Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ đăng ký kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.9 KB, 15 trang )

i

Trong những năm qua, các nước trên thế giới đã tiến hành cải cách mạnh
mẽ môi trường đầu tư, đặc biệt là về khởi nghiệp doanh nghiệp. Ở Việt Nam, quá
trình cải cách đăng ký kinh doanh (ĐKKD) đã được triển khai khá rõ nét từ khi
có Luật Doanh nghiệp năm 2000. Bước cải cách đã được tiếp tục trong giai đoạn
từ năm 2005 đến 2007 với việc đặt ĐKKD trong tổng thể các thủ tục gia nhập thị
trường, đặc biệt là đối với 3 khâu: đăng ký kinh doanh, đăng ký con dấu và mã số
thuế. Chương trình cải cách lại tiếp tục được đẩy cao hơn khi liên Bộ KH&ĐT,
Bộ Tài chính và Bộ Công An ban hành Thông tư liên tịch số 05/2008. Ở Hà Nội,
địa phương có số doanh nghiệp lớn thứ hai cả nước và lớn hơn rất nhiều so với
các tỉnh, thành phố khác cũng đã có những bước cải cách đáng kể trong lĩnh vực
này nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn bức xúc, chưa thật sự hài lòng, công tác quản
lý nhà nước đối với doanh nghiệp chưa hiệu quả. Trước yêu cầu mới của Thủ đô
mở rộng, Hà Nội cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, và một trong những
thủ tục pháp lý đầu tiên để khởi sự doanh nghiệp là ĐKKD.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, em đã lựa chọn đề tài “Nâng cao chất
lượng dịch vụ đăng ký kinh doanh trên địa bàn Thành phố Hà Nội” làm đề tài
cho luận văn của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá thực trạng chất
lượng dịch vụ ĐKKD trên địa bàn Thành phố Hà Nội giai đoạn 2005 - 2009; Đề
xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ ĐKKD của
Thủ đô trong thời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu
chất lượng ĐKKD cho doanh nghiệp trong nước trên địa bàn Hà Nội. Thời gian
nghiên cứu được tiến hành từ năm 2005 đến năm 2009.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng
hợp, thống kê... Ngoài ra, tác giả còn khảo sát, tham vấn ý kiến của các doanh
nghiệp, các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia trong lĩnh vực ĐKKD.
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương được trình bày tóm tắt như sau:


Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng dịch vụ đăng ký kinh doanh
1.1. Khái niệm về dịch vụ ĐKKD: ĐKKD là một trong những dịch vụ
hành chính công do cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực hiện, là thủ tục đầu
tiên, cơ sở pháp lý căn bản thành lập doanh nghiệp. Nội dung của ĐKKD gồm:


ii

Cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận ĐKKD; cung cấp thông tin về doanh nghiệp;
yêu cầu doanh nghiệp báo cáo tình hình kinh doanh, thực hiện hậu kiểm sau cấp
giấy chứng nhận ĐKKD.
1.2. Chất lượng dịch vụ đăng ký kinh doanh:
1.2.1 Khái niệm chất lượng dịch vụ đăng ký kinh doanh

“Chất lượng dịch vụ đăng ký kinh doanh là mức phù hợp của sản phẩm
dịch vụ thoả mãn các yêu cầu đề ra hoặc định trước của của công dân, doanh
nghiệp, tổ chức”.
Chất lượng dịch vụ đăng ký kinh doanh chính là sự thoả mãn của công
dân, tổ chức, doanh nghiệp được xác định bởi việc so sánh giữa chất lượng
cảm nhận và chất lượng trông đợi.
1.2. 2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ đăng ký kinh doanh
1.2.2.1 Đối với doanh nghiệp
(1) Chi phí về thời gian, số lần giao dịch để hoàn tất thủ tục ĐKKD
(2) Chi phí về tài chính để doanh nghiệp hoàn thành các thủ tục ĐKKD
(3) Mức độ hài lòng của doanh nghiệp khi thực hiện ĐKKD
1.2.2.2 Đối với cơ quan ĐKKD
(4) Cơ quan ĐKKD thực hiện các quy định của pháp luật
(5) Tỷ lệ hồ sơ được giải quyết đúng hạn
(6) Việc đơn giản hoá thủ tục ĐKKD: Mẫu hồ sơ đơn giản, thống nhất, cập
nhật và công khai

(7) Về mức độ công khai, minh bạch đối với các thủ tục ĐKKD
(8) Việc xây dựng, tổ chức thực hiện quy trình ĐKKD trong tổng thể thủ
tục gia nhập thị trường, trong đó, đặc biệt là xây dựng mô hình “một cửa”, “một
cửa liên thông” trong việc giải quyết ĐKKD, đăng ký thuế và cấp giấy phép khắc
dấu đối với doanh nghiệp.
(9) Thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
1.2.3 Các yếu tố tác động tới chất lượng dịch vụ đăng ký kinh doanh
1.2.3.1 Đối với doanh nghiệp
(1) Sự am hiểu luật pháp của các cá nhân, tổ chức và các dịch vụ hỗ trợ tư
vấn pháp luật về khởi sự cho doanh nghiệp: Nếu các doanh nhân am hiểu luật


iii

pháp, nắm vững được các quy trình, thủ tục thì sẽ dễ dàng thực hiện đúng các thủ
tục theo yêu cầu của cơ quan ĐKKD và cơ quan ĐKKD cũng dễ dàng cấp giấy
chứng nhận trên những hồ sơ “chuẩn”, khắc phục được tình trạng “dịch vụ cò”
với những con đường vòng vèo và các khoảng chi phí không chính thức, góp
phần làm lành mạnh hóa môi trường đầu tư.
1.2.3.1 Đối với cơ quan đăng ký kinh doanh
(2) Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ công chức thực hiện ĐKKD: Cải
cách bộ máy là yếu tố cần thiết cho việc nâng cao hiệu quả công việc nhưng còn
có yếu tố rất quan trọng khác để nâng cao chất lượng cấp ĐKKD là đội ngũ
CBCC. Nếu CBCC có đủ tri thức, kỹ năng tốt, cộng thêm thái độ làm việc
nghiêm túc, nhiệt tình, đúng mực và liêm chính, thì hiệu quả công việc sẽ cao;
đây chính là mấu chốt để nâng cao chất lượng dịch vụ công nói chung và ĐKKD
nói riêng.
(3) Việc áp dụng tiêu chuẩn hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 trong
cơ quan ĐKKD: Nếu cơ quan ĐKKD áp dụng ISO 9000 sẽ có những ưu điểm cơ
bản như: Chuẩn hoá các quy trình hành chính, đảm bảo các hồ sơ được giải quyết

