn phần
“Quan Chức Chí” chép về danh hiệu, chức vụ, phẩm tước, lương bổng và cách
tuyển cử quan lại dưới các triều đại.

Tài liệu sách chuyên khảo: “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX”
của Đào Duy Anh, của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản (2002). Cuốn
“Lịch sử văn hóa Việt Nam” của Huỳnh Công Bá - Nhà xuất bản Thuận Hóa
(2008). Và cuốn “Lịch sử Việt Nam” tập I do tác giả Phan Huy Lê chủ biên, Nhà
xuất bản Giáo dục ban hành. Đây là những cuốn sách viết đầy đủ và sâu sắc nhất
về các triều đại phong kiến Việt Nam trong đó có đề cập đến hình thức tuyển chọn
và sử dụng quan lại thòi nhà Tràn.
Nổi bật hơn nữa có bài trích “Phương thức tuyển dụng quan lại thòi Tràn”
của tác giả Nguyễn Thị Phương Chi, năm 2006 - số 7 - trang (19 - 26) - Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử. Bài trích này có trình bày về các phương thức tuyển dụng
quan lại dưới thời nhà Trần tuy nhiên vẫn chưa đề cập rõ đến các phương thức
phân bổ, sử dụng số quan lại đã được tuyển chọn.
Các công trình đều có liên quan hay ít nhiều đề cập đến vấn đề tuyển chọn
và sử dụng quan lại thời nhà Trần. Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm và bài viết đó
mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh hoặc trình bày một cách khái quát chứ chưa
đi sâu vào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống bức tranh lịch sử về quá
trình tuyển chọn và sử dụng quan lại thòi Tràn từ năm 1226 -1400.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vỉ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu đề tài

Khóa luận tập trung nghiên cứu chính sách tuyển chọn và sử dụng quan lại
thời Trần (1226-1400) để rút ra đặc điểm và tác động của chính sách tuyển chọn
và sử dụng quan lại dưới thời Trần.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Để đạt được mục đích trên, Khóa luận tập trung giải quyết các nhiệm vụ

7


sau:
+ Nghiên cứu làm rõ cơ sở để tuyển chọn và sử dụng quan lại triều Trần.
+ Trình bày một cách có hệ thống các chính sách, biện pháp thực hiện và kết
quả đạt được trong quá trình đào tạo và sử dụng quan lại thời Trần.
+ Rút ra những đặc điểm và những tác động của quá trinh tuyển chọn và sử
dụng quan lại thời nhà Trần.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
về không gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu quá trình tuyển chọn và sử
dụng quan lại trong phạm vi lãnh thổ nước Đại Việt dưới thời Trần.
về thời gian: Khóa luận nghiên cứu quá trình tuyển chọn và sử dụng quan lại
trong thời gian triều Tràn tồn tại từ năm 1226 đến 1400.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiền
cứu 4.1 Nguồn tư liệu
Những tài liệu thông sử và chuyên khảo nói về các triều đại phong kiến ở
Việt Nam, các cuốn sách viết về triều đại nhà Tràn được lưu trữ ở Thư viện Quốc
Gia, Thư viện trường Đại học sư phạm Hà Nội, Thư viện trường Đại học Quốc
Gia Hà Nội, Thư viện trường Đại học sư phạm Hà Nội 2.
Tài liệu giáo trình Đại học: Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1, Tiến trình lịch
sử Việt Nam, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến 1858...
Những bài viết viết triều Trần đăng ừên các Tạp chí Nghiên cứu lịch sử; Tạp
chí Văn, Sử, Địa.
4.2.

Phương pháp nghiên cứu

về phương pháp luận: Khóa luận dựa ừên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

về phương pháp nghiên cứu: Công trình nghiên cứu dựa trên hai phương
pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử với phương pháp lôgic. Ngoài ra, khóa luận
còn sử dụng các phương pháp khác như: thống kê, đối chiếu, so sánh, liên ngành.

8


5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận đã tập họp và xử lý các tư liệu liên quan đến đề tài, trên cơ sở đó
dựng lại quá trình tuyển chọn và sử dụng quan lại thời Trần (1226-1400).
Rút ra những đặc điểm và những tác động của việc tuyển chọn và sử dụng
quan lại thời Trần, từ đó liên hệ và rút ra những kinh nghiệm cần thiết vận dụng
vào công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, đặc biệt là cải cách giáo dục và cải
cách hành chính.
Thông qua nghiên cứu, khóa luận góp phần cung cấp những luận cứ khoa
học cho việc đánh giá những giá trị tiêu biểu trong đường lối trị nước của các vị
vua nhà Trần. Khóa luận cũng là nguồn tư liệu tham khảo cho các công trình
nghiên cứu về vương triều Tràn, cung cấp tư liệu học tập môn Lịch sử Việt Nam
cổ trung đại cho các bạn sinh viên Khoa lịch sử.
6. Kết cấu khóa luân
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, khoá luận
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở để tuyển chọn và sử dụng quan lại thời Trần (1226 - 1400)
Chương 2: Việc tuyển chọn và tuyển chọn và sử dụng quan lại thời Tràn
(1226 - 1400)
Chương 3: Đặc điểm và tác động của việc tuyển chọn và sử dụng quan lại
thời Trần (1226 -1400)
CHƯƠNG 1
Cơ SỞ ĐẺ TUYÊN CHỌN VÀ sử DỤNG QUAN LẠI TRIỀU TRÀN
(1226 -1400)

1.1.

TÌNH HÌNH KINH TÉ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA

- Tư TƯỞNG, GIÁO DỤC
1.1.1.

Tình hình kỉnh tế

1.1.1.1.

