Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH mối QUAN hệ GIỮA HAI NHIỆM vụ xây DỰNG và bảo vệ VỮNG CHẮC tổ QUỐC VIỆT NAM xã hội CHỦ NGHĨA THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT đại hội XI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.19 KB, 29 trang )

MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG
VÀ BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XHCN THEO TINH
THẦN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI

Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong tình hình hiện
nay, khi chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, chủ nghĩa đế
quốc và bọn phản động quốc tế nhân cơ hội đó thực hiện nhiều âm mưu, thủ
đoạn tấn công quyết liệt vào các nước xã hội chủ nghĩa còn lại; đối với Việt
Nam, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà
bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyên”
hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta, do đó vấn đề bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa đặt ra hết sức cấp thiết cả về phương diện lý luận và phương
diện thực tiễn.
Tổ quốc là một ý niệm đã từng xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân
loại. Đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về Tổ quốc. Theo từ điển Bách
khoa, Tổ quốc là một tổng thể các yếu tố, ngoài những yếu tố đất nước, con
người còn có yếu tố chính trị, xã hội. Với cách tiếp cận trên, Tổ quốc là một
phạm trù lịch sử dùng để chỉ một vùng lãnh thổ mà trên đó nhân dân sống và
lao động trong một môi trường chính trị - xã hội và văn hoá nhất định.
Như vậy, Tổ quốc một mặt có yếu tố vĩnh hằng, đó là nơi chôn nhau cắt
rốn của mọi người dân, cội nguồn của mỗi cộng đồng dân cư cùng chung sống


2

lâu đời, quyết định lòng yêu quê hương đất nước của mọi người, mọi thế hệ.
Mặt khác, Tổ quốc không phải là một khái niệm trừu tượng, nhất thành bất biến
mà là một phạm trù mang tính lịch sử. Tổ quốc luôn tồn tại trong mối quan hệ
giữa hai phương diện: tự nhiên và xã hội. Tổ quốc được nghiên cứu như một
thực thể thống nhất biện chứng của nhiều yếu tố, đất nước, con người với các


phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá và những quan hệ kinh tế, xã hội
giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các tộc người trong một chế độ kinh tế chính trị thống nhất. Các yếu tố đó luôn biến đổi, phát triển không ngừng, do
đó đã làm cho Tổ quốc cũng có sự biến đổi. Trong các yếu tố tạo thành Tổ
quốc thì môi trường xã hội - chính trị là yếu tố cơ bản nhất qui định tính chất
của Tổ quốc; sự phát triển của Tổ quốc phụ thuộc vào sự nối tiếp nhau của các
chế độ xã hội từ thấp lên cao; Tổ quốc ở mỗi giai đoạn được đặc trưng bằng
chế độ xã hội nhất định. Mỗi quốc gia dân tộc trên thế giới tùy độ dài của sự
trường tồn của nó trong lịch sử mà trải qua nhiều hay ít chế độ xã hội, và tuỳ
thuộc vào đặc điểm kinh tế - xã hội và hoàn cảnh quốc tế cụ thể mà mỗi quốc
gia có con đường, hình thức phát triển đặc thù, có thể có quốc gia bỏ qua giai
đoạn nào đó của tiến trình lịch sử, nhưng không thể có một quốc gia nào với tư
cách là một “Tổ quốc thuần tuý” lại phát triển ngoài chế độ xã hội.
Tổ quốc hình thành khi diễn ra sự phân công lao động, xuất hiện giai
cấp và nảy sinh nhà nước. Tổ quốc là chế độ kinh tế và chính trị, gắn với giai
cấp và nhà nước. Do đó, trong điều kiện của xã hội có đối kháng giai cấp thì
không có một Tổ quốc chung cho kẻ thống trị và người bị trị. Trên ý nghĩa đó,
C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Dưới chủ nghĩa tư bản, công nhân không có Tổ


3

quốc. Người ta không thể cướp của họ cái mà họ không có” 1. V.I.Lênin chỉ ra
rằng: giai cấp vô sản khi chưa giành được chính quyền vẫn có Tổ quốc của
mình, dĩ nhiên ý niệm về Tổ quốc của giai cấp vô sản không giống ý niệm về
Tổ quốc của giai cấp tư sản. Người viết: “Đối với chúng ta, những người vô
sản đại Nga giác ngộ, lòng tự hào dân tộc có phải là xa lạ không? Lẽ cố nhiên
là không. Chúng ta yêu mến ngôn ngữ và Tổ quốc chúng ta” 2. Như vậy, Tổ
quốc luôn mang tính giai cấp sâu sắc, bản chất chính trị - xã hội của Tổ quốc
chủ yếu được quy định bởi: giai cấp nào thống trị xã hội thì giai cấp đó là
người đại diện cho Tổ quốc, chi phối và quyết định đến vận mệnh và sự phát

triển của Tổ quốc. Tổ quốc của giai cấp nào thì phục vụ lợi ích của giai cấp
đó, không có Tổ quốc chung cho mọi giai cấp nếu như các giai cấp đó không
có sự thống nhất về lợi ích.
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một loại hình Tổ quốc mà trong đó giai cấp
công nhân và nhân dân lao động đã thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa. Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa ra đời gắn liền với thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa,
là thành quả cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là loại hình Tổ quốc khác về chất so với loại
hình Tổ quốc của giai cấp thống trị bóc lột trong lịch sử. Trong chế độ tư bản,
vận mệnh của Tổ quốc do giai cấp tư sản định đoạt, thậm chí giai cấp tư sản
còn lợi dụng lòng yêu Tổ quốc, kích động lòng tự hào dân tộc, đẩy giai cấp
công nhân và nhân dân lao động nước mình vào cuộc chiến tranh phi nghĩa
thôn tính các dân tộc nhỏ, yếu, kém phát triển. Trong chế độ tư bản, ở giai cấp
1
2