đúng trình tự, đúng thời gian và làm sao để mọi việc công khai, minh bạch, giảm
thủ tục phiền hà, nâng cao trách nhiệm, năng lực, ý thức phục vụ của cán bộ,
công chức.
(4) Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực ĐKKD: Ứng dụng
công nghệ thông tin là chìa khoá để vận hành, giúp cho việc áp dụng và thực hiện
các quy trình nhanh chóng, thuận tiện.
(5) Các quy định của pháp luật là yếu tố tác động mạnh mẽ tới việc thực
hiện công tác đăng ký kinh doanh của cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý
nhà nước: Các quy định của pháp luật bất hợp lý, chồng chéo, thủ tục hành chính
càng phức tạp thì chi phí gia nhập thị trường của doanh nghiệp, doanh nhân càng
lớn và ngược lại.
1.3. Qua nghiên cứu kinh nghiệm một số địa phương, có thể rút ra bài học
cho Hà Nội để tiến hành xây dựng và cải cách hệ thống ĐKKD nói chung: (1)
Cách tiếp cận định hướng khách hàng, (2) Xây dựng thể chế mới, (3) Tăng cường
áp dụng công nghệ thông tin.

Chương 2: Thực trạng chất lượng dịch vụ ĐKKD trên địa bàn Hà Nội


iv

Việc ĐKKD cho doanh nghiệp được thực hiện ở cơ quan ĐKKD cấp
Thành phố. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội là cơ quan được UBND Thành phố
uỷ quyền thực hiện quản lý nhà nước đối với công tác đăng ký kinh doanh cho
doanh nghiệp trên địa bàn. Hiện nay, công tác ĐKKD đang được thực hiện đồng
bộ tại 02 khối đơn vị thuộc Sở, đó là các Phòng Đăng ký kinh doanh và Văn
phòng Sở. Sau khi mở rộng địa giới hành chính, Sở KH&ĐT có 3 phòng ĐKKD
với số biên chế là 37 người, bộ phận “một cửa” thuộc Văn phòng Sở với số biên
chế là 14 người, làm việc tại 3 địa điểm trên địa bàn Thành phố.
Tổ chức, cá nhân muốn gia nhập thị trường cần tiến hành ĐKKD tại Sở

KH&ĐT theo các bước sau: (1) Liên hệ, tìm hiểu để có bộ hồ sơ mẫu, (2) Hoàn
tất hồ sơ, (3) Nộp hồ sơ tại Sở KH&ĐT và nhận giấy biên nhận của Sở, (4) Đến
hẹn theo giấy biên nhận, tới Sở KH&ĐT để nhận kết quả: là GCN ĐKKD nếu
hồ sơ hợp lệ hoặc là thông báo yêu cầu bổ sung đối với hồ sơ chưa hợp lệ.
Từ ngày 01/01/2007, Hà Nội đã chính thức áp dụng mô hình “một cửa
liên thông” trong thành lập doanh nghiệp, đó là việc phối hợp giữa ba cơ quan
Sở KH&ĐT - Công an Thành phố và Cục thuế trong việc cấp Giấy chứng nhận
ĐKKD - Giấy chứng nhận đã đăng ký mẫu dấu - cấp mã số thuế cho doanh
nghiệp tại một địa điểm chung đặt tại trụ sở Sở KH&ĐT.
Từ ngày 17/11/2009, Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội tiến
hành áp dụng thí điểm việc liên thông thực hiện đăng ký kinh doanh và đăng ký
mã số thuế theo Thông tư 05 tại Phòng Đăng ký kinh doanh số 03. Đối tượng
thực hiện là các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, có trụ sở
đóng trên địa bàn các huyện, thị xã do Phòng Đăng ký kinh doanh số 03 quản
lý. Với việc liên thông thực hiện đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế, các
doanh nghiệp chỉ phải đến một cơ quan là Sở Kế hoạch và Đầu tư để làm thủ
tục, nộp hồ sơ và nhận được kết quả (sau 05 ngày làm việc) là Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh-đăng ký thuế, với mã số doanh nghiệp chính là mã số đăng
ký kinh doanh đồng thời là mã số thuế. Các doanh nghiệp không phải làm thủ
tục đăng ký mã số thuế tại cơ quan thuế như trước đây nữa.
2.1. Đánh giá thực trạng chất lượng ĐKKD trên địa bàn TP Hà Nội
2.1.1 Đối với doanh nghiệp
2.1.1.1 Chi phí về thời gian, tài chính, số lần đi lại để hoàn tất thủ tục ĐKKD
Đối với cả nước nói chung, doanh nghiệp vẫn gặp phải những thủ tục


