Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH TÍNH CHẤT của THỜI đại HIỆN NAY và vấn đề QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.33 KB, 26 trang )

1
MỞ ĐẦU
V.I. Lênin từng chỉ rõ “chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm
của một thời đại, người ta mới tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này
hay nước khác”. Trong bối cảnh sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX cùng với những
biến đổi nhanh chóng và phức tạp của thế giới như: xu thế toàn cầu hóa nền
kinh tế thế giới; sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại, kinh tế tri thức...đã xuất hiện nhiều quan điểm hoài nghi về nội
dung thời đại hiện nay từ đó xóa nhòa tính chất của thời đại hiện nay.
Xét cả về phương diện lý luận và thực tiễn, với cách tiếp cận khoa học
đó là dựa vào sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội và vị trí của giai cấp
trung tâm, chủ nghĩa Mác – Lênin đã có quan niệm đúng đắn về phân chia
thời đại và xác định nội dung, tính chất của thời đại hiện nay. Cách mạng xã
hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga đã mở đầu một thời đại mới mà nội dung cơ
bản và tính chất của nó đã được xác định đó là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội. Tính chất ấy của thời đại cho đến nay vẫn không hề thay
đổi. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa cái cũ và
cái mới; giữa những lực lượng cách mạng và phản cách mạng đang diễn ra
gay go, quyết liệt trên phạm vi toàn thế giới. Cuộc đấu tranh này đang chi
phối toàn bộ quá trình vận động của lịch sử nhân loại và diễn ra trên tất cả
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, tư tưởng…
Nhận thức về tính chất của thời đại hiện nay vừa là để hiểu biết về bối
cảnh mà ta đang sống vừa là sơ sở để đấu tranh với những quan điểm nhận
thức một cách mơ hồ hoặc là cố tình hiểu sai, làm cho mọi người hiểu lệch
theo một quỹ đạo khác; Trên cơ sở đó nhận thức và tiếp tục làm sáng tỏ một
số vấn đề trong thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Vì
vậy, nghiên cứu vấn đề “Tính chất của thời đại hiện nay và vấn đề quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.



2
1. Nhận thức về thời đại và tính chất của thời đại hiện nay
1.1. Nhận thức về thời đại hiện nay
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại cho thấy đã có nhiều quan niệm, cách
tiếp cận và nhận thức khác nhau về thời đại và phân chia sự phát triển xã hội
loài người thành những thời đại lịch sử từ thấp đến cao. Nghiên cứu các quan
điểm khác nhau về phân chia thời đại cho thấy mỗi quan điểm dựa trên cơ sở
khác nhau và có những yếu tố hợp lý nhất định song chưa thật toàn diện, chưa
phản ánh chân thực, khoa học và đầy đủ về thời đại, đặc biệt chưa phản ánh
được nội dung toàn diện, động lực phát triển của thời đại mà thiên về một yếu
tố nào đó và coi đó là bản chất, đặc trưng của thời đại.
Trong khi đó Chủ nghĩa Mác - Lênin với cách tiếp cận dựa trên quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã nhận định sâu
sắc rằng Thời đại là một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử xã hội,
phân biệt những nấc thang phát triển của xã hội loài người, đó là một thời kỳ
tương đối dài trong lịch sử, được đánh dấu bằng bước ngoặt căn bản trong sự
phát triển của nó và được đặc trưng bằng những xu hướng phát triển tương
đối ổn định.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ cơ sở quan trọng hàng đầu để phân
chia các thời đại khác nhau trong lịch sử thời đại là hình thái kinh tế xã hội.
Ph.Ăngghen khẳng định: “...trong mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu
của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó
quyết định đã cấu thành cơ sở cho lịch sử Chính trị của thời đại và lịch sử
của sự phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ có xuất phát từ đó mới
cắt nghĩa được lịch sử đó...”1. Chủ nghĩa Mác – Lênin còn dựa vào cơ sở giai
cấp giữ vị trí trung tâm để phân kỳ thời đại lịch sử, đó phải là giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến đã ra đời trong hiện thực, đồng thời
phong trào đấu tranh của giai cấp đó phù hợp với chiều hướng phát triển
1 C.Mác, Ph. Ăngghen, “Lời tựa cho bản tiếng Anh, C.Mác, Ph. Ăngghen, toàn tập, tập 21, NXB


CTQG, H.1995, tr.523


3
khách quan của lịch sử, phù hợp với lợi ích, nguyện vọng của quần chúng
nhân dân lao động lao động và các lực lượng tiến bộ của lịch sử.
Từ phương pháp tiếp cận mácxít gắn với thực tiễn thắng lợi vĩ đại của
cách mạng Tháng Mười, cách mạng Tháng Mười đã “Mở đầu một thời đại
mới trong lịch sử thế giới” như V.I.Lênin khẳng định: “Cách mạng Tháng
Mười là sự mở đầu của sự thay đổi thế giới giữa hai thời đại lịch sử thế giới:
thời đại tư sản và thời đại xã hội chủ nghĩa”. Kế thừa quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, Hội nghị đại biểu các Đảng cộng sản và Công nhân quốc
tế tại Mátxcơva năm 1957, 1960 đã khẳng định: “Thời đại chúng ta mà nội
dung chủ yếu là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu
bằng cuộc cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, là thời đại đấu tranh giữa hai
hệ thống xã hội đối lập, là thời đại cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng
giải phóng dân tộc, là thời đại sụp đổ của chủ nghĩa đế quốc, tan rã của chủ
nghĩa thực dân, là thời đại có nhiều nước đi lên chủ nghĩa xã hội, là thời đại
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế
giới”.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga - 1917 đã đưa tới sự ra đời
của một nhà nước kiểu mới, một chế độ xã hội kiểu mới chưa hề có tiền lệ
trong lịch sử xã hội nhân loại – chế độ xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội từ
lý luận trở thành hiện thực. Đây là nhân tố khởi đầu của thời đại mới. Và
đương nhiên, không ai có thể phủ nhận được sự thật: chủ nghĩa xã hội đã từng
là một hệ thống thế giới với hơn 10 nước, trong đó có nước đứng vào hàng
siêu cường bậc nhất, là một trong hai khối kinh tế, chính trị, quân sự hùng
mạnh, là đối trọng của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội hiện thực không
chỉ là nhân tố cần thiết cho hòa bình và ổn định thế giới, mà còn là điều kiện
không thể thiếu để các nước nhỏ có độc lập, tự do thật sự.