C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, t. 4, tr 623
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Sự thật, H,1963, t. 21, tr197


4

công nhân và nhân dân lao động, lòng yêu nước kết hợp với lòng yêu giai cấp
đã kích thích tinh thần đấu tranh chống lại chế độ đang áp bức bóc lột họ.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, với tư cách là người chủ xã hội, đồng thời là
người chủ Tổ quốc, giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, với Nhà nước của mình tiến hành xây dựng Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đó. Đối với giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, Tổ quốc chân chính gắn liền làm một với chế độ xã
hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cơ sở kinh tế của Tổ quốc xã hội

chủ nghĩa là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa được hình thành và ngày càng
hoàn thiện; cơ sở chính trị - xã hội của nó là sự liên minh bền vững của giai cấp
công nhân với nhân dân lao động, là Nhà nước xã hội chủ nghĩa và các tổ chức
chính trị - xã hội khác do Đảng Cộng sản lãnh đạo; xu hướng phát triển của Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là đoàn kết cộng đồng trong nước và các nước xã hội
chủ nghĩa, thực hiện chính sách hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các
nước và các dân tộc. Có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa là: do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp
nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.


5

Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với tính cách là một hiện tượng chính trị - xã
hội mang tính lịch sử sẽ từng bước hòa nhập vào một ý niệm rộng hơn là cộng
đồng nhân loại khi chủ nghĩa cộng sản thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới.
Trong giai đoạn lịch sử hiện nay, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại và phát
triển như một nhân tố mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân
tộc lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Không nhận rõ điều này là mơ hồ, mất
cảnh giác, dễ rơi vào những ảo tưởng của một thế giới đại đồng tư sản trong
quá trình toàn cầu hóa kinh tế, dễ bị những luận điệu phản động lung lạc như:
“đặt lợi ích nhân loại cao hơn lợi ích dân tộc và giai cấp”, “nhân quyền cao
hơn chủ quyền”… nhằm phục vụ cho mưu đồ chống lại độc lập dân tộc, chủ

quyền quốc gia, chống chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa đế quốc.
Nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Song, do tính chất sâu sắc và triệt để của
cách mạng xã hội chủ nghĩa, (xóa bỏ tận gốc chế độ người bóc lột người, xây
dựng một chế độ xã hội không có áp bức bóc lột) vì vậy, chủ nghĩa xã hội gặp
phải sự phản kháng điên cuồng và quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và tất cả
các giai cấp bóc lột.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
là quy luật khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nắm vững bản chất
qui luật ra đời, tồn tại và phát triển của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đưa ra những quan điểm khoa học nền tảng về bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa tư bản đang trong giai đoạn phát triển tương


6

đối hòa bình, chủ nghĩa xã hội chưa trở thành hiện thực, vấn đề cách mạng vô
sản chưa được đặt ra một cách trực tiếp, cho nên hai ông chưa đưa ra quan
điểm về bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, sau thực tiễn công xã Pa ri, hai ông cho
rằng, nhiệm vụ của giai cấp công nhân là phải đấu tranh “tự mình phải trở
thành dân tộc”, thiết lập Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tiến hành công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ mọi thành quả cách mạng, đẩy lùi sự tấn công
của bọn phản cách mạng. Trong thư gửi “Đồng minh những người cộng sản”,
C.Mác chỉ ra: Ngay từ giờ phút đầu, sau khi giành được thắng lợi, công nhân
phải được vũ trang và có tổ chức; cần phải lập tức trang bị súng trường, các
bin, đại bác và đạn dược cho toàn thể giai cấp công nhân để bảo vệ cách mạng.
Chừng nào kẻ thù còn tìm mọi cách bóp chết cách mạng thì giai cấp công nhân
không thể bỏ vũ khí được.
V.I.Lênin là người có công lao to lớn phát triển học thuyết bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản phát triển tương đối

hòa bình, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: cách mạng vô sản chỉ có thể nổ ra
và giành thắng lợi đồng thời ở nhiều nước tư bản phát triển. Khi chủ nghĩa tư
bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, nảy sinh hiện tượng phát triển không
đều giữa các nước tư bản, hình thành khâu yếu trong hệ thống, V.I.Lênin cho
rằng: cách mạng vô sản không thể thắng lợi đồng thời mà chỉ có thể ở mắt khâu
yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc, thậm chí ở một nước
riêng lẻ. Sau khi cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga thành công, một
quốc gia xã hội chủ nghĩa ra đời, tồn tại trong vòng vây của hệ thống tư bản
chủ nghĩa và phải chống đỡ với các cuộc tiến công và phản kích điên cuồng,