v

rườm rà trong đăng ký kinh doanh1.
Khác (hướng

dẫn không đầy
đủ)
1%
Đi lại nhiều lần
43%

Tỷ lệ theo khó
khăn
42%

Các chi phí
ngoài quy định
14%

Hình 2.1: Những khó khăn trong quá trình đăng ký kinh doanh của VN
Tại Hà Nội, hầu hết các doanh nghiệp nhận được Giấy chứng nhận ĐKKD
với chi phí tài chính đúng theo quy định, có 8,5% số doanh nghiệp được hỏi cho
rằng họ phải chi phí tài chính lớn hơn so với quy định, có 3,1% số doanh nghiệp
được hỏi không trả lời đối với lĩnh vực này.
Về thời gian nhận được kết quả giải quyết thủ tục hành chính: Trước khi
áp dụng mô hình “một cửa liên thông”, sau 22 ngày, doanh nghiệp thành lập mới
sẽ nhận được Giấy chứng nhận ĐKKD, Giấy chứng nhận đăng ký thuế và mã số
thuế, Giấy phép khắc dấu. Trong đó, đối với lĩnh vực ĐKKD là 10 ngày. Sau khi
áp dụng mô hình “một cửa liên thông” (thực hiện Thông tư liên tịch 02/2007),
thời gian để thực hiện 3 thủ tục trên tối đa là 15 ngày, trong đó lĩnh vực ĐKKD
vẫn là 10 ngày. Thời gian thực hiện thủ tục ĐKKD được giảm đáng kể khi Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết số 59/2007/NQ-CP ngày 30/11/2007. Hà Nội đã chủ
động thực hiện rút ngắn thời gian cấp ĐKKD xuống 5 ngày theo quy định của
Nghị quyết từ ngày 01/4/2008 (thời gian này chưa có Thông tư hướng dẫn).
Thành lập doanh nghiệp có bước tiến mạnh mẽ khi Bộ KH&ĐT, Bộ Tài

chính và Bộ Công an ban hành Thông tư liên tịch số 05/2008 ngày 29/7/2008
hướng dẫn cơ chế phối hợp giữa các cơ quan giải quyết ĐKKD, đăng ký thuế và
đăng ký con dấu. Theo Thông tư, mỗi doanh nghiệp khi thành lập được cấp một
"Giấy chứng nhận ĐKKD và đăng ký thuế", thay vì được cấp 1 "Giấy chứng
nhận ĐKKD" (do Sở KH&ĐT cấp) và 1 "Giấy chứng nhận đăng ký thuế" (do
Cục thuế cấp) như trước. Mỗi doanh nghiệp được cấp một Mã số doanh nghiệp,
1

Chuyên đề kinh tế số 03 của CIEM và GTZ


vi

mã số này đồng thời là Mã số thuế của doanh nghiệp. Đây là một bước tiến mới
trong việc cải cách thủ tục hành chính, giảm thời gian thực hiện các thủ tục thành
lập doanh nghiệp từ 15 ngày tại 3 cơ quan quản lý nhà nước là Sở KH&ĐT, cơ
quan Công an và Cục thuế, xuống còn 5 ngày và chỉ phải tới 2 cơ quan là Sở
KH&ĐT để nộp Hồ sơ đăng ký kinh doanh và tới cơ quan Công an để làm các
thủ tục khắc và đăng ký con dấu. Hiện nay, một số địa phương đã thực hiện
Thông tư 05 như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Định, Cần Thơ, Hải Phòng …
Hà Nội vẫn chưa chính thức triển khai thực hiện, nhưng đang tích cực chuẩn bị
các điều kiện để sẵn sàng triển khai.
Như vậy, thời gian và số lần giao dịch để thực hiện thủ tục ngày càng được
giảm đi, đồng thời doanh nghiệp chỉ cần đến một địa điểm là Sở KH&ĐT để thực
hiện các thủ tục liên quan đã tạo nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp.(Xem chi tiết
thêm tại phụ lục).
2.1.1.2 Mức độ hài lòng của doanh nghiệp về dịch vụ đăng ký kinh doanh:
Nhìn chung, bộ phận “một cửa” của Sở KH&ĐT đã thực hiện tốt việc hướng dẫn
thủ tục cho doanh nghiệp. 89% số doanh nghiệp được điều tra khẳng định rằng họ
đã nhận được sự hướng dẫn đầy đủ, chi tiết, chỉ có 0,9% doanh nghiệp nói rằng

họ đã bị từ chối tư vấn. Thái độ của cán bộ công chức trong tiếp xúc với công dân
và doanh nghiệp có sự thay đổi rõ nét: 98,2% số doanh nghiệp đánh giá cao tinh
thần làm việc, phục vụ và thái độ niềm nở, hoà nhã của cán bộ công chức ở bộ
phận “một cửa”2.
Kết quả khảo sát cho thấy, đa số doanh nghiệp cho rằng thủ tục hành chính
trong lĩnh vực ĐKKD tương đối rõ ràng và minh bạch. 51% doanh nghiệp được
hỏi hài lòng với dịch vụ này3, 45% doanh nghiệp tương đối hài lòng, 3% doanh
nghiệp không hài lòng. Trình độ chuyên môn và thái độ của các cán bộ công chức
trong bộ phận này được đánh giá cao. Điều này cho thấy có một làn gió mới của
công cuộc cải cách hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh mà trong đó
yếu tố con người là nhân tố chính dẫn đến thành công. Tuy nhiên, với vị thế Thủ
đô, là Thành phố tiên phong trong cải cách hành chính, Hà Nội cần tiếp tục có
những chính sách cải cách mạnh mẽ hơn.

