1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Cùng với sự phức tạp của tội phạm hình sự trên cả nước, tình hình tội
phạm hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cũng có nhiều biến động và phức
tạp, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Qua báo cáo tổng kết
năm ở địa bàn tỉnh Bắc Giang thì phương thức hoạt động của tội phạm rất đa
dạng, mức độ thiệt hại do chúng gây ra ngày càng lớn. Trong đó có các loại
tội phạm như giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, lừa đảo, trộm cắp, buôn
bán ma túy... gia tăng. Đặc biệt loại tội phạm trộm cắp tài sản trong nhà dân
xảy ra nhiều, thiệt hại do loại tội phạm này gây lên rất lớn, làm ảnh hưởng
nghiêm trọng tới tình hình TTATXH trên địa bàn. Nếu tính từ năm 2002 đến
6 tháng đầu năm 2006 đã xảy ra 3.061 vụ phạm tội hình sự, trong đó tội
phạm trộm cắp xảy ra 1.846 vụ và tội phạm trộm cắp tại nơi ở công dân xảy
ra 1.054 vụ. Như vậy tội phạm trộm cắp tài sản nơi ở công dân chiếm
34,46% so với tổng số các vụ phạm tội xảy ra và chiếm 57,09% so với các
vụ trộm cắp tài sản khác. Bên cạnh đó, công tác đấu tranh với loại tội phạm
này còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp như: tỷ lệ điều tra khám phá còn thấp
(mới đạt 36,74% trong tổng số các vụ xảy ra), nhiều vụ án còn kéo dài, bế
tắc... Nguyên nhân của tình trạng trên là CQĐT (lực lượng trinh sát, điều tra
viên) chưa nhận thức được đúng đắn hậu quả, tác hại của loại tội phạm này;
chưa làm tốt công tác phòng ngừa, điều tra xử lý đối với các vụ phạm tội.
Trong thực tế đấu tranh với loại tội phạm này lực lượng điều tra chưa nghiên
cứu khai thác kỹ và sử dụng một cách đầy đủ những tri thức khoa học của
điều tra hình sự. Chưa sử dụng có hiệu quả các biện pháp nghiệp vụ, các
chiến thuật và phương pháp điều tra. Vì vậy, để góp phần nâng cao nhận
thức về tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở công dân và xây dựng các giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra loại tội phạm này của lực lượng
2
Cảnh sát ĐTTP về TTXH, tôi đã lựa chọn đề tài: "Điều tra tội phạm trộm
cắp tài sản xảy ra tại nơi ở của công dân trên địa bàn tỉnh Bắc Giang" làm
đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ thực trạng tiến hành công tác điều tra
khám phá loại tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang, trên cơ sở đó đề xuất một số giả pháp áp dụng kết quả nghiên cứu về
phòng ngừa, điều tra nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích, đề tài có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận nhận thức về công tác phòng ngừa,
điều tra tội phạm nói chung và tội phạm trộm cắp nói riêng.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động phòng ngừa, điều tra khám phá loại
tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
của lực lượng CSND.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa,
điều tra loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
- Tình hình tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân và hoạt
động điều tra khám phá tội phạm này của lực lượng Cảnh sát ĐTTP về TTXH
Công an tỉnh Bắc Giang.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong kết quả khảo sát thực
tiễn tình trạng tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân, xảy ra từ năm
2002 đến 6 tháng đầu năm 2006 trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
3
- Nghiên cứu về công tác điều tra khám phá của lực lượng Cảnh sát
ĐTTP về TTXH Công an tỉnh Bắc Giang.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn được xây dựng trên cơ sở
phương pháp luận triết học Mác - Lênin, quan điểm của Đảng, Nhà nước về
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và những kiến thức của các ngành
khoa học như khoa học điều tra tội phạm, tội phạm học, tâm lý, luật học...
Luận văn được nghiên cứu bởi các biện pháp cụ thể như: thống kê,
phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế, trao đổi, tọa đàm với cán bộ có
kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo và trực tiếp phòng ngừa, điều tra khám
phá loại tội phạm này.
6. Những yếu tố mới đạt được của luận văn
- Luận văn đưa ra hệ thống lý luận về nội dung, cấu trúc đặc điểm, thủ
đoạn hoạt động của tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân và những
đặc trưng của loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Tổng kết thực tiễn hoạt động điều tra khám phá tội phạm trộm cắp
tài sản tại nơi ở của công dân, trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, nêu được những
đánh giá đúng đắn về công tác này.
- Đề xuất những giải pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
điều tra khám phá tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân của lực
lượng Cảnh sát ĐTTP về TTXH Công an tỉnh Bắc Giang.
7. Ý nghĩa lý luận - thực tiễn của đề tài
Phát triển và bổ sung nhận thức lý luận về hoạt động điều tra tội phạm
trộm cắp trên cơ sở nghiên cứu từ những địa bàn cụ thể như Bắc Giang.
Kết quả nghiên cứu đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu
giảng dạy và học tập ở các trường Công an nhân dân và cán bộ chỉ huy, cán
bộ hoạt động thực tiễn đấu tranh chống tội phạm.
4
Trên cơ sở các tài liệu được thu thập, nghiên cứu, luận văn sẽ đưa ra
được những kết luận và đề xuất giải pháp, giúp Công an các địa phương, đặc biệt
là Công an tỉnh Bắc Giang tham khảo vận dụng trong công tác thực tiễn nhằm
nâng cao hiệu quả trong công tác, điều tra khám phá loại tội phạm trộm cắp tài
sản nói chung, tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân nói riêng.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
5
Chương 1
NHẬN THỨC VỀ TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI NƠI Ở
CÔNG DÂN VÀ CÔNG TÁC ĐIỀU TRA KHÁM PHÁ CỦA LỰC
LƯỢNG CẢNH SÁT ĐIỀU TRA TỘI PHẠM VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI
CÔNG AN TỈNH BẮC GIANG
1.1. Nhận thức về tội trộm cắp tài sản và trộm cắp tài sản tại nơi ở
của công dân
1.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm trộm cắp tài sản
Trong BLHS năm 1985 của nước ta, tội trộm cắp tài sản được qui định
tại hai điều 132, 155: tội phạm trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tội phạm
trộm cắp tài sản công dân.