7

V.I.Lênin xác định: bảo vệ thành quả cách mạng với tính cách là Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa không những là tất yếu mà còn là vấn đề quan trọng, cần thiết,
“một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ” 1. Người viết: “Kể từ
ngày 25-10-1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng
ta tán thành “bảo vệ Tổ quốc”, nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta
đang đi tới là cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ
nghĩa xã hội với tư cách là Tổ quốc, bảo vệ nước cộng hoà Xô viết với tính
cách là một đơn vị trong đạo quân thế giới của chủ nghĩa xã hội”2.
Ý thức được tầm quan trọng đặc biệt của công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, V.I.Lênin là người tổ chức lực lượng bảo vệ thành quả cách
mạng tháng Mười, đánh bại sự can thiệp vũ trang của các nước đế quốc, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Người chỉ rõ:
“Hãy chăm lo đến khả năng quốc phòng của nước ta và của Hồng quân ta như
chăm lo đến con ngươi trong mắt mình, hãy nhớ rằng chúng ta không được
phép lơ là một giây phút nào trong việc bảo vệ công nhân và nhân dân của ta
và bảo vệ những thành quả của họ.”3
Kế thừa tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bảo vệ Tổ

quốc xã hội chủ nghĩa, trong quá trình cùng toàn Đảng lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: bảo vệ Tổ quốc là một
vấn đề tất yếu của cách mạng Việt Nam, và muốn bảo vệ được Tổ quốc thì
phải huy động sức mạnh của cả dân tộc.

1

V.I Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1978, t. 37, tr. 145.
V.I Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1978, t. 36, tr. 102.
3
V.I Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1978, t. 44, tr. 368-369.
2


8

Tính tất yếu của bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa còn xuất phát từ bản
chất phản động, hiếu chiến xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động trong và ngoài nước. Chúng cấu kết với nhau ra sức dùng mọi thủ đoạn
tinh vi, xảo quyệt chống phá cách mạng, nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, khôi
phục lại địa vị đã mất. Sự thật lịch sử đã chứng minh rằng, từ khi chủ nghĩa xã
hội hiện thực xuất hiện, các nước xã hội chủ nghĩa đã phải thường xuyên đối
phó với những âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch: Liên
Xô trong những năm nội chiến (1918-1920), trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ
đại (1941-1945), cuộc chiến tranh Triều Tiên, các cuộc bạo loạn phản cách
mạng để lật đổ Nhà nước xã hội chủ nghĩa Hunggari, Tiệp Khắc, Ba Lan, cuộc
tiến công xâm lược hòn đảo tự do Cuba; ở nước ta, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
được đặt ra ngay sau cuộc cách mạng Tháng Tám, khi nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa vừa mới ra đời; để bảo vệ thành quả cách mạng, chúng ta đã phải tiến
hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm

lược, sau đó tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu đất nước; vào
những năm 90 của thế kỷ XX, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên
Xô và các nước Đông Âu trong đó có âm mưu chống phá của kẻ thù.
Ngày nay, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không những là tất yếu mà
còn là vấn đề cấp bách. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và bọn
phản động đang điên cuồng chống phá cách mạng với những thủ đoạn tinh vi
và xảo quyệt trên tất cả các lĩnh vực, nhằm xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin,
đường lối của các Đảng Cộng sản; chia rẽ trong nội bộ Đảng và mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng Cộng sản với nhân dân; hạ thấp và vô hiệu hóa Nhà nước


9

xã hội chủ nghĩa, tách Nhà nước ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; tìm
mọi cách làm cho xã hội mất ổn định, rối loạn; tiếp tục bao vây, cấm vận các
nước xã hội chủ nghĩa, làm cho các nước xã hội chủ nghĩa lún sâu vào khủng
hoảng và đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tiến tới mục tiêu xóa bỏ hoàn toàn
chủ nghĩa xã hội. Một trong những thủ đoạn mà chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu
là đế quốc Mỹ thường dùng để chống phá chủ nghĩa xã hội là chiến lược
“Diễn biến hòa bình”. Thực chất của chiến lược “Diễn biến hòa bình” của chủ
nghĩa đế quốc là sử dụng tổng hợp các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức,
kinh tế, ngoại giao và hoạt động ngầm để chống phá chủ nghĩa xã hội ngay
trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa. Các biện pháp tư tưởng, kinh tế, ngoại
giao được đặc biệt coi trọng như là công cụ để “mở cửa” đi vào trong nước,
kích động các nhân tố bên trong nổi dậy thủ tiêu chủ nghĩa xã hội. Đây thực
sự là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc quyết liệt với những thủ đoạn,
hoạt động phối hợp trong, ngoài vô cùng xảo quyệt và hết sức nguy hiểm của
chủ nghĩa đế quốc. Sự sụp đổ của Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu chứng minh một quy luật khắc nghiệt là: nếu không cảnh giác cao độ, nếu
không chuẩn bị thường xuyên chống lại các âm mưu và hành động xâm lược,

lật đổ của các thế lực thù địch thì chủ nghĩa xã hội không thể đứng vững, Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại được.
Điều kiện bảo đảm thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa là: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc, nâng cao giác ngộ chính trị cho nhân dân; đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao tiềm lực toàn