2

Theo kết quả khảo sát.
Tại Cần Thơ, hơn 90% doanh nghiệp hài lòng về thủ tục khởi sự; Tại Đà Nẵng qua 300 phiếu thăm dò về
mức độ hài lòng dịch vụ tại “Một cửa liên thông”, có 299 phiếu hài lòng; Tại Hải Phòng: chỉ 33,3% DN được
điều tra cho rằng thủ tục ĐKKD minh bạch, 46,7% cho rằng thời gian thực hiện thủ tục nhiều hơn quy định.
3


vii

2.1.2 Đối với cơ quan đăng ký kinh doanh
2.1.2.1 Việc thực hiện các quy định của pháp luật: Hà Nội, mà cơ quan
trực tiếp là Sở Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan được Thành phố ủy quyền trong lĩnh
vực đăng ký kinh doanh luôn chủ động thực hiện đúng các quy định của pháp
luật, chủ động thực hiện những cải cách trong công tác đăng ký kinh doanh, điều

đó thể hiện rõ nét nhất là việc thực hiện “một cửa liên thông” trong giải quyết thủ
tục hành chính thành lập doanh nghiệp.
2.1.2.2 Tỷ lệ hồ sơ đúng hạn tương đối cao nhưng số lượng hồ sơ quá hạn
vẫn còn nhiều: Lĩnh vực ĐKKD luôn là lĩnh vực có tỷ lệ hồ sơ được giải quyết
đúng hạn cao nhất trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền giải quyết của Sở Kế
hoạch và Đầu tư: năm 2007 là 96,6%, năm 2008 là 89%. Tuy nhiên, với số lượng
hồ sơ tiếp nhận lớn thì số lượng hồ sơ giải quyết chậm vẫn là khá nhiều. Năm
2008, số hồ sơ giải quyết chậm là 4.884 hồ sơ, tương ứng trung bình mỗi ngày có
trên dưới 18 hồ sơ chậm.
2.1.2.3 Về mức độ đơn giản, công khai, minh bạch đối với các thủ tục
ĐKKD: Tại Sở KH&ĐT đã thực hiện niêm yết công khai các quy trình, hướng
dẫn, biểu mẫu tại trụ sở và trên website của Sở. Các biểu mẫu hướng dẫn được
đánh giá là dễ dàng cho doanh nghiệp tiếp cận và theo đúng quy định của pháp
luật. Tuy nhiên, việc cập nhật các biểu mẫu, thông tin hướng dẫn về thủ tục hành
chính đôi khi còn chưa thuận tiện, đầy đủ và đôi lúc còn chưa được cập nhật kịp
thời4.
2.1.2.4 Việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy trình ĐKKD đã được thực
hiện nhưng đôi lúc còn chưa được cập nhật kịp thời: Sở Kế hoạch và Đầu tư đã
ban hành 02 quy trình quản lý theo ISO 9001:2000 đối với công tác ĐKKD. Tuy
nhiên, trước những thay đổi lớn về chính sách, quy trình này chưa được cập nhật,
chỉnh sửa và ban hành chính thức. Do chưa có quy trình chuẩn nên việc đánh giá
nội bộ đối với lĩnh vực ĐKKD từ cuối năm 2007 đến nay gần như chưa được
thực hiện. Ngoài ra, điều đó còn gây nên hiện tưọng xử lý không thống nhất trong
việc giải quyết các hồ sơ của doanh nghiệp và không thể tự động hoá được quy
trình thực hiện cấp đăng ký kinh doanh.
2.1.2.5. Hà Nội đã có quy chế quản lý doanh nghiệp nhưng việc thực công
4
Theo kết quả khảo sát, khi tìm hiểu thông tin về thủ tục hành chính và các hướng dẫn: 68,8% doanh nghiệp
lấy từ website của Sở, 34% lấy từ các công ty tư vấn, 19% lấy từ các nguồn khác; 81% doanh nghiệp cho rằng
các thủ tục hành chính của Sở được cập nhật kịp thời theo quy định mới của các văn bản pháp luật, 15,6% cho

rằng còn chậm cập nhật, 1% cho rằng thủ tục hành chính của Sở không cập nhật.


viii

tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn nhiều bất cập: Hà Nội đã ban
hành Quy chế “Quản lý doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp và hộ kinh doanh
trên địa bàn Thành phố Hà Nội”5. Hiện nay các cơ quan ĐKKD mới hoàn thành
được nhiệm vụ cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận ĐKKD, còn các nhiệm vụ khác
gần như vẫn còn bỏ ngỏ (như xây dựng hệ thống quản lý thông tin doanh nghiệp;
thực hiện kiểm tra doanh nghiệp). Với các điều kiện thành lập doanh nghiệp dễ
dàng hơn, sẽ có thể bùng phát hơn nữa về số lượng các doanh nghiệp được cấp
phép kinh doanh, yêu cầu cấp bách đặt ra là phải đổi mới hơn nữa về quản lý “sau
cấp phép” đối với các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Hơn nữa, hệ thống
thông tin về doanh nghiệp vẫn chưa được hình thành. Do vậy, việc tìm kiếm đầy
đủ thông tin về doanh nghiệp gần như chưa thực hiện được. Điều này đã hạn chế
việc minh bạch và công khai thông tin, gây ra rủi ro trên thị trường.
2.2. Đánh giá chung chất lượng dịch vụ đăng ký kinh doanh trên địa
bàn Thành phố Hà Nội trong thời gian qua
Việc nâng cao chất lượng ĐKKD ở Hà Nội trong thời gian tới có nhiều
thuận lợi như Chính phủ có nhiều quy định để đơn giản hoá thủ tục hành chính,
sự quyết tâm cao của các cấp lãnh đạo Thành phố cải cách hành chính, nhận thức
của cán bộ công chức trong việc xây dựng một nền hành chính phục vụ đã có sự
chuyển biến rõ rệt, sự am hiểu về luật pháp của người dân ngày càng được nâng
cao. Việc đăng ký kinh doanh thuận lợi đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời
và phát triển của doanh nghiệp6, góp phần giải quyết việc làm và tăng huy động
vốn đầu tư xã hội, đóng góp trực tiếp cho tăng trưởng kinh tế của Thủ đô. Cơ chế
“một cửa liên thông” đã tạo ra một bước đột phá trong tiến trình cải cách thủ tục
hành chính đối với doanh nghiệp, có tác động lan tỏa, thúc đẩy cải cách thủ tục
hành chính trên các lĩnh vực khác.

