Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN NGHIÊN cứu GIÁ TRỊ tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về cán bộ ĐẢNG VIÊN TRONG THỜI kỳ đổi mới HIỆN NAY QUA một số tác PHẨM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.77 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới, anh hùng giải
phóng dân tộc, là người thày vĩ đại và là nhà tư tưởng lớn của cách mạng
Việt Nam. Trong việc xây dựng Đảng cũng như trong toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta, Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ. Đây là
một trong những vấn đề thực sự có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành
bại của Đảng, của cách mạng. Nếu V.I. Lênin đã coi cán bộ là vấn đề "mấu
chốt của cách mạng Nga, của chính quyền Xô viết thì Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã từng nói với chúng ta "cán bộ là tiền vốn của toàn thể", "cán
bộ là cái gốc của mọi công việc", "cán bộ quyết định mọi công việc" [2, tr.
47].
Vấn đề cán bộ đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt được Người
chú trọng đến vấn đề rèn luyện đạo đức, tư cách của người cán bộ cách
mạng, với mục tiêu nhằm xây dựng Đảng ta thành một Đảng thật sự đoàn
kết, trong sạch, vững mạnh, mỗi cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, đất nước ta đang đứng trước nhiều
vận hội mới, với nhiều thuận lợi nhưng cũng đầy khó khăn, thử thách.
Đảng ta xác định "phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng và chỉnh đốn
Đảng là then chốt, tư tưởng của Người vẫn giữ nguyên giá trị đối với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc ta trong hiện tại và tương lai. Bên cạnh
những yếu tố tích cực trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang thực hiện, vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém của một
bộ phận cán bộ, đảng viên đã và đang bộc lộ cần phải kiên quyết sửa chữa,
khắc phục.
Vì vậy việc "Nghiên cứu giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay (Thông qua
tác phẩm của Hồ Chí Minh)" chẳng những có ý nghĩa về lý luận và thực
1



tiễn đối với công tác xây dựng Đảng mà còn có ý nghĩa thời sự sâu sắc. Đó
cũng là lý do em chọn lựa để viết bài thu hoạch kết thúc môn học này.

2


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

1.1. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ TƯ CÁCH VÀ ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CỦA NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, Hồ
Chí Minh nhận thấy cán bộ giữ vị trí quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến
sự thành bại của cách mạng về việc xây dựng chính Đảng macxit Lêninnit
của giai cấp công nhân. Nó đảm bảo cho mọi đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước được thực hiện thắng lợi trong tế, đồng thời nó
tạo ra mắt xích gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Người nói "Cán bộ
là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì
động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ, máy cũng bị tê liệt. Cán bộ là người đem
chính sách của Chính phủ, của Đảng thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ
dở thì chính sách cũng không thể thực hiện được" [3, tr. 275].
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (mục 3), Hồ Chí Minh đã đề
cập đến tư cách của Đảng chân chính cách mạng (gồm 12 điều), trong đó
đáng lưu ý là Đảng phải vì lợi ích của dân "Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng" [4, tr. 249]. Đây cũng
là bài học thứ ba được Đảng ta nêu lên tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X (năm 2006).

Đối với cán bộ, đảng viên, theo Bác, phải có lý luận cách mạng,
nhận thức được những quy luật khách quan, "cán bộ của Đảng phải hiểu
biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với
nhau. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết
thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương"
(Điều 3). Người cho, cán bộ đảng viên phải luôn gắn với quần chúng "Mọi
3