Với việc đạt được nhưng thành tựu to lớn, chủ nghĩa xã hội hiện thực
đã làm thay đổi bộ mặt thế giới hiện đại và buộc chủ nghĩa tư bản phải điều
chỉnh, thích nghi; Điều này cũng đúng với dự báo của C.Mác, Ph.Ăngghen về


4
tính chất không vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản ngay khi nó đang còn non trẻ
và tràn đầy nhựa sống. Ở mỗi thời kỳ khác nhau từ giai đoạn tự do cạnh tranh,
thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền nhà nước, với những đặc
điểm khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội không thể phủ nhận hoàn
toàn những cống hiến của nó đối với lịch sử xã hội với việc tạo ra những lực
lượng sản xuất đồ sộ, ngày càng hiện đại. Trong thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản
chứng tỏ nó vẫn còn tiềm năng phát triển và khả năng thích nghi và tự điều
chỉnh khá cao; cả hai mặt của mâu thuẫn giữa hình thức chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa với trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất cũng đã có
những biến đổi nhất định và về hình thức sở hữu và từ phía người lao động.
Nghiên cứu về thời đại hiện nay cho thấy một trong các nhân tố tác
động sâu sắc đến đời sống thế giới đó là phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới và các trào lưu xã hội. Là
một phong trào hiện thực, phong trào công sản và công nhân quốc tế không
tránh khỏi quy luật thăng trầm. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ, phong trào công sản lâm vào khủng hoảng. Nhưng chỉ trong
một thời gian sau, một hiện tượng thu hút sự chú ý của nhiều nhà quan sát
quốc tế là tại các nước Đông Âu và Tây Âu và những nước cộng hòa thuộc
Liên Xô trước đây, các lực lượng cánh tả mà trong đó nòng cốt là những
người cộng sản đã giành được một số thắng lợi quan trọng trong các cuộc bầu
cử quốc hội và chính quyền địa phương, nhiều đảng viên cộng sản trước kia
hoặc hiện nay đã được bầu vào các vị trí trọng yếu ở nhiều nước, điển hình
như ở Italia, Lítva, khu vực Mỹ latinh; Phong trào đã nhận thức ngày càng
đầy đủ, đúng đắn, sáng tỏ hơn các vấn đề của thời đại, về quy luật phát triển

của xã hội loài người và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của mỗi nước; Các
đảng cộng sản và công nhân đang tích cực đấu tranh và giành được những
thành tựu rất quan trọng trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng xã
hội chủ nghĩa; đồng thời nổ lực tìm kiếm cơ chế phối hợp hoạt động chung,


5
tập hợp lực lượng, tăng cường đoàn kết, trao đổi kinh nghiệm, góp phần nâng
cao sức mạnh của phong trào.
Song hành với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào
đấu tranh của nhân dân thế giới có sự thay đổi về lực lượng, quy mô, mục tiêu
đấu tranh. Những năm đầu thế kỷ XXI, phong trào nhân dân thế giới đã phục
hồi và phát triển nhanh. Nội dung của phong trào vẫn chủ yếu là đấu tranh
cho hòa bình, chống chiến tranh và can thiệp vũ trang, chống chạy đua vũ
trang, giải trừ quân bị, chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế và chủ nghĩa tự do
mới; đấu tranh vì sự phát triển, xóa bỏ tình trạng lạc hậu, kém phát triển về
kinh tế xã hội và bất công xã hội, đấu tranh dân chủ, cải thiện việc làm; bảo
đảm an ninh con người, quyền được sống trong hòa bình, độc lập tự do; đấu
tranh với mặt trái của toàn cầu hóa, chống “diễn biến hòa bình”; tăng cường
đấu tranh nghị viện.
Một nhân tố nữa của thời đại hiện nay đó là trào lưu xã hội dân chủ. Từ
giữa thế kỷ XX đến nay, trào lưu xã hội dân chủ có những bước phát triển lớn
trở thành một lực lượng chính trị đương đại quan trọng tác động mạnh mẽ đến
nhiều mặt của đời sống chính trị ở nhiều nước trên thế giới; Trào lưu xã hội
dân chủ trở thành như một lực lượng tham chiến và một sức ép đối với chủ
nghĩa tư bản, các đảng xã hội dân chủ đã thắng cử và trở lại cầm quyền ở
phần lớn các nước châu Âu, từ Tây Âu đến Bắc Âu.
Sự vận động các nhân tố của thời đại đã tác động sâu sắc đến tình hình
thế giới hiện nay, làm cho giai đoạn hiện nay của thời đại có sự vận động đa
chiều, phong phú theo các chiều hướng song xu hướng hòa bình, hợp tác và

phát triển bền vững là xu thế chủ đạo trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc.
Song có thể khẳng định dù thời cuộc có đổi thay nhưng thời đại không thay
đổi.
1.2. Tính chất quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội của
thời đại hiện nay là không thay đổi


