Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Tư tưởng giáo dục của khổng tử và ảnh hưởng của nó đối với đổi mới giáo dục ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.7 KB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
- - - -80 CŨI oa-

TRẰN ĐỨC DUY

Tư TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỔI MỚI
GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Người hướng dẫn khoa học:
ThS. NGUYỄN THỊ GIANG

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM
Trong quá trình thực hiện khóa luận tôi đã nhận
được ƠN
sự giúp đỡ của các thày cô trong khoa Giáo dục Chính trị trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình và quan tâm của cô giáo ThS. Nguyễn Thị Giang. Tôi xin
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thày cô và cô giáo hướng dẫn trực tiếp đã giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và
các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên


Trần Đức Duy
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận tốt nghiệp này là kết quả của quá trình nghiên cứu
mà bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn chỉ bảo của cô giáo ThS. Nguyễn Thị Giang - Giảng viên trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2.
Những nghiên cứu này không hề trùng lặp với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.


Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên
LỜI CẢM ƠN
Trần Đức Duy
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khổng Tử là một nhà tư tưởng kiệt xuất của lịch sử Trung Quốc, tư tưởng và
nhân cách của ông trong lịch sử nhân loại không chỉ là một nhà hiền triết phương
Đông mà còn là một nhà giáo dục, một người thầy của mọi thời đại, được người đời
tôn vinh là “Vạn thể sư biểu Học thuyết của ông - Nho giáo đã từng thống trị đất nước
Trung Hoa suốt 2500 năm và có ảnh hưởng sâu sắc đến một số nước khác trên thế
giới, trong đó có Việt Nam.
Nho giáo đã tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ tư tưởng
chính trị đến đạo đức, từ kinh tế cho đến văn hóa, giáo dục. Dưới tác động của tư
tưởng giáo dục của Khổng học, chế độ phong kiến ở nước ta đã đào tạo được nhiều
nhân tài cho đất nước. Cuộc đời của Khổng Tử là bài học lớn, là tấm gương sáng ngời
về giáo dục. Tư tưởng của Khổng Tử, trong đó có tư tưởng về giáo dục vẫn còn nhiều
ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với việc dạy và học ở nước ta hiện nay.
Ở nước ta sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã có bước phát triển cả về quy mô,
chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Chất lượng, hiệu quả của giáo dục và

đào tạo đã có những chuyển biến nhưng nhìn chung còn thấp so với yêu cầu, chương
trình, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề chưa thật phù hợp , khả năng chủ
động sáng tạo của học sinh, sinh viên ít được bồi dưỡng, năng lực thực hành của học
sinh, sinh viên còn yếu. Cơ cấu và trình độ của lực lượng lao động còn bất họp lý, tỷ
lệ lao động qua đào tạo còn thấp làm cho khả năng tiếp thu kĩ thuật công nghệ mới
gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, việc giáo dục đạo đức, chính trị trong các trường
học chưa được quan tâm đúng mức. Trong một bộ phận học sinh, sinh viên có tình
trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão
lập than, lập nghiệp vì tương lai bản thân và đất nước. Đó là một khó khăn không nhỏ
trong việc hình thành đội ngũ những người lao động có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có trình độ văn hóa và chuyên môn kĩ thuật tốt đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp


hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì thế qua các kì Đại hội, Đại hội XI của Đảng vẫn khẳng
định giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đây
là vấn đề có tính chất chiến lược, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của đất
nước, trở thành mối quan tâm hàng đầu của Đảng, toàn dân ta. Trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước, cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế, phát huy nguồn lực của con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa
quan họng, là yếu tố cơ bản của sự phát hiển nhanh và bền vững. Giáo dục cần đào tạo
đội ngũ nhân lực có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi mới của xã hội và thị
trường lao động, đặc biệt là năng lực hành động, tính năng động, sáng tạo, tính tự lực
và trách nhiệm cũng như năng lực cộng tác làm việc, năng lực giải quyết các vấn đề
phức họp.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những chủ trương,
chính sách nhằm phát triển con người, đổi mới giáo dục và đào tạo. Những chủ
trương, chính sách đó xây dựng trên cơ sở không chỉ là sự tiếp thu có chọn lọc những
cái mới mà còn kế thừa, phát huy các giá trị tinh hoa trong lịch sử văn minh nhân loại,
ừong đó có Nho giáo.
Kế thừa và nhìn nhận thực tiễn cho thấy, việc dạy và học ở nước ta hiện nay

cũng cần phải có một cách nhìn, một hướng đi cho phù hợp với thực tế. Bên cạnh việc
chúng ta tiếp thu những thành tựu giáo dục tiên tiến, việc kế thừa những kinh nghiệm
giáo dục truyền thống là hết sức bổ ích. Tuy rằng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử có
những hạn chế nhất định trong điều kiện lịch sử và lập trường giai cấp, nhưng nếu kế
thừa một cách chọn lọc thì tư tưởng đó vẫn có những tích cực đối với công cuộc đổi
mới giáo dục ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, với mong muốn khẳng định những tư
tưởng tiến bộ và quý báu trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và làm rõ giá trị của
những tư tưởng ấy đối với việc đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay, tác giả chọn
vấn đề: “Tư tưởng giáo dục của Khẳng Tử và ảnh hưởng của nó đối vái đổi mới


giáo dục ở Việt Nam hiện nay ” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ lâu ừong lịch sử thế giới, Phương Đông cũng như Phương Tây, Khổng Tử đã
ừở thành đề tài vô tận cho các nhà nghiên cứu hàng nghìn năm qua. Với tư cách là nhà
chính trị, chủ trương đức trị, Khổng Tử đã được giới chính khách và các nhà nghiên
cứu chính trị quan tâm tìm hiểu từ lâu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Với tư cách là nhà đạo đức, Khổng Tử đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của
các nhà đạo đức học. Với tư cách người sáng lập học thuyết Nho giáo, Khổng Tử đã
được các nhà nghiên cứu tôn giáo đi sâu, phân tích, đối chiếu. Với tư cách một bậc
hiền triết, Khổng Tử đã được các học giả dày công tìm hiểu, khai thác dưới góc độ
triết học. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng giáo dục của Khổng Tử có thể phân
loại thành các nhóm sau đây:
Sách và các công trình chuyên khảo: Các bài viết về con người, sự nghiệp, tư
tưởng giáo dục và nhân cách của ông.
Nguyễn Hiển Lê (1992), “Nhà giáo họ Khổng”, Nxb TP Hồ Chí Minh. Trong đó
trình bày chủ yếu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử về mục đích giáo dục, về nội dung
dạy học, cách ông dạy, thái độ của ông đối với môn đồ và đặc biệt đã nhấn mạnh