công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về giá quần chúng. Phải đem tinh
thần yêu nước và cần, kiệm, liêm chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và
nhân dân..." (Điều 5) [4, tr. 249]. Trong Đảng phải luôn phê và tự phê
(thanh trừng) xem xét lại về cả nội dung và việc thi hành chỉ thị, nghị quyết
"Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình...
tự sửa chữa để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ đảng viên. Đảng phải luôn luôn
tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài..." Người kết luận:
Muốn cho Đảng được vững bền
Mười hai điều đó chớ quên điều nào [Điều 4 đến điều 12, tr. 250].
Về phận sự của đảng viên và cán bộ (gồm 8 điểm) trước hết Người
khẳng định, phải trọng lợi ích của Đảng trên hết. "Ngoài lợi ích của dân
tộc, của Tổ quốc... Ham muốn địa vị, tìm cách phát tài, ra mặt anh hùng, tự
cao tự đại đều là trái với lợi ích của Đảng" [5, tr. 250-251].
Về đạo đức cách mạng của cán bộ và đảng viên, theo Bác gồm có
5 điều: Nhân, nghĩa, trí, dũng liêm. Bác nói: "Người đảng viên, người cán bộ
tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó
hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì
đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì
khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt ngày càng thêm" [4, tr. 251]
là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu, nó là
đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân mà vì

lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định tầm quan trọng và sự cần thiết phải có đạo đức cách mạng đối
với cán bộ, đảng viên: Cũng như sông có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho
loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có
căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?
4


Người cho, mỗi cán bộ, đảng viên phải giữ gìn kỷ luật vì sự phát
triển và thành công của Đảng là sự thành công của đảng viên nói riêng và
của dân tộc nói chung. Nói tóm lại, mỗi cán bộ, đảng viên phải hoàn toàn
phục tùng lợi ích của Đảng. Không nên có mục đích cá nhân, không khen
thưởng mình. Đồng thời ở bất kỳ hoàn cảnh nào, cán bộ và đảng viên cần
phải luôn luôn ra sức phấn đấu, làm việc, cố gắng học tập để nâng cao trình
độ văn hóa, trí thức và chính trị của mình luôn luôn giữ gìn kỷ luật, xứng
đáng với một người cán bộ, đảng viên [5, tr. 253, 254].
Trong tác phẩm Đạo đức cách mạng Người khẳng định: Cán bộ,
đảng viên phải là người "Lo thì lo trước thiên hạ, hưởng thì sau thiên hạ" và
"Luôn luôn giữ vững tinh thần chí công vô tư - đó là đạo đức cách mạng [6, tr.
568]. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Tuy năng lực và công việc của mỗi người
khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ nhưng ai giữ được đạo đức
đều là người cao thượng. Đại đa số chiến sĩ cách mạng là người có đạo đức:
Cả đời hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, sinh hoạt ngày thường thì làm
gương mẫu: gian khổ, chất phác, kính trọng của công... Đạo đức ấy có ảnh
hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành xã hội mới và xây dựng mỹ tục
thuần phong.
Có thể nói, với những tư tưởng nêu trên về tư cách và đạo đức cách

mạng của người cán bộ, đảng viên thì tiêu chuẩn cán bộ theo tư tưởng Hồ
Chí Minh phải bao gồm hai mặt (Người đã nêu ngay trong Đường kách
mệnh) là đạo đức và tài năng, phẩm chất và năng lực), không thể thiếu mặt
nào và cũng không được coi nhẹ mặt nào. Có tài phải có đức, có tài không
có đức thì có hại cho Nhà nước. Có đức mà không có tài thì như ông bụt
ngồi trong chùa, không giúp ích gì được cho ai.
1.2. NHỮNG SAI LỆCH, KHUYẾT ĐIỂM CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bên cạnh những ưu điểm của cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thẳng thắn nêu ra không ít những hạn chế, sai lệch của họ. Trước hết,
5