Trong nông nghiệp
9


Thời Tràn có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu nên cũng giống như các
triều đại trước đó, các vua nhà Trần luôn quan tâm, chăm lo tói sản xuất nông
nghiệp. Hằng năm vào mùa xuân, các vua nhà Tràn thường thân chinh cày vài
đường trong lễ cày “tịch điền” để khuyến khích nông nghiệp. Nhà nước có những
biện pháp bảo vệ sức sản xuất và sức kéo. Để bảo vệ sức sản xuất, nhà Trần đã
chú ý tới bảo vệ nhân đinh - nguồn lao động chủ yếu trong xã hội cũng như lực
lượng sản xuất trực tiếp. Nhà nước có những luật lệnh để bảo vệ trâu bò nhằm bảo
vệ sức kéo cho nông nghiệp, chính vì vậy tội trộm trâu hay giết trâu thường bị xử
lí rất nặng. Chính sách “ngụ binh ư nông” được nhà Trần áp dụng giúp cho nhân
lực được phân phối đều ở cả hai nhiệm vụ là canh tác nông nghiệp và nghĩa vụ
quân sự, đây là một trong những chính sách hợp lí và phù hợp với tình trạng dân
số ít ỏi của Đại Việt. Chính sách này đã vừa cung cấp được lực lượng tham gia
vào lao động sản xuất, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nông
nghiệp, vừa cung ứng được nhu cầu binh lính cho quân đội khi có giặc ngoại xâm.
Triều đình cho phép các vương hầu chiêu tập những người nghèo khổ, lưu

lạc đi khai khẩn đất hoang để mở mang ruộng nương. Dưói thòi nhà Tràn, chính
sách khẩn hoang được nhà nước chú trọng và tăng cường đẩy mạnh. Năm 1344,
Nhà Tràn cho đặt các cơ quan và các chức quan chuyên lo việc mộ dân, khai
hoang lập đồn điền. Những đối tượng tham gia lập đồn điền chủ yếu là tù binh
(Chăm), những người tù tội, dân xiêu tán và binh lính. Các điền trang, thái ấp giữ
một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp thòi Tràn. Sự phát triển của
thái ấp điền trang đã góp phần hình thành nên các quý tộc có thế lực lớn, các thái
ấp ttở thành vùng đất riêng của quý tộc thời Trần. Dưới sự lớn mạnh của các quý
tộc ở các thái ấp đã đặt ra yêu cầu buộc các vua nhà Trần phải đoàn kết các quý
tộc lại, không để họ thoát li khỏi chính quyền địa phương, tránh phân tán quyền
lực ở chính quyền trung ương, tập trung quyền lực vào trong tay các quý tộc. Việc
tuyển dụng, bổ nhiệm các quý tộc có địa vị và năng lực vào các vị trí quan trọng
trong bộ máy nhà nước cũng được triều đình cất nhắc.
1
0


Ruộng đất công làng xã chiếm số lượng tương đối lớn, nhà Trần đã có chế
độ tô thuê cho loại ruộng công làng xã. Phép định tô thuế đầu tiên được ban hành
vào năm 1242, nhân đinh có ruộng thì nộp tiền thóc. Có 1 - 2 mẫu ruộng thì nộp
một quan, 3-4 mẫu ruộng thì nộp hai quan tiền, từ 5 mẫu trở lên nộp 3 quan tiền;
tô mộng mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc. Do chính sách của nhà Trần cho phép mua
bán mộng đất nên bộ phận mộng đất tư ở thòi Trần tương đối phát triển, tuy nhiên
đa số mộng đất tư nằm trong tay quý tộc, quan lại, cường hào. Đây cũng là lý do
buộc nhà Trần phải tăng cường bộ máy quan lại để làm nhiệm vụ thu thuế cíăng
như quản lí mộng đất.
Chính sách trọng nông của nhà Tràn còn được thể hiện ở chỗ nhà nước quan
tâm, chăm lo đến công việc trị thủy, thủy lợi nhằm phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp và công cuộc khai hoang. Ở thời Lý, công việc trị thủy do các địa phương
tự lo liệu, tự góp tiền của, nhà nước chỉ đóng vai ừò chỉ đạo và quản lí một số đê

xung quanh Thăng Long; nhưng khi nhà Trần vừa lên nắm chính quyền đã nhanh
chóng có những biện pháp phục hồi sản xuất nông nghiệp, phục hồi diện tích canh
tác trong đó có tổ chức làm thủy lọi trong phạm vi cả nước. Các cơ quan chuyên
phụ trách công tác trị thủy, thủy lợi cũng được ra đời.
Việc nhà Trần rất quan tâm phát triển nền kinh tế nông nghiệp chứng tỏ các
chức quan phụ trách nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong bộ máy nhà
Trần. Đồng thời chính sách khuyến khích, phát triển nông nghiệp đã góp phàn làm
tăng thêm tích lũy cho nhà nước, đời sống nhân dân ổn định, nhờ đó đã tạo nên cơ
sở vững chắc cho công cuộc xây dựng đất nước cũng như góp phần làm nên thắng
lợi trong công cuộc chống giặc ngoại xâm.
1.1.1.2.

Trong thủ công nghiệp

Dưới thời Tràn có hai bộ phận là thủ công nghiệp nhà nước và thủ công
nghệp dân gian. Trong thủ công nghiệp nhà nước, nhà Trần đã trưng tập các thợ
khéo, thợ giỏi về làm ừong các quan xưởng, bao gồm nhiều ngành nghề khác
nhau: nghề gốm, nghề dệt, xưởng chế tạo vũ khí, đúc tiền, ...“Thợ làm việc trong
1
1


quan xưởng đều có thân phận thấp kém. Với phương thức lao động cưỡng bức,
người thợ bị trói buộc vào chính quyền. Sản phẩm làm ra thỏa mãn nhu cầu sử
dụng trong cung đình và cho quan lại, không phải là thương phẩm. Sự tồn tại của
nó không có tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hàng hóa ” [10,
tr.205]. Thủ công dân gian là bộ phận quan trọng và phổ biến của thủ công
nghiệp, của tiểu nông, những người nông dân cũng đồng thòi là những người thợ
thủ công. Chợ, phố, lị, sở, các phủ lộ và kinh đô Thăng Long là địa điểm trao đổi
các sản phẩm thủ công nghiệp.

Có thể nói thủ công nghiệp thời Trần rất phát triển. Nhiều nghề thủ công mà
sản phẩm của nó đạt đến trình độ tình xảo như nghề sản xuất gốm, nghề chế tác
kim hoàn, nghề chạm khắc gỗ...hình thành nên các làng nghề thủ công, những
trung tâm sản xuất có tiếng, sản phẩm của nó đã trở thành hàng hóa có mặt ở các
khu vực lân cận. Điều này đòi hỏi nhà nước càn có một đội ngũ quan lại điều hành
các hoạt động sản xuất, đặc biệt là bộ phận quan lại điều hành các hoạt động sản
xuất ở các quan xưởng.
1.1.1.3.