những công lao của Khổng Tử với nền giáo dục Trung Hoa và ảnh hưởng của Khổng
Tử đến hậu thế.
Tác giả Đỗ Anh Thơ trong cuốn “Khổng Tử cùng học trò đổi thoại về giáo
dục”, (2006), Nxb Hà Nội cũng đã giới thiệu về nền giáo dục cổ đại
Trung Quốc thông qua những câu danh ngôn bất hủ, cổ văn của Khổng Tử qua các
chủ đề giáo dục, tu dưỡng đạo đức, hiếu thảo gia đình...
Cũng liên quan đến đề tài, Sào Nam trong “Khổng học đăng”, (1998), Nxb. Văn
hóa thông tin, Hà Nội. Với một quan điểm hết sức tiến bộ, Sào Nam đã đúc kết được
tinh hoa của Khổng học thể hiện qua Tứ Thư: Luận Ngữ, Đại Học, Trung Dung, Mạnh
Tử - bốn cuốn sách pháp bảo của Khổng môn, đồng thời nêu rõ những bước thăng


trầm của Khổng học qua các triều đại Trung Quốc trước Cách mạng Tân Hợi. Tác giả
đã chứng minh rằng bản than tư tưởng Khổng học chính thống là một hệ thống triết
học mang tính nhân bản rất sâu sắc, phát huy được những phẩm chất cao cả của con
người và nhằm phục vụ cho cuộc sống tốt đẹp của một xã hội bình đẳng.
Có thể nói, các công trình ừên về cơ bản đã đề cập khá đầy đủ những nội dung
trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Tuy nhiên, những công trình đó chưa tập trung
đi sâu nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử mà chỉ xem xét nó một bộ phận
cấu thành của hệ thống triết học của Khổng Tử.
Các bài viết in trên tạp chí chuyên nghành: về phương pháp dạy học của ông.
Quan niệm giáo dục của Khổng Tử của Nguyễn Đăng Tiến đăng trên tạp chí Dạy
và học ngày nay, số 7, năm 2012. Tuy nhiên tác giả chỉ đề cập đến một số tư tưởng
giáo dục của Khổng Tử mà chưa đi sâu vào phân tích sự ảnh hưởng của tư tưởng đó
đối với nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
Bàn về phương pháp dạy và học hiện nay theo tư tưởng của Khổng Tử của Ngô
Quang Thái đăng trên tạp chí Dạy và học ngày nay, số 3, năm 2012.
Vài nét về tư tưởng giáo dục của “Vạn thể sư biểu” của TS. Bùi Hồng Vạn đăng
trên tạp chí Dạy và học ngày nay, số 11, năm 2013
Nhưng ừong phạm vi hẹp của một bài báo cáo không cho phép những công trình

đó đi sâu vào toàn bộ nội dung ừong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử mà chỉ dừng lại
ở những nét cô đọng và khái quát nhất.
Một số luận văn nghiên cứu về Khổng Tử, tư tưởng giáo dục và đào tạo con
người của ông:
Luận văn: “Tư tưởng tự học của Khổng Tử và biện pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động tự học cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Huế” của Nguyễn Thanh
Hùng - chuyên ngành Giáo dục học - Đại học Sư phạm Hà Nội - 2009. Trong đó, tác
giả đã phân tích, hệ thống hóa và khẳng định tư tưởng của Khổng Tử về việc tự học.
Khảo sát nhận thức và thực trạng hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sư
phạm Huế. Trên cơ sở đó đề xuất biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tự học cho sinh


viên trường Đại học Sư phạm Huế.
Như vậy, nhìn chung các tác giả đã quan tâm khai thác những đóng góp của
Khổng Tử về mặt giáo dục, từ số năm dạy học và số môn sinh đã được ông đào tạo
đến quan điểm và nguyên tắc giáo dục của Khổng Tử và cách thức Khổng Tử tác động
đến học ừò. Những công trình đã dày công nghiên cứu sâu sắc với những kiến giải
mới mẻ, hầu hết các nhà nghiên cứu nêu trên đều thống nhất một nhận định chung là:
về mặt giáo dục, Khổng Tử là một nhà giáo lớn không chỉ của Trung Quốc mà còn của
Phương Đông và của cả thế giới nữa, không chỉ của một thời, thời phong kiến mà còn
nhiều tư tưởng mới mẻ, rất mới mẻ, xuyên suốt thời gian và hiện vẫn còn nguyên giá
trị đối với thời đại chúng ta hiện nay.
Tất cả những công trình, bài viết nêu trên là những cơ sở quan trọng về mặt lý
luận và thực tiễn, là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị khoa học để tác giả đi sâu
nghiên cứu đề tài. Tác giả sẽ cố gắng khái quát một cách hệ thống tư tưởng giáo dục
của Khổng Tử và đánh giá ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt
Nam hiện nay.

3. Mục đích nghiên cứu của khóa luận, đối tượng, phạm vỉ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu

Khóa luận tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu ừong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử, ừên cơ sở đó phân tích, chỉ ra những mặt tích cực và tiêu cực của tư tưởng
đó đối với việc đổi mới giáo dục của Việt Nam hiện nay.

-

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và ảnh
hưởng của nó đến sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay.

-

Phạm vỉ nghiên cứu
Trong điều kiện và khả năng cho phép, khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu một
số nội dung cơ bản ừong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và khẳng định giá trị của
những tư tưởng đó đối với việc đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay.


4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, khóa luận
này sử dụng các phương pháp chủ yếu như: Phương pháp logic và lịch sử, phương
pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, quy nạp và diễn dịch, phương pháp chứng minh..
.

5. Kết cấu khóa luân
Ngoài phàn mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa
luận gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung
Chương 2: Ảnh hưởng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đối với đổi mới giáo
dục hiện nay ở Việt Nam



Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG

1.1 Cơ sở nảy sinh tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
Mỗi học thuyết, tư tưởng xuất hiện không phải một cách ngẫu nhiên hay từ hư
vô mà luôn có cơ sở khách quan của nó. Một trong những cơ sở khách quan quan
ừọng mà ừên đó một hệ tư tưởng nào đó ra đời, tồn tại và phát triển là những điều kiện
về kinh tế - chính trị - xã hội, bối cảnh lịch sử mà trên đó tư tưởng nảy sinh. Theo
quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.Ý thức
xã hội chỉ có thể nảy sinh trên một nền tảng kinh tế - xã hội nhất định. C.Mác từng
viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại
mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tể nhất, quỷ giá vô và vô hình được tập
trung lại trong những tư tưởng triết học" [21, 156].
Là một bộ phận cấu thành trong hệ thống tư tưởng của Khổng Tử, quá trình hình
thành và phát triển tư tưởng của Khổng Tử về giáo dục không phải là một ngoại lệ,
nằm ngoài quy luật trên. Dó đó, muốn nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng của Khổng Tử
chúng ta không thể không đi vào nghiên cứu, tìm hiểu điều kiện kinh tế - xã hội, văn
hóa, chính trị của thời Xuân Thu - Chiến Quốc - thời đại mà tư tưởng Khổng Tử nói
chung cũng như tư tưởng về giáo dục của Khổng Tử nói riêng nảy sinh, hình thành và
phát triển.
Khổng Tử sống trong thời kì Xuân Thu - Chiến Quốc (770 - 221 T.CN). Đây là
thời kì xã hội Trung Quốc đang có những chuyển biến hết sức căn bản và lớn lao. Chế
độ chiếm hữu nô lệ theo kiểu phương Đông mà đỉnh cao là chế độ “tông pháp” nhà
Chu đang suy tàn, chế độ phong kiên sơ kì đang hình thành. Trong xã hội Trung Quốc
thời kì này diễn ra những biến đổi hết sức sâu sắc trên tất cả các mặt của đời sống xã
hội. Kinh tế phát triển, xã hội chuyển mình dữ dội, tạo điều kiện cho sự giải phóng tư
tưởng của con người thoát khỏi thế giới quan mang tính chất thần bí, ảnh hưởng sâu
sắc đến sự phát triển của tư tưởng triết học.