6
Trong thế kỷ XX nhân loại đã chứng kiến nhiều đổi thay của lịch sử.
Đó là thế kỷ mà khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đời sống
vật chất và tinh thần của con người được nâng lên gấp bội. Nhưng đó cũng là
thế kỷ có nhiều sự kiện đau buồn như đã diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới
và hàng loạt các cuộc xung đột vũ trang khiến cho cả cộng đồng nhân loại
phải hứng chịu biết bao tổn thất nặng nề. Dấu ấn nổi bật và đậm nét của thế
kỷ này là những thắng lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng kiên cường, giành
độc lập dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên phạm vi toàn
thế giới, được mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại - cuộc cách
mạng mà "trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý
nghĩa to lớn và sâu xa như thế".
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã "mở đầu một
thời đại mới trong lịch sử thế giới" và như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: "Cách mạng Tháng Mười đã mở ra con đường giải phóng cho các dân
tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới".
Vào các năm 1957 và 1960, Hội nghị quốc tế các Đảng Cộng sản và
Công nhân xác định: Nội dung cơ bản của thời đại chúng ta là sự quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười
Nga vĩ đại. Tuy nhiên, kể từ đó, việc nghiên cứu, nhận thức nội dung cơ bản
ấy của thời đại chúng ta đã không tránh khỏi bị chi phối bởi sự thăng trầm của
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và của hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Những năm 80 về trước, thắng lợi không thể phủ nhận được trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở hàng loạt nước trong hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô, đã xuất hiện một khuynh hướng tuyệt đối hóa
những thành quả đạt được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã
hình thành một quan niệm về thời đại dựa trên những ảo tưởng có thể nhanh
chóng thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và thúc đẩy một cách chủ quan quá trình cách


7
mạng xã hội chủ nghĩa, không phù hợp với quy luật khách quan của sự phát
triển xã hội.
Ngược lại, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, khi chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, khiến phong trào cách
mạng xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, đã có không ít
người vẫn nuôi hy vọng đi tới chủ nghĩa xã hội bằng con đường bằng phẳng,
êm ả rốt cuộc lại nhanh chóng rơi vào tâm trạng bi quan, thất bại chủ nghĩa,
nên đã vội vàng phủ nhận nội đung và tính chất cơ bản của thời đại hiện nay.
Sự khủng hoảng, đổ vỡ ở hàng loạt nước trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa là lời cảnh tỉnh để các đảng cộng sản, phong trào công nhân và cộng sản
quốc tế nhìn nhận khách quan, đúng đắn hơn nữa nội dung và tính chất của
thời đại hiện nay, từ đó đưa ra những quyết sách phù hợp với tiến trình cách
mạng của mỗi nước.
Thực tiễn đã chứng minh, sự sụp đổ đó không có nghĩa là sự sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội với tư cách là một học thuyết khoa học và cách mạng, kim
chỉ nam cho sự nghiệp giải phóng hoàn toàn và triệt để giai cấp công nhân,
nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức và giải phóng con người, xây dựng
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sự sụp đổ ấy cũng không phải là sự
sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, vì hiện nay các nước xã hội
chủ nghĩa ở Châu Á và châu Mỹ Latinh vẫn tiếp tục giành được nhưng thắng
lợi to lớn, không những trụ vững mà còn có bước phát triển mới rất quan

trọng. Ngay ở các nước trước đây là xã hội chủ nghĩa, tuy Nhà nước xã hội
chủ nghĩa không còn, nhưng ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và các lực lượng xã
hội chủ nghĩa vẫn tồn tại và tất yếu sẽ tìm ra phương thức phù hợp với thực
tiễn của mỗi nước để tổ chức lại và tiến bước theo tiến trình phát triển lịch sử
của nhân loại.
Phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới đang ở một khúc quanh lịch sử,
một bước thụt lùi lớn, song chắc chắn rằng "loài người cuối cùng nhất định sẽ
tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử". Dù cho hiện


8
nay có những đảo lộn rất lớn, nhưng những đảo lộn ấy không làm bánh xe
lịch sử quay ngược lại, không hề làm thay đổi tính chất và nội dung căn bản
của thời đại hiện nay được mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại
năm 1917. Khẳng định đó của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn đúng và
có cơ sở vững chắc. Bởi lẽ, thời đại là một phạm trù lịch sử có tầm bao quát
rộng lớn và phản ánh tổng quát một giai đoạn lớn của lịch sử, mang ý nghĩa
cơ bản về sự vận động của thế giới, cũng như của mỗi cộng đồng quốc gia
dân tộc. Một thời đại cụ thể, suy đến cùng, là tổng hoà những nhân tố lịch sử
cấu thành, là sự xác nhận của lịch sử với tính hợp quy luật đối với sự tồn tại
của một chế độ xã hội nhất định.
Khi phân tích mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản thông qua những
biến đổi về kinh tế và chính trị của nó, C.Mác đã chỉ ra logic khách quan tất
yếu dẫn tới sự phủ định của chính chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của chủ nghĩa
xã hội - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội mới, hình thái kinh tế xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
Quan niệm đầy đủ về một thời đại mang tính quá độ đòi hỏi chúng ta
phải có sự nhận thức đúng đắn về địa vị của cả chủ nghĩa xã hội lẫn chủ nghĩa
tư bản trong thế giới thực tại. Điều đó không hề làm mất đi trong nhận thức và
quan điểm của chúng ta sự cần thiết phải phê phán tính chất phản động về

chính trị của các thế lực tư bản, đế quốc. Hơn nữa, nó không làm mất đi tính
cảnh giác trước âm mưu và hành động "diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, bóp nghẹt các
phong trào giải phóng dân tộc. Với tư duy biện chứng, trước sau như một,
chúng ta tuyên bố sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản thế
giới và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới
Chủ nghĩa tư bản vẫn mang trong mình những mâu thuẫn đối kháng
vốn có, những nhân tố chứa đựng sự bùng nổ xã hội sâu sắc, song nó hiện nay
vẫn là một chế độ xã hội đang tồn tại chủ nghĩa xã hội với nhưng thành tựu đã
đạt được trong gần một thế kỷ đã, đang và vẫn chứng tỏ trước loài người khả