10

diện của đất nước, nhất là tiềm lực kinh tế; xây dựng nền quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân vững mạnh, kết hợp kinh tế với quốc phòng và an
ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đối với Việt nam chúng ta, do ở vào vị trí địa lý, chính trị, kinh tế,
quân sự quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, do vậy nhiều nước đã quan
tâm đến việc lôi kéo, khuất phục nước ta để tìm cách khống chế khu vực này.
Họ đã và đang có những điều chỉnh chính sách đối với Việt Nam nhằm thực
hiện ý đồ chính trị của mình. Các thế lực thù địch đang tìm cách tranh thủ, lôi
kéo, chia rẽ các nước láng giềng với ta.
Bên cạnh đó, Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến
hết sức phức tạp với những biến động bất trắc khó lường, tiềm ẩn cả những
thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ, tích cực và tiêu cực đối với sự phát
triển của mỗi quốc gia dân tộc. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
có bước tiến nhảy vọt tác động đến mọi quốc gia và các quan hệ quốc tế trong
thế giới đương đại. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế tất yếu tác động đến tất
cả các quốc gia với cả thời cơ và nguy cơ, tích cực và tiêu cực. Bên cạnh xu
thế hòa bình, hợp tác và phát triển thì cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân
tộc vẫn diễn ra gay gắt, quyết liệt. Xung đột giữa các dân tộc, sắc tộc; chạy
đua vũ trang, chiến tranh cục bộ, khủng bố, bạo loạn lật đổ vẫn là mối đe dọa

độc lập, chủ quyền, an ninh của các quốc gia dân tộc trên thế giới. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa và còn tồn tại các nước có chế độ chính trị - xã hội khác
nhau, còn có sự phân cực, chênh lệch giữa các nước phát triển và đang phát


11

triển thì hai mặt hợp tác và đấu tranh là hai mặt luôn tồn tại song song. Những
điều đó đặt ra nhiều vấn đề mà mỗi quốc gia, dân tộc phải đặc biệt quan tâm
vấn đề quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong hoạch định chiến lược
phát triển của mình.
Trong nước, thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của hai
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước thắng lợi, cả nước đi lên CNXH và bước vào công cuộc đổi mới,
các thế lực thù địch đang đẩy mạnh những hoạt động xâm hại trực tiếp đến an
ninh quốc gia. Đối với nước ta các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến
lược "Diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.
Hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với Việt Nam là
sự tiếp tục âm mưu chiến lược cơ bản của chúng hòng tiêu diệt chủ nghĩa xã
hội. Chúng sử dụng tổng hợp các biện pháp và thủ đoạn tinh vi, thâm độc để
chống phá Nhà nước Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, tư tưởng,
kinh tế, văn hóa, xã hội, răn đe quân sự... Chúng tập trung tuyên truyền phủ
nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước; tuyên truyền vu cáo Việt Nam vi phạm
“dân chủ”, “nhân quyền”, “đàn áp tôn giáo”; lợi dụng chiêu bài “chống tham
nhũng” để gây chia rẽ trong Đảng, gây hoang mang nghi ngờ và mất lòng tin
của nhân dân đối với Đảng và chế độ. Đồng thời, chúng tiến hành triển khai
lực lượng dưới nhiều hình thức như: đưa người thâm nhập vào nước ta, cài
cắm cơ sở tình báo nội gián, phát triển lực lượng vào các tôn giáo, vùng dân
tộc, móc nối với các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị… nhằm tạo dựng ngọn



12

cờ, hình thành các tổ chức đảng phái đối lập, từng bước chống phá ta. Thông
qua các chương trình viện trợ, đầu tư có chủ định, hợp tác thương mại… để
gây sức ép với ta, thúc đẩy nhanh quá trình tự do hóa, tư nhân hóa nền kinh
tế, thông qua kinh tế để chuyển hóa chính trị... Vì vậy, bảo vệ Tổ quốc không
chỉ chống giặc ngoại xâm mà còn chống cả "thù trong" và những nguy cơ nội
sinh; không chỉ chống các loại hình chiến tranh xâm lược vũ trang mà còn
chống cả các loại hình chiến tranh xâm lược phi vũ trang; không chỉ nhằm
chuẩn bị và tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
mà còn duy trì, phát triển cục diện hòa bình và ổn định chính trị - xã hội của
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình thế giới, khu vực và trong nước như vậy, Đảng ta càng
ý thức sâu sắc sự gắn bó mật thiết giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc
XHCN. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm
1991 chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng
đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác,
củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ
quốc và các thành quả cách mạng” 1. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX của Đảng ra Nghị quyết chuyên đề về “Chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, tiếp tục khẳng định quan điểm kết hợp chặt
chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb


ST, Hà Nội, 1991, tr.10.