Việc triển khai công tác ĐKKD ở Hà Nội còn gặp một số khó khăn cụ thể
như một số quy định của pháp luật còn bất cập; cùng với sự thông thoáng của
pháp luật về ĐKKD và quá trình hoạt động của doanh nghiệp nói chung, số
doanh nghiệp có xu hướng tăng thêm hàng năm khoảng 10%, số lượng hồ sơ
hành chính tiếp nhận tăng thêm khoảng 25%/năm trong khi biên chế cán bộ, tổ
chức bộ máy chưa được tăng tương ứng để đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và
trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của cơ quan ĐKKD; hệ thống mạng công
nghệ thông tin nhiều khi còn bị lỗi chưa đáp ứng được nhu cầu giải quyết công
5
6

Ban hành theo Quyết định số 100/2009/QĐ-UBND ngày 11/9/2009.
Sau 8 năm từ năm 2000-2008, số lượng doanh nghiệp tăng 6,64 lần.


ix

việc thường xuyên của các bộ phận. Việc quản lý doanh nghiệp theo các nội dung
ĐKKD hầu như chưa thực hiện được; sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà
nước và chính quyền địa phương còn hạn chế; cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp
không đồng bộ và không đầy đủ làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp; vẫn còn tình trạng hồ sơ giải quyết chậm và đôi lúc chất lượng hồ
sơ chưa tốt; trang thiết bị, cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế. Những tồn tại trên đã
khiến cho các doanh nghiệp chưa thực sự hài lòng mặc dù đã ghi nhận những nỗ
lực của Thành phố và các cấp, các ngành thực hiện công tác ĐKKD.
2.3. Nguyên nhân
2.3.1 Đối với cơ quan đăng ký kinh doanh
2.3.1.1 Quy định hiện hành của pháp luật về ĐKKD còn một số bấp cập:
(1) Nghiệp vụ về ĐKKD mới chỉ được thực hiện khá tốt ở phạm vi địa
phương, song chưa xác lập được cơ chế cũng như các biện pháp kỹ thuật để xử lý

một số nghiệp vụ ĐKKD trên phạm vi quốc gia, đặc biệt là trong lĩnh vực đăng
ký tên doanh nghiệp, đăng ký hoạt động cho chi nhánh, văn phòng đại diện trong
mối quan hệ với công ty mẹ ở các địa phương khác… (2) Một số quy định về
trình tự, thủ tục ĐKKD chưa bao quát hết các tình huống thực tế. (3) Quy định
chưa đủ tính khả thi về một số chức năng nhiệm vụ của cơ quan ĐKKD. (4) Quy
định về sự phối hợp công tác giữa cơ quan ĐKKD và các cơ quan quản lý nhà
nước khác chưa thật rõ ràng, còn thiếu động lực vận hành và ràng buộc trách
nhiệm. Mô hình chung về hệ thống cơ quan ĐKKD chưa hình thành rõ nét. Với
sự cải cách mạnh mẽ của các quốc gia, Việt Nam đã bị xuống 2 bậc so với năm
trước về môi trường kinh doanh7. Điều đó đồng nghĩa với việc cải cách hành
chính ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng cần có những chuyển biến quyết
liệt hơn.
2.3.1.2 Việc điều chỉnh địa giới Thủ đô Hà Nội đã làm cho khối lượng hồ
sơ tiếp nhận tăng nhiều (do phải thay đổi địa chỉ trên giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh) và gây ra hiện tượng trùng tên doanh nghiệp.
2.3.1.3 Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ công chức thực hiện dịch vụ
đăng ký kinh doanh: Điều bất hợp lý là chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của
7

Báo cáo Môi trường Kinh doanh 2010 với chủ đề “Cải cách qua thời kỳ khó khăn” ngày 09/9/2009; Trước
đó, trong báo cáo khác của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) về chỉ số cạnh tranh toàn cầu 2009 cũng đánh giá
Việt Nam tụt 5 bậc (từ 70 xuống 75/133) ; Đối với Hà Nội, trong bảng xếp hạng về chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh (PCI) từ năm 2005 đến nay, Hà Nội thường đứng trong nhóm trung bình. Năm 2007, Thủ đô đứng
thứ 27 trong tổng số 64 tỉnh thành, và năm 2008, lùi 4 bậc, xuống thứ 31.


x

Phòng ĐKKD được quy định riêng bởi Nghị định của Chính phủ, nhưng lại
không được độc lập về bộ máy cán bộ và ngân sách để thực hiện nhiệm vụ đó.

Với cách tổ chức như hiện nay, năng lực của Phòng ĐKKD khó có thể tương
xứng với nhiệm vụ được giao. Thêm vào đó là khối lượng công việc phải giải
quyết của cơ quan ĐKKD ở Hà Nội là rất lớn, lớn hơn rất nhiều so với các tỉnh,
thành phố khác (ngoại trừ Thành phố Hồ Chí Minh) cũng là áp lực lớn cho các
cán bộ thực hiện nhiệm vụ này. Tính trung bình theo số hồ sơ tiếp nhận năm
2008, mỗi cán bộ tại bộ phận “một cửa” có 6 phút để xử lý cho một hồ sơ tiếp
nhận hoặc trả kết quả; mỗi cán bộ thụ lý có khoảng 30 phút để thụ lý 01 hồ sơ,
với thời gian như vậy không thể giải quyết một cách có hiệu quả đối với các thủ
tục hành chính theo đề nghị của doanh nghiệp.
2.3.1.4 Ứng dụng công nghệ thông tin và cơ sở vật chất được chú trọng
nhưng còn nhiều hạn chế và chưa thực sự đem lại kết quả như mong muốn làm
cho các cán bộ thực hiện công tác này phải mất nhiều thời gian, công sức và làm
giảm hiệu quả công việc. Tại Hà Nội, hệ cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp khá đầy
đủ nhưng việc ĐKKD qua mạng chưa chính thức được thực hiện. Điều đó đồng
nghĩa với việc các doanh nghiệp vẫn cần phải mất khá nhiều thời gian và đi lại
nhiều lần để được giải quyết thủ tục, nhất là đối với các huyện xa của Thành phố
Hà Nội mở rộng. Đồng thời, hệ cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp của cơ quan
ĐKKD cũng chưa được kết nối với các cơ quan quản lý nhà nước khác trên địa
bàn thành phố. Điều này làm hạn chế rất nhiều công tác quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp trên địa bàn.
2.3.2 Đối với doanh nghiệp: Sự am hiểu luật pháp về lĩnh vực ĐKKD của
một bộ phận không nhỏ người dân, doanh nghiệp trên địa bàn bàn Hà Nội còn
hạn chế.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng ĐKKD trên địa bàn
Thành phố Hà Nội trong thời gian tới
Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô mới, cần có những
giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng ĐKKD và tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho doanh nghiệp trong khởi nghiệp.
3.1 Nhóm giải pháp về khung khổ pháp lý:
3.1.1 Kiến nghị với Chính phủ xây dựng, ban hành Nghị định về đăng ký