Người phê bình tội chủ quan, lười học của cán bộ, đảng viên: Theo Người,
xao nhãng học tập là khuyết điểm rất lớn dẫn đến nhận thức sai trong công
việc và lý tưởng, từ đó sẽ ảnh hưởng đến bản lĩnh chính trị. Người nói
"Khuyết điểm có nhiều thứ. Chúng ta có thể chia tất cả các khuyết điểm
vào ba hạng:
- Khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan.
- Khuyết điểm về quan hệ trong Đảng với ngoài Đảng, tức là bệnh
hẹp hòi.
- Khuyết điểm về cách nói và cách viết, tức là ba hoa. Đó là ba
chứng bệnh rất nguy hiểm. Nếu không chữa ngay, để nó lấy ra thì có hại vô
cùng" [4, tr. 233].
Theo Người, những khuyết điểm và sai lầm của cán bộ, đảng viên
(trong sửa đổi lối làm việc) suy cho cùng là chủ nghĩa cá nhân - một thứ
"vi trùng rất độc" nên nó có thể sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm như,
bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, thiếu kỷ
luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, bệnh "hữu danh vô thực", kéo

bè kéo cánh bệnh cận thị, bệnh "cá nhân".
Bên cạnh đó, những sai lệch của cán bộ, đảng viên còn được Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu trong tác phẩm Đạo đức cách mạng. Những đảng
viên bị thoái hóa, biến chất, quên mất tác phong của người chiến sĩ cộng
sản đã tưởng rằng cách mạng là cốt để làm cho họ có địa vị, được hưởng
thụ. Do đó mà họ mắc những sai lầm như kiêu ngạo, chưng diện, hưởng
lạc, lãng phí của công, tự tư tự lợi, không tiết kiệm, đồng tiền bát gạo là mồ
hôi nước mắt của nhân dân. Họ quên mất tác phong gian khổ phấn đấu,
lạnh lẽo với công việc cách mạng, xa rời Đảng, xa rời quần chúng. Dần dần
họ mất cả tư cách và đạo đức cách mạng, sa vào tham ô, hủ bại và biến
thành người có tội với Đảng, với Chính phủ, với nhân dân [6, tr. 569].
Vì thế trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ II của Đảng, Người nói: "Chúng ta cần phải thật thà tự phê bình để sửa
6


chữa phải cố sửa chữa để tiến bộ". Người nhận thấy "ở các cơ quan lãnh
đạo các cấp, về lề lối làm việc, về chủ trương và cách lãnh đạo còn có
những khuyết điểm khá phổ thông và nghiêm trọng. Ấy là những bệnh chủ
quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công thần"[5, tr.1 66-167].
Người nói rõ hơn: cán bộ, đảng viên mắc bệnh ấy không hiểu rằng, mỗi
đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của
Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền
cách mạng...
Tiếp đó, trong Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra
một thực tế: Từ trước tới nay, Đảng ta đã cố gắng liên hệ chặt chẽ chủ
nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cán bộ và đảng viên
ta nói chung đều có phẩm chất cách mạng tốt đẹp, nhưng chúng ta "còn
nhiều khuyết điểm như bệnh chủ quan, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa

kinh nghiệm, tác phong quan liêu, chủ nghĩa cá nhân..." [7, tr. 201].
Người khẳng định: những khuyết điểm trên của cán bộ, đảng viên
sẽ trực tiếp cản trở sự tiến bộ của họ, phá hoại sự trong sạch và vững mạnh
của Đảng Mácxít. Chính vì lẽ thế, Người không dừng lại ở luận điểm đó
mà tiếp tục tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những khuyết điểm, sai lệch của
cán bộ, đảng viên trên cơ sở đó đưa ra một số biện pháp giáo dục đạo đức
cách mạng và khắc phục những hạn chế trên.
1.3. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG
SAI LỆCH VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra nguyên nhân của những sai lệch mà
cán bộ, đảng viên mắc phải, đồng thời đưa ra những giải pháp hết sức đúng
đắn, thiết thực và phù hợp với những "bệnh" nêu trên.
Theo Người, phải sửa đổi lối làm việc của Đảng. Muốn sửa đổi
được thì cán bộ đảng viên phải thành thực và nghiêm khắc tự kiểm điểm,
phê bình và sửa chữa như người uống thuốc phòng bệnh: "các cơ quan, các
7


cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và
kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa
và giúp đỡ đồng chí mình sửa chữa. Như thế, Đảng mới nhanh chóng phát
triển, công việc mới chóng thành công. Còn nếu không sửa chữa khuyết
điểm của ta, không dám uống thuốc thì "bệnh ngày càng nặng thêm, nguy
đến tính mạng" [4, tr. 233].
Với nguyên nhân chính là do cán bộ, đảng viên yếu kém về lý luận,
coi thường lý luận nên chúng ta phải khắc phục bằng cách "nghiên cứu
thêm lý luận", "phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc
thực tế. Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông"
đồng thời "lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý

luận... Vì vậy, chúng ta gắng học, đồng thời học thì phải hành" [4, tr. 235].
Bệnh hẹp hòi cũng khá nguy hiểm vì bên trong thì nó ngăn trở sự
đoàn kết và thấy thống nhất trong Đảng, bên ngoài thì nó phá hoại sự đoàn kết
toàn dân. Vì thế "phải cùng nhau chữa cho tiệt cái nọc bệnh hẹp hòi" [tr.
237] "nhằm thực hành chính sách đại đoàn kết" [tr. 238]. Người nói, để
chữa khỏi bệnh, ta phải "tự phê bình ráo riết và phải lấy lòng thân ái, lấy
lòng thành thật mà ráo riết phê bình đồng chí mình". Trong lúc phê bình,
khuyết điểm phải vạch ra rõ ràng, mà ưu điểm cũng phải nhắc đến. Một
mặt là để sửa chữa cho nhau. Mặt khác là để khuyến khích và bắt chước
nhau. Người còn nhấn mạnh rằng, mỗi cán bộ, đảng viên phải kiểm điểm,
phê bình tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong
Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ khỏe mạnh vô cùng.
Những sai lầm như kiêu ngạo, chưng diện, lãng phí của công...
trong đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu ra nguyên nhân do họ quan niệm sai về cách mạng, họ quên mất
tác phong gian khổ phấn đấu, lạt lẽo với công việc cách mạng, xa rời Đảng,
xa rời quần chúng. Dần dần họ mất cả tư cách và đạo đức người cách
mạng, sa vào tham ô, hủ bại và biến thành người có tội với Đảng, với
Chính phủ và nhân dân. Vì vậy, biện pháp "để ngăn ngừa cái xấu ấy, Đảng
8


ta từ trên đến dưới phải chú trọng việc giáo dục đạo đức cách mạng, tăng
cường tinh thần cảnh giác, mở rộng tự phê bình và phê bình" [66, tr. 569].
Một nguyên nhân khác của những khuyết điểm sai lầm được Người
đề cập trọng Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng là do Trung ương. Vì Trung ương chưa chú trọng việc kiểm tra. Sự
huấn luyện về chủ nghĩa tuy có, nhưng chưa được khắp, chưa được đủ. Dân
chủ trong Đảng chưa được thực hiện rộng rãi. Phê bình và tự phê bình chưa
thành nền nếp thường xuyên. Từ thực tế này, Đảng phải tìm cách giáo dục

