Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Nâng cao hiệu quả tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.57 KB, 15 trang )

i

PHẦN MỞ ĐẦU
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu
vô cùng to lớn. Mức tăng trưởng của nền kinh tế luôn duy trì ở mức cao, mọi
mặt đời sống xã hội được cải thiện rõ rệt, từ một quốc gia trì trệ do hậu quả
của bao cấp, Việt Nam đã chuyển mình trở thành một trong những nền kinh
tế có tốc độ phát triển cao trong khu vực và trên thế giới. Cùng với xu hướng
toàn cầu hoá, tự do thương mại, Việt Nam quyết tâm xoá bỏ hoàn toàn tàn dư
của chế độ tập trung quan liêu bao cấp. Một minh chứng rõ rệt đó là việc Tổ
chức thương mại Thế giới (WTO) đã đồng thuận kết nạp Việt nam thành
thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức này vào ngày 07/11/2006. Việc trở
thành thành viên của WTO đã đưa Việt nam vào một giai đoạn phát triển
mới- giai đoạn mở cửa và cạnh tranh toàn diện, một sân chơi hoàn toàn bình
đẳng. Điều đó sẽ mang lại những thuận lợi và những khó khăn nhất định cho
các doanh nghiệp Việt nam trong đó có các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực Tài chính ngân hàng.
Xuất nhập khẩu là hoạt động tất yếu khách quan trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và phát triển đất nước. Trong lịch sử phát triển kinh tế
thế giới đã khẳng định: một đất nước muốn phát triển một cách nhanh chóng
bền vững ngoài việc phải khai thác tối đa tiềm năng trong nước, còn phải biết
tận dụng “tinh hoa” của khoa học kỹ thuật, của kinh tế thế giới, phát huy lợi
thế của kinh tế trong nước thông qua xuất nhập khẩu. Do khả năng tài chính
có hạn mà các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu không
phải lúc nào cũng có đủ tiền để thanh toán hàng xuất nhập khẩu hoặc có đủ
vốn để thu mua chế biến hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh quan hệ vay mượn
và sự giúp đỡ tài trợ của ngân hàng.


ii


Tín dụng xuất nhập khẩu: đây là một trong những chức năng quan
trọng nhất do các NHTM thực hiện liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh tế
đối ngoại. Tín dụng luôn được đánh giá là một trong các loại nghiệp vụ Ngân
hàng phức tạp và có độ rủi ro cao, đòi hỏi các cán bộ liên quan phải am hiểu
toàn diện mọi lĩnh vực, có đạo đức nghề nghiệp và phải tuân thủ cùng lúc
nhiều loại chính sách chế độ khác nhau. Hoạt động tín dụng tuy đưa lại mức
lợi nhuận cao song đồng thời cũng là loại hoạt động có độ rủi ro cao hơn so
với các loại hoạt động Ngân hàng khác. Ngân hàng TMCP Ngoại thương
đang trong quá trình chuyển đổi, hướng tới mô hình một NHTM đạt tiêu
chuẩn quốc tế, hiện đại và vững mạnh. Muốn vậy yêu cầu kiểm soát tốt rủi ro
phải đặt lên hàng đầu, trong đó tất nhiên bao gồm rủi ro tín dụng.
Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề đồng thời mong muốn học hỏi và
tìm hiểu những vấn đề mới, tôi đã lựa chọn đề tài: “ Nâng cao hiệu quả tín
dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt nam” cho
luận văn tốt nghiệp của mình.


iii

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động tín dụng của NHTM:
1.1.1. Khái niệm:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho
vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh
nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay
có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
hạn thanh toán.

1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát
triển, đóng vai trò tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất,
góp phần quan trọng vào quá trình tiết kiệm chi phí lưu thông của xã hội.
1.2. Vai trò của hoạt động XNK đối với nền kinh tế: .
Xuất nhập khẩu được coi là hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản, là
phương tiện để phát triển đất nước. Xuất nhập khẩu tạo công ăn việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân và mở rộng hợp tác quốc tế.
Nhu cầu và các nguồn tài trợ cho hoạt động XNK:
Trong nền kinh tế mở, các doanh nghiệp luôn phải đối đầu với sự cạnh
tranh gay gắt. Họ không chỉ phải cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước
mà còn phải cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Để chiến thắng trong cạnh
tranh, ngoài việc cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước (như sự ưu đãi về
thuế, sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái phù hợp…), các doanh nghiệp còn cần phải
có một tiềm lực tài chính mạnh để thực hiện các hoạt động như đổi mới dây


iv

chuyền công nghệ, mua sắm máy móc hiện đại, mua sắm nguyên vật liệu, cải
tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành…
Song trên thực tế do khả năng tài chính có hạn nên hầu hết các doanh
nghiệp đều cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài.Nhu cầu tài trợ cho hoạt động xuất
nhập khẩu nảy sinh từ những đòi hỏi đó và nó gắn liền với các giai đoạn của
hoạt động này.
Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động kinh tế cơ
bản, do vậy nó cũng được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau
1.3. Hoạt động tín dụng XNK của NHTM:
1.3.1 Khái niệm:
“ Tín dụng là một quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển nhượng tạm