Trong thương nghiệp

Ngay từ những ngày đầu thành lập nhà Trần đã kiến tạo một hệ thống giao
thông đường thủy và đường bộ trong cả nước. Hệ thống giao thông sông, biển và
trên bộ của thời Tràn vói mục đích chính phục vụ yêu càu quân sự nhưng cũng có
nhiều tác động đối với thương nghiệp. Sông ngòi là mạch giao thông quan trọng,
truyền thống giao thông vận tải của người Việt là vận tải bằng thuyền. Biển, sông,
kênh đào đều dùng thuyền đi lại để phục vụ chuyên chở. Tuyến đường biển thời
Trần đã góp phần tích cực để phát triển thương nghiệp, thuyền các nước Diệp
Điểu (Giava), Thiện (Men Điện), Thiên Trúc (Ấn Độ) từng cập bến các hải cảng
nước ta. Dưới thời Tràn đã hình thành những trung tâm thương mại lớn như
Thăng Long và Vân Đồn. Vân Đồn là thương cảng quốc tế, phát triển phồn thịnh
từ cuối thế kỷ XII đến thế kỷ XIV và duy trì hoạt động trong những thế kỷ sau.
Trung tâm thương mại Thăng Long lớn nhất nước, nơi tập trung nhiều hàng hóa
1
2


chất lượng cao phục vụ cho cuộc sống của nhiều tầng lớp ở kinh đô, trong đó có
nhiều hoàng gia, quan lại cao cấp, thương nhân, nho sĩ, thợ thủ công...Với sự phát
triển phồn thịnh của thương nghiệp nên triều đại Lý — Tràn đã xác định “ Tiền là

phương tiện lưu thông hàng hóa. Các vua Đại 'Việt thời Lý - Trần đều có đúc
tiền. Ngoài ra trên thị trường còn sử dụng nhiều tiền Trung Quốc. Nhà Trần đã
mở rộng việc mua bán đất bằng tiền, nộp tiền để lấy quan chức” [11, tr. 207].
Quan hệ tiền tệ đã thâm nhập vào đời sống chính trị và tín ngưỡng của tầng lớp
nhân dân cũng như tầng lớp quan lại lúc bấy giờ.
Để phát triển nền kinh tế thương nghiệp nhà Trần cần bộ phận quan lại phụ
trách các mạng lưới giao thông, trông coi các thương cảng, việc đúc tiền cũng cần
phải có một đội ngũ quan lại phụ trách, điều này đã tác động tới việc tuyển chọn
và sử dụng quan lại thời Tràn.
Như vậy có thể thấy dưới triều đại nhà Trần nền kinh tế nước ta hết sức được
quan tâm chú ý, do đó mà nền kinh tế đất nước đã có những bước phát triển quan
trọng, đáp ứng được nhu cầu trao đổi ừong nước, ngoài nước. Dưới tác động của
nền kinh tế đã ảnh hưởng ít nhiều đến việc tuyển chọn quan lại của nước ta. Với
một nền kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ đạo cũng đã quy định đến việc tổ chức
chính quyền đó là nhà nước luôn quan tâm nhiều hơn đến các chức quan phụ trách
nông nghiệp.
Sự phát triển của nền kinh tế đất nước đã tạo nên nền tảng vững chắc để
triều đại nhà Trần có thể ổn định, phát triển bền vững, cũng như có tiềm lực để
củng cố bộ máy chính quyền, tăng cường khả năng quốc phòng, chống giặc
ngoại xâm thông qua các phương pháp tuyển chọn và sử dụng người tài.
1.1.2.

Tình hình chính tri - xã hôi
••

1.1.2.1.

Chinh trì

Ngoài việc phải đối phó vói kẻ thù xâm lược từ bên ngoài thì nhìn chung

chính tri thời Trần tương đối ổn định. Cuộc thay đổi triều đại, chuyển giao chính
1
3


quyền từ dòng họ Lý sang họ Trần diễn ra trong hoàng cung và triều đình mà hầu
như không có tác động gì trong xã hội, không một ảnh hưởng gì lan xa. “Tập
đoàn quỷ tộc Trần rất khôn khéo trong việc thâu tóm và nắm giữ chính quyền
nhanh gọn. Cả họ Lý bị suy yếu và tê liệt, không một phản ứng gì đáng kể” [11,
tr.175]. Nhà Tràn đã thay nhà Lý mở ra một thòi kỳ phát triển cao hơn của xã hội

xin vững vàng mà năng động đã
đưa đất nước thống nhất và ổn định cho đến giữa thế kỷ xrv.
Đại Việt, chính quyền nhà Trần trong thế kỷ

về bộ máy nhà nước, vua là người nắm trong tay toàn bộ quyền lực như: ban
hành pháp luật, thực thi pháp luật, giữ quyền xét xử tối cao, đồng thời đứng đầu
quân đội, ngoại giao và chính sách thuế. “Triều đình Thăng Long dưới thời gian
này trước hết là tổ chức chính quyền của dòng họ Trần. Vua Trần tự mình đề cao
vị trí của bản thân, đồng nhất ngôi vua với đất nước. Năm 1250, Thái Tông xuống
chiếu cho thiên hạ gọi vua là quốc gia, nâng cao hơn tỉnh chuyên chế và tập trung
của triều đình” [11, tr.176]. Để đảm bảo vững chắc vị trí và khả năng chính quyền
trong tay vua, tránh những hành vi tranh ngôi trong hoàng tộc và để cho vua trẻ
điều khiển chính quyền vững vàng, nhà Trần áp dụng chế độ Thái thượng hoàng.
Vua cha chỉ ở ngôi một thời gian rồi truyền cho con, còn bản thân lui về Tức Mặc
(thành phố Nam Định) giữa tư cách cố vấn. Nhà Trần rất coi trọng quyền lợi của
dòng họ mình, thời gian đàu họ trần nắm giữa hầu hết các chức vụ quan trọng
trong triều, sự liên kết dòng họ nắm chính quyền là điều mà các vua Trần cố gắng
thực hiện. Nhà Trần áp dụng lối kết hôn đồng tộc với ý đồ là muốn khép kín,
không muốn tạo dựng một tập đoàn quý tộc khác ngoài dòng họ mình. Đe quản lí