chủ nghĩa cho phổ biến, để nâng cao tư tưởng chính trị của đảng viên. Phải
phát triển lối làm việc tập thể, phải củng cố mối liên hệ giữa Đảng và quần
chúng, phải đề cao tinh thần kỷ luật, tinh thần nguyên tắc, tinh thần Đảng
của mỗi đảng viên. Phải mở rộng phong trào phê bình và tự phê bình ở
trong Đảng, ở các cơ quan, các đoàn thể, trên các báo chí cho đến nhân
dân. Phê bình và tự phê bình phải thường xuyên, thiết thực, dân chủ, từ trên
xuống và từ dưới lên. Sau hết là Đảng phải có sự kiểm tra chặt chẽ. Làm
được như thế thì khuyết điểm sẽ bớt và tiến bộ sẽ mau [5, tr. 168].
Biện pháp khắc phục khuyết điểm của cán bộ, đảng viên nêu trong
Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu lần thứ III của Đảng Lao động Việt
Nam cũng giống như biện pháp được Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu trong
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đó là:
phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tăng cường giáo dục tư tưởng
trong Đảng, đấu tranh khắc phục những khuyết điểm. Phải nâng cao hơn
nữa tính giai cấp và tính tiên phong của Đảng, tăng cường không ngừng
mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, phải biết đoàn kết mọi người yêu
nước và tiến bộ để xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống
nhất nước nhà. Phải ra sức học tập có sáng tạo kinh nghiệm của Đảng anh
em, đồng thời tuyệt đối không được kiêu ngạo, tự mãn mà phải khiêm tốn
như Lênin đã dạy... [7, tr. 201].

9


Nói tóm lại, qua một số tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Đạo
đức cách mạng (1955), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ II của Đảng (1951) và Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu lần thứ
III của Đảng Lao động Việt Nam (1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập
đến nhiều vấn đề quan trọng của cán bộ, đảng viên như: tư cách và đạo đức
cách mạng, vấn đề cán bộ ra sao, cách lãnh đạo của người cán bộ, đảng

viên như thế nào, Người còn thẳng thắn và nghiêm khắc phê phán những
khuyết điểm sai lệch của cán bộ, đảng viên bị thoái hóa, từ đó chỉ ra
nguyên nhân của những khuyết điểm và biện pháp khắc phục.
Qua đây có thể nhận thấy, Bác Hồ rất quan tâm đến đạo đức cách
mạng cũng như việc nâng cao trình độ về mọi mặt của cán bộ, đảng viên.
Người nói "Ngày nay, Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thạo
về chính trị mà còn phải giỏi cả về chuyên môn" [9, tr. 96]. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về cán bộ, đảng viên trong những tác phẩm này có tầm khái quát
rộng lớn, nội dung ngắn gọn nhưng lại rất cụ thể. Vì thế nó được coi như
những nguyên tắc chỉ đạo nhất quán, có sức thuyết phục mạnh mẽ toàn bộ
công tác tổ chức, lựa chọn cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong
mỗi thời kỳ phát triển của cách mạng.

10


Chương 2
GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1. VÀI NÉT VỀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ

Xu thế phát triển và tác động của thời đại hiện nay đối với sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay:
Một là, xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trên thế giới
cũng như trong khu vực. Xu thế này cho phép chúng ta tranh thủ thời gian tập
trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế. Song, trong thế giới ngày
nay tồn tại các quốc gia dân tộc với hệ thống lợi ích khác nhau, bị chi phối
bởi quy luật kinh tế thị trường. Do đó, sự liên kết và hợp tác luôn đi với
cạnh tranh đang diễn ra gay gắt, đa dạng, phức tạp và nó có thể bóp chết nền

kinh tế non trẻ hoặc có thể trở thành động lực cho các nền kinh tế này đứng
vững và khẳng định vị thế của mình, ở đây thời cơ và thách thức là ngang
nhau.
Hai là, khoa học công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học) tiếp tục có những bước tiến nhảy vọt, ngày càng trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức,
làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội.
Ba là, toàn cầu hóa là một xu thế khách quan ngày càng có nhiều
nước tham gia, là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của lực lượng sản
xuất, sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và sự phát triển của nền kinh tế
hàng hóa, mở rộng thương mại quốc tế. Với Việt Nam, để thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thiết nghĩ
cần chủ động hội nhập gắn liền với việc thực hiện các cam kết quốc tế, xây