13

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng trong khi khẳng định
tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa, đặc
biệt chú trọng xử lý tốt các mối quan hệ, trong đó có mối quan hệ giữa xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Theo tư duy mới của Đảng ta, mục
tiêu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước và lợi ích
quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn
hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước
theo định hướng XHCN. Quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng ta về bảo vệ
Tổ quốc là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với CNXH, lấy việc giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao
nhất của đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với bảo vệ và tự bảo vệ
trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi, trong đó tự bảo vệ là phương thức hữu
hiệu nhất để bảo vệ Tổ quốc.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) vừa được thông qua tại Đại hội Đảng lần
thứ XI đã chỉ rõ: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa là một trong những mối quan hệ lớn mà Đảng ta phải đặc biệt chú trọng
nắm vững và giải quyết. Nhận thức về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc như vậy đã đưa tới những chủ trương nhất quán và không ngừng phát


14


triển của Đảng ta về sự kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh,
quốc phòng - an ninh với kinh tế trong thời kỳ mới.
Phải nói rằng, quan điểm về mối quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo
vệ Tổ quốc XHCN được thể hiện trong hai văn kiện nêu trên tại Đại hội XI
của Đảng có ý nghĩa quan trọng, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Xét về mặt lý luận và thực tiễn, chúng ta thấy đây không phải là chủ trương
hoàn toàn mới của Đảng, tức là không phải bây giờ mới được xác định; trái
lại, nó đã được nêu trong nhiều văn kiện, nghị quyết, chỉ thị quan trọng của
Đảng qua các kỳ đại hội. Quan điểm đó bắt nguồn từ tư tưởng nhất quán của
Tổ tiên ta: Dựng nước phải đi đôi với giữ nước; được kiểm nghiệm, khẳng
định qua thực tiễn lịch sử hàng nghìn năm và trở thành quy luật trường tồn,
phát triển của dân tộc ta. Sự thông tuệ của Đảng ta được thể hiện ở chỗ không
chỉ nắm vững, mà còn vận dụng sáng tạo quy luật đó vào thực tiễn để hoàn
thành mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ. Trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, khi nhiệm vụ chống xâm lược được đặt lên hàng đầu,
Đảng ta đã thực hiện đường lối "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc". Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xuất phát từ điều kiện cụ thể và tính chất
nhiệm vụ ở mỗi miền khác nhau, Đảng ta đã thực hiện hai chiến lược cách
mạng ở hai miền Nam - Bắc: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam. Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cả nước tiến lên CNXH đến nay, Đảng ta
chủ trương tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược; trong đó, đặt trọng tâm vào
nhiệm vụ xây dựng XHCN, đồng thời coi trọng đúng mức nhiệm vụ bảo vệ


15

Tổ quốc XHCN. Như vậy, có thể thấy rõ sự sáng tạo của Đảng trong việc vận
dụng quy luật “dựng nước đi đôi với giữ nước” phù hợp với thực tiễn cách
mạng, mà biểu hiện tập trung là hoạch định đường lối. Nhờ có đường lối

đúng, chúng ta đã giành thắng lợi quyết định, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng
trong mỗi thời kỳ.
Việc Đại hội XI của Đảng một lần nữa khẳng định "tiếp tục đổi mới
toàn diện, mạnh mẽ theo con đường XHCN"; đồng thời, nhấn mạnh đặc biệt
chú trọng xử lý và giải quyết tốt tám mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan
hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hoàn toàn chính xác. Điều đó không
chỉ thể hiện sự kiên định về đường lối, quan điểm; mà còn phản ánh sâu sắc
sự phát triển trong tư duy, nhận thức của Đảng ta trước bối cảnh tình hình thế
giới, khu vực đang có những biến động mới rất phức tạp, khó lường, tác động
cả tích cực và tiêu cực đối với nước ta.
Có thể khái quát, nội hàm của quan điểm về mối quan hệ giữa xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc tại Đại hội XI có những điểm mới quan trọng sau:
Trước hết, sự phát triển đó được thể hiện ở quan điểm của Đảng ta về
“Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền
tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh”. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã
nhiều lần khẳng định, kinh tế - xã hội phát triển, tăng trưởng kinh tế không
chỉ tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực kinh tế cho tăng cường tiềm lực
quốc phòng, mà còn tạo cơ sở chính trị - xã hội thuận lợi cho việc nâng cao ý
thức trách nhiệm của toàn dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới. Đại hội Đảng lần thứ XI đã phát triển nhận thức đó ở chỗ, coi sự ổn


16

định và phát triển bền vững của đất nước là nền tảng của quốc phòng - an
ninh. Chúng ta hiểu rằng, sự ổn đinh và phát triển bền vững đòi hỏi tăng
trưởng kinh tế phải trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô, kết hợp hài hòa với phát
triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội. Vì thế, xét cho cùng sự ổn định và
phát triển bền vững đời sống kinh tế - xã hội đã tạo điều kiện để giải quyết tốt
vấn đề lợi ích của dân, bảo đảm sự thống nhất lợi ích giữa cá nhân với cộng