họ hàng nhà Trần cho đặt phủ Tông nhân. Tuy nhiên do số người và năng lực có
hạn, nhà Trần vẫn phải tuyển chọn quan lại từ những người thuộc tầng lớp thân
hào sĩ phu, tuy nhiên việc tuyển chọn quan lại vẫn phải giữ nguyên tắc đảm bảo
quyền lọi của dòng họ Trần. Nhà nước này là khối liên kết của dòng họ Trần với
bộ phận quan liêu ở các cấp chính quyền khác nhau và ngày càng mở rộng. Những
năm đầu nhà Trần duy trì bộ máy chính quyền của thời Lý, năm 1230 nhà Trần
1
4


quy định lại bộ máy nhà nước có kỷ cương hơn, phù họp hơn vói hoàn cảnh đất
nước.
Chính quyền từ trung ương đến địa phương về cơ bản vẫn kế thừa thòi Lý.
Giúp việc cho vua là các quan đại thần và các cơ quan viện, sảnh đài. Thời Trần
phát triển hơn ở chỗ đã hình thành nên lục bộ là bộ Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công
để quản lí các công việc của triều đình. Nhà nước này là khối liên kết của dòng họ
Trần với bộ phận quan liêu ở các cấp chính quyền khác nhau và ngày càng mở
rộng. Những năm đầu nhà Trần duy trì bộ máy chính quyền của thời Lý, năm
1230 nhà Trần quy định lại bộ máy nhà nước có kỷ cương hơn, phù họp hơn với
hoàn cảnh đất nước. Chính quyền địa phương, nhà Trần tổ chức chính quyền theo
ba cấp phủ lộ, huyện châu, hương xã. Nhà Trần đổi 24 lộ thòi Lý thành 12 lộ gồm
có: “ Thiên Trường (Hà Nam), Long Hưng (Thải Bình), Quốc Oai (Hà Tây), Bắc
Giang (Bắc Ninh, Bắc Giang), Hải Đông (Quảng Ninh và một phần Hải Dương),
Trường Yên (Ninh Bình), Kiến Xương (Thái Bình), Hồng (phần Hải Dương),
Khoái (phần Hưng Yên), Thanh Hóa (Thanh Hóa), Hoàng Giang (phần đất Hà
Nam), Diễm Châu (Bắc Nghệ An)” [11, tr.178].
Nhà Trần đã tiếp gót nhà Lý xây dựng một thể chế chính trị phù họp với
vương triều mình là chế độ quân chủ thân dân, vua quan có mối quan hệ gàn gũi
và mật thiết với nhau. Với chế độ chính trị như vậy đã quy định phương thức
tuyển chọn quan lại của triều đại này, không phải là thi cử tuyển chọn chặt chẽ,

gắt gao như các triều đại về sau này mà ngược lại hệ thống quan lại nắm giữ vị trí
chủ chốt trong bộ máy nhà nước đều là tầng lớp quý tộc, tôn thất, sau này có thêm
những người tài năng bên ngoài dòng họ.
Đầu thế kỷ XIII, đế chế mông cổ hình thành. Bản đồ chính trị vùng Đông
Bắc Á thay đổi. Quý tộc phong kiến Mông cổ đã lôi kéo phần lớn thế giới vào
cuộc chiến tranh khủng khiếp. Gươm giáo, máu lửa, tính dã man và óc bành
trướng của quý tộc Mông cổ đã tạo nên một đế chế rộng lớn từ bờ Thái Bình
Dương đến bên kia Hắc Hải. Trước áp lực của quân đội Mông cổ đã buộc nhà
1
5


Trần phải ra sức củng cố và mở rộng quân đội, trong đó tuyển chọn và đưa những
võ quan có tài vào dùng trong quân đội là nhiệm vụ thiết yếu. Quân đội nhà Tràn
gồm có cấm quân và quân ở các lộ. cấm quân là đạo quân bảo vệ kinh thành, triều
đình, nhà vua, là nòng cốt trong chiến tranh chống ngoại xâm. Ở các làng xã có
hương binh. Khi có chiến tranh, còn có quân đội của các vương hàu. Quân đội nhà
Tràn được tuyển dụng theo chính sách "ngụ binh ư nông" và theo chủ trương :
"Quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông”, xây dựng tinh thần đoàn kết trong
quân đội. Binh lính nhà Tràn được học tập binh pháp và luyện tập võ nghệ thường
xuyên. Nhà Trần còn cử nhiều tướng giỏi cầm quân đóng giữ các vị trí hiểm yếu,
nhất là vùng biên giới phía bắc. Vua Trần thường đi tuần tra việc phòng bị ở các
nơi này.
Luật pháp thời Tràn được xem là một trong những luật cổ thành văn đầu tiên
ở nước ta (trước đó có luật Hình Thư thời nhà Lý). “Năm 1230 Trần Thái Tông
ban hành bộ Quốc triều thông chế (20 quyển) quy định về tổ chức chính quyền.
Sau đó vài lần sửa chữa và bổ sung, nhà Trần lại ban hành bộ Quốc triều hình
luật” [11, tr.178]. Luật pháp thời Tràn mang giá trị răn đe to lớn, nó góp phần
quan trọng trong việc ổn định xã hội, giữ vững và bảo vệ sức sản xuất cũng như
những quy định về kỷ cương phép nước.Cơ quan phát luật của nhà

Trần cũng được tầng cường và hoàn thiện hơn, việc tuyển chọn quan chức phụ
trách hình án lấy tiêu chuẩn thanh liêm, thẳng thắn.
Thời Trần, bằng cuộc hôn nhân giữa vua Chăm là chế Mân với công chúa
Huyền Chân, vua Chế Mân đã cắt hai châu là châu Ồ và châu Lý làm sính lễ cưới,
biên giới nước ta được mở rộng đến đèo Hải Vân hiện nay, sự mở rộng biên giới
lãnh thổ đã cũng buộc các vua Trần tiến hành việc di dân, mở rộng tuyển chọn
quan lại đến trấn trị các vùng đất mới.
Như vậy, với nền chính trị thân dân tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tương
đối phù họp và nền chính trị tương đối ổn định đã tạo điều kiện cho đất nước phát
triển, ổn định đời sống nhân dân. Cũng nhờ đó đã tạo điều kiện cho việc thi tuyển
1
6