9
năng và triển vọng phát triển của mình. Với tư cách là một sự kiện lịch sử vừa
mới xác lập và đang còn là những thử nghiệm ban đầu, sự đổ vỡ mất mát của
chủ nghĩa xã hội đầu là hiện thực, song đó chỉ là tạm thời. Phong trào xã hội
chủ nghĩa thế giới đầu đang ở giai đoạn thoái trào, song rồi đây nó sẽ phục
hồi và phát triển.
Lịch sử luôn luôn là một chuỗi liên tục của quá trình phát triển.
Ph.Ăngghen đã từng nói không có chế độ nô lệ cổ đại thì không có chủ nghĩa
xã hội hiện đại. Lịch sử vừa đòi hỏi con người hành động sáng tạo, lại vừa tạo
ra những tiền đề cho quá trình sáng tạo mới của con người. Lịch sử chứng tỏ
rằng, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới không diễn ra trong một thời gian ngắn và theo một con đường
thẳng tắp. Cũng như mọi thời đại khác trong lịch sử, nó có tiến, có thoái,
quanh co khúc khuỷu, nhưng cuối cùng loài người nhất định sẽ đi đến một xã
hội tốt đẹp, văn minh, dân chủ, tiến bộ hơn chế độ tư bản chủ nghĩa đó chính
là chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển xã hội diễn ra
theo tiến trình lịch sử tự nhiên như các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa
học đã khẳng định. Đó là xu thế tất yếu không thể đảo ngược được của lịch

sử.
Tuy phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, phong trào xã hội chủ
nghĩa có những biến cố thăng trầm, song thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở
đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó là thời đại đấu tranh cho
thắng lợi của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội gắn liền
với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, tạo ra những tiền đề vật
chất - kỹ thuật ngày càng đầy đủ cho việc chuyển lên chủ nghĩa xã hội.
Tính chất quá độ của thời đại hiện nay biểu hiện hết sức phong phú,
muôn hình, muôn vẻ. Thời đại hiện nay đang tiếp tục diễn ra cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Cuộc đấu tranh đó diễn ra lâu dài,


10
phức tạp trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, liên quan đến sự lựa chọn con
đường phát triển mỗi quốc gia dân tộc.
C.Mác trong Phê phán Cương lĩnh Gôta đã luận giải về thời kỳ quá độ
với tư cách quá độ chính trị là chủ yếu: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã
hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã
hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước
của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản”1. Như vậy, C. Mác đã dự báo về thời kỳ này ở các khía
cạnh sau. Một là, từ xã hội tư bản sang xã hội cộng sản tất yếu phải có thời kỳ
quá độ để thực hiện cuộc cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia và
hai chế độ xã hội này khác nhau về bản chất. Hai là, thời kỳ quá độ ở đây là:
“quá độ lớn”, “quá độ dài”, quá độ từ hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa sang
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Quá độ chính trị thích ứng với thời kỳ này được biểu hiện ở chỗ: nhà
nước chỉ có thể là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. C.Mác
khi nghiên cứu các xã hội với những đặc điểm lịch sử kinh tế, xã hội, chính

trị, văn hóa đã dự báo sẽ có hình thức quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp.
V.I.Lênin đã tiếp thu, bổ sung, phát triển, cụ thể hóa lý luận về thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước Nga Xô viết sau cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, làm phong
phú thêm nội dung của lý luận mácxít về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa nói chung, về quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng. Ông viết: “Vậy
thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa
là trong chế độ hiện nay nó có những thành phần, những mảnh của chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa xã hội hay không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có” 1.
Ông đã cụ thể hóa quan điểm về quá độ trong kinh tế ở nước Nga Xô viết và
11 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 464.
11 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 248.


11
chia thể chế kinh tế nước Nga đương thời thành 5 thành phần kinh tế và chủ
trương phải phát triển các thành phần kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, V.I.Lênin đã chỉ ra các hình thức quá độ trực tiếp
và quá độ gián tiếp.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới mẻ, khó khăn và
phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với
những công việc đó. Thời lỳ quá độ ở những nước có trình độ phát triển kinh
tế xã hội khác nhau thì khác nhau. Nước đã phát triển lên trình độ cao thì
tương đối ngắn, còn những nước lạc hậu, kém phát triển thì phải kéo dài hơn
và gặp phải nhiều khó khăn phức tạp hơn. Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đã chỉ
ra đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ:
Trên lĩnh vực kinh tế: thời kỳ này tất yếu còn tồn tại nền kinh tế nhiều
thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất. Và tương ứng với
nó có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng vị trí, cơ cấu và tính
chất của giai cấp trong xã hội đã thay đổi một cách sâu sắc. Sự tồn tại của cơ

cấu kinh tế nhiều thành phần là khách quan, lâu dài, có lợi cho sự phát triển
của lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế nhiều thành phần
được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu về
tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp
và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau trong đó hình
thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân
phối chủ đạo
Trên lĩnh vực chính trị: các nhân tố của xã hội mới và tàn dư của xã hội
cũ tồn tại đan xen lẫn nhau, đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời
sống. trong xã hội lúc này tồn tại nhiều thành phần với rất nhiều tư tưởng, ý
thức khác nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa: Thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều yếu tố
tư tưởng và văn hóa khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủnghĩa còn tồn tại