đồng và toàn xã hội, tăng cường sự cố kết nhà - làng - nước trong thời đại
mới, do đó nó cho phép huy động được sức mạnh của toàn dân trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Trong khi đề cao ảnh hưởng tích cực của ổn định, phát triển kinh tế - xã
hội đối với quốc phòng an ninh, Đảng ta không hề coi nhẹ vai trò của quốc
phòng - an ninh. Chính vì vậy, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020, Đại hội Đảng lần thứ XI đã khẳng định quan điểm: “Phải đặc
biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an
ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”. Bởi vì sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh tình
hình quốc tế đang biến đổi nhanh chóng và phức tạp. Trong thời gian tới, trên
thế giới xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là chủ đạo, hợp tác kinh tế
toàn cầu với nội dung cơ bản là thúc đẩy tự do hóa thương mại, đầu tư, dịch
vụ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Tuy nhiên, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động vẫn không từ bỏ tham vọng bá quyền, trắng trợn can thiệp vào
công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền, chủ nghĩa khủng bố vẫn


17

đang tồn tại, do vậy nguy cơ xảy ra chiến tranh cục bộ trên quy mô lớn chưa
bị loại trừ.
Để tăng cường mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế với quốc phòng an ninh, Đảng ta kiên định thực hiện “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn”.
Đây là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Theo đó, các bộ ngành, địa phương phải
quán triệt và xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội kết hợp
với quốc phòng - an ninh theo chức năng, nhiệm vụ của từng bộ, ngành và địa

phương mình; đồng thời cơ quan quân sự các cấp phải tham gia thẩm định các
kế hoạch, quy hoạch và dự án kinh tế - xã hội của bộ, ngành liên quan đến
quốc phòng, tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền lập kế hoạch động viên nhân
lực, phương tiện, vật chất phục vụ nhiệm vụ quốc phòng và xây dựng khu vực
phòng thủ vững mạnh cả về lực lượng, tiềm lực và thế trận, thực sự phát huy
tác dụng trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ địa phương.
Với quyết tâm tăng cường kết hợp kinh tế với quốc phòng- an ninh, Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã có những chỉ đạo hết sức thiết thực trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, trong đó nổi lên chủ
trương: Quan tâm đến phát triển kinh tế - xã hội nhằm tăng cường tiềm lực
quốc phòng - an ninh ở các vùng, địa bàn trọng điểm. Lồng ghép các chương
trình để xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở vùng biên giới, hải đảo.
Thực tế, những năm qua chúng ta đã tích cực, chủ động triển khai có hiệu quả


18

nhiều đoàn kinh tế - quốc phòng; quốc phòng - kinh tế trên các địa bàn chiến
lược trọng yếu, các địa bàn còn có khó khăn, phức tạp về dân tộc, tôn giáo,
kinh tế - xã hội, những địa bàn nhậy cảm về quốc phòng - an ninh, nơi các thế
lực thù địch đang tập trung chống phá. Trong thời gian tới, các đoàn kinh tế quốc phòng cần được tăng cường cả về chất lượng và số lượng, đồng thời việc
xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng cần được lồng ghép với các chương
trình như: quy hoạch, phân bố lại dân cư, thực hiện xóa đói, giảm nghèo, phát
triển văn hóa, xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Điều đó sẽ
góp phần quan trọng vào nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội, đồng thời tham gia phát triển kinh tế - xã hội, củng cố hệ thống chính
trị ở địa phương và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng - an ninh của đất
nước ta.
Trong thời gian tới, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lợi ích của ta trên
vùng biển, đảo sẽ có những diễn biến phức tạp, vì vậy Đại hội Đảng lần thứ

XI đã chỉ rõ phải “Phát triển mạnh kinh tế đảo, khai thác hải sản xa bờ gắn
với tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và giữ vững chủ quyền vùng biển quốc gia”.
Điều đó sẽ cho phép tổ chức, phối hợp chặt chẽ hơn giữa lực lượng quần
chúng nhân dân với các lực lượng vũ trang trong tham gia quản lý, đấu tranh
bảo vệ chủ quyền biển, đảo, sẵn sàng ứng phó với mọi bất trắc về thiên tai,
địch họa, góp phần đẩy lùi, ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, hành động xâm
phạm chủ quyền, bảo vệ lợi ích kinh tế biển, đảo của ta.
Sự kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh còn được thể hiện ở việc
bảo đảm nguồn lực cho hoạt động quốc phòng - an ninh. Trong Chiến lược


19

phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, được thông qua tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI vấn đề này được đề cập trong chủ trương “Mở rộng phương
thức huy động nguồn lực xây dựng công nghiệp quốc phòng”. Chúng ta cần
nhận thức rằng, phát triển công nghiệp quốc phòng và khoa học kỹ thuật quân
sự là một nhiệm vụ hết sức cần thiết để giữ vững độc lập, tự chủ và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc. Bởi vì chúng ta có thể lường trước là, khi xảy ra những
bất đồng về chính trị, xung đột vũ trang thì các lực lượng thù địch sẽ dùng thủ
đoạn cô lập ta về nhiều mặt, trong đó có cấm vận về vũ khí. Do đó, tự sản
xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự nhằm đáp ứng yêu cầu tác chiến trong
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là một trong những công việc hết sức trọng yếu
trong xây dựng tiềm lực quân sự của đất nước hiện nay. Muốn vậy, Nhà nước
phải chú trọng đầu tư để hiện đại hóa công nghiệp quốc phòng, khuyến kích
phát triển những ngành công nghiệp lưỡng dụng, khi thời bình tập trung sản
xuất phục vụ dân sinh, nhưng khi chiến tranh xảy ra thì có thể chuyển nhanh
sang sản xuất phục vụ nhu cầu quốc phòng. Điều đó đưa tới yêu cầu Nhà
nước phải có chế tài và kế hoạch huy động các nguồn lực tài chính, nhân lực,
cũng như khoa học, kỹ thuật, công nghệ ... của đất nước vào xây dựng công