hợp nhất thay thế Nghị định số 88/2006/NĐ-CP (Nghị định hướng dẫn thi hành


xi

Luật Doanh nghiệp), với những định hướng nội dung cơ bản sau: Cần làm rõ khái
niệm về ĐKKD và quy định về cơ chế đăng ký hợp nhất: tích hợp toàn bộ các
khâu ĐKKD, đăng ký thuế, khắc dấu vào một quá trình chung gọi là đăng ký hợp
nhất để doanh nghiệp gia nhập thị trường; Áp dụng một bộ hồ sơ chuẩn để doanh
nghiệp có thể cung cấp mọi thông tin cần thiết cho các cơ quan ĐKKD, thuế,
công an và thống kê (trong đó có áp dụng một mẫu đơn duy nhất để đăng ký);
Kiến nghị với Chính phủ bãi bỏ Giấy chứng nhận đăng ký thuế. Giấy chứng nhận
ĐKKD có giá trị thay thế Giấy chứng nhận đăng ký thuế (vì theo Thông tư 05,
mã số doanh nghiệp đồng thời là mã số thuế).
3.1.2 Để đơn giản hoá thủ tục ĐKKD, đề nghị bỏ ghi ngành nghề kinh
doanh trong giấy chứng nhận ĐKKD. Theo điều 8, Nghị định 139/2007/NĐ-CP
quy định của “Doanh nghiệp có quyền chủ động ĐKKD và hoạt động kinh doanh,
không cần phải xin phép, xin chấp thuận, hỏi ý kiến của bất kỳ cơ quan nhà nước
nào, nếu ngành nghề kinh doanh đó: Không thuộc ngành nghề cấm kinh doanh;
Không thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật
chuyên ngành. Bỏ ghi ngành nghề sẽ giúp đơn giản hoá thủ tục ĐKKD rất nhiều và
sẽ giảm đáng kể lượng hồ sơ thay đổi ĐKKD, góp phần thực hiện cấp ĐKKD đúng
thời gian quy định.
3.2. Nhóm giải pháp đối với cơ quan đăng ký kinh doanh:
3.2.1 Nhóm giải pháp về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
3.2.1.1 Xây dựng quy trình giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một
cửa liên thông” tại Hà Nội: Hiện nay, tại Hà Nội hiện đang áp dụng Mô hình
“Một cửa liên thông tập trung” đối với lĩnh vực đăng ký kinh doanh, đăng ký mã
số thuế và đăng ký con dấu. Theo mô hình này, đặt tại Sở Kế hoạch và Đầu tư sẽ
bao gồm đại diện của cả 3 cơ quan: Sở KH&ĐT, Công an và Cục thuế. Doanh

nghiệp sẽ nộp 3 bộ hồ sơ cho 3 cơ quan, và tương ứng là nhận kết quả từ 3 cơ
quan trên. Trong thời gian tới, cần có cơ chế tiếp nhận và giải quyết đồng bộ các
thủ tục về ĐKKD, Thuế và dấu thông qua đầu mối duy nhất là Bộ phận tiếp nhận
và trả kết quả thủ tục hành chính của thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư.
Theo mô hình "Một cửa liên thông" này thì người thành lập mới doanh
nghiệp hoặc thay đổi nội dung kinh doanh dẫn đến thay đổi con dấu, nội dung
đăng ký thuế nộp hồ sơ tại Bộ phận "Một cửa liên thông" đóng tại Sở KH&ĐT:
Cơ chế phối hợp giữa Sở KH&ĐT và Cục Thuế thành phố: a) Trong thời
hạn 02 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, KH&ĐT sẽ chuyển một số thông tin cơ


xii

bản của doanh nghiệp cho Cục Thuế thông qua mạng điện tử: Tên doanh nghiệp
dự kiến, trụ sở, thông tin về người đại diện pháp luật hoặc chủ doanh nghiệp; b)
Trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông tin của Sở
KH&ĐT, Cục Thuế chuyển mã số doanh nghiệp qua mạng điện tử cho Sở
KH&ĐT để ghi vào Giấy chứng nhận ĐKKD và đăng ký thuế, Giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động và đăng ký thuế.
Đến ngày thứ 5, Bộ phận “một cửa liên thông” thuộc Sở KH&ĐT nhận lại
kết quả hồ sơ hoàn chỉnh của các Phòng ĐKKD để trả cho doanh nghiệp.
Hàng tháng, Sở Kế hoạch và Đầu tư thông báo cho Cục Thuế danh sách
các mã số doanh nghiệp chưa được sử dụng để Cục Thuế xử lý theo quy định.
Cơ chế phối hợp giữa Sở Kế hoạch & đầu tư và Công an Thành phố:
Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận ĐKKD và
đăng ký thuế, Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động và đăng ký thuế, Sở KH&ĐT
gửi bản sao các loại giấy này cho Công an thành phố. Trong thời hạn 02 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được con dấu do cơ sở khắc dấu chuyển đến, cơ quan Công
an có trách nhiệm kiểm tra, đăng ký để trả con dấu và Giấy chứng nhận đăng ký
mẫu dấu cho doanh nghiệp. Công an Thành phố cử CBCC trả trực tiếp cho doanh