và lựa chọn quan lại được tiến hành một cách thường xuyên và nghiêm ngặt. Việc
tuyển chọn quan lại thòi Trần luôn nhất quán một vẫn đề đó là quyền lực nằm
trong tay họ Tràn. Tuy nhiên do yêu càu phát triển của đất nước và củng cố chính
quyền, nhà Trần đã phải mở rộng mở rộng và tuyển chọn những nguôi ngoài họ,
bộ phận quan lại thông quan khoa cử ngày càng đông và đảm nghiệm nhiều vị trí
quan trọng trong bộ máy nhà nước.
/.7.2.2. Xã hội
Đại Việt dưới thời Trần là một xã hội tương đối ổn định với sự phân tầng
đẳng cấp trên quy mô quốc gia với hai đẳng cấp chính là vua quan và thứ dân,
ngoài ra dưới thứ dân là tầng lớp nô tỳ. Tuy nhiên sự phân hóa xã hội còn chưa
sâu sắc như các triều đại về sau và giữa các đẳng cấp trong xã hội vẫn còn mối
quan hệ gần gũi. Các cộng đồng làng xã còn khá thuần nhất, lúc này sự phân hóa
các hạng dân chủ yếu theo lứa tuổi (tiểu hoàng nam, đại hoàng nam, lão, long
lão). Tục trọng lão trọng xỉ (thiên tước) còn rất đậm trong làng xã. Nhà vua là
người đứng đầu, đại diện cho quốc gia dân tộc, trên danh nghĩa có uy quyền tối
thượng và toàn năng. Cũng giống như thòi nhà Lý, các vua nhà Trần coi mình là

cha mẹ của nhân dân, thi hành chính sách thân dân kiểu gia trưởng với tư tưởng từ
bi, bác ái của đạo phật. Các vua Tràn thường xuyên quan tâm, chăm lo tới đời
sống nhân dân, quan tâm chú trọng phát triển đất nước.
Đẳng cấp thứ dân bao gồm nhiều bộ phận nông dân tự do trong các làng xã,
họ cày ruộng công và có một ít ruộng tư, có nghĩa vụ nộp tô thuế, lao dịch và binh
dịch cho nhà nước. Ngoài ra còn có nô tỳ, tuy không là một đẳng cấp riêng biệt
nhưng lại là một tàng lớp xã hội khá đông đảo. Các tàng lớp trong xã hội được kết
nối bới tinh thần hòa đồng, tinh thần nhân ái, từ bi của đạo phật, bởi tinh thần thân
dân của thể chế chính trị nhà Trần.
Như vậy dựa trên tình hình chính trị - xã hội thòi Trần có thể thấy việc tuyển
chọn và sử dụng quan lại dưới thời Trần chịu ảnh hưởng sâu sắc của các vị vua,
vua là người trực tiếp quyết định tới việc dùng người trong bộ máy nhà nước
1
7


chính vì vậy đất nước có “vua sáng” thì mới có “tôi hiền” nếu vua kém anh minh
thì việc dùng người sẽ bị ảnh hưởng. Việc tuyển chọn và sử dụng quan lại thời
Trần cũng luôn dựa trên sự ưu tiên của nhà nước đối với quý tộc trong họ, đảm
bảo lợi ích của quý tộc Trần. Tình hình chính t r ị - x ã hội thống nhất cũng chính là
điều kiện để các vua Trần củng cố khối quan lại thống nhất từ trung ương đến địa
phương, tăng cường khả năng lãnh đạo, quản lí đất nước.
1.1.3.

Văn hóa - Tư tưởng, Giáo dục

1.1.3.1.

Văn hóa - tư tưởng


Thời Lý đã để lại những thành tựu rực rỡ về văn hóa như: Việc xây dựng
Văn Miếu và Quốc tử giám đánh dấu sự ra đời của nền giáo dục Đại Việt, văn học
chữ Hán bước đầu phát triển với các tác phẩm nổi tiếng như Chiếu dời đô của Lý
Công uẩn, Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt,... bắt đầu từ thời Lý, truyền
thống yêu nước ừong văn học hình thành và phát triển trong các giai đoạn sau,
Các vua Lý rất sừng đạo Phật, khắp nơi đều dựng chùa, tỏ tượng, đúc
chuông...Hoạt động ca hát, nhảy múa, ừò chơi dân gian, kiến trúc, điêu khắc... đều
phát triển, với phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo và linh hoạt, tiêu biểu là
chùa Một Cột, tượng Phật A-di-đà, hình rồng...
Thời Trần đã kế thừa và phát triển cao hơn nữa những thành tựu văn hóa mà
thời Lý để lại. Dưới thòi Tràn đã ừải qua ba làn chính quyền chung sức vói nhân
dân chống giặc ngoại xâm, đó chính là cảm hứng sáng tác văn thơ cho các nhà
văn, nhà thơ đồng thời cũng là nguồn cảm hứng cho văn học dân gian phát triển.
Tất cả các tác phẩm đều ngợi ca lòng yêu nước, ý trí bất khuất chống giặc ngoại
xâm, tinh thần đoàn kết, quật cường của dân tộc. Khoa học lịch sử cũng đã cùng
với những biến động của lịch sử và những thành tựu oai hùng mà thời Trần đã đạt
được trong công cuộc chống giặc ngoại xâm mà phát triển.
Nhà Trần đã rất quan tâm phát triển nền văn hóa đất nước, đội ngũ những
nhà văn, nhà nho giỏi có cơ hội để thể hiện mình. Ngược lại thông qua quá trình
thể hiện mình những người có tài tất yếu sẽ được cất nhắc và trọng dụng.
1
8


Vào thời Trần là sự tồn tại song song của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Sau
khi thay thế nhà Lý, triều Tràn tiếp tục truyền thống sùng tín đạo Phật và đồng
thời phát huy Nho giáo như là một hệ triết lý chính trị cần thiết để cai trị đất nước.
Phật giáo vẫn là loại tôn giáo có thế lực nhất trong tất cả các tôn giáo tồn tại dưới
thời ấy và có ảnh hưởng sâu đậm trong mọi tầng lớp và trong mọi lĩnh vực. Vua
Trần Thái Tông là một nhà nghiên cứu uyên thâm về Phật học, khi lên làm Thái