nghiệp quốc phòng.
Sức mạnh quốc phòng của đất nước bắt nguồn từ sức mạnh tổng hợp
của cả nước, của toàn dân, trong đó sức mạnh của yếu tố chính trị - tinh thần
và của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nền tảng. Vì vậy, chúng ta phải nêu
cao vai trò trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi tầng lớp xã hội và mọi người
Việt Nam trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ


20

nghĩa trong bối cảnh lịch sử mới. Đúng như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI đã khẳng định: “Tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân”. Để hoàn thành nhiệm vụ lớn
lao này chúng ta phải quan tâm giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc đi đôi với thể
chế hóa trách nhiệm của tất cả các lực lượng, của mọi tổ chức và mọi con
người đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng - an ninh trong điều kiện mới.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh thực chất là bảo đảm sự gắn
kết chặt chẽ giữa xây dựng tiềm lực của quốc gia với xây dựng thực lực quốc
phòng, quân sự; giữa xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân. Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng, nước ta vẫn thuộc
hàng các nước đang phát triển, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước mới đạt được những kết quả bước đầu, thu nhập tính theo GDP/đầu
người còn thấp… Vì vậy, việc huy động tiềm lực kinh tế kỹ thuật và tài chính
của đất nước để phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng sẽ gặp không ít
khó khăn, đòi hỏi phải xử lý hài hoà giữa nhu cầu của phát triển kinh tế, đảm
bảo “khoan sức dân” và tăng cường sức mạnh quân sự, quốc phòng. Vì vậy,
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định phải “Xây dựng Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân
dân....Xây dựng Quân đội nhân dân với quân số thường trực hợp lý, có sức

chiến đấu cao, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng
khắp”. Phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân trên đây thể hiện việc xử
lý một cách tài tình của Đảng ta về “bài toán” số lượng và chất lượng của lực


21

lượng vũ trang nhằm bảo đảm cho Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đủ
sức làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, nhưng đồng
thời bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực của đất nước để tạo điều
kiện tốt nhất cho kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Theo tinh thần Đại hội XI, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, tạo thành một thể
thống nhất, “tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Bản chất của mối quan hệ này
là sự gắn bó mật thiết giữa xây dựng và bảo vệ, trong xây dựng có bảo vệ,
trong bảo vệ có xây dựng. Đảng ta đặt lên hàng đầu “sự ổn định và phát triển
bền vững mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội là nền tảng vững chắc của quốc
phòng - an ninh”, nhưng lại xác định “tăng cường quốc phòng, giữ vững an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của
Đảng, Nhà nước và toàn dân”1. Quan điểm này cần được hiểu, đời sống kinh
tế-xã hội là gốc của quốc phòng-an ninh; xây dựng kinh tế-xã hội là một
phương thức hữu hiệu để bảo vệ Tổ quốc. Gốc này có vững chắc thì quốc
phòng-an ninh mới vững. Biểu hiện của vững chắc là ổn định và phát triển.
Mà muốn ổn định và phát triển, trong ổn định và phát triển cần có bảo vệ. Mặt
hoạt động này là điều kiện của hoạt động kia và ngược lại. Bởi vì xây dựng và
bảo vệ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh giữa cái
mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Bảo vệ không chỉ là phòng ngừa hay
chống lại, đánh trả. Chúng ta xây dựng lực lượng vũ trang chính quy, hiện
đại, tinh nhuệ là để phòng ngừa, không phải răn đe; để sẵn sàng chiến đấu bảo


1

ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tr.82


22

vệ từng tấc đất của Tổ quốc nếu các thế lực thù địch có dã tâm muốn thôn tính
nước ta.
Trong tình hình hiện nay, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt nam
XHCN, chúng ta cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Một là; cần nhận thức một cách toàn diện và thấu đáo về mối quan
hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa phát triển kinh tế - xã hội với
củng cố quốc phòng, an ninh.
Trong thời kỳ mới, cần nhận thức một cách toàn diện và thấu đáo về
mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa phát triển kinh tế - xã hội
với củng cố quốc phòng, an ninh. Mục tiêu của sự kết hợp ấy là khai thác, sử
dụng có hiệu quả nguồn lực tổng hợp của quốc gia và chế độ nhằm bảo đảm
cho kinh tế - xã hội phát triển ổn định, nhanh và bền vững; xây dựng quốc
phòng, an ninh vững chắc; lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Sự kết hợp chặt chẽ
giữa hai nhiệm vụ chiến lược không chỉ trong nhận thức mà cả trong hành
động, trong mỗi nhiệm vụ, lĩnh vực, khu vực và địa bàn chiến lược nhất định
mà xác định trong mọi chủ thể, ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, phải kết hợp chặt chẽ giữa quân sự,
quốc phòng với chính trị, kinh tế, đối ngoại, khoa học, công nghệ, văn hóa, xã
hội; giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quân sự, quốc phòng và
giữa tăng cường quân sự, quốc phòng với phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an
ninh nhân dân; kết hợp quốc phòng với an ninh và hoạt động đối ngoại.