Nghiên cứu những quy định trên cho thấy có sự phân biệt rạch ròi
giữa tài sản nhà nước, tài sản tập thể và tài sản riêng của công dân là cơ sở
xây dựng một chế tài hình phạt khá cụ thể. Điều đó phù hợp với quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta trong thời điểm nước ta bước vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội, cần phải chủ động tập trung bảo vệ tài sản nhà nước, tài sản
chung của xã hội. Đồng thời, quy định như vậy cũng là một kế thừa những
quy định trước đây và những pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản nhà
nước và tài sản công dân. Trên cơ sở đó ngành Công an đã phân công trách
nhiệm đấu tranh cho các lực lượng Cảnh sát kinh tế và Cảnh sát hình sự để
được đảm bảo chuyên sâu đối với từng lĩnh vực.
Tuy nhiên thực tiễn đấu tranh phòng ngừa, điều tra, xét xử đối với các
loại tội phạm trộm cắp tài sản XHCN, tài sản riêng của công dân qua nhiều
năm cho thấy cả hai loại tội phạm trên có nhiều điểm giống nhau:
- Trước hết về hành vi khách quan: đều là những hành vi, thủ đoạn
"lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản" đối tượng là những tài sản có giá trị, luôn
thiệt hại về kinh tế.
6
Khách thể đó là xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản, làm mất đi
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của người khác, gây nên sự lo lắng
của con người, gây mất trật tự xã hội...
Chủ thể cũng là những con người có đủ năng lực trách nhiệm hình
sự...
Chủ quan đều do lỗi cố ý trực tiếp...
Khi nghiên cứu đến các trường hợp phạm tội, các tình tiết tăng nặng
cũng có dấu hiệu tương tự giữa hai điều luật trong BLHS năm 1985.
Hơn nữa xuất phát từ quan điểm tiếp cận của pháp luật nước ta: "mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật", tài sản hợp pháp của bất kỳ ai trong xã
hội đều được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Cho nên khi phân biệt cụ
thể tài sản XHCN và tài sản riêng của công dân dễ dẫn đến tư tưởng phân biệt
đối tượng đấu tranh, coi thường bảo vệ tài sản riêng của công dân. Đặc biệt
trong thời điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay và đặc điểm
của sở hữu tài sản có lúc khó phân tài sản thuộc sở hữu nào.
Vì vậy, BLHS năm 1999 đã có bước cải tiến mới trong quy định về tội
phạm nói chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng, đã quy định tội phạm
trộm cắp tài sản trong một điều luật. Điều 138, BLHS năm 1999 quy định tội
trộm cắp như sau: "Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ
năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm
nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa
án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị
phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm...". Quy định như vậy là một bước tiến vượt bậc
của quá trình lập pháp.
Điều 138 quy định cụ thể về tội phạm trộm cắp tài sản như sau:
"1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm
nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính về hành vi
7
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù
từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
hai năm đến bảy năm:
a. Có tổ chức;
b. Có tính chất chuyên nghiệp;
c. Tái phạm nguy hiểm;
d. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
e. Hành hung để tẩu thoát;
f. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai
trăm triệu đồng;
g. Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm:
a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm
trăm triệu đồng;
b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm
mươi triệu đồng".
Trong Bình luận khoa học BLHS, phần các tội phạm, trộm cắp được
hiểu là "lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý". Trong
8
Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, trộm cắp
tài sản cũng được hiểu là "lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người quản lý".
Theo chúng tôi, "tài sản đang do người khác quản lý" và "tài sản đang có người
quản lý" chỉ là hai cách nói khác nhau của cùng một nội dung. Tuy nhiên,
khái niệm trộm cắp trong Bình luận khoa học BLHS rõ ràng hơn trong giáo
trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội vì mô tả được
hành vi trộm cắp là hành vi "lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản...". Trong khi
đó, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, phần các tội phạm của Trường Đại học
CSND lại cho rằng: "Trộm cắp là hành vi chiếm đoạt tài sản của người chủ tài
sản hoặc người được giao trực tiếp quản lý tài sản, có thể bằng thủ đoạn lén lút".
Định nghĩa như vậy quá dài vì "chiếm đoạt tài sản của người chủ tài sản hoặc
người được giao trực tiếp quản lý tài sản", nói ngắn gọn, chính là chiếm đoạt tài
sản của người khác. Còn nói "có thể bằng thủ đoạn lén lút" thì về cơ bản, có thể
hiểu lén lút chỉ là một trong các thủ đoạn được thực hiện. Vậy, nếu hành vi
chiếm đoạt được thực hiện công khai, trắng trợn, thậm chí dùng cả vũ lực để đe
dọa... thì người thực hiện hành vi đó có phạm tội trộm cắp hay không? Rõ ràng,
khái niệm trộm cắp trong giáo trình luật hình sự của Trường Đại học CSND
(nay là Học viện CSND) làm người đọc có thể nhầm lẫn hành vi trộm cắp với
các hành vi chiếm đoạt khác như cướp, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt v.v..
1.1.2. Đặc điểm pháp lý đặc trưng của tội phạm trộm cắp tài sản
Cấu thành tội phạm là căn cứ pháp lý để xác định tội danh (định tội). Định
tội là cơ sở đầu tiên để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội. Như vậy, cấu thành tội phạm là căn cứ pháp lý của việc định tội. Với ý nghĩa
như vậy, cần phải tìm hiểu các đặc điểm pháp lý đặc trưng của tội phạm này.