11


dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả và phân công lao
động hợp tác quốc tế.
Theo Hồ Chí Minh, đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Người xác định "nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Đó là
chỗ bắt đầu đi của chúng ta. Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào khi
chúng ta dùng máy móc để sản xuất thật rộng rãi, cả trong công nghiệp và
trong nông nghiệp. Muốn có nhiều máy thì phải mở mang các ngành công
nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu... Đó là con đường đi của chúng
ta, con đường công nghiệp hóa nước nhà, là con đường no ấm thực sự của
nhân dân ta" [7, tr. 40-41].
2.2. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ YÊU CẦU

ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chức năng trên nền tảng của tư tưởng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong giai đoạn hiện nay là đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp... Trước nhiệm vụ nặng nề này,
đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ tương xứng, vừa
phát huy được những đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam truyền
thống, vừa có đủ bản lĩnh, phẩm chất và năng lực. Theo tư tưởng của
Người, Đảng ta phải chăm lo xây dựng và chuẩn bị đội ngũ cán bộ một
cách chủ động, đồng bộ, có tầm nhìn xa.
Những mặt mạnh chủ yếu của đội ngũ cán bộ, đảng viên chúng ta
hiện nay là được rèn luyện, thử thách trong quá trình đấu tranh cách mạng
lâu dài, gian khổ. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp từ Trung ương tới cơ
sở, đặc biệt là cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định
mục tiêu đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn,
năng động sáng tạo, hăng hái tiên phong thực hiện đường lối chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
12


Tuy nhiên, khi bước vào thời kỳ "thay da đổi thịt, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa với nhiều nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề khó khăn và
phức tạp thì một số cán bộ, đảng viên bộc lộ không ít nhược điểm như:
giảm sút niềm tin, nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa
xã hội; hoài nghi đường lối của Đảng, có người do bất mãn cá nhân đi đến
phản bội Đảng và lợi ích của nhân dân; hoặc thoái hóa biến chất về đạo
đức, lối sống, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất
chính, lãng phí của công, quan liêu, gia trưởng độc đoán.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên tuy đúng nhưng không

đồng bộ, vẫn còn tình trạng "vừa thừa, vừa thiếu"; nhiều cán bộ lười học,
lười nghiên cứu, một số học lướt chỉ cốt lấy được bằng cấp; một số cán bộ
đảng viên có tham vọng cá nhân, cục bộ, kèn cựa địa vị, cơ hội, phát ngôn
và làm việc tùy tiện, gây mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng... "Nhìn chung
đội ngũ cán bộ hiện nay, xét về chất lượng, số lượng và cơ cấu có nhiều
mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa" [1, tr. 193-194].
Từ những ưu, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên trên, chúng ta
càng nhận thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ, đảng viên cho đến
hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Qua đó cho thấy yêu cầu đặt ra đối với
công tác cán bộ trong tình hình hiện nay là hết sức cấp bách. Vì thế Đảng ta
đã từng bước xác định rõ quan điểm, mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ
trong tình hình mới hiện nay, cụ thể là:
* Về quan điểm:
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ đường lối chính trị,
đường lối đổi mới của Đảng trong thời kỳ mới, trọng tâm là phải bám sát
yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ phải trên cơ sở giữ vững tăng cường
bản chất giai cấp công nhân theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc.

13


+ Thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của quần
chúng nhân dân để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn với xây dựng tổ chức, đổi mới
cơ chế, chính sách, phương thức và lề lối làm việc.
+ Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ

chức thành viên trong hệ thống chính trị. Là Đảng cầm quyền, Đảng có quyền
lực chính trị, quyền lực lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Vai trò quản lý của
Nhà nước về hoạt động của các đoàn thể xã hội là thước đo năng lực lãnh đạo
của Đảng. Vì vậy, Đảng ta có trách nhiệm lãnh đạo, chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ công chức cho cả hệ thống chính trị, trên mọi lĩnh vực, nhằm thực
hiện có kết quả đường lối chính trị của Đảng và sự nghiệp đổi mới.
* Về mục tiêu
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý
ở các cấp, vững vàng về chính, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống,
có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân.
+ Có cơ chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, trọng dụng những người có đức, có tài. Thực hiện đúng đắn
nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu
các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ... Làm tốt công tác
quy hoạch và tạo nguồn cán bộ.
+ Đánh giá, bồi dưỡng, lựa chọn, sử dụng cán bộ trên cơ sở tiêu
chuẩn, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm
thước đo chủ yếu.
+ Đổi mới, trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các
độ tuổi, đảm bảo tính liên tục, kế thừa và phát triển. Thực hiện chủ trương
luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý.