12
tư tưởng tư sản, tiểu tư sản..., các yếu tố văn hóa cũ và mới thường xuyên đấu
tranh với nhau.
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn ra
cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại, không còn là giai
cấp thống trị và những thế lực thù địch chống phá chủ nghĩa xã hội với giai
cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh này diễn ra
trong hoàn cảnh mới là giai cấp công nhân giành được chính quyền nhà nước
và nó diễn ra trong mọi lĩnh vực
Để đi tới mục tiêu ấy của thời đại, hơn bao giờ hết, trong giai đoạn hiện
nay, nhân dân các nước càng phải ra sức cùng nhau đoàn kết đấu tranh chống
các thế lực thù địch của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội càng phải tỉnh táo trước âm mưu và hành động diễn biến hòa bình" của
chúng hòng duy trì vĩnh viễn sự thống trị của chủ nghĩa tư bản trên hành tinh
này.

Lịch sử Việt Nam 85 năm qua với sự lựa chọn con đường giải phóng
dân tộc đi vào quỹ đạo cách mạng vô sản, đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, thắng lợi của hai cuộc kháng
chiến chống thực dân, đế quốc nhằm giải phóng và thống nhất Tổ quốc Việt
Nam, đặc biệt là thắng lợi của con công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là
thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Cách mạng nước ta vừa thể hiện, vừa góp phần thúc đẩy trào
lưu chính của thời đại ngày nay - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Khúc quanh hiện nay của lịch sử cách mạng thế giới, dù có làm cho sự
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới bị kéo dài
thêm, song không thể đảo ngược được xu thế của thời đại. Con đường của
thời đại, con đường mà nhân loại đang đi tới chính là con đường thắng lợi của
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.


13
Nhận thức đúng và làm rõ nội dung, tính chất của thời đại ngày nay là
cơ sở quan trọng để chúng ta hoạch định đúng đắn đường lối và sách lược của
chúng ta và "chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một
thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này
hay nước nọ"như V.I.Lênin đã từng khẳng định.
2. Vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
2.1. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở
Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại hiện nay
Với nội dung, tính chất của thời đại hiện nay được xác định là thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì việc lựa chọn con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của một số nước trong đó có Việt Nam là hoàn toàn
khách quan. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ tất yếu trên con đường
phát triển của hình thái kinh tế- xã hội cũ nghĩa cộng sản. Đó là thời kỳ có

những đặc điểm riêng với những nội dung knh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở
hoàn thành những nội dung đó.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử, bởi vì:
Thứ nhất, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với
quy luật khách quan của lịch sử. Loài người đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa.
Sự biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên,
hình thái kinh tế - xã hội sau cao hơn hình thái xã hội trước và tuân theo quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Cho dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm ưu thế về vốn,
khoa học, công nghệ và thị trường nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu
thuẫn vốn có của nó, đặc biệt là mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa tính chất
xã hội hóa ngày càng caocủa lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất và xã hội hóa lao động làm cho các tiền đề vật chất, kinh tế, xã


14
hội ngày càng chín muồi cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của xã
hội mới - chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài
người. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội.
Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp
với xu thế của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt
Nam: cách mạng dân tộc, dân chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước hết là giải phóng dân tộc, giành độc
lập, tự do, dân chủ... đồng thời nó là tiền đề để “làm cho nhân dân lao động
thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no, và
sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

Mặt khác, khi bàn về thời kỳ quá độ, V.I.Lênin chia nó thành các bước
quá độ nhỏ. Ý nghĩa của việc phân chia này nhằm định hướng cho chủ thể
lãnh đạo không được chủ quan nóng vội đốt cháy giai đoạn mà phải căn cứ
vào từng bước quá độ (từng giai đoạn cụ thể) để xác định cho trúng mục
tiêu, nội dung, nhiệm vụ, từ đó xây dựng chiến lược, sách lược phát triển
phù hợp với từng thời kỳ.
V.I.Lênin đã phân tích đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ độc
quyền, thấy được quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi ở một số nước riêng lẻ chứ
không thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả cả nước. Trong điều kiện đó, các
nước lạc hậu có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Theo V.I.Lênin, điều kiện để một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa là: Thứ nhất, điều kiện bên trong, có Đảng cộng
sản lãnh đạo giành được chính quyền và sử dụng chính quyền nhà nước công,
nông, trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Thứ hai, điều kiện bên ngoài, có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các
nước tiên tiến đã giành thắng lợi trong cách mạng vô sản. Các nước lạc hậu có


15
khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng
không phải là quá độ trực tiếp, mà phải qua con đường gián tiếp với một loạt
những bước quá độ thích hợp, thông qua “chính sách kinh tế mới”.
Chính sách kinh tế mới là con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã
hội, được áp dụng ở Liên Xô từ mùa xụân 1921 thay cho “chính sách cộng
sản thời chiến” được áp dụng trong những năm nội chiến và can thiệp vũ
trang của chủ nghĩa đếquốc. Chính sách kinh tế mới của Lê nin với nội dung
co bản là dùng thuế lương thực thay cho trưng thu lương thực thừa trong
chính sách cộng sản thời chiến; thiết lập quan hệ hàng hóa, tiền tệ, phát triển
thị trường, thương nghiệp.... thay cho Chính sách cộng sản thời chiến; Sử