Theo quy định của Điều 138 BLHS 1999, các yếu tố cấu thành tội trộm
cắp tài sản của công dân thể hiện như sau:
- Khách thể của tội trộm cắp tài sản
Điều 138 nằm trong Chương XIV - "Các tội xâm phạm sở hữu". Điều
đó có nghĩa là tội trộm cắp là một trong các tội xâm phạm sở hữu. Khách thể
9
của tội phạm này xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản. Xâm phạm
quyền sở hữu đối với tài sản là làm mất đi quyền chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt đối với tài sản.
Tội trộm cắp tài sản là:
- Xâm phạm quyền sở hữu (chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản).
- Là thiệt hại đến kinh tế nhà nước, tài sản công dân.
- Gây ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, trật tự xã hội.
Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản trước hết là tài sản, bất kể
tài sản đó là của ai. Tài sản đó có thể là của Nhà nước, tổ chức chính trị, xã
hội kinh tế, các đơn vị lực lượng vũ trang và tài sản của tư nhân. Tài sản đó có
thể là hợp pháp hoặc bất hợp pháp.
Tài sản đó, theo Hiến pháp năm 1992 bao gồm: "Thu nhập hợp pháp,
của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác
trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác" (Điều 58).
Tài sản thuộc các tổ chức tư nhân (kể cả các tổ chức tư nhân nước
ngoài) cũng thuộc phạm vi đối tượng của tội trộm cắp tài sản của công dân.
Tài sản thuộc sở hữu công dân nhưng đang tạm thời thuộc sự quản lý
của các cơ quan nhà nước, các xí nghiệp quốc doanh, hoặc hợp tác xã không
thuộc đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản của công dân mà được bảo
vệ như tài sản của Nhà nước.
Tài sản của công dân về nguyên tắc chỉ là đối tượng của những hành
vi phạm tội do người không phải là chủ sở hữu thực hiện. Tuy nhiên, cũng có
trường hợp tài sản đó có thể là tài sản của riêng người có hành vi phạm tội hoặc
là tài sản chung với người khác. Đó là những trường hợp hành vi phạm tội, về
hình thức, tuy tác động đến tài sản của người thực hiện, nhưng thực chất lại
nhằm gây thiệt hại về tài sản cho người khác hoặc cho người cùng sở hữu với
mình.
10
Ngoài ra khi những vụ trộm cắp tài sản xảy ra trên thực tế đã gây ra
tình trạng lo sợ không yên tâm công tác và sinh hoạt của con người trong xã
hội, làm phức tạp thêm tình hình trật tự xã hội.
- Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt khách quan của tội phạm trộm cắp tài sản là những biểu hiện diễn
ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan và được qui định trong điều luật.
Đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện như sau:
Trước hết, nói về hành vi chiếm đoạt tài sản. Hành vi đó phải là lén
lút, bí mật. Đây là dấu hiệu có nội dung trái ngược với dấu hiệu công khai ở
các tội xâm phạm sở hữu của công dân có tính chất chiếm đoạt khác. Dấu
hiệu này vừa chỉ đặc điểm khách quan của hành vi chiếm đoạt, vừa chỉ ý thức
chủ quan của người thực hiện hành vi.
Một hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút, bí mật nếu được thực hiện bằng
những hình thức mà những hình thức đó có khả năng làm cho chủ tài sản hoặc
người đang quản lý tài sản không biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra.
Hành vi của người phạm tội là lén lút, nếu khi thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản người phạm tội có ý thức che giấu hành vi đang thực hiện của
mình. Trong đa số các trường hợp trộm cắp tài sản của công dân xảy ra, ý
thức chủ quan của người phạm tội cũng là lén lút, che giấu đối với mọi người
khác. Ý thức che giấu này có thể là:
+ Che giấu toàn bộ hành vi phạm tội, như che giấu đối với chủ tài sản.
+ Chỉ che giấu tính chất phi pháp của hành vi phạm tội.
Ví dụ: Lợi dụng chủ nhà đi vắng, người phạm tội dùng chìa khóa mở cửa
một cách công khai và chuyển tài sản lên ô tô đàng hoàng như là có việc chuyên
chở hàng hóa bình thường. Trong trường hợp này, những người không phải là
chủ tài sản vẫn biết sự việc xảy ra, nhưng có thể không biết đó là hành vi trộm
cắp. Trong thực tiễn, trường hợp nêu trên vẫn thường xảy ra, vì vậy cần phải
11
nhận thức đúng hành vi đó là trộm cắp để định hướng điều tra ban đầu cho chính
xác, không nhầm lẫn với trường hợp công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, nói về giá trị của tài sản bị chiếm đoạt và hậu quả tác hại.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999, chỉ được coi là phạm tội trộm
cắp tài sản trong những trường hợp sau:
- Giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ năm trăm nghìn đồng trở lên (đến
dưới năm mươi triệu đồng).
- Giá trị tài sản bị chiếm đoạt tuy chưa đến năm trăm nghìn đồng, nhưng
gây hậu quả nghiêm trọng; hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt (bất kỳ tội nào xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Cụ thể hóa giá trị tài sản bị chiếm đoạt Thông tư liên tịch số
02/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa
án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư
pháp hướng dẫn một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu
của Bộ luật hình sự năm 1999" (trong luận văn gọi tắt là Thông tư số
02/2001).
Theo mục II Thông tư trên giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định
theo giá thị trường của tài sản đó tại địa phương vào thời điểm tài sản bị
chiếm đoạt. Trong trường hợp tài sản thực tế bị chiếm đoạt dưới năm trăm
nghìn đồng nhưng có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi trộm
cắp có ý định chiếm đoạt đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của
họ là từ năm trăm nghìn đồng trở lên thì vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự.