Thời kì Xuân Thu được đánh dấu bằng sự kiện Chu Bình Vương dời đô về phía
Đông đến Lạc Ấp (năm 771 T.CN).

1.1.1

Tĩnh hình kinh tế - chính trị - xã hội của Trung Quốc thời Xuân Thu -

Chiến Quắc

1.1.1.1

Điều kiện kinh tể
Thời kì này, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời kì đồ đồng sang đồ sắt.

Sự ra đời của đồ sắt đã tạo ra một cuộc cách mạng trong công cụ sản xuất. Nó thúc
đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực. Trong đó
nông nghiệp là một ngành kinh tế có truyền thống lâu đời và giữ vai trò hết sức quan
trọng. Với sự xuất hiện của đồ sắt, đã đem lại cho người Trung Quốc những tiến bộ
mới ừong cải tiến công cụ sản xuất và kĩ thuật sản xuất nông nghiệp. . . Chính nhờ
vậy, vào thời kì này, hệ thống thủy lợi đã trải khắp khu vực Trường Giang, diện tích
canh tác được mở rộng, kĩ thuật trồng trọt được cải tiến đã giảm được đáng kể sức sản
xuất trong nông nghiệp và năng suất lao động tăng.
Với sự ra đời của đồ sắt và những cải tiến mạnh mẽ ừong công cụ sản xuất nông
nghiệp tất yếu dẫn đến những thay đổi ừong quan hệ sản xuất cổ truyền. Người ta thấy
không cần thiết phải chia lại ruộng đất công theo định kì căn cứ vào đất tốt hay xấu
như trước nữa. Giờ đây công xã giao hẳn đất công cho từng gia đình nông nô cày cấy
trong thời gian lâu dài. Vì vậy, nông nô có thể dung phương pháp lưu canh hay luân
canh để tăng năng suất cây ừồng. Mặt khác, một số người bình dân do có chút công

ữạng ừong chiến ừận mà có quyền lực đã ỷ vào đó để chiếm ruộng đất công thành tư,
một số khác là nhà buôn giàu có đã giành tiền để mua ruộng đất, một số khác nữa là
những người nghèo khổ đã tập họp nhau lại để tiến hành khai khẩn mộng hoang và ừở
thành chủ sở hữu lớn về mộng đất. .. Tình hình ừên, một mặt, đã làm cho chế độ “tỉnh
điền” dần tan rã, chế độ tư hữu từng bước được hình thảnh và được nhà nước thừa
nhận, mặt khác, đã hình thành trong xã hội một giai cấp mới - giai cấp địa chủ. Giai
cấp này vừa giàu có về kinh tế, vừa đòi hỏi về quyền lực chính trị. Họ tham gia vào


giai cấp thống trị xã hội, sánh vai cùng giai cấp chủ nô.
Cùng với việc thay đổi quan hệ sản xuất, phương thức thu thuế cũng được thay
đổi. Tmớc đây, theo chế độ “tỉnh điền ”, mộng đất của công xã được chia đều cho
nông nô, nông nô phải nộp phần sản lượng nông phẩm thu hoạch được cho công xã để
nộp lên triều đình. Khi chế độ tư hữu mộng đất phát triển, số lượng mộng đất của nông
dân sở hữu không bằng nhau, nhà nước đã bãi bỏ hình thức thu thuế cũ mà thi hành
chế độ thuế mới, đánh thuế vào từng mẫu mộng. Nước đầu tiên thi hành chế độ thuế
mới là nước Lỗ vào năm 594 T.CN
Đồ sắt ra đời không chỉ thúc đẩy nền nông nghiệp Trung Quốc phát triển mà còn
thúc đẩy nền thủ công nghiệp phát triển. Đồ sắt được sử dụng phổ biến làm cho sự
phân công lao động trong sản xuất thủ công nghiệp đạt tới trình độ cao hơn, chuyên
nghiệp hơn, thúc đẩy một loạt các ngành nghề thủ công nghiệp phát triển, như nghề
luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm đồ gốm. . . Vào cuối thời Xuân
Thu, nước Ngô dựng lò luyện sắt với hơn 300 thợ. Nước Tấn trưng thu sắt để đúc đỉnh
hình. Trong sách Chu Lễ có viết về sự phát triển của các ngành thủ công nghiệp rằng:
“Thợ mộc chiếm bảy phần, thợ kim khỉ chiếm sáu phần, thợ thuộc da chiếm năm
phần, thợ nhuộm chiếm năm phần, thợ nề chiếm hai phần. . . ” [2, 25].
về mặt kinh tế, sự phát triển đa dạng của nhiều ngành nghề thủ công đã có ý
nghĩa tích cực trong việc giải phóng sức lao động, góp phần phá vỡ nền kinh tế thuần
nông, nâng cao đời sống của nhân dân Trung Quốc thời cổ đại, nhưng về mặt chính trị,
mặc dù số thợ thủ công nghiệp đông nhưng do trình độ còn thấp nên họ chưa có ảnh

hưởng lớn trong xã hội.
Cùng với nông nghiệp và thủ công nghiệp, đồ sắt ra đời và trở nên phổ biến còn
tạo cơ sở cho thương nghiệp phát hiển hơn trước, hoạt động giao lưu buôn bán diễn ra
sôi động. Tiền tệ đã xuất hiện. Do nhờ buôn bán mà giàu có, trong xã hội hình thành
một tầng lớp thương nhân ngày càng có thế lực như Huyền Cao nước Trịnh, Tử
cống.. .Tầng lớp này thường kết giao với các bậc chư hàu, công khanh địa phu, tìm


cách leo lên giành quyền lực với tàng lớp quý tộc cũ, gây nhiều ảnh hưởng đối với
chính trị đương thời. Tuy nhiên do tình trạng xã hội rối ren, lãnh thổ chia năm xẻ bảy
do nạn chư hầu cát cứ, phương tiện giao thông thô sơ, đường xá đi lại khó khăn, do đó
việc kinh doanh không phải ai cũng làm được mà chỉ những người nào quen biết kết
giao với quan lại, người có đầu óc tháo vác và lòng quả cảm thì mới làm được. Hơn
nữa, trong quan niệm của người Trung Quốc luôn xem thường, khinh rẻ thương nhân,
“trọng nông, ức thương”. Chính vì thế, nghề buôn bán ở Trung Quốc thời kì này chưa
thực sự phát triển. Nhưng sự hình thành của thương nghiệp, buôn bán đã tạo ra trong
cơ cấu giai cấp xã hội một tầng lớp mới - tiền than của một bộ phận giai cấp địa chủ
sau này.