dụng nhiều thành phần kinh tế, các hình thức kinh tế quá dộ, khuyến khích
phát triển kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân thay cho chính sách cộng sản
thời chiến, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, chuyển các xí nghiệp nhà
nước sang chế độ hạch toán kinh tế, chủ trương phát triển kinh tế với các
nước phương Tây để tranh thủ vốn, kỹ thuật.... “Chính sách kinh tế mới” của
lê nin có ý nghĩa to lớn: về thực tiễn, nhờ có chính sách đó nước Nga Xô viết
đã làm khôi phục nhanh chóng nền kinh tế sau chiến tranh, khắc phục được
khủng hoảng kinh tế và chính trị. Về lý luận, nó phát triển nhận thức sâu sắc
về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với Việt Nam, phân tích rõ hơn thực trạng kinh tế, chính trị của đất
nước, trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “nước ta quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến,
lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu
quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều. Các thế
lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội và nền độc lập của
nhân dân ta” Sẽ là sai lầm và phải trả giá nếu quan niệm “bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa” theo kiểu phủ định sạch trơn, đem đối lập chủ nghĩa xã hội với
chủ nghĩa tư bản, bỏ qua cả những cái “không thể bỏ qua” như đã từng xảy ra


16
ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Vì vậy, báo cáo chính trị tại Đại hội
Đảng IX Đảng cộng sản Việt Nam đã nói rõ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là
“bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là phát triển theo con đường “rút ngắn” quá
trình lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng “rút ngắn” không phải là đốt cháy giai

đoạn, duy ý chí, coi thường quy luật, như muốn xóa bỏ nhanh sở hữu tư nhân
và các thành phần kinh tế “phi chủ nghĩa xã hội” hoặc coi nhẹ sản xuất hàng
hóa.
Trái lại, phải tôn trọng quy luật khách quan và biết vận dụng sáng tạo
vào điều kiện cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để
tìm ra con đường, hình thúc, bước đi thích hợp. Phát triển theo con đường “rút
ngắn” là phải biết kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được ở chủ
nghĩa tư bản không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả về quan hệ sản xuất, cơ
sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng
không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội mà phải qua con
đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng loạt các hình thức quá độ. Sự cần
thiết khách quan và vai trò tác dụng của hình thức kinh tế quá độ được Lênin
phân tích sâu sắc trong lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thực hiện các
hình thức kinh tế quá độ, các khâu trung gian... vừa có tác dụng phát triển
nhanh chóng lực lượng sản xuất, vừa cần thiết để chuyển từ các quan hệ tiền
tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nó là hình thúc vận dụng các quy luật kinh tế phù
hợp với điều kiện cụ thể. Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở nước ta tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các
lĩnh vực là quá trình rất khó khăn, phức tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
có tính chất quá độ” .


17
Phân tích tình hình đất nước và thời đại cho thấy mặc dù kinh tế còn lạc
hậu, nước ta vẫn có khả năng và tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Về khả năng khách quan: cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão và toàn cầu hoá kinh tế đang
diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu; nó mở ra
khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của nước kém phát triển như

thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lý yếu kém...,
nhờ đó ta có thể thực hiện “con đường rút ngắn”. Thời đại ngày nay, quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách quan của loài người. Đi trong dòng
chảy đó của lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ nhận được sự đồng tình, ủng hộ
ngày càng mạnh mẽ của loài người, của các quốc gia độc lập đang đấu tranh
để lựa chọn con đường phát triển tiến bộ của mình. Về những tiền đề chủ
quan Nước ta có nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần cù và
thông minh, trong đó đội ngũ làm khoa học, công nghệ, công nhân lành nghề
có hàng chục ngàn người ... là tiền đề rất quan trọng để tiếp thu, sử dụng các
thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Nước ta có nguồn tài
nguyên đa dạng, vị trí địa lí thuận lợi và những cơ sở vật chất - kĩ thuật đã
được xây dựng là những yếu tố hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế.
Những tiền đề vật chất trên tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế
quốc tế, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm
quản lý tiên tiến của các nước phát triển. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn phù
hợp với nguyện vọng của đại đa số nhân dân Việt Nam đã chiến đấu, hi sinh
không chỉ vì độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây
dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Quyết tâm của nhân dân sẽ trở
thành lực lượng vật chất để vượt qua khó khăn, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, một Đảng giàu tinh thần cách mạng và sáng tạo, có đường lối đúng
đắn và gắn bó với nhân dân, có Nhà nước xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân ngày càng được củng cố vững mạnh và khối đại đoàn kết toàn dân, đó


18
là những nhân tố chủ quan vô cùng quan trọng bảo đảm thắng lợi côngcuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.2. Nhận thức của Đảng ta về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam và một số vấn đề đặt ra hiện nay

C.Mác chỉ ra rằng: giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của đảng cộng
sản sau khi giành được chính quyền về tay mình sẽ bắt tay vào xây dựng một
hình thái mới - đó là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn
đầu là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ lâu dài, vừa có kế
thừa, phủ định biện chứng chủ nghĩa tư bản, vừa xây dựng những yếu tố,
những cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Khi xã hội mới đủ sức vận động
trên cơ sở nền tảng của chính nó, thì chuyển dần lên chủ nghĩa cộng sản. Do
vậy, thực hiện bước quá độ là một tất yếu khách quan đối với mọi nước sau khi
giai cấp công nhân đã giành thắng lợi trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
giai đoạn đầu.
Khi mà hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa rơi vào thoái trào, thì
nhiều luồng tư tưởng đã xuất hiện và cho rằng sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản trong điều kiện khoa học - công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức đã làm
thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản, thay vì chủ nghĩa tư bản bóc lột và
ăn bám thì ngày nay, chủ nghĩa tư bản đã trở nên nhân văn hơn và đã trở
thành chủ nghĩa tư bản nhân dân. Từ đó, họ cho rằng: phát triển theo con
đường tư bản chủ nghĩa là một sự lựa chọn đúng đắn hợp quy luật!
Nước ta trước thời kỳ trước đổi mới do nhiều nguyên nhân khách
quan, chủ quan, việc vận dụng lý luận Mác - Lênin nói chung, lý luận về
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế. Những quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ mới chỉ được quán triệt, vận dụng
ở mức độ khái quát chung chung về những trọng tâm nhiệm vụ lớn phải làm,
đó là: xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và đời sống tinh thần cho chủ nghĩa