Để xác định đúng giá trị tài sản trong trường hợp không tìm thấy tài
sản bị trộm cắp. CQĐT cần lấy lời khai những người biết về tài sản này để
xác định tài sản đó là gì; nhãn mác như thế nào; giá trị của tài sản theo thời
giá thực tế tại địa phương vào thời điểm tài sản bị mất trộm là bao nhiêu, còn
khoảng bao nhiêu phần trăm… Trên cơ sở đó có kết luận cuối cùng về giá trị
tài sản bị xâm phạm.
12
Trong trường hợp một người thực hiện trộm cắp nhiều lần nhưng mỗi
lần có tài sản giá trị dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự và
không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự,
đồng thời trong các lần trộm cắp đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và
chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hành chính, nếu tổng giá trị tài sản
các lần trộm cắp từ năm trăm nghìn đồng trở lên thì vẫn xác định là đủ yếu tố
cấu thành tội phạm nếu:
+ Các vụ trộm cắp thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt
thời gian.
+ Việc trộm cắp tài sản có tính chất chuyên nghiệp, lấy tài sản trộm
cắp làm nguồn sống chính.
+ Với mục đích trộm cắp, nhưng do điều kiện hoàn cảnh khách quan
nên việc trộm cắp phải được thực hiện nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị xâm
phạm mỗi lần dưới năm trăm nghìn đồng.
Còn thế nào là "gây hậu quả nghiêm trọng"; thì Thông tư số 02/2001 đã
hướng dẫn cụ thể. Theo đó, "gây hậu quả nghiêm trọng" được hiểu là hậu quả
phải do hành vi phạm tội gây ra (có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội
và hậu quả). Hậu quả đó có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản hoặc
hậu quả phi vật chất (gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội).
Dấu hiệu bị coi là "đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt",
được hiểu là: "Nếu trước đó đã bị xử lý bằng một trong các hình thức sau đây
về hành vi chiếm đoạt, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý
mà lại thực hiện một trong các hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm
cắp tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
a. Đã bị xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định của Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính;
13
b. Đã bị xử lý kỷ luật theo đúng điều lệnh, điều lệ của lực lượng vũ
trang;
c. Đã bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của cơ quan có thẩm quyền...".
Đối với trường hợp bị kết án nhưng chưa được xóa án về một trong
các tội phạm có tính chất chiếm đoạt tài sản (như tội chiếm đoạt vật liệu nổ Điều
232 BLHS; tội chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ Điều 233 BLHS)
có bị coi là tình tiết định tội hay không sẽ được hướng dẫn sau.
Với quy định như vậy, tội trộm cắp tài sản của công dân chỉ coi là
hoàn thành khi người thực hiện hành vi trộm cắp đã chiếm đoạt được tài sản.
Còn khi họ chưa chiếm đoạt được tài sản, hành vi của họ chưa cấu thành tội
phạm. Để đánh giá người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa, đã làm chủ
được tài sản hay chưa phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Cụ
thể về những trường hợp chiếm đoạt được ở hành vi khách quan của tội trộm
cắp tài sản của công dân như sau:
- Nếu tài sản bị chiếm đoạt là loại gọn, nhỏ, thì coi là chiếm đoạt được
khi người phạm tội đã giấu được tài sản trong người.
Ví dụ: Một người lợi dụng người khác đang kiểm tiền và không ai để
ý đã lấy cắp một cọc tiền 10 triệu đồng giấu trong áo.
- Nếu vật bị chiếm đoạt cồng kềnh, không thuộc loại nói trên thì thời
điểm tội phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội đã mang được tài
sản ra khỏi khu vực bảo quản (thoát ra khỏi sự quản lý của người có tài sản).
Như vậy, để được coi là phạm tội trộm cắp tài sản của công dân, khi
người nào đó có hành vi chiếm đoạt tài sản, tức là người đó có hành vi chuyển
dịch một cách trái pháp luật tài sản từ sự quản lý của một chủ thể thành tài sản
của mình hoặc cho người khác mà mình quan tâm. Chuyển dịch ở đây có
nghĩa là di chuyển tài sản đang có sự quản lý của người khác ra khỏi vị trí ban
đầu của nó.
14
Thứ ba, nói về công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm,
hoàn cảnh phạm tội. Công cụ, phương tiện mà các đối tượng sử dụng để thực
hiện hành vi trộm cắp là kìm cộng lực, vam phá khóa hay chìa khóa vạn năng,
dao lam... Thủ đoạn được áp dụng ở đây là lợi dụng chủ quản lý tài sản vắng
nhà, lơi lỏng quản lý phá cửa đột nhập lấy tài sản hay xin ngủ nhờ đến đêm
khuya dậy lấy tài sản và tẩu thoát. Lợi dụng sơ hở của chủ nhà, nấp sẵn trong
nhà chờ cơ hội thuận lợi chiếm đoạt tài sản hay lợi dụng chỗ đông người để
rạch túi, móc ví v.v... Về thời gian, địa điểm, hành vi trộm cắp xảy ra vào ban
ngày hay ban đêm, ở nơi đông người như chợ, cửa hàng, bến tàu, bến xe, bệnh
viện khu dân cư hay ở những nơi vắng vẻ ít người qua lại... Tất cả những điều
đó đều là mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản.
- Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản của công dân
Khoa học luật hình sự chỉ ra rằng, tội phạm là một thể thống nhất của
hai mặt khách quan và chủ quan. Nếu như mặt khách quan là những biểu hiện
bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của
người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, mục đích và động
cơ phạm tội. Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, được biểu hiện
dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Lý trí và ý chí là hai yếu tố cần thiết tạo thành lỗi. Lý trí thể hiện năng
lực nhận thức thực tại khách quan còn ý chí thể hiện năng lực điều khiển hành
vi trên cơ sở nhận thức. Đây là những yếu tố tâm lý cần thiết của mọi hoạt
động có ý thức của con người.