1.1.1.2

Điều kiện chính trị
Những biến đổi về mặt kinh tế tất yếu dẫn đến những biến đổi về mặt chính trị

trong thời Xuân Thu. Nếu như trong thời Tây Chu chế độ tông pháp, “phong hầu, kiến
địa ” vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt chính trị ràng buộc về
huyết thống, có tác dụng tích cực làm cho nhà Chu giữ được sự hưng thịnh ừong một
thời gian dài, thì đến thời Xuân Thu, chế độ tông pháp nhà Chu không còn được tôn
trọng, đầu mối các quan hệ kinh tế, chính trị, quân sự giữa Thiên tử và các nước chư
hầu ừở nên lỏng lẻo, huyết thống ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa nhà Chu không còn

được duy trì như trước. Thiên tử nhà Chu hầu như không còn quyền uy gì đối với các
nước chư hầu. Các lãnh chúa nhỏ và vừa xưa nay vẫn dựa vào quyền uy của Thiên tử
thì giờ đây đã trở nên thất vọng, không còn muốn phụ thuộc vào Thiên tử nữa. Nhiều
nước chư hầu mượn tiếng khôi phục lại địa vị tông chủ của nhà Chu đã đưa ra khẩu
hiệu “tôn vương bài di”, nhưng thực chất là mưu đồ lợi ích cá nhân, mở rộng thế lực
và đất đai, thôn tính nước nhỏ, tranh giành địa vị bá chủ thiên hạ đã đua nhau xuất
binh đánh nhau suốt mấy trăm năm. Thời Xuân Thu có khoảng 242 năm nhưng xảy ra
tới 483 cuộc chiến tranh lơn nhỏ. Đầu thời Tây Chu có hàng ngàn nước, đến cuối thời
Xuân Thu chỉ còn hơn một ừăm nước. Trong đó có những nước hùng mạnh nhất thời


bấy giờ thay nhau làm bá chủ thiên hạ như nước Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô, Việt, Tần.
Để tập trung tất cả tài lực và vật lực cho các cuộc chiến tranh, các quốc gia này đều thi
hành chính sách “bá đạo ” dựa ừên sức mạnh và ra sức bóc lột nhân dân và các nước
khác, điều này hoàn toàn khác với các chính sách nhân nghĩa “vương đạo ” của thánh
nhân xưa. Chính sách “bá đạo ” đã làm cho đời sống nhân dân hết sức khổ cực.
Người dân phải tham gia quân đội thực hiện các cuộc chinh phạt của các tập đoàn quý
tộc, đồng thời phải chịu sưu cao thuế nặng, phu phen, lao dịch nặng nề. Thiên tai
thường xuyên xảy ra, nạn cướp bóc lại hoành hành khắp nơi. Đồng ruộng bỏ hoang,
cuộc sống nhân dân trăm bề khốn khổ.
Cùng với các cuộc thôn tính lẫn nhau của các quốc gia thì ngay bên trong mỗi
quốc gia cũng nổ ra không ít các cuộc tranh giành quyền lực và đất đai giữa quý tộc
với nhau. Điển hình là nước Tấn, năm 403 (T.CN) có ba dòng họ lớn là Hàn, Ngụy,
Triệu đã nổi lên bỏ vua Tấn, dựng lên ba nước là Hàn, Ngụy, Triệu.
Hậu quả của những cuộc tranh giành, thôn tính, chinh phạt lẫn nhau của tàng lớp
quý tộc đã dẫn tới sự diệt vong của hàng loạt các nước chư hầu nhỏ, đạo đức xã hội bị
suy đồi, các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, mâu thuẫn giai cấp ừong xã hội trở nên
sâu sắc, kể cả mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và nhân dân cũng như giữa giai cấp
thống trị với nhau, làm cho xã hội ngày càng them rối loạn. Lễ nghĩa nhà Chu bị phá
hoại, đặc biệt những nghi lễ chặt chẽ, tôn nghiêm trước đây đã từng góp phàn bảo vệ

và làm hung thịnh chế độ tông pháp nhà Chu, thì đến nay cũng bị xem thường. Hậu
quả tất yếu là một vài nơi đã nổi lên các cuộc khởi nghĩa nông dân và nô lệ. Đẩy mâu
thuẫn xã hội thời Xuân Thu lên đỉnh cao, đưa chế dộ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc đi
nhanh đến suy tàn và cáo chung.
Thời Chiến Quốc, bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, như sự xuất hiện
của nhiều trung tâm luyện sắt lớn ở Hàm Đan nước Triệu, Đường Khê nước Hàn, Lâm
Truy nước Te. . . kéo theo sự phát triển của nghề thủ công như nghề làm đồ gốm, nghề
ừồng dâu nuôi tằm, dệt l ụ a , . . . tiền tệ bằng kim loại ra đời, thương nghiệp cũng vì thế


mà hưng thịnh.. . thì về mặt chính trị, chiến tranh vẫn xảy ra liên miên, với quy mô lớn
hơn và tàn khốc hơn. Mạnh Tử viết: “đánh nhau tranh thành, giết người thây chết đầy
thành, đánh nhau giành đất, giết người thây chết đầy đồng” [35, 405 - 406]. Sự phát
triển của kinh tế hàng hóa và chiến tranh liên miên làm cho chế độ công xã nông thôn
nhanh chóng tan rã. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dàn dần trở thành mối
quan hệ thống trị. Việc mua bán ruộng đất được tự do và sự phổ biến của chế độ tư
hữu đã mở đường cho sự tập trung ruộng đất một số ít lãnh chúa, còn đa số nông dân
nghèo mất hết ruộng đất phải đi làm tá điền. Chế độ bóc lột bằng phát canh thu tô xuất
hiện. Trong xã hội đã xuất hiện những yếu tố của quan hệ sản xuất mới đó là chế độ
phong kiến quận huyện. Mâu thuẫn giai cấp đã ngày càng gay gắt hơn, đẩy xã hội tới
nguy cơ tan rã nghiêm ừọng, đưa chế độ tông pháp nhà Chu và chế độ chiếm hữu nô lệ
Trung Quốc đi nhanh vào hồi kết. Với việc Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc
đã đặt dấu chấm hết cho sự tồn tại của nhà Chu và chế độ chiếm hữu nô lệ, và mở ra
một chế độ mới ở Trung Quốc - chế độ phong kiến.