thượng hoàng ông đã chú tâm nghiên cứu thuyết nhà Phật và là tác giả của tác
phẩm cảo luận Thiền học Khóa hư lục. Trần Nhân Tông - vị vua thứ 3 nhà Trần
đã sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Với lý thuyết đề cao thái độ hướng
tâm, đi tìm sự giác ngộ bằng cái tâm tĩnh lặng của mình, là Phật tại tâm chứ không
cần gò bó trong giáo điều nào, nhà vua đã để lại một ảnh hưởng rất lớn trong phát
triển đạo Phật thòi Trần. Dưới sự phát triển của Phật giáo, các nhà chùa cũng theo
đó mọc lên vô kể, các hội hè Phật giáo được tổ chức không ngừng, các nhà chùa
có cả ngàn đệ tử, sở hữu hàng ngàn mẫu ruộng, ảnh hưởng của Phật giáo lan mạnh
trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, Phật giáo đã là một yếu tố liên kết nhân
tâm quan trọng. Tinh thần Phật giáo đã khiến cho các nhà chính trị đời Trần áp
dụng những chính sách bình dị, thân dân và dân chủ.
Đạo Phật dưới thời Trần rất hưng thịnh, YÌ vậy tăng ban dưới thời Trần giữ một vị
trí quan trọng trong bộ máy chính quyền.
Nho giáo khác hẳn với Phật giáo, nếu như Phật giáo có lý thuyết thiên về nội
tâm, về sự giác ngộ, về giải thoát con người ra khỏi bể khổ cuộc đời thì Nho giáo
đòi hỏi con người phải nhập thế. Lý thuyết Nho giáo dùng làm khuôn mẫu cho
việc trị nước, cho việc tổ chức gia đình và cho việc tu thân đã gặp môi trường
thuận lợi trong xã hội Việt Nam dưới thời Trần, một xã hội đang phát triển đòi hỏi
một thái độ nhập thế thiết thực. Dưới thời Trần tầng lớp nhà Nho được đào tạo
qua các trường, các kỳ thi ngày càng đông sỹ tử, hàng ngũ nhà Nho ngày càng có
uy tín quan trọng và vai trò quan trọng trong đời sống chính trị đất nước.
1.1.3.2.

Giáo duc
1
9


Nhà Tràn đã chính quy hóa, tạo nề nếp và quy củ cho việc học hành thi cử.
Trường Quốc tử giám ngày càng được củng cố và mở rộng đối tượng học tập. Tại

các phủ lộ, châu chức học quan được đặt ra. Không chỉ những trường học của nhà
nước các nhà nho còn lập các trường học ở thôn, xóm đây chính là yếu tố tích cực
đưa nhân dân đến gần hơn với việc học hành. Giáo dục thời Trần đã được mở
rộng và tổ chức quy củ hơn so với thời Lý. Thể lệ thi cử cũng được quy định rõ
ràng. Với mong muốn tăng nhanh trình độ học vấn của các quan chức, ngay từ
năm 1232, nhà Trần đã mở khoa thi đầu tiên cho triều đại mình. Sự phát triển của
nền giáo dục khoa cử chính là nền tảng cơ bản và quan trọng trong việc tuyển
chọn và sử dụng quan lại dưới thòi Trần.
Sự phát triển của văn hóa - tư tưởng, giáo dục đã góp phàn làm nên sự tồn tại
lâu dài của nhà Trần, đồng thời nó đã tạo nên đặc điểm riêng mang đậm bản sắc
dân tộc ta trong lịch sử. Cũng như đưa giáo dục của Đại Việt ta đi lên một tầm cao
mới là thông qua phép thi cử để tuyển chọn nhân tài phục vụ đất nước.
Như vậy có thể thấy, dưới thời đại nhà Trần đã xây dựng được một chính
quyền độc lập với một thể chế chính trị rõ ràng, chính trị - xã hội ổn định, bộ máy
nhà nước chặt chẽ và quy củ, kinh tế - văn hóa phát triển, đời sống nhân dân yên
ổn và ấm no. Những yếu tố ừên đã góp phàn tạo nên sức mạnh tổng họp để đưa
Đại Việt tuần tự phát triển đi lên thoát khỏi âm mưu nhòm ngó xâm lược của
phương Bắc cũng như để ra uy với phương Nam. Các yếu tố đó cũng chính là cơ
sở, tiền đề để nhà Trần tiến hành tuyển chọn và bổ sung đội ngũ nhân tài phục vụ
cho đất nước.
1.2.

VIỆC TUYỂN CHỌN VÀ sử DỤNG QUAN LẠI TRƯỚC

THỜI TRẦN
1.2.1.

Thòi nhà nước Văn Lang - Âu Lạc

Nhà nước phôi thai Văn Lang, tiếp đến là Âu Lạc gắn liền với tên tuổi của

Hùng Vương, Thục Vương không có đủ tài liệu để khôi phục và tìm hiểu rõ nét.
Một vài chức quan làm việc cho Hừng Vương như Lạc Hầu, Lạc Tướng cùng các
2
0


quan coi việc là Bồ Chính, đời đòi cha truyền con nối gọi là Chu Đạo, tất cả chỉ là
những nét chung chung về một nhà nước sơ khai được lưu lại trong truyền thuyết
để rồi được cố định lại bằng văn bản trong sử sách. Sử gia Phan Huy Chú khi
khảo về “quan chức” đã từng nhận định “Nước ta mở đầu từ thời Hùng Vương
dựng kinh đô, đặt quan trường, bấy giờ Lạc Hầu, Lạc Tướng không rõ chức ty”.
Có thể thấy chế độ chính trị thời kỳ này là sản phẩm của thời kỳ bắt đầu
dựng nước, mở màng cho buổi bình minh của lịch sử dân tộc,bộ máy nhà nước
thời Văn Lang - Âu Lạc là bộ máy đơn giản, sơ khai, tính chuyên chế chưa cao,
tính dân chủ còn sâu rộng. Tuy còn sơ khai nhưng bộ máy nhà nước ấy đã góp
phần làm nền mong cho sự phát triển của đất nước ta, tác động đến tổ chức chính
quyền ở các triều đại về sau mà đặc biệt là tư tưởng thân dân thòi Lý - Trần.
1.2.2.