23

Hai là; phải kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng
trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới, lợi ích
quốc gia, dân tộc. Bảo vệ an ninh quốc gia không chỉ an ninh chính trị mà còn
là an ninh kinh tế, an ninh văn hóa, an ninh tư tưởng, an ninh xã hội. Trong
thời kỳ mới, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc không chỉ đối
phó hành động vũ trang xâm lược từ bên ngoài mà còn đặc biệt coi trọng việc
xây dựng và giữ vững bên trong, đối phó những thủ đoạn phi vũ trang của kẻ
địch. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc không chỉ là riêng sức mạnh của lực lượng vũ
trang mà là sức mạnh tổng hợp của quốc gia và chế độ, lấy sức mạnh chính
trị, tinh thần, kinh tế, khoa học công nghệ của đất nước làm cơ sở để kết hợp
và phát huy sức mạnh thời đại vào sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vì thế, điều quyết định cho sự bền vững của độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, bảo đảm cho đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa phải kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Bởi lẽ, sự ổn định và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội sẽ bảo
đảm cho sự phát triển bền vững của mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, đồng thời là nền tảng của quốc phòng - an
ninh. Không có quốc phòng, an ninh mạnh, không có trật tự an toàn xã hội thì
không thể có ổn định chính trị - xã hội và càng không thể đối phó thắng lợi


24


với những âm mưu thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch. Với ý nghĩa
ấy, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội là
góp phần thiết thực tạo ra môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác cho sự phát
triển kinh tế - xã hội. Đảng ta luôn coi tăng cường quốc phòng, an ninh giữ
vững trật tự an toàn xã hội vừa là điều kiện cho sự phát triển xã hội vừa là nội
dung của mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Ba là; phải chăm lo xây dựng mọi mặt của đất nước ngày càng mạnh,
ngăn chặn, đẩy lùi, khắc phục các nguy cơ về chính trị, kinh tế, đặc biệt là các
vấn đề xã hội bức xúc, tạo môi trường hòa bình và ổn định. Nhiệm vụ hàng
đầu có ý nghĩa sống còn là xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Bởi vì Đảng ta là một
đảng cầm quyền. Sự vững mạnh hay yếu kém của Đảng liên quan đến vận
mệnh của đất nước. Cách đây mười hai năm, trong bài viết Nêu cao danh hiệu
Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam”, Cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng chỉ rõ: “Bọn thù địch chống phá ta bằng “diễn biến
hòa bình”, chúng biết nhân dân ta là kiên cường không thể coi thường, chúng
biết Đảng ta với chỗ mạnh và chỗ yếu có thể khai thác. Chúng chờ cơ hội.
Điều đáng sợ là “diễn biến hòa bình” từ nội bộ Đảng ta” 1. Tại Đại hội XI
Đảng ta nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu
nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành

1

Tạp chí Cộng sản, số 10, tháng 5-1999 và Báo Nhân dân, ngày 15-5-1999.


25


làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định,
phát triển của đất nước”1. Chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu
cực khác chính là nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Xây cái tốt, đẩy lùi cái xấu theo tinh thần “phò chính trừ tà” là điều kiện vững
chắc cho bảo vệ. Như vậy bảo vệ là một bộ phận hợp thành của xây dựng.
Càng xây dựng tốt bao nhiêu, càng có điều kiện bảo vệ tốt bấy nhiêu. Xây
dựng chính là tự bảo vệ ngược lại bảo vệ tốt lại tạo điều kiện để xây dựng tốt.
Một nấc thang của xây dựng gắn chặt với một nấc thang của bảo vệ một nấc
thang của bảo vệ lại tạo ra một thành quả của xây dựng, vì bảo vệ trong tiến
trình xây dựng.
Bốn là; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong thực hiện
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt nam XHCN.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ còn được thể hiện ở lực
lượng xây dựng cũng là lực lượng bảo vệ và lực lượng bảo vệ cũng là lực
lượng xây dựng, tức là toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính trị. Xây dựng
không chỉ là việc riêng của kinh tế-xã hội, của dân sự mà cũng là câu chuyện
của quốc phòng-an ninh. Củng cố quốc phòng-an ninh không phải chỉ là việc
riêng của quốc phòng, của bảo vệ mà còn nhằm phục vụ cho phát triển kinh
tế-xã hội, theo yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội.
Sự kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh
mới của tình hình khu vực và thế giới, trước yêu cầu, nhiệm vụ của cách
mạng nước ta trong giai đoạn mới được Đảng ta xác định trong từng chiến

1

ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tr.173.



×