1.1.1.3

Điều kiện xã hội
Đầu thời Tây Chu, giai cấp thống trị xã hội chủ yếu là chủ nô. Họ là quý tộc,


được hưởng vô số đặc quyền đảm đương những nhiệm vụ của các Thiên Tử, chư hầu,
khanh đại phu. Nhưng đến thời Xuân Thu, tình hình có khác. Thành thị đã có một cơ
sở kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ thành thị thị tộc, thành
những đơn vị khu vực của tầng lớp địa chủ mới lên. Đó là hiện tượng trong Kinh Thi
nói: “Hai đô thi sánh nhau trong nước ”. Sự phát triển của sức sản xuất, kinh tế phát
triển đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tàng của xã
hội. Nếu như vào đầu thời Chu, “đất đai ở khắp dưới gầm trời này không đâu không
phải là đất của nhà vua, người dân nào cũng là bề tôi của vua ” (Kinh Thi - Chu
Tụng) thì nay cái quyền sở hữu tối cao về ruộng đất và dân ấy đã bị một lớp người
mới lên chiếm làm tư hữu. Họ là những người bình dân có công trong chiến trận mà
trở nên có quyền lực, ỷ vào quyền đó đã bao chiếm ruộng đất công và biến thành


ruộng hữu, một số người khác là nhà buôn giàu có đã dành tiền mua ruộng đất và mua
chức tước, bước vào thang bậc của xã hội, một số người khác do bản thân hoặc tập
họp được những người nghèo khổ tiến hành phát hoang, khai phá ruộng đất mới và trở
thành người chủ sở hữu lớn về ruộng đất, . . . Tất cả họ họp lại thành giai cấp địa chủ,
vừa giàu có về kinh tế, vừa đòi hỏi quyền lực về chính trị. Họ tham gia vào giai cấp
thống trị xã hội, sánh vai cùng giai cấp chủ nô.
Đến cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc, do chiến ừanh khốc liệt mà giai cấp quý
tộc do được nuôi dưỡng trong điều kiện khá thuận lợi đã mất đi tính tiến bộ, tính tranh
đấu. Giai cấp này ngày càng mục nát, hủ bại, nhân tài ngày càng ít. Chính vì vậy mà
đến thời Chiến Quốc, vua các nước thường bắt giết các quý tộc. Chế độ tông pháp nhà
Tây Chu đi đến chỗ suy kiệt.
Những hiện tượng trên cho thấy những tôn ti trật tự được hình thành từ thời Tây
Chu theo thang bậc từ ừên xuống dưới, đối với đương thời chỉ còn là danh nghĩa, hình
thức. Trong thực tế ít người có ý thức tuân thủ địa vị và danh phận đã quy định.
Những thang bậc trong xã hội đang đứng trước những thử thách của sự biến lịch sử.
Chính trong thời đại lịch sử đầy biến động của thời kì Xuân Thu - Chiến Quốc
đã đặt ra cho các nhà tư tưởng những dấu hỏi lớn về mặt triết học, chính trị, luân lý

đạo đức, pháp luật, quân sự, . . . đòi hỏi các nhà tư tưởng phải có những tìm hiểu,
nghiêm cứu để đưa ra những câu trả lời, đưa ra những giải pháp giải quyết những vấn
đề thực tiễn xã hội lúc bấy giờ. Vì vậy, trong thời kì này đã xuất hiện hàng loạt các
nhà tư tưởng lớn và học thuyết lớn. Có thể nói, đây là thời kì phát triển rực rỡ của triết
học Trung Quốc, nhiều nhà nghiên cứu gọi đây là thời kì “bách hoa đề phóng, bách
gia tranh minh” (ừăm hoa đua nở, ừăm nhà đua tiếng). Giáo sư Nguyễn Tài Thư đã
nhận xét: “Có một thời kì lịch sử Trung Quốc mà ngày nay nhớ đến cỏ người còn xốn
xang bởi sự sôi động của nó, bởi nhiều sự kiện lịch sử xuất hiện dồn dập, nhiều học
thuyết triết học và chỉnh trị - xã hội ra đời, nhiều khối óc tài ba làm nên sắc thải văn
hóa và tư tưởng của Trung Quốc sau này” [32, 13]. Mỗi học thuyết đều cố gắng đưa


ra những lý giải và giải pháp của riêng mình để giải quyết vấn đề thực tiễn của xã hội
đặt ra. Thuyết Mặc gia, đại biểu là Mặc Định đã đề xướng thuyết “Kiêm ái”, giải thích
nguồn gốc của chiến tranh và mâu thuẫn xã hội là do người ta không yêu nhau. Do đó,
đã làm người phải yêu người khác, “vì yêu người tất được người yêu”, “vì người cũng
là vì mình Phái Pháp gia, mà đại diện là Hàn Phi, thì cho rằng: nguyên nhân gây rối
loạn xã hội xuất phát từ chỗ pháp luật không nghiêm. Vì vậy, để lập lại ừật tự xã hội
thì phải dung pháp ữị. Đạo gia, mà đại biểu là Lão Tử, Trang Tử lại cho rằng: con
người sống không phải lo gì cả vì sự vật phát triển theo tự nhiên. Vì vậy, trong cuộc
sống là không nên tranh giành, vì ‘‘mình không tranh giành với ai, thì không ai tranh
giành với mình Nho giáo - một học thuyết lớn nhất trong các học thuyết thời bấy giờ
(đứng đầu là Khổng Tử), cho rằng xã hội rối loạn là do con người vô đạo, không theo
đạo lý, không có nhân nghĩa, nên xã hội ổn định thì phải làm cho xã hội có đạo, dẫn
dắt con người về với đạo lý, với đức nhân, với chính danh của mình. Với lý do đó,
Khổng Tử đã đề cao giáo dục, lấy giáo dục làm phương tiện nhằm thay đổi xã hội từ
“loạn ” thành “trị”.

1.1.2


Một vài nét về Khổng Tử
Khổng Tử (551 - 479 T.CN) là một nhà tư tưởng, nhà giáo dục vĩ đại trong lịch

sử, là người sáng lập phái Nho gia. Ông có công rất lớn trong việc chỉnh lí, nghiên cứu
và truyền bá văn hóa cổ Trung Quốc. Tư tưởng và học thuyết của ông đã cống hiến
cho nền văn hóa Trung Quốc nói riêng và nền văn minh nhân loại nói chung những giá
trị bất hủ.
Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, người ấp Trâu nước Lỗ cuối thời Xuân
Thu ( làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông ngày nay). Cha là Thúc
Lương Ngột, làm quan võ ở nước Lỗ, từng đảm nhiệm chức đại phu Trâu ấp. Mẹ là
Nhan Thị. Xuất thân trong một gia đình nghèo khó, quý tộc đã sa sút, lại mồ côi cha từ
bé, lúc mới lên ba tuổi, mười bảy tuổi mất mẹ, nên phải làm nhiều nghề, đảm đang,
tháo vát.
Khổng Tử từ nhỏ đã thông minh, hiếu học. Trong các trò chơi tuổi thơ, Khổng