Thời Kỳ Bắc thuộc

Thời Bắc thuộc là thời kỳ đất nước bị chia cắt, đô hộ bởi các thế lực phong
kiến phương Bắc. Thòi kỳ này kéo dài hơn 1000 năm, từ thế kỷ thứ III trước công
nguyên đến thế kỷ thứ X. Trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, các triều vua Trung
Quốc từ Hán đến Đường, thông qua chính quyền đô hộ nước ta khi ấy, đã kế tiếp
nhau thi hành chính sách cai ttị tàn bạo, chính sách đồng hoá, Hán hoá đối với
người Việt và văn hoá Việt trên mọi phương diện, nhằm vĩnh viễn thôn tính nước
ta vào đế quốc phong kiến phương Bắc. Chúng cho di thực mô hình tổ chức chính
trị và sinh hoạt xã hội Trung Hoa sang đất Việt, chúng xóa bỏ chính quyền trung
ương của vua Thục và chia nhỏ miền đất nước ta thành các đơn vị hành chính địa

phương theo hệ thống hành chính địa phương ở Trung Quốc là châu, quận, huyện,
hương, xã và đến thời Đường bao trùm lên các châu ở các miền đất nước ta chúng
đặt thành một phủ (An Nam đô hộ phủ). Từ một quốc gia độc lập, nước ta trở
thành một địa phương của Trung Quốc. Chúng thiết lập bộ máy quan lại, xây
dựng hệ thống quân đội và áp đặt hệ thống pháp luật để thống trị nhân dân ta, tiến
hành cống phẩm, bắt lao dịch và bóc lột về kinh tế. Quan lại giữ vị trí chủ chốt
đều được cử từ Trung Quốc sang, ngoài ra chúng còn đặt bộ máy tay sai ngưòi
2
1


bản xứ nhằm với tay đến các làng xã của người Việt.
Từ thế kỷ thứ X, với sự xuất hiện của họ Khúc, tuy giành được quyền độc
lập tự chủ nhưng vẫn duy trì danh nghĩa Tiết độ sứ - một chức quan do nhà Đường
đặt ra cho những người đứng đầu các châu. Chẳng những họ Khúc mà cả họ
Dương - Dương Đình Nghệ , sau khi đánh thắng quân Nam Hán vào năm 931
giành lại quyền quản lí vẫn duy trì danh Tiết độ sứ. Phải đến khi Ngô Quyền sau
khi chiến thắng quân Nam Hán vào năm 938, đóng đô ở cổ Loa và xưng Vương
thì một nhà nước độc lập tự chủ mới được khôi phục, mở đầu cho kỷ nguyên mới
của lịch sử dân tộc.
Có thể thấy trong thòi kỳ Bắc thuộc, đất nước ta chịu sự chi phối hoàn toàn
của chính quyền phương Bắc. Hệ thống quan lại cũng được triều đình phong kiến
phương Bắc cắt cử, chỉ định và phần lớn là những chức vụ quan trọng đều do
ngưòi Trung Quốc nắm giữ. Cũng trong thời gian này chúng ta đã học được cách
tổ chức chính quyền của phong kiến phưcmg Bắc, trong đó có cách cách tuyển
chọn và sử dụng quan lại để đến khi giành được độc lập các triều đại của nước ta
đã có một bước tiến mới ttong việc tổ chức chính quyền độc lập của riêng mình.
1.2.3.

Thòi phong kiến tự chủ


1.2.3.1.

Triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê

Năm 938, sau khi đánh bại quân Nam Hán, Ngô Quyền kéo đại quân trở về
Cổ Loa. Ông quyết định đóng quân ở cổ Loa để tỏ ý tiếp tục sự nghiệp dựng nước
và giữa nước đời Hùng Vương, Thục Vương; cũng từ đây một nhà nước quân chủ
trung ương tập quyền được thành lập và từng bước được củng cố, hoàn thiện.
Song song với việc xây dựng bộ máy quản lý đất nước thì việc tuyển chọn và sử
dụng quan lại tất yếu được đặt ra và đã từng bước từ chập chững ban đầu trở thành
quy củ và phát triển ở các triều đại sau. Ngô Quyền kiên quyết từ bỏ chức Tiết độ
sứ của phong kiến phương Bắc và tự mình xưng vương cũng như đặt ra các chức
quan văn võ, quy định lễ nghi trong triều đình và màu sắc đồ mặc của quan lại các
cấp. Mặc dù tổ chức chính quyền nhà nước lúc bấy giờ còn đơn giản, sơ sài nhưng
2
2


nó thể hiện đây là một chính quyền quốc gia độc lập, đúng như nhận xét của nhà
sử học Ngô Sỹ Liên ở thế kỷ thứ XV: “Tiền Ngô vương nổi lên không chỉ có công
chiến thẳng mà thôi, việc trăm quan, chế định triều nghỉ phẩm phục, có thể thấy
được quy mô của bậc đế vương” [5, tr.120]. Ngay từ thời Ngô triều đình đã chia
làm hai bên quan văn và quan võ, tuy nhiên việc tuyển chọn và sử dụng quan lại
thời kỳ này thì không được ghi chép cụ thể. Chủ yếu là do bổ nhiệm những người
có công đánh giặc làm quan và theo hình thức tiến cử người tài.
Năm 944 Ngô Quyền mất. Lợi dụng sự suy yếu của chính quyền trung ương,
các thế lực địa phương nổi dậy cát cứ gây ra loạn mười hai sứ quân, đi ngược lại
nguyện vọng thống nhất đất nước của nhân dân. Trước tình hình đó, năm 968,
Đinh Bộ Lĩnh đã đánh bại các sứ quân , thống nhất đất nước, lập ra nhà Đinh.

Đinh Bộ Lĩnh xưng là Hoàng đế, đặt tên nước là Đại cồ Việt, dựng đô mới ở
Hoa Lư. về tổ chức nhà nước, Đinh Tiên Hoàng bắt đầu định giai phẩm cho các
quan văn võ và tăng đạo. Trong triều đình, có một số quan văn võ như: sĩ sư,
tướng quân, nha hiệu, phó mã đô úy... Và các chức tăng quan đại sứ, tăng lục đạo
sĩ, sùng chân uy nghi.
Theo “Lịch triều hiến chương loại chí” và một số tài liệu lịch sử khác, triều
đình có Lưu Cơ làm đô hộ phủ sĩ sư, Lê Hoàn làm thập đạo tướng quân, Giang Cự
Vọng làm nha hiệu, Nguyễn Bặc làm đinh quốc công, Ngô Chân Lưu làm không
việt đại sư, Trương Ma Ny làm tăng lục đạo sĩ, Đặng Huyền Quang làm sùng chân
uy nghi... Các hoàng tử được phong vương: con cả Đinh Liễn được phong làm
Nam Việt vương, con thứ Đinh Toàn làm Vệ vương... Thời Đinh, nhà nước lấy
đạo Phật làm quốc giáo nên ngạch tăng quan có vai trò lớn trong việc tham dự
triều chính. Đại sư Ngô Chân Lưu - người đứng đầu tăng quan có quyền hành như
tể tướng, là một cố vấn cho nhà vua.
Năm 979 Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị ám sát. Đinh Toàn mới 6 tuổi
lên ngôi vua, Lê Hoàn làm nhiếp chính. Nhà Tống lâm le chớp lấy cơ hội đương
lúc nước ta gặp khó khăn kéo quân sang xâm lược, nguy cơ cát cứ và nạn ngoại
2
3