14


+ Xây dựng, chỉnh đốn hệ thống các học viện, trường và trung tâm
chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Từ
nay đến năm 2005, phần lớn cán bộ lãnh đạo chủ chốt từ cấp huyện trở lên
học xong chương trình lý luận cao cấp và có kiến thức trình độ đại học về

một chuyên ngành nhất định.
+ Đội ngũ cán bộ phải đủ về số lượng; đồng bộ về cơ cấu; bảo đảm
có đủ nguồn cán bộ để mỗi nhiệm kỳ có thể đổi mới khoảng 30 - 40% số
cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể các cấp, cán bộ lãnh đạo lực
lượng vũ trang, cán bộ khoa học đầu ngành. Phấn đấu đến năm 2020 số
người có trình độ đại học, cao đẳng trở lên bằng khoảng 4% dân số cả nước
(Nghị quyết Trung ương 8 khóa VIII).
2.3. ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN CÁN BỘ TRONG
TÌNH HÌNH MỚI

Đổi mới tư duy về tiêu chuẩn cán bộ không có nghĩa là thay đổi
quan niệm hay làm lại từ đầu mà phải là một quá trình nghiên cứu, bổ sung
những tiêu chuẩn mới hay những tiêu chuẩn trước đây, mà nay được nhận
thức theo tinh thần mới, theo quan điểm đổi mới của Đảng. Trên tinh thần
nhìn thẳng vào sự thật, một mặt chúng ta phải ra soát lại những nghị quyết,
chính sách, tiêu chuẩn về cán bộ các thời kỳ trước đây, phải có những bước
tổng kết, đánh giá để rút ra được những kinh nghiệm và bài học bổ ích. Từ
đó có những quyết sách đúng đắn, tạo ra những bước đột phá mới về công tác
cán bộ trong thời kỳ hiện nay. Cần chú ý là rà soát ở đây không chỉ về tiêu
chuẩn mà cả quan điểm và phương pháp đánh giá, không chỉ ở các tiêu chuẩn
chung mà phải đi vào đội ngũ cán bộ từng ngành, từng lĩnh vực. Mặt khác,
phải dựa vào đường lối của Đảng trong việc xem xét toàn diện các mặt của
thời kỳ hiện nay từ tình hình đặc điểm của đất nước, thời đại, con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam, đường lối kinh tế và chiến lược phát triển
đến các nội dung về văn hóa, khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, ngoại

15


giao, an ninh quốc phòng v.v... Không nắm chắc yêu cầu thời kỳ mới đặt ra

sẽ không xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn cán bộ của tình hình hiện nay.
Đổi mới tư duy về tiêu chuẩn cán bộ nhất định phải dựa trên cơ sở
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, đặc biệt là
tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với ba mảng vấn đề liên quan với
nhau: vị trí, vai trò của cán bộ; tiêu chuẩn cán bộ và chính sách cán bộ.
Đảng ta đã tổng kết những bài học, kinh nghiệm về công tác cán bộ
đảng viên trong những thời gian trước đây và đã xây dựng được một hệ quy
chiếu tiêu chuẩn cán bộ trong tình hình mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là:
* Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
* Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công Vô tư. Không tham nhũng và
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung
thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
* Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa và
chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ được giao.
Các tiêu chuẩn trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, coi trọng cả đức
và tài, đức là gốc. Trong tình hình hiện nay cần đặc biệt quan tâm vấn đề
phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng. Người cán bộ có phẩm chất và
bản lĩnh chính trị là luôn luôn vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, trung thành với Đảng, với chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, là sống trung thực, không tham vọng cá nhân, ít
lòng ham muốn về vật chất, biết đặt lợi ích của Tổ quốc, nhân dân lên trên
hết. Đó là những cán bộ chân chính, luôn trau dồi các phẩm chất tốt đẹp:
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Dũng, Liêm..., có một lối sống giản dị, trong sáng.