Tử thường bày các ừò tế lễ, bắt chước nghi lễ cứng tế của người lớn. Đến năm mười
một tuổi từng học Chu lễ với Lỗ Thái Sư. Đến năm hai mươi tuổi đã nắm vững nhiều
tri thức văn hóa, được ca ngợi là “bác học hiểu lễ” (học rộng chuộng lễ nghi). Khổng
Tử đã từng làm tướng lễ (giúp việc cúng tế lễ nghi) và theo nghề “Nho
Năm 517 T.CN, Khổng Tử 35 tuổi, nước Lỗ xảy ra nội loạn, ông rời Lỗ đến Tề
làm gia thần cho quý tộc Cao Chiên Tử. Được họ Cao tiến cử. Vài năm sau, ừong
hàng đại phu nuớc Tề có kẻ muốn hại Khổng Tử, ông bèn rời nước Tề trở về Lỗ.
Đương thời, nước Lox đứng trước sự rối loạn về chính trị, giai cấp quý tộc tranh
quyền đoạt vị. Khổng Tử không muốn làm quan chỉ chuyên tâm vào chỉnh lý thư tịch
văn hóa như Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch. . . Đồng thời mở trường dạy học, thu nhận học
trò, nỗ lực trấn hưng sự nghiệp giáo dục.
Khổng Tử là người sáng lập Nho gia. Ông kế thừa tiền nhân, phát huy quan điểm
của đạo nhân, lấy quan niệm đạo đức làm trung tâm ừong học thuyết xây dựng triết
học đạo nhân, cũng tức là triết học nhân văn mang tính nhân bản chủ nghĩa. Hoài bão

lớn nhất của Khổng Tử là chính trị song thành công lớn nhất trong cuộc đời ông lại là
lĩnh vực giáo dục. Khổng Tử đã đào tạo được hàng ngàn học trò, trong đó có 72 người
được đời sau gọi là hiền triết. Từ đó nhiều thế hệ học trò nối tiếp nhau dạy học tạo
thành tầng lớp Nho Sĩ - tầng lớp giữ vị trí then chốt trong nhiều triều đại về sau của
Trung Hoa. Đặc biệt hơn nữa, Khổng Tử còn để lại cho hậu thế một di sản vô giá về
giáo dục, từ quan điểm tiến bộ đến mục đích giáo dục rõ rang, nội dung phong phú,
nguyên tắc rạch ròi đặc biệt là về phương pháp giáo dục. Không dừng lại ở đó Khổng
Tử còn san định kinh Dịch, kinh Thi, kinh Xuân Thu. Quyển “Luận Ngữ” là một trong
bốn quyển sách kinh điển của Nho gia.
Mạnh Tử nhận xét về Khổng Tử: “Khổng Tử có thể nói là tập hợp được tất cả
nết tốt. Tập hợp tất cả cũng ví như tiếng chuông đồng mở đầu, tiếng khánh ngọc kết
thúc cuộc hòa nhạc. Tiếng chuông đằng để điều tiết lúc đầu, tiếng khảnh ngọc để điều
tiết lúc cuối. Điều tiết lúc đầu là công việc của bậc trí giả, điều tiết lúc sau là công
việc của thánh nhân ” (Khổng Tử chi vị tập đại thành. Tập đại thành dả ngã, kim


thanh nhi ngọc chấn chi dã. Kim thanh dã giả, thủy điều lý dã, ngọc chấn chi dả ngã,
chung điều lý dã. Thủy điều lý giả: trí chi sự dã, chung điều lý giả: thánh chi sự dã)
[35, 1152 - 1154].
Như vậy có thể thấy rằng thân thế và sự nghiệp của Khổng Tử lưu lại cho đời
sau những giá trị bất hủ. Nên người đời sau mới tôn tặng ông danh hiệu Nhà giáo dục
tiêu biểu cho muôn đời “Vạn thế sư biểu”.

1.2 Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
1.2.1

Đối tượng giáo dục của Khổng Tử
Khổng Tử là người đầu tiên trong lịch sử giáo dục thế giới “chuyển nền văn hóa

từ trên xuống dưới và nâng trình độ dân trỉ từ dưới lên trên”. Nói cách khác, Khổng

Tử đã Bình dân hóa giáo dục.
Là người đàu tiên mở trường tư và mở với quy mô lớn, có chỗ nội trú và phòng
đọc sách cho học ừò, Khổng Tử luôn mở rộng cửa trường đón nhận mọi người với
quan điểm cực kì tiến bộ:
“Hữu giáo vô loại ” - quyền được giáo dục là quyền của mọi người không phân
biệt đẳng cấp, thành phần xã hội [18, 38].
Với chúng ta hiện nay, điều này quá bình thường, nhưng thời Khổng Tử thì đó
quả là một quan điểm cách mạng tận nền móng. Ngay ở Âu Mỹ mà mãi đến 1850 mới
mở cửa giáo dục cho toàn dân [9, 30].
Như vậy, theo quan điểm của Khổng Tử, văn hóa vốn nằm “trên chop cao” của
xã hội mà chỉ có tầng lớp quý tộc thời bấy giờ mới được hưởng, đã chuyển xuống cho
mọi tầng lớp xã hội, bằng con đường giáo dục.
Và bằng con đường giáo dục theo quan điểm bình dân hóa ấy, trình độ dân trí
được nâng lên.
Trên thực tế đã có những học trò nghèo khó đến xin học. Khổng Tử đều nhận
dạy. Ông không phân biệt người giàu kẻ nghèo, ai xin học, muốn dâng vật gì làm lễ
nhập môn, dù chỉ là chục chiếc nem, ông cũng vui nhận [18,7].


Khổng Tử cũng không để ý đến quá khứ của người học. Một thanh niên ở làng
Hồ Hương xin đến học, ông nhận; các môn sinh cũ có vẻ ái ngại, vì làng ấy nổi tiếng
là “khó dạy Khổng Tử bảo với môn sinh: “Người ta lẩy lòng trong sạch mà đến với
mình thì mình vì tẩm lỏng đó mà thu nhận người ta. Còn việc cũ của người ta ra sao,
đừng nghĩ tới”. [18, 27].
Trước Khổng Tử, trong mỗi xóm hai mươi lăm nhà có một trường học, gọi là
“thục”; mỗi thị trấn gồm 500 nhà có một trường học cao hơn gọi là “tường”; trong
mỗi châu gồm 2500 nhà có một trường cao hơn nữa gọi là “tự”; tại kinh đô mỗi nước
có một trường cao hơn cả gọi là “học”. Đó là những trường công lập; thầy giáo cũng
do triều đình bổ nhiệm, học sinh đa số là những con em tàng lớp quý tộc. Trong lịch
sử, trước thế kỉ (VI TCN) không thấy có một trường nào thu nhận học sinh từ mọi

tàng lớp xã hội khác. Khổng Tử là người đầu tiên làm việc đó. Và ông ấy đã thành
công trong quan điểm bình dân hóa giáo dục ấy: lập trường tư để dạy học, Khổng Tử
chủ trương bất kể là quý tộc hay bình dân, bất kể là dân tộc Hoa hay Di Địch, đều có
thể nhập học để được giáo dục. Đề xuất tư tưởng Hữu giáo vô loại (được giáo dục
không kể hạng người gì) là một cống hiến vĩ đại của Khổng Tử đối với nền giáo dục
cổ đại.
Rất tiếc sang đêm trường Trung đại, và cả Cận đại, tư tưởng cực kì tiến bộ này
đã không được thực hiện. Giáo dục dàn dàn trở thành đặc quyền, đặc lợi của một số
người.
Sau Khổng Tử, ngay tại Trung Hoa “trong nhiều triều đại, giai cấp thống trị còn
ra lệnh cẩm các trường tư nhận con em tầng lớp lao động vào học; làm trái lệnh sẽ bị
xử tử” [27, 18].
Trường tư - tương đối mở rộng cửa mà còn như vậy huống hồ là trường công do
chính giai cấp thống trị mở ra!
Thế mới biết tư tưởng “Hữu giáo vô loại” của Khổng Tử là tiến bộ đến ngần
nào!