xâm đồng thời uy hiếp đất nước. Trước tình hình cấp bách đó, được sự ủng hộ của
bá quan văn võ, Thái hậu Dương Vân Nga đã cử Lê Hoàn làm tổng chỉ huy quân
đội và khoác áo long bào mời ông lên làm vua. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược
nhà Tống, Lê Hoàn vẫn đóng đô ở Hoa Lư và giữ nguyên tổ chức bộ máy nhà
nước thời Đinh.về sau, ở trung ương, Lê Hoàn mô phỏng theo quan chế của triều
Tống. Trong triều đình có các chức Thái sư, Thái úy, Tổng quản, Đô chỉ huy sứ...
“Việc tuyển chọn quan lại đương thời vẫn chưa có chế độ cụ thể, buổi bẩy giờ
người nẳm quyền trong triều đình chủ yểu là những võ tướng đã từng tham gia
cuộc đánh dẹp các sứ quân hoặc là các hoàng tử. về sau một số văn thần cũng đã

được cất nhắc lên các vị trí thân cận với vua và dần thay thể các vị sư giỏi. Nhà
nước cũng bước đầu phong cấp hộ nông dân cho các tướng làm bổng lộc suốt đời
” [11, tr. 113].
Nhìn chung nhà Ngô - Đinh - Tiền Lê đã tiến một bước dài quan trọng ttên
con đường khẳng định nền độc lập dân tộc, nhưng bộ máy chính quyền vẫn còn
rất đơn giản, thể hiện sự quá độ sang một thòi kỳ phát triển ổn định theo hướng
phong kiến hóa ngày càng vững chắc mang đậm ý thức dân tộc. Việc tuyển chọn
và sử dụng quan lại thòi kỳ này cũng đã được nhà nước quan tâm. Tuy nhiên, thòi
kỳ này vẫn chưa có một quy chế nào cho việc tuyển chọn và sử dụng quan lại,
hình thức tuyển chọn thông qua thi cử chưa được áp dụng mà chỉ tuyển chọn
thông qua các hình thức tiến cử, bổ nhiệm, hay cất nhắc những người có công
trong công cuộc chống giặc ngoại xâm.
I.2.3.2.

Triều đại nhà Lý

Triều Tiền Lê đã có những cống hiến to lớn vào sự nghiệp dựng nước và giữ
nước. Nhưng vào cuối triều Lê, vua Lê lúc đó là Lê Long Đĩnh đã tỏ ra là một
người hung tàn, bạo ngược, sống sa đọa, không đủ tư cách và năng lực cầm đầu
chính quyền. Trước tình hình đó, một số nhà sư ở châu cổ Pháp (Bắc Ninh) đã
truyền nhau những câu sấm nói về sự sụp đổ tất yếu của nhà Tiền Lê. Sau khi Lê
Long Đĩnh chết (1009), được sự ủng hộ của các nhà sư và theo lời “sấm kí” chi
2
4


hậu Đào Cam Mộc cầm đầu một số triều thần đưa Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ
Lý Công uẩn lên làm vua. Triều đình Lý mở ra một giai đoạn mới trong lịch sủ
dân tộc - giai đoạn xây dụng đất nước vói quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc và
toàn diện cho sự phát triển của dân tộc và của quốc gia phong khiến độc lập.

Nhà nước chăm lo mở mang học hành và thi cử. Năm 1070, nhà Lý xây
dựng Văn Miếu và mở Quốc Tử Giám ở kinh đô. Lý Thái Tông vừa lên ngôi
(1028) đã phong các quan tước, thiết lập lại bộ máy nhà nước. Năm 1089 Lý Nhân
Tông quy định lại các quan văn, võ...
Ngoài vua là người đứng đầu nhà nước, nắm quyền tối thượng thì quan chế
nhà Lý được xác định trong Nội điện như sau: phẩm trật các hàng quan văn, võ
đều có chín bậc. Những quan chức cao cấp nhất trong triều đình chia làm hai
ngạch là ngạch văn và ngạch võ. Các đại thần đứng đầu ở ngạch văn thì có chức
Tam Thái ( Thái sư, Thái phó, Thái bảo) và chức Tam Thiếu (Thiếu sư, Thiếu
phó, Thiếu bảo). Ở ngạch võ có chức Thái úy, và một số chức vị khác. Dưới hàng
quan văn thì có chức Thượng thư đứng đầu các bộ, ngoài ra còn có các chức quan
khác như: Tả và Hữu tham tri, Tả và Hữu giám nghị, Trung thư thị lang, Bộ thị
lang... Quan võ ở triều đình có các chức Đô thống, Tổng quản, Thượng tướng, Đại
tướng, Chỉ huy sứ... Chức quan nắm quyền binh cao nhất trong triều coi như Tể
tướng, được gọi là Tướng công dưới thời Lý Thái Tổ, Phụ quốc thái úy dưới thời
Thái Tông và Nhân Tông có gia phong phẩm trật là “Bình chương quốc trọng sự”.
Ở địa phương cũng đặt quan văn và quan võ, ở xã có quan xã như trước.
Trong bộ máy chính quyền thời Lý, tàng lớp quý tộc bao gồm những người
thân thuộc của nhà vua và một số công thần nắm giữ trọng trách ở trung ương và
địa phương. Các hoàng tử được phong tước vương và cử đi trấn trị ở nơi trọng
yếu. Nhà nước phong kiến cần có một đội ngũ quan lại đông đảo và có năng lực
nên chế độ tuyển bổ quan lại trong số con cháu quý tộc quan liêu thịnh hành dưới
các triều đại Đinh, Tiền Lê và đầu Lý gọi là chế độ “nhiệm tử” đã dần được kết
hợp với chế độ tuyển dụng thông qua thi cử gọi là chế độ “thủ sĩ”. Từ năm 1075,
2
5


×