19
xã hội. Nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lần đầu tiên
được Đảng ta nêu ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 2 năm
1951) với quan niệm về ba giai đoạn, trong đó, giai đoạn thứ ba của cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân được coi là thời kỳ quá độ với nhiệm vụ xây
dựng, củng cố và hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân. Từ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III (năm 1960), nhiều vấn đề lý luận về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội tiếp tục được đặt ra để nghiên cứu và làm sáng tỏ như: lý
luận phân kỳ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; những mâu thuẫn cơ bản
của thời kỳ quá độ; quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; đấu
tranh giai cấp v.v…
Song vào thời gian này các đặc điểm của thời kỳ quá độ, những
nhiệm vụ kinh tế, chính trị chủ yếu, các phương pháp, bước đi, đến lộ trình,
thời gian của các chặng đường, các bước “trung gian quá độ”, các hình thức
kinh tế - xã hội cần thiết phải vận dụng đều chưa được đề cập.
Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đã mở ra con đường đổi mới toàn
diện đất nước mà trước hết là đổi mới tư duy, lý luận.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được soi sáng bằng
những nhận thức mới. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 với
phương châm “nhìn thẳng vào sự thật”, “nói rõ sự thật”, Đảng ta công khai
thừa nhận những yếu kém, sai lầm trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận: “Trong
lĩnh vực tư tưởng đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức và vận dụng các quy luật
đang hoạt động trong thời kỳ quá độ: đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hóa,
muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến
không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất
hàng hóa đang tồn tại khách quan; do đó, không chú ý vận dụng chúng vào
việc chế định các chủ trương chính sách kinh tế. Chưa chú ý đầy đủ việc tổng


20
kết kinh nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước
anh em”1.
Từ Đại hội VI, đã mở ra dấu mốc quan trọng cho đổi mới tư duy, nhận

thức lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện của Việt
Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được Đại hội VII thông qua năm 1991 đã chỉ rõ nhiều nhận thức mới về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã xác định: “Nước ta quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa,
nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm
chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến
còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội
chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta” 2. Cương lĩnh còn xác định
rõ những mục tiêu tổng quát cần đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ và chỉ rõ
mục tiêu của chặng đường đầu là: “thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới
trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng đường sau”3.
Đặc biệt, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX năm 2001, Đảng ta đã
phát triển nhận thức mới, cụ thể hóa về quá độ lên chủ nghĩa xã hội với các
nội dung rất cụ thể: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh
lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
11 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 26.
22 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.
314.
33 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005, tr. 634 - 635.


21
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sự

biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn,
phức tạp cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực
đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”1.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ 6 thành phần kinh
tế ở nước ta. Quan điểm này của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
thống nhất về nhận thức không chỉ trong Đảng, mà trong toàn xã hội để trên
cơ sở đó, triển khai các hoạt động cả về mặt lý luận và thực tiễn cho phù hợp.
Tuy nhiên, cho đến nay quan niệm về “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”
cần được tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn và cụ thể hóa hơn. Chúng ta
biết rằng, quan hệ sản xuất được cấu thành từ ba yếu tố cơ bản: 1) Quan hệ sở
hữu tư liệu sản xuất; 2) Quan hệ tổ chức, quản lý quá trình sản xuất; 3) Quan
hệ phân phối sản phẩm xã hội.
Trong bước quá độ định hướng lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam không
thể xác lập vị trí thống trị của quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất là hoàn toàn đúng đắn. Song trong quan hệ tổ chức, quản lý quá
trình sản xuất, rộng hơn là quản lý, tổ chức nhà nước và đời sống xã hội, chủ
nghĩa tư bản cũng đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng, và chứa đựng
nhiều yếu tố khoa học, nhiều kinh nghiệm quản lý hiệu quả mà các nước trên
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội không thể bỏ qua, thậm chí phải nghiên
cứu một cách nghiêm túc, trên tinh thần khách quan khoa học và “gạn đục
khơi trong” để “chắt lọc” từ đó những “vật liệu” quí xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Do vậy, con đường quá độ bỏ qua của Việt Nam cần phải diễn đạt một
cách chính xác là không xác lập vị trí thống trị của chế độ sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu.

11 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.
318.