Ngày nay, ta chủ trương “Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường” để mọi người “ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành ” theo lời Bác, là tiếp nối tư tưởng
tiến bộ của Khổng Tử vậy.
Chính trị hóa giáo dục: Làm cho giáo dục mang lý tưởng chính trị; và mục tiêu
chính trị được thể hiện bằng con đường giáo dục.
về chính trị, Khổng Tử chủ trương “Lễ trị ”, nghĩa là dùng lễ để trị dân, mà thực
chất là dùng đạo đức để cảm hóa con người, nên còn gọi là “Đức trị ”. Mà muốn có lễ
trị, đức trị thì phải học, phải được giáo dục, trước hết là phải tu than để chính danh:
vua ra vua, quan ra quan, cha ra cha, con ra con.
“Nói cho cùng, một người dốc sức vì sự nghiệp giáo dục, sớm muộn người đó
phải quan tâm đến chính trị. Khổng Tử, Chu Văn An, Pythagore, Lomonosov. . . tất cả
đều như vậy. Việc khai sáng trí tuệ thường đằng hành với sự cải cách xã hội” [22, 15].

Giáo dục không thể tách rời chính trị.
về giáo dục, Khổng Tử chủ trương học để nên người có văn, có chất để làm
quan, để mang tài ra giúp nước, xây dụng một xã hội có tôn ti trật tự. Nghĩa là mục
đích cuối cùng của sự học là để tham gia chính trị. Do vậy mà Khổng Tử luôn chú
trọng đến sự học để cứu đời, cốt đào tạo những con người có đức hạnh, có đàu óc sáng
suốt, có liêm sỉ để làm chính trị, cải tạo xã hội. Đồng thời, Khổng Tử phê phán lối học
thoát ly cuộc sống, học không vì đời là cái học vô ích “Học hết ba trăm bài Kỉnh Thỉ,
được vua giao cho việc trị dãn mà không được việc, sai sứ đi bổn phương mà không
biết ứng đối, thì tuy học nhiều mà có ích gì đâu ? ”. Trái lại phải biết hành đạo giúp
đời!
Khổng Tử chú ừọng đến sự học để cứu đời, cốt đào tạo những con người có đức
hạnh, có đầu óc sáng suốt, có liêm sỉ để làm chính trị, cải tạo xã hội. Đạo đức hóa
giáo dục: Làm cho giáo dục thống nhất với đạo đức.
Khổng Tử muốn xây dụng một xã hội có tôn ti ừật tự và cái tôn ti đó phải dựng
trên một nền tảng đạo đức, trước hết là người trên phải làm gương cho kẻ dưới: “quân


quân; thần thần; phụ phụ; tử tử; phu phu; thê thê ”.
Ngay chữ “quân tử” ừong quan niệm của Khổng Tử cũng đã mang một nội
dung mới, khác hẳn nghĩa thông dụng thời bấy giờ. Quân tử, theo Khổng
Tử là người có tài, có đức, chứ không phải chỉ là người có địa vị cao như người ta
thường nghĩ.
Ở một góc độ nào đó, có thể nói Khổng Tử muốn thực hiện một thứ b ình đẳng
dựa trên chân giá trị của con người. Cái quyết định địa vị của mỗi người ch ính là giá
trị thực của con người đó.
Khổng Tử tin rằng người dân một nước mà biết hiểu dễ - quan hệ xã hội đầu đời
giữa người với người - thì nước đó sẽ có trật tự, trị an. Cho nên ông rất chú ừọng đến
chữ “hiếu Khổng Tử quan niệm chữ hiếu có nhiều nội dung mà tùy theo trình độ của
mỗi người, ông giảng giải một cách khác nhau.
“Nhà sư phạm chân chỉnh, không chấp nhận một xã hội không có kỉ cương”

[22,15]. Giáo dục trước hết là Đức dục
Ngoài xã hội Khổng Tử dạy lấy lòng nhân ái mà đối đãi với mọi người; phải cẩn
thận và thành thực, thương yêu mọi người và gần gũi người nhân đức! [18, 6]
Ông đòi hỏi học trò phải luôn tự xem xét mình, làm chủ lấy mình: Người quân tử
có 9 mối xét nét để tự tu sửa bản than [18, 10]. Và tu thân là nhiệm vụ trọng yếu cơ
bản của mỗi người không phân biệt đẳng cấp hay địa vị xã hội “Tự thiên tử dĩ chỉ ư
thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vỉ bản

1.2.2

Mục tiêu giáo dục của Khổng Tử
Đối với Khổng Tử, học trước hết là để biết, để làm người có tri thức. Ông nói:
Ngọc bất trác bất thành khí
Nhân bất học bất tri đạo
Ngọc mà không mài giũa không nên vật trang sức quý; người không học không

có tri thức (đạo thời bấy giờ là tri thức, là hiểu biết quy luật vận hành của vạn vật).
Tức là thành người tri thức (Trí). Muốn vậy phải tìm hiểu cho thấu ừiệt ngọn nguồn sự


vật (cách vật tri trí). Có tri chân mới có thể hành thiện. Đó là chữ trí. Bên cạnh chữ
Trí. Khổng Tử con nhấn mạnh đến chữ Nhân.
Thứ nhất: Học để làm người có lòng nhân: Hạt nhân trong tư tưởng của
Khổng Tử là “nhăn ”. Nhân là quan hệ lẫn nhau giữa người với người trong sinh hoạt
xã hội. Nội dung của chữ Nhân bao hàm cả: Hiếu, Đễ và Trung, Thứ. Ông nói: “Hiếu,
đễ là cái gốc để làm người ” [18, 9].
Học trò ông lại nói: “Tư tưởng của thầy nói tóm lại một từ, chẳng qua là
TRUNG THỨ mà thôi”. Trung biểu đạt tình cảm chân thành xuất phát từ trong long
mình. “Nghĩa là nhất thiết xử việc, tiếp người, đều móc ở trong long mình ra, không
một tỉ gì doi long, ấy là TRƯNG, là cái “thế” của chữ NHẤN”.[ 19, 52], Nghĩa là hết