nghiệp tại bộ phận “một cửa liên thông”.
Như vậy, thời gian giải quyết cho 3 thủ tục trên là 7 ngày kể từ ngày nhận
được hồ sơ hợp lệ.
3.2.1.2 Trong dài hạn, mô hình "Một cửa liên thông" mà hệ thống đăng ký
kinh doanh cần hướng tới là hệ thống đăng ký kinh doanh cấp quốc gia, có cơ
cấu tổ chức và trao đổi thông tin trong hệ thống hiệu quả và trình tự thủ tục tiến
hành đăng ký cho doanh nghiệp nhanh gọn và minh bạch.
Hệ thống đăng ký kinh doanh cấp quốc gia là hệ thống cơ sở dữ liệu hợp
nhất về doanh nghiệp trên toàn quốc. Tại đó, tất cả các thông tin đăng ký phải
được lưu trữ trong một cơ sở dữ liệu trung tâm. Cơ sở dữ liệu trung tâm này được
cập nhật từ dữ liệu đăng ký ở tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước.
Thông tin về các doanh nghiệp đã đăng ký sẽ được cung cấp ra bên ngoài
thông qua hệ thống thông tin. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người dân có
thể truy cập thông tin đó qua mạng internet hoặc thông qua các dịch vụ cung cấp.
3.2.2.3 Tích cực triển khai quy chế quản lý doanh nghiệp hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp, trong đó chú trọng công tác hậu kiểm sau cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh


xiii

Hà Nội đã ban hành Quy chế quản lý doanh nghiệp trong tháng 9/2009,
trong đó quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của từng cơ quan (Sở
KH&ĐT, Cục thuế, Công an, UBND quận, huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn).
Tuy nhiên, với Thành phố Hà Nội, Thành phố có số lượng doanh nghiệp lớn thứ
hai cả nước thì yêu cầu quản lý các doanh nghiệp sau khi được cấp giấy chứng
nhận ĐKKDlà nhiệm vụ rất lớn. Cần thiết phải có phần mềm quản lý sau ĐKKD
nhằm giúp các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn Thành phố tra cứu để biết
được thông tin của doang nghiệp, tình hình hoạt động hoặc giải thể, các doanh
nghiệp và các cá nhân có vi phạm, tình hình doanh nghiệp chuyển đi, chuyển đến

địa chỉ kinh doanh mới...Ngược lại các cơ quan, ban, ngành cũng cần có sự phối
hợp cung cấp thông tin về tình hình vi phạm của các doanh nghiệp trên lĩnh vực
và địa bàn của mình với Sở Kế hoạch & Đầu tư, là cơ quan được UBND Thành
phố giao là đầu mối thực hiện .
3.2.2 Nhóm giải pháp về kỹ thuật
3.2.2.1 Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục
hành chính và xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về ĐKKD.
- Đối với các cơ quan của Trung ương: Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia
về đăng ký kinh doanh.
- Đối với cơ quan ĐKKD của Thành phố Hà Nội: Các Phòng ĐKKD của
Sở KH&ĐT sẽ truy nhập, tác nghiệp thông qua cơ sở dữ liệu trung tâm quốc gia.
Việc kiểm tra tên doanh nghiệp, tạo mã số doanh nghiệp của cơ quan ĐKKD mỗi
địa phương sẽ được thực hiện thông qua hình thức truy cập và xử lý tại hệ cơ sở
dữ liệu quốc gia. Tuy nhiên, trong khi chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia, thì Hà Nội
vẫn phải triệt để ứng dụng công nghệ thông tin để có sự phối hợp thống nhất giữa
các cơ quan trong việc giải quyết thủ tục hành chính cho doanh nghiệp.
3.2.2.2 Hà Nội cần chính thức triển khai thực hiện việc đăng ký kinh
doanh qua mạng Internet
Hà Nội cần đẩy nhanh việc doanh nghiệp đăng ký và theo dõi quá trình xử
lý hồ sơ qua mạng, tìm hiểu mọi thông tin liên quan đến quy trình, thủ tục trên
mạng, qua cứu tên doanh nghiệp trên mạng Internet…để tiết kiệm được chi phí
và thời gian đi lại; Công khai, minh bạch, hạn chế tiêu cực trong công tác quản lý
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; giúp tối ưu bộ máy tổ chức phòng đăng
ký kinh doanh.


xiv

3.2.2.3 Về lâu dài, phải xây dựng quy trình đăng ký tự động hoá và tăng
cường đào tạo đội ngũ cán bộ thực hiện công tác đăng ký kinh doanh.