22
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục phát triển, cụ thể hóa về
ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân) và hình thành nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội XI năm 2011 của Đảng tiếp tục phát triển tư duy, nhận thức về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
đã chỉ rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ cần đạt tới: “… xây
dựng được về cơ bản nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng
tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành
một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Trong bối cảnh nội dung, tính chất của thời đại hiện nay không thay
đổi, để thực hiện thành công bước quá độ “rút ngắn” cần chuẩn bị tốt các điều
kiện, tiền đề hơn nữa, trong đó cần tập trung:
Phải nắm vững lý luận thời kỳ quá độ của chủ nghĩa Mác - Lênin và
vận dụng nó một cách đúng đắn và sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam để thúc đẩy nhanh lực lượng sản xuất phát triển. Cụ thể là phải thực hiện
chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với đầu tư phát triển kinh tế tri
thức, nhất là lĩnh vực khoa học, công nghệ và công nghệ thông tin để tạo cơ
sở vật chất - kỹ thuật cần thiết cho sự phát triển nhanh của lực lượng sản xuất.
Phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, bao gồm: đội ngũ trí
thức, các nhà khoa học tài năng đức độ; đội ngũ công nhân - tri thức, người
lao động có trình độ cao để đủ sức làm chủ quá trình sản xuất trong thời đại
khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức.
Tạo điều kiện và môi trường chính trị, dân chủ lành mạnh để tạo động
lực cho hoạt động sáng tạo đạt hiệu quả cao, vì đây là yếu tố không thể thiếu
để đảm bảo cho kinh tế tri thức phát triển.



23
Phát triển đội ngũ tinh hoa của đất nước, đó là các nhà lãnh đạo quản
lý thật sự có đức, có tài, vừa hồng vừa chuyên, tâm huyết và kiên định với sự
nghiệp và con đường phát triển của đất nước. Đây được xem là một trong
những yếu tố có ý nghĩa quyết định để vạch ra đường lối chiến lược phát triển
đúng đắn và tạo sự đồng thuận trong dân để thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ở Việt Nam
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn
đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”2.
Thực tiễn quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực thi các nhiệm vụ
kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng,... trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã cho thấy, một số vấn đề đang đặt ra mà giới lý luận có trách
nhiệm phải làm sáng tỏ hơn:
Một là, việc phân kỳ thời kỳ quá độ mới chỉ dừng lại ở việc xác định
chặng đường đầu tiên, chặng đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
vậy có những chặng nào nữa để kết thúc thời kỳ quá độ? Phải hiểu đúng và
diễn đạt lại cho chuẩn xác quan điểm của Đảng về thời kỳ quá độ.
Hai là, mục tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Vậy tiêu chí của một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại phải xác định rõ ràng thì mới có định hướng đạt tới.
Ba là, về các mối quan hệ lớn cần quán triệt và giải quyết nhưng định
hướng và các giải pháp cụ thể cần phải được vạch ra để “quán triệt” và “giải
quyết” sao cho thống nhất, đồng bộ. Các mối quan hệ lớn ở đây là: quan hệ
giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa tăng
22 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001, tr. 71.



24
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc
lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ,... Khẳng định và bảo vệ những quan điểm đúng đắn; uốn nắn
những nhận thức lệch lạc; phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù
địch.
Bốn là, khi kết thúc thời kỳ quá độ cần dự báo về cơ cấu kinh tế - xã
hội của Việt Nam và tương ứng với nó là một cơ cấu xã hội - giai cấp phải
được tiến hành, nhưng cho đến nay chưa có được dự báo đó.
Năm là, Đảng ta có quan điểm đúng là bỏ qua chế độ tư bản tức là bỏ
qua việc thiết lập quan hệ sản xuất thống trị kiểu tư bản và kiến trúc thượng
tầng kiểu tư bản… có tiếp thu, kế thừa những giá trị mà nhân loại đã đạt dược
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ… Đây là vấn
đề cần nghiên cứu cụ thể hóa làm sáng tỏ hơn nữa. Ví dụ chúng ta kế thừa,
tiếp thu gì ở kinh nghiệm quản lý của các tập đoàn, công ty tư bản? tiếp thu,
kế thừa gì từ nhà nước pháp quyền tư sản? cả những giá trị của dân chủ tư
sản… chứ không chỉ đơn thuần là khoa học công nghệ.
Sáu là, về lý luận, chúng ta chưa giải quyết được sự khác biệt giữa
kiểu quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội với kiểu quá độ bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội; Mối quan hệ giữa thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với thời đại ngày nay; Mối quan hệ giữa
thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội với hình
thái kinh tế - xã hội;
Các khái niệm “con đường xã hội chủ nghĩa”, “định hướng xã hội chủ
nghĩa” và “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” có liên quan với nhau như thế
nào và có gì khác biệt giữa các khái niệm ấy? Có thể thay thế khái niệm “thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” bằng khái niệm “thời kỳ phát triển theo định

hướng xã hội chủ nghĩa” được không?; Trước đây, người ta thường đề cập đến


25
một tiền đề quan trọng để cho các nước lạc hậu thực hiện bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa xã hội là: các nước xã hội chủ nghĩa đi trước
giúp đỡ các nước lạc hậu để có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Nhưng tiền đề đó đến nay không còn nữa. Vậy tiền đề để
cho các nước lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa hiện nay là gì?
Những vấn đề đang đặt ra vừa nêu là vấn đề mà thực tiễn của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đang đòi hỏi những câu trả lời. Hy
vọng việc tổng kết 30 năm đổi mới công tác tư tưởng, lý luận của Đảng ta sẽ
có những câu trả lời thỏa đáng

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương, Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù
địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG,
H.2007.
2. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, Nxb ST, H. 1991
3. Dự báo thế kỷ XXI, Nxb Thống kê, H.1998
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đạo biểu toàn quốc của đảng
lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2001
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đạo biểu toàn quốc của đảng
lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2006
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đạo biểu toàn quốc của đảng
lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2011
7. V.I. Lênin, toàn tập, tập 26, Dưới ngọn cờ của người khác. Nxb. TB. M.1978.
8. V.I.Lê nin, toàn tập, Tập 39, Nxb TB. M.1978
9. Những vấn đề cấp bách của thời đại hiện nay, Nxb CTQG, H.1996.

10. Tài liệu nghiên cứu chuyên đề của sĩ quan tại đơn vị học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2014, Nxb QĐND, H.2014.


×