Một hành vi bị coi là có lỗi chỉ khi người thực hiện hành vi đó nhận
thức được và điều khiển được hành vi của mình, đồng thời có khả năng xử sự
phù hợp với lợi ích của xã hội, nhưng người thực hiện hành vi đã lựa chọn,
quyết định và thực hiện xử sự gây thiệt hại cho xã hội, cho công dân.
Về lý trí, người phạm tội trộm cắp tài sản của công dân nhận thức rõ
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình trên cơ sở nhận biết đối
15
tượng y sẽ chiếm đoạt là tài sản của người khác, nhận biết mức độ thực hiện
hành vi, công cụ, phương tiện phạm tội cũng như các phương pháp, thủ đoạn,
thời gian, địa điểm thực hiện tội phạm... sẽ gây thiệt hại đến tài sản của người
khác. Do đó, lỗi của người thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của công dân là
cố ý trực tiếp, không thể có trường hợp cố ý gián tiếp hay vô ý.
Trong tội trộm cắp tài sản của công dân, động cơ và mục đích vụ lợi
luôn là dấu hiệu đặc trưng. Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy người
phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Do khái niệm chiếm đoạt về mặt pháp lý
đã bao hàm mục đích vụ lợi như trên cho nên các điều luật quy định về các tội
chiếm đoạt khác cũng không nêu dấu hiệu này. Động cơ không phải là dấu
hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, tuy nhiên, trên thực tế, điều tra làm rõ
động cơ mục đích của hành vi trộm cắp tài sản trong những trường hợp cụ thể
có thể làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong đó có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo, chẳng hạn như: Người phạm tội thực hiện hành vi
trộm cắp để lấy tiền điều trị cho con bị mắc bệnh hiểm nghèo v.v...
Tóm lại, về mặt chủ quan của tội phạm trộm cắp tài sản phải được
thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, với động cơ, mục đích vụ lợi thể hiện qua hành
vi chiếm đoạt.
- Chủ thể của tội trộm cắp tài sản của công dân
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội một cách cố ý hay vô ý, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt
độ tuổi theo luật hình sự qui định.
Như vậy, không phải bất kỳ người nào cũng có thể trở thành chủ thể
của tội phạm khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS, mà chỉ những người có đủ các điều kiện để có lỗi mới trở thành chủ
thể của tội phạm; các điều kiện đó là:
+ Có năng lực trách nhiệm hình sự, nghĩa là có khả năng nhận thức được
ý nghĩa xã hội của hành vi do mình thực hiện và năng lực điều khiển được hành
vi theo những yêu cầu tất yếu của xã hội. Người không có khả năng đó là người
16
không có năng lực trách nhiệm hình sự. Khoản 1 Điều 13 BLHS năm 1999
quy định: "Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự".
+ Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 12 BLHS 1999 quy định:
"1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng".
Đây là những dấu hiệu pháp lý bắt buộc về chủ thể của tội phạm. Ngoài
những dấu hiệu cơ bản ấy, một số tội phạm đòi hỏi phải có thêm các dấu hiệu
đặc biệt khác và chỉ khi có những dấu hiệu đặc biệt đó, chủ thể mới có thể
thực hiện được hành vi khách quan của những tội này. Lý luận khoa học luật
hình sự gọi đó là chủ thể đặc biệt.
Chủ thể của tội trộm cắp tài sản của công dân là chủ thể bình thường,
nghĩa là bất kỳ ai đủ hai điều kiện của chủ thể nêu trên khi có hành vi trộm
cắp tài sản đều trở thành chủ thể của tội này.
- Hình phạt
Điều 138 BLHS năm 1999, qui định hình phạt có 5 khung, mức cao nhất
chung thân, khung 5 là hình phạt bổ sung. So sánh với hình phạt tại Điều 132
và 155 của BLHS năm 1985 qui định hình phạt có 3 khung, trong đó mức cao
nhất ở Điều 123 là tử hình, mức cao nhất của Điều 155 chỉ đến 20 năm. Từ sự
so sánh trên, ta thấy khoảng cách mức hình phạt tù tối đa và tối thiểu trong
khung hình phạt của BLHS năm 1999 hẹp hơn (8 năm) so với khoảng cách đó
trong khung hình phạt của BLHS năm 1985 (13 năm), khung hình phạt cao
17
nhất của BLHS năm 1999 thấp hơn (chung thân) so với khung hình phạt cao
nhất của BLHS năm 1985 (tử hình).
Tóm lại, theo tinh thần của Điều 138 BLHS năm 1999, tội phạm trộm
cắp tài sản được qui định rõ ràng hơn về giá trị tài sản (định lượng) so với
BLHS năm 1985. Tuy vậy, để điều tra làm rõ tội phạm trộm cắp tài sản và
truy tố người phạm tội đòi hỏi phải thận trọng hơn, bởi vì qui định của BLHS
năm 1999 chi tiết, bảo đảm yêu cầu cao hơn về cá thể hóa hành vi và cá thể
hóa hình phạt.
1.1.3. Đặc điểm của hành vi phạm tội trộm cắp tài sản tại nơi ở công dân
Chúng ta biết rằng, tội phạm trộm cắp có nhiều loại hành vi khác nhau
vì vậy cần phân loại để hiểu rõ hành vi cụ thể. Việc phân loại tội phạm trộm
cắp ở đây chúng tôi không phân loại theo khách thể bị xâm hại, mà phân theo:
Đối tượng bị chiếm đoạt; thời gian và địa điểm gây án. phương thức, thủ
đoạn.