16



Ngoài việc xác định tiêu chuẩn chung cán bộ, việc xác định tiêu chuẩn
cho từng loại cán bộ cũng là điều hết sức cần thiết. Bởi vì nếu không có
những tiêu chuẩn cụ thể cho mỗi loại cán bộ, chúng ta không thể phát huy thế
mạnh từng lĩnh vực công tác, không thể đánh giá chính xác được cán bộ. Nếu
chỉ là một cái gì đó chung chung, cán bộ lĩnh vực này có thể sang quản lý lĩnh
vực khác một cách nhẹ nhàng, đơn giản thì sẽ tiềm ẩn những nguy hại khôn
lường.

17


KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh bậc minh triết vĩ đại. Sinh thời, Người coi
vấn đề cán bộ, đảng viên là một trong những công việc trọng yếu của Đảng.
Người đã trở thành một mẫu mực tuyệt vời của con người Việt Nam mới,
thuộc về một thời đại mới mà chính Người đã tạo dựng.
"Vì sự nghiệp mười năm phải trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm phải
trồng người", Người đã dày công vun trồng lớp lớp những con người mới,
những người cán bộ, đảng viên là "người đầy tớ trung thành của nhân dân"
qua quá trình học tập và nghiên cứu một số tác phẩm của Người (như Sửa đổi
lối làm việc, đạo đức cách mạng, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng và Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu lần thứ III
của Đảng Lao động Việt Nam) chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa những giá tư
tưởng của Người về vấn đề cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đổi mới ở nước ta
hiện nay.
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào giai đoạn cách mạng mới, giai
đoạn phát triển trong hòa bình độc lập thống nhất. Để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi phải có một
đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ tài năng và đức độ đủ sức gánh vác và hoàn

thành tốt nhiệm vụ của cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
quá độ.
Để sống và chiến đấu theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để lao động có
nhiều hiệu quả và năng suất, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của
Người vào trong công tác cán bộ, thì mỗi người (đặc biệt là người cán bộ,
đảng viên) phải luôn luôn rèn luyện đạo đức, phẩm chất đạo đức cách
mạng, không ngừng học tập về mọi mặt, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và
đường lối, chính sách của Đảng, học tập văn hóa, khoa học - kỹ thuật và
chuyên môn nghiệp vụ... nhằm làm chủ tự nhiên và bản thân mình.
Được sống trong thời đại Hồ Chí Minh "rực rỡ tên vàng", được đi
theo và tiếp tục con đường của Bác, nhất định chúng ta sẽ thu được nhiều
thành công trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta hiện nay, góp phần
18


xứng đáng vào sự nghiệp chung vì hòa bình, ổn định và phát triển, vì độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ở Đông Nam Á và trên toàn thế giới.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước (2001), Nxb Lao động, Hà Nội.
2. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh (1990), Nxb Thông tin - Lý luận,
Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh (1985), Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2000), "Sửa đổi lối làm việc", Toàn tập, tập 5, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Hồ Chí Minh (1995), "Báo cáo chính trị ...", Toàn tập, tập 6, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh (1996), "Đạo đức cách mạng", Toàn tập, tập 7, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Hồ Chí Minh (2000), "Diễn văn khai mạc", Toàn tập, tập 10, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh (1998), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
9. Với vấn đề đào tạo cán bộ (1974), Nxb Sự thật, Hà Nội.

20



×