lòng, nghĩa là “quên mình” vì người, là TRUNG THÀNH vậy.
Suy ở ừong lòng mình mà đo lường đến lòng người thời biết được lòng người
cũng như lòng mình mà đối đãi bằng một cách bình đẳng, bác ái. Ấy là nghĩa chữ Thứ
mà chính là cái “dụng” của chữ Nhân vậy. Nói cách khác, theo lời Khống Tử “Thứ” là
“việc mà mình không thích, chớ áp đặt cho người”.
Như vậy, mục tiêu giáo dục của Khổng Tử là đào tạo cho con người vừa DŨNG,
vừa TRÍ, vừa NHÂN - người quân tử.
“Bồi dưỡng những chỉ sĩ thương người có biết tháo cao thượng và những quân
tử Nho gia có tri thức uyên bác, đó là mục đích giáo dục mà Khổng Tử rất nhấn
mạnh” [24, 232].
Ông kể rằng kẻ sĩ phải có chí truy tìm chân lý, không xấu hổ vì phải ăn đói mặc
rách, ngay cả tính mạng thậm chí cũng có thể coi nhẹ, “sáng nghe được đạo, chiều
chết cũng vui” [18, 8].
Thứ hai: Học để làm quan: Chiều sâu trong mục đích giáo dục của Khổng Tử
không phải chỉ là “biết”, chỉ là Tri thức, mà còn phải là “làm”, phải “hành đạo”.
Người quân tử phải học để thấu đạo (trí đạo). Thấu đạo rồi mới hành đạo, giúp đời,
cứu người. Tri chân, hành thiện: biết cho thấu triệt, sống cho tuyệt vời. Khổng Tử phê
phán lối học mà không hành: “Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xẩu hổ nếu nói mà


không làm được” [4, 22].
Tức là tư tưởng chính trị hóa giáo dục mà ta đề cập ở phàn trên
Trở lại với khái niệm Trung ở trên ta có thể nói thêm, đối với Khổng Tử “trung”
là đạo đức thực hành, vừa hướng nội, vừa hướng ngoại. Hướng nội chỉ sự trung thành,
trung thực, trung trinh; hướng ngoại chỉ sự hết lòng, hết sức, hết mình, vì người, vô tư.
Như vậy để đạt chữ trung, kẻ sĩ không thể không thực hành. Chính hành động mới bộc
lộ lòng trung.
Còn chữ “Thứ’ ?. Chữ “Thứ” cũng được Khổng Tử định ranh giới rõ ràng.
Trong luận ngữ, thiên Vệ Linh Công, có đoạn đối thoại lí thú giữa Khổng Tử và Tử
cống, học trò của ông, như sau: “Tử cổng hỏi: có câu nói nào có thể suốt đời theo

đuổi không? Khổng Tử đáp rằng: Có. Đó là đạo “Thứ” chăng? Việc gì mình không
thích, chớ áp đặt cho người”. Tức là nói đến hành vi, việc làm.
Chỗ khác, Khổng Tử lại nói: “Việc gì mình muốn đạt tới, hãy giúp cho người
khác đạt trước; việc gì mình muốn lập nên, hãy giúp cho người lập nên trước” [18,
28]. Cũng ám chỉ giá trị ở hành động vậy.
Thứ 3: Đào tạo con người có nhân cách:
“Chỉ ư đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ” [18, 6].
Đó là mẫu người hiền tài thực sự, một nhân tài đích thực. Nhân cách ấy phải
gồm đủ bốn yếu tố:
Chỉ ư đạo: tức là xác định rõ mục đích của cuộc đời, hun đúc một lý tưởng sống
và vì lý tưởng ấy mà hiến thân, lập chí.
Chi ư đức\ tức là căn cứ vào đạo đức mà làm việc, làm việc thực sự và hoàn
thành tốt công việc trên cơ sở đạo đức.
Y ư nhân: tức là gần điều nhân, nương theo lòng nhân ái mà làm việc. Thực hiện
điều nhân, yêu thương con người, quan hệ tốt đẹp với con người và có thái độ đúng
đắn với bản thân.
Du ư nghệ: vui với lục nghệ. Thời Khổng Tử, lục nghệ gồm: lễ, nhạc, xạ, ngự.
thư (đọc sách và viết chữ) và số (toán pháp). Chủ yếu chỉ những kĩ thuật cụ thể, mà


theo Phan Nải so sánh thì:
“. . . du ư nghệ của Khổng Tử theo quan điểm này ngày nay mà nói thì, đó chỉnh
là chân tài thực học, có kĩ nghệ cao siêu, là chuyên gia giỏi. Đồng thời “du ư nghệ”
cũng phải ánh quan điểm của Khổng Tử về nhân tài là cần phải có chuyên môn lã
thuật sâu rộng” [19, 381]
Trong thiên Vi chính sách Luận ngữ, Khổng Tử lại nói:
“Quân tử bất khí” - người quân tử không phải là khí cụ, mà phải có tài năng đa
phưorng, có thể ứng phó với những nhu cầu đa dạng, ừong những tình huống bất ngờ
của cuộc sống. Ngày nay ta phát triển thành mẫu người năng động và sáng tạo, chứ
không máy móc.

Tóm lại, mục đích giáo dục của Khổng Tử là đào tạo con người tài, đức song
toàn để xả thân đem lại an bình cho thiên hạ. Đó là mẫu người hành động vì đời - mẫu
người quân tử: là người rất tốt như Phan Bội Châu đã phân tích: Vì cớ sao một người
rất tốt gọi là quân tử? Bởi người ấy đạo đức đã cao, tài năng cũng giỏi, nhân cách lại
rất hoàn toàn, nếu đem ra gánh việc xã hội thời đáng là một người chủ, nên có chữ
“quân Quân nghĩa là ông chủ. Neu đem ra gánh việc loài người thời cung cấp được
việc cho loài người cũng như con thờ cha, nên có chữ “tử”. Tử nghĩa là con. Góp xắp
cả hai ý nghĩa như trên ấy mới đặt tên là “quân tử” [3, 28].
Ngày nay, trong tâm thức của nhiều người, quân tử vẫn là mẫu người lý tưởng,
tài đức song toàn và phẩm chất cao thượng. Có thể so sánh “quân tử” với mẫu người
“đại trượng phu ” của Mạnh Tử.

1.2.3

Nội dung giáo dục của Khổng Tử
Nội dung dạy học và giáo dục của Khổng Tử rất phong phú và gắn chặt với tiến

trình TU THẦN - TỀ GIA - TRỊ QUỐC - BÌNH THIÊN HẠ. Muốn thiên hạ thái bình
thì trước đó quốc gia phải thịnh trị; muốn quốc gia thịnh trị thì trước đó nhà nhà phải
ấm êm; muốn gia đình ấm êm thì trước đó mọi người phải tu thân mình. Phật giáo
cũng đồng một quan điểm như vậy. Đức Đạt Lai Lạt Ma từng nói: “Muốn đem lại hòa


×