Đăng ký kinh doanh ở Hà Nội khác biệt so với các địa phương khác là số
lượng hồ sơ tiếp nhận rất lớn và lớn hơn rất nhiều so với các tỉnh, thành phố
khác, do đó việc ứng dụng công nghệ thông tin và tự động hóa quy trình ĐKKD
nhằm loại bỏ các khâu thừa trong đăng ký, giảm bớt thời gian làm việc của cán
bộ ĐKKD trong các khâu trung gian, tập trung vào các bước chuyên môn là rất
cần thiết để tăng cường năng suất làm việc. Hơn nữa, đòi hỏi cán cán bộ thực
hiện công tác này ngoài việc phải thành thạo về chuyên môn, kỹ năng tin học tốt,
cần phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận. Do vậy, cần phải thường
xuyên có các chương trình đào tạo, cập nhật về khung khổ pháp lý, ứng dụng
công nghệ cho cán bộ làm công tác ĐKKD để nâng cao hiệu suất làm việc.
3.2.2.4 Xây dựng nguyên tắc chấp thuận ngầm
Nguyên tắc chấp thuận ngầm thì việc đăng ký tự động được coi như đã
được chấp thuận. Áp dụng nguyên tắc này sẽ tạo nhiều lợi thế cho các cơ quan
nhà nước, giảm bớt một khâu trong quy trình ĐKKD, tránh tình trạng chậm trễ, ứ
đọng hồ sơ nhất là những nơi phải xử lý một số lượng lớn hồ sơ đăng ký của các
doanh nghiệp. Nguyên tắc này buộc các cán bộ phải chịu trách nhiệm chấp thuận
việc ĐKKD của doanh nghiệp trong thời hạn nhất định. Tuy nhiên, nếu như
nguyên tắc chấp thuận ngầm này có hiệu lực, thì công tác hướng dẫn cho các đối
tượng nộp đơn yêu cầu phải đảm bảo chính xác, rõ ràng và chi tiết, đồng thời cán
bộ hướng dẫn phải có khiến thức chuyên môn nghiệp vụ sâu. Nếu không đảm bảo
được điều đó thì cán bộ làm công tác đăng ký sẽ bị đẩy vào tình trạng buộc phải
lựa chọn giữa việc đưa ra những quyết định quản lý dựa trên những thông tin
không đầy đủ hoặc phải tuân thủ giới hạn thời gian đã đặt ra.
3.2.3. Điều chỉnh cơ cấu, mô hình tổ chức các Phòng ĐKKD ở Hà Nội
Để đảm bảo thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của cơ quan ĐKKD và
dịch vụ hỗ trợ đạt hiệu quả tới từng doanh nghiệp, nhất là với một số lượng lớn
doanh nghiệp như ở Hà Nội thì các phòng ĐKKD cần có đội ngũ cán bộ có kiến
thức chuyên sâu về thủ tục và quy trình; đồng thời cần có kỹ năng tin học cơ bản;
có kiến thức về nhiệm vụ quản trị mạng máy tính. Dựa trên những kỹ năng cần
thiết, cán bộ của các phòng ĐKKD của Hà Nội cần được chia làm hai loại là

nhóm cán bộ ĐKKD và nhóm cán bộ kỹ thuật. Tùy theo nhu cầu và tình hình
thực tế của Phòng, cán bộ kỹ thuật của các phòng ĐKKD có thể làm việc bán thời


xv

gian để duy trì và quản lý hệ thống máy tình và mạng tại các phòng ĐKKD.
Hiện nay, Sở KH&ĐT tổ chức hoạt động các phòng đăng ký kinh doanh
theo địa bàn. Tuy nhiên khi chuẩn bị đầy đủ về cơ sở vật chất, về hạ tầng công
nghệ thông tin, về hệ thống lưu trữ thì nên chuyển sang hoạt động theo mô hình
thống nhất chung, nghĩa là công dân, doanh nghiệp có thể đến bất kỳ phòng đăng
ký kinh doanh nào để giải quyết thủ tục hành chính và liên hệ công tác.
3.3. Đối với doanh nghiệp: Công khai, minh bạch quy trình, biểu mẫu và
tăng cường thông tin, tuyên truyền: Cơ quan đăng ký kinh doanh cần tiến hành rà
soát, thống kê trình tụ, thủ tục hành chính lĩnh vực đăng ký kinh doanh, mẫu đơn,
mẫu tờ khai hành, thời hạn giải quyết theo nguyên tắc đơn giản, dễ thực hiện, tiết
kiệm thời gian và công bố công khai tại cơ quan đăng ký kinh doanh, trên trang
tin điện tử của Sở KH&ĐT, cổng giao tiếp điện tử của Thành phố. Người dân và
doanh nghiệp chỉ phải thực hiện theo các thủ tục hành chính đã được công khai.
3.4. Cần có tổ chức độc lập để đánh giá chất lượng và xếp hạng việc
cung cấp đăng ký kinh doanh: Hiện nay, Hà Nội cũng như cả nước chưa có tổ
chức đánh giá; thước đo chất lượng dịch vụ công nói chung và dịch vụ đăng ký
kinh doanh nói riêng. Trong thời gian tới, để có đánh giá khách quan, chính xác
Trung ương và Hà Nội có thể đặt hàng tổ chức độc lập có chuyên môn trong lĩnh
vực đăng ký kinh doanh để việc đánh giá chất lượng dịch vụ được khách quan.
Đánh giá và xếp hạng các cơ quan cung cấp dịch vụ đăng ký kinh doanh sẽ
minh bạch hóa chất lượng dịch vụ và là công cụ hữu hiệu để lãnh đạo Thành phố
và các ngành phục vụ người dân, doanh nghiệp tốt hơn.
Hà Nội là một trong những địa phương tiên phong của cả nước về thực
hiện cải cách trong ĐKKD, nhất là trong việc thực hiện một cửa liên thông và đã

được nhân dân, doanh nghiệp đánh giá cao và ghi nhận. Tuy nhiên, với yêu cầu
cải cách mạnh mẽ hơn và tiếp tục nâng cao chỉ số cạnh tranh, Hà Nội cần phải
quyết liệt triển khai ngay các giải pháp theo quan niệm mới đặt ĐKKD trong
tổng thể các thủ tục gia nhập thị trường. Trong đó, chú trọng đến các giải pháp
về ứng dụng công nghệ thông tin, và đặc biệt là xây dựng được cơ chế hữu hiệu
để thực hiện tốt công tác quản lý doanh nghiệp sau cấp giấy chứng nhận ĐKKD.



×