Thứ nhất, căn cứ vào đối tượng bị chiếm đoạt. Do tội phạm trộm cắp
được thực hiện bằng hành vi lén lút, bí mật với động cơ, mục đích là chiếm
đoạt nên những tài sản mà bọn tội phạm chú ý là những tài sản quý hiếm có
giá trị, dễ tiêu thụ như: xe máy, tivi, đầu video, máy tính, tiền vàng đá quí, ngoại
tệ, các loại quần áo đắt tiền, đồ cổ... Vì vậy, có thể phân thành các loại như
trộm cắp xe máy, ôtô, trộm cắp tiền, vàng, đá quý, trộm cắp đồ dùng khác...
Thứ hai, theo địa điểm gây án, có thể chia ra các loại như: trộm cắp
nơi công cộng (bến tàu, bến xe, chợ...); trộm cắp trên phương tiện giao thông;
trộm cắp nơi ở của công dân...
Thứ ba, theo thời gian có trộm cắp ban đêm, ban ngày.
Thứ tư, theo phương thức thủ đoạn có các loại: móc túi, đột nhập, cậy
khóa, đào tường, khoét ngạch...
18
Theo cách phân loại như trên hành vi phạm tội trộm cắp tài sản tại nơi
ở công dân là một loại trong hành vi phạm tội trộm cắp tài sản nói chung, tuy
nhiên loại hành vi này có những nét đặc trưng riêng của nó.
- Đặc điểm nhà ở của công dân:
Qui định về nhà ở công dân, Điều 18 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam năm 1992 qui định:
"Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo qui hoạch và pháp
luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu
dài.
Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý,
sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được nhà nước giao theo
qui định của pháp luật." Điều 62 qui định: "Công dân có quyền xây dựng nhà ở
theo qui hoạch và pháp luật. Quyền lợi của người thuê nhà và người có nhà
cho thuê được bảo hộ theo pháp luật". Đó là những quyền về đất đai và nhà ở
của công dân đã được Hiến pháp qui định.
Còn đối với Luật Đất đai tại Điều 52, qui định:
"Đất khu dân cư nông thôn là đất được xác định chủ yếu để xây dựng
nhà ở và các công trình phục vụ cho sinh hoạt ở nông thôn.
Đất ở của mỗi hộ gia đình nông thôn bao gồm đất để làm nhà ở và các
công trình phục vụ cho đời sống của gia đình".
Tại Điều 55 Luật Đất đai qui định: "Đất đô thị là đất nội thành, nội thị
xã, thị trấn được sử dụng để xây dựng nhà ở, trụ sở các cơ quan, tổ chức, các cơ
sở sản xuất, kinh doanh, cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, quốc phòng,
an ninh và vào các mục đích khác". Hay tại Điều 57 Luật Đất đai qui định:
"Nhà nước có qui hoạch sử dụng đất để xây dựng nhà ở tại đô thị; có
chính sách tạo điều kiện để những người sống ở đô thị có chỗ ở.
19
Những nơi có qui hoạch giao đất làm nhà ở, thì Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương quyết định việc giao đất theo qui định của
Chính phủ".
Theo qui định của Hiến pháp và Luật Đất đai của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam thì nơi ở của công dân được qui định ở nông thôn khác với thành
phố. Ở nông thôn đất ở thường rộng hơn ở thành phố, thị xã, thị trấn, ở nông
thôn đất ở thường có vườn tược để làm các công trình phụ và tăng gia sản
xuất, chứa đựng các sản phẩm nông nghiệp... Còn thành phố, thị xã, thị trấn,
diện tích đất ở thường hẹp hơn và chủ yếu để xây nhà ở, phục vụ sinh hoạt
nghỉ ngơi.
Có thể đưa ra khái niệm nơi ở của công dân: Là diện tích đất được qui
hoạch xây dựng nhà, làm vườn của cá nhân, hộ gia đình do nhà nước cấp hoặc
mua để xây dựng nhà ở và diện tích vườn đi cùng với nó.
Như vậy nơi ở bao gồm: đất để làm nhà, đất vườn đi theo nhà, nằm
trên diện tích đất ở, trường hợp vườn đi cùng đất ở thường chỉ có ở nông thôn,
còn đô thị thường chỉ có đất cấp để xây biệt thự thì có vườn đi cùng.
Vườn đi cùng với đất ở phải nằm trên khuôn viên của đất ở chứ không
phải là đất dùng để làm vườn riêng biệt cách xa nhà ở.
Tóm lại, nơi ở của công dân bao gồm, nhà (nhà trên, nhà dưới hay nhà
ngang), sân, vườn (đi cùng nhà ở) như vậy phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại ở
những tài sản bị mất trong phạm vi nhà ở công dân. Còn tài sản bị mất ở
ngoài những nơi kể trên thì luận văn không đề cập chẳng hạn như: nơi ở đó
nằm trong doanh trại Quân đội, Công an, hay trong các cơ quan xí nghiệp...
- Đặc điểm về hành vi phạm tội trộm cắp nơi ở của công dân.
Trước hết phải thấy rằng đây cũng là hành vi phạm tội trộm cắp tài
sản nói chung, tức là người phạm tội cũng phải thực hiện hành vi một cách
lén lút, bí mật với chủ nhà và những người xung quanh, lấy đi những tài sản
có giá trị theo quy định của BLHS.
20
Tuy nhiên, nghiên cứu về loại hình phạm tội này cho thấy một số đặc
điểm riêng như sau:
+ Những tài sản mà đối tượng phạm tội muốn chiếm đoạt là những tài
sản thuộc sở hữu của chủ nhà, như tiền bạc do chủ nhà tích cóp được, cất giữ
trong nhà, những vật dụng là công cụ sản xuất hoặc vật nuôi như trâu, bò, lợn,
gà, máy móc phục vụ sản xuất, phương tiện xe máy, xe đạp để đi lại... Những
tài sản này tuy có giá trị bằng tiền không lớn lắm nhưng có ý nghĩa thiết thực
đối với đời sống lao động và sinh hoạt của gia đình. Tuy nhiên, cũng có
những trường hợp khi chủ nhân là chủ cửa hàng vàng bạc, đá quý hoặc chủ
nhà hàng, khách sạn lớn thì khối lượng tài sản cũng có giá trị lớn...
+ Đối tượng phạm tội thấy lợi dụng vào những thời điểm thuận lợi
như vào ban đêm hoặc khi người nhà và người xung quanh không có nhà hoặc
đang ngủ say để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản (đặc trưng của loại tội
phạm này)
+ Về thủ đoạn của loại tội phạm này cũng có những nét riêng so với
các hành vi trộm cắp khác, đó là dùng thủ đoạn đột nhập, mà thường gọi là
"đột vòm". Thủ đoạn này cho thấy bọn phạm tội muốn chiếm đoạt tài sản tại
nhà dân nào chúng thường phải chuẩn bị công phu.
1.2. Nhận thức về điều tra tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở công dân
1.2.1. Công tác phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở của
công dân
- Phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản nơi ở công dân là yêu cầu cấp
thiết khách quan. Trong lý luận tội phạm học cũng như quan điểm của Đảng,
Nhà nước ta thể hiện rõ; phòng ngừa tội phạm là phương hướng chính của
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Vận dụng quan điểm đó, trong đấu
tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản nơi ở công dân cũng phải luôn
chú ý tới công tác phòng ngừa ngăn chặn vì những lý do sau:
21
+ Tài sản bị chiếm đoạt tại nơi ở công dân là kết quả lao động của
người dân, là nguồn sống, phương tiện lao động, sinh hoạt do họ lao động mà
có được khi bị trộm cắp tài sản đó thì người dân bị mất đi nguồn tài sản hợp
pháp quý báu... nhất là khi bị trộm cắp thì rất khó tìm lại được...
+ Thực tế loại tội phạm này xảy ra nhiều, 1.054 vụ chiếm tỷ lệ 58,65%.
+ Thực tế cũng chứng minh khả năng có thể phòng ngừa ngăn chặn các
vụ phạm tội này xảy ra, khi nhà nước, công dân có ý thức phòng ngừa ngăn
chặn.
Vì vậy, chúng ta luôn phải có ý thức và kế hoạch phòng ngừa tội
phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở công dân.
- Nội dung công tác phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở
công dân.
Cũng như trộm cắp tài sản nói chung, công tác phòng ngừa tội phạm
trộm cắp tại nơi ở của công dân cũng cần được cơ quan Công an có các biện
pháp phòng ngừa hữu hiệu. Qua nghiên cứu các vụ án trộm cắp tài sản xảy ra
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang thì số vụ trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân
chiếm đa số(1.054/1.797=58,65%). Thiệt hại do chúng gây ra cũng lớn hơn.
Thủ đoạn hết sức tinh vi, phần lớn các vụ đối tượng có sự câu kết với nhau
thành băng ổ nhóm để hoạt động, có sự phân công vai trò của từng tên và có
sự chuẩn bị công cụ phương tiện để gây án như: xe, kìm điện, kìm cộng lực
đèn khò, bả chó, dây...
Đối với loại tội phạm này cần phải:
+ Nghiên cứu nắm vững nguyên nhân, điều kiện tội phạm trộm cắp tài
sản tại nơi ở của công dân. Tìm ra những qui luật hoạt động của tội phạm,
những băng ổ nhóm chuyên hoạt động gây án trên lĩnh vực này.
+ Tiến hành loại trừ, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện, bịt kín sơ hở
không để cho tội phạm lợi dụng gây án.
22
+ Bảo vệ nơi ở, tài sản của công dân. Giáo dục, phổ biến cho mọi người
dân về thủ đoạn, tính manh động của loại tội phạm này để từng người dân nêu
cao tinh thần cảnh giác, có ý thức tự bảo vệ tài sản.
- Biện pháp phòng ngừa.
+ Biện pháp phòng ngừa chung của các cơ quan nhà nước, chính
quyền địa phương, cần có các biện pháp xóa đói giảm nghèo, tuyên truyền
pháp luật, tạo công ăn việc làm cho mọi người dân đến tuổi lao động. Đề ra
các qui ước, hương ước của làng xã cũng như khối phố để góp phần quản lý
đối tượng.
+ Biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ của cơ quan Công an trước tiên
phải làm tốt công tác điều tra khám phá, truy tố kẻ phạm tội trước pháp luật,
tạo lòng tin trong nhân dân. Làm tốt công tác điều tra cơ bản tuyến, địa bàn
trọng điểm và công tác sưu tra rà soát quản lý đối tượng hình sự nhất là những
đối tượng có biểu hiện hoạt động trộm cắp. Quản lý những người làm nghề
kinh doanh đồ điện, xe máy cũ, cầm đồ.
+ Biện pháp phòng ngừa của công dân tại nơi ở như: xây nhà kiên cố,
xây tường rào bao quanh nhà, có khóa cổng. Đi ra khỏi nhà phải khóa cửa
bằng khóa chống cắt, cất gửi tài sản.
1.2.2. Điều tra vụ án trộm cắp tài sản xảy ra tại nơi ở của công dân
- Ý nghĩa quan trọng của điều tra làm rõ các vụ án đã xảy ra là đòi hỏi
cần thiết và chính đáng vì:
+ Lấy lại tài sản cho công dân...
+ Xử lý người phạm tội theo pháp luật...
+ Phòng ngừa, răn đe...
- Những vấn đề cần phải chứng minh vụ án trộm cắp tài sản nơi ở của
công dân, tại Điều 63 BLTTHS năm 2003.
23
+ Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những
tình tiết khác của hành vi phạm tội;
+ Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố
ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm
tội.
+ Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
+ Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
- Tuy nhiên, hoạt động điều tra các vụ phạm tội trộm cắp tại nơi ở của
công dân cũng có những khó khăn phức tạp như:
Thứ nhất, đối tượng gây án: đối với các vụ án trộm cắp tài sản trong
thực tế hiện nay được xác định là một loại án khó điều tra không riêng tỉnh
Bắc Giang mà là tình trạng chung của cả nước, số vụ hàng năm xảy ra nhiều,
đối tượng hoạt động tinh vi, hành vi lén lút bí mật, tang vật dễ tẩu tán tiêu thụ.
Thủ đoạn hoạt động tinh vi, thường cấu kết thành những băng ổ nhóm để hoạt
động, khi tiếp cận địa điểm gây án thường chúng tăm tia trước xác định được
mục tiêu mới lên kế hoạch gây án và phân công nhiệm vụ cho từng tên (trong
các vụ có sự cấu kết thành ổ nhóm). Do có sự chuẩn bị trước nên trong quá
trình đấu tranh khai thác điều tra viên cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ hai, thời gian gây án: vì tội phạm đột nhập vào nơi ở của công
dân nên thời gian gây án thường là ban đêm, ít có nhân chứng, hiện trường
thường hay bị xáo trộn, khó xác định chính xác thời gian mất, hướng đi đến
và hướng rút của đối tượng cũng khó xác định. Chính vì vậy, quá trình điều
tra loại án này hiện nay CQĐT gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ ba, địa bàn gây án: tội phạm thường tập trung vào những nhà
giàu, những gia đình có nhiều sơ hở trong khâu bảo vệ tài sản, song không nhất
thiết ở một địa bàn nào đó như cũng trộm cắp tài sản công dân địa bàn hoạt
động có thể xác định được ngay như: trộm cắp ở địa bàn bến xe, chợ, nhà ga...
24
còn trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân rất khó xác định đâu là địa bàn trọng
điểm tội phạm có thể sẽ hoạt động nhiều. Chính vì vậy, việc xác định địa bàn
để phòng ngừa, phục kích là rất khó, quá trình điều tra cũng gặp rất nhiều khó
khăn.
Như trên đã phân tích, điều tra loại án này khó khăn là chủ yếu, song
bên cạnh đó cũng có những thuận lợi nhất định như: Sự xuất hiện của đối
tượng ở hiện trường sẽ lâu hơn, thời gian gây án cũng lâu hơn (phải cạy, phá
cửa, hòm, tủ..) nên dễ bộc lộ những sơ hở, mặt khác trong quá trình điều tra
chính nạn nhân và gia đình nạn nhân cũng có thể là một lực lượng giúp
CQĐT trong quá trình truy tìm phát hiện tài sản và đối tượng gây án.
1.2.3. Thẩm quyền trách nhiệm hoạt động phòng ngừa, điều tra tội
phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân
Từ qui định của pháp luật và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội
phạm hình sự nói chung và tội phạm trộm cắp nói riêng, có thể nhận thấy
thẩm quyền trách nhiệm như sau:
- Về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm là sự nghiệp chung của
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân đối với tội phạm trộm cắp
tài sản tại nơi ở của công dân cũng thể hiện quan điểm trên.
Vì, quan điểm của Đảng ta - cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nên trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự không chỉ riêng cơ quan Công an
mà cần phải huy động sức mạnh của các lực lượng, tạo thành thế trận liên
hoàn mới đảm bảo được thành công.
- Trong công tác này cơ quan Công an là lực lượng nòng cốt xung kích,
bởi vì đây là lực lượng chính được đào tạo nghiệp vụ phòng ngừa, điều tra
khám phá loại tội phạm này.
- Về mặt chuyên môn, Bộ Công an giao cho lực lượng Cảnh sát điều
tra tội phạm về trật tự xã hội thực hiện chuyên trách công tác này như:
25
+ Tổ chức phối hợp phòng ngừa và tiến hành các hoạt động phòng ngừa
xã hội, phòng ngừa nghiệp vụ.
+ Tổ chức tiến hành điều tra các vụ án đã xảy ra, chứng minh tội phạm
đề xuất phương hướng xử lý kẻ phạm tội trước pháp luật.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trộm cắp tài sản nói chung và trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân
nói riêng là một trong những tội phạm thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt, có khả năng gây thiệt hại lớn cho sở hữu của công
dân. Thời gian qua, tội phạm này diễn biến rất phức tạp và có xu hướng gia
tăng cả số vụ và số đối tượng. Để nâng cao hiệu quả phát hiện, điều tra, khám
phá tội phạm này cũng như tìm ra những yếu tố chi phối kết quả điều tra, tác
giả của luận văn đã luận giải những vấn đề lý luận liên quan đến những nội
dung của luận văn.
Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã làm rõ được khái
niệm tội trộm cắp tài sản; đã phân tích các yếu tố cụ thể cấu thành tội trộm
cắp tài sản của công dân được quy định trong Điều 138 BLHS năm 1999 và
khái niệm nơi ở của công dân.
Luận văn cũng đã tìm hiểu các quan điểm khác nhau về việc phân chia
các giai đoạn điều tra. Từ đó đã phân tích các luận cứ xác định các giai đoạn
điều tra và đi sâu nghiên cứu giai đoạn điều tra nhằm xác định tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của công dân, xác định rõ
nhiệm vụ của giai đoạn điều tra này. Trên cơ sở đó, luận văn đã đi sâu phân
tích các tình huống điều tra tiêu biểu và chỉ dẫn cách lập kế hoạch điều tra với
hàng loạt các giả thuyết điều tra cho phù hợp với các tình huống đã nêu.
Đó là những vấn đề có ý nghĩa lý luận góp phần nâng cao hiểu biết và
nâng cao chất lượng công tác điều tra các vụ án trộm cắp tài sản của công dân
trong tình hình hiện nay.