thời một lượng giá trị (hình thái tiền tệ hay hiện vật) từ người sở hữu sang
người sử dụng để sau một thời gian thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng
giá trị ban đầu với những điều kiện hai bên thoả thuận với nhau”.
1.3.2. Sự ra đời và phát triển tín dụng XNK:
Có thể nói sự ra đời của tín dụng xuất nhập khẩu là một yêu cầu tất yếu
khách quan, gắn liền với các quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước
với nhau.
Tín dụng xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của ngoại thương cũng như đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Thương mại quốc tế bao gồm những mối quan hệ rất đa dạng, phức tạp.
Với tư cách là trung gian tài chính, ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo cho hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra liên tục nhanh chóng,
Quan hệ giao thương quốc tế đặt ra những vấn đề tế nhị, đôi khi phức
tạp, nên những nghiệp vụ thương mại đòi hỏi sự tham gia của ngân hàng,
ngân hàng đem lại cho các nhà hoạt động ngoại thương sự hiểu biết về kỹ
thuật và chỗ dựa tài chính trong lĩnh vực quan trọng này.


v

Có thể nói sự ra đời của tín dụng xuất nhập khẩu là một yêu cầu tất yếu
khách quan, gắn liền với các quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước
với nhau.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng bao giờ cũng chứa đựng rất nhiều rủi
ro, đặc biệt hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu thì không chỉ chứa đựng trong
nó các loại rủi ro tín dụng thông thường mà còn tiềm ẩn nhiều rủi ro liên quan
đến hoạt động xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ.


vi


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XNK TẠI
NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu chung về ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

Ngân hàng ngoại thương Việt nam (NHNT VN) được thành lập theo
Quyết định số 115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 30 tháng 10
năm 1962 trên cơ sở tách ra từ cục Quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân
hàng Trung ương (nay là Ngân hàng Nhà nước Việt nam). Theo quyết
định nói trên, NHNT VN đóng vai trò là ngân hàng chuyên doanh đầu tiên
và duy nhất của Việt Nam tại thời điểm đó, hoạt động trong lĩnh vực kinh
tế đối ngoại bao gồm cho vay tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ kinh
tế đối ngoại khác (vận tải, bảo hiểm…), thanh toán quốc tế, kinh doanh
ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ gửi tại các NHNNg, làm đại lý cho Chính
phủ trong các quan hệ thanh toán, vay nợ, viện trợ với các nước xã hội
chủ nghĩa… Ngoài ra, NHNT VN còn tham mưu cho Ban lãnh đạo NHNN
về các chính sách quản lý ngoại tệ, vàng bạc, quản lý quỹ ngoại tệ của
Nhà nước và về quan hệ với Ngân hàng Trung ương các nước, các tổ chức
tài chính tiền tệ quốc tế. Ngày 01 tháng 04 năm 1963 là ngày thành lập
chính thức của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Ngày 21 tháng 09
năm 1996, Thống đốc NHNN ký quyết định số 286/QĐ- NH5 thành lập
lại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam theo mô hình Tổng công ty Nhà
nước theo quy định tại Quyết định số90/Ttg ngày 07 tháng 03 năm 1994
theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ


vii

2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại NH TMCP NTVN

từ năm 2006 đến nay.
2.2.1 Tình hình hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại NHNT Việt Nam.
Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Vietcombank diễn ra
ngày càng sôi nổi và đa dạng. Để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn trong
hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp, ngân hàng đã tiến hành
nhiều biện pháp cải tiến và đa dạng hoá các hình thức tài trợ.
Hiện nay Vietcombank là một trong những ngân hàng đứng đầu trong
lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu và lĩnh vực này cũng là hoạt động mang lại
rất nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
tại ngân hàng được thực hiện qua hai hình thức cơ bản, đó là: cho vay tài trợ
xuất nhập khẩu và bảo lãnh tài trợ xuất nhập khẩu.
2.2.2 Đánh giá hoạt động tín dụng XNK của NHTMCP NT Việt Nam
Dư nợ cho vay XNK tăng trưởng mạnh, chất lượng tín dụng được cải thiện
đáng kể ,cơ cấu cho vay XNK theo thời gian và thành phần kinh tế thay đổi
theo hướng tích cực, phương thức cho vay được đa dạng hoá tạo thuận tiện
cho khách hàng, hoạt động thanh toán quốc tế đạt chất lượng cao.
2.2.3 Những tồn tại và nguyên nhân:
Tồn tại: Cho vay xuất khẩu còn chiếm tỷ trọng thấp, tỷ lệ cho vay bằng
ngoại tệ quá cao so với nội tệ, dư nợ cho vay các công ty lớn còn chiếm tỷ lệ
cao, các hình thức tín dụng XNK còn nghèo nàn, hoạt động cho vay cũng như
thanh toán quốc tế còn thiếu chủ động do thiếu thông tin, cơ chế vay trả nợ
còn nhiều hạn chế, cán bộ tín dụng còn thiếu mạnh dạn và e ngại trong việc
cho vay.
Một số nguyên nhân
Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh, một số quy định còn thiếu hợp lý,
các doanh nghiệp XNK hoạt động còn kém hiệu quả, mô hình tổ chức tín


viii


dụng phục vụ khách hàng chưa khoa học, các nội dung quản lý rủi ro tín
dụng chưa đầy đủ, trình độ cán bộ hạn chế, công tác khách hàng còn kém
hiệu quả.
Đối với ngân hàng, do chưa thế áp dụng được cơ chế tín dụng XNK có
tính đặc thù, mặc nhiên ngân hàng không thể huy động vốn lãi suất thị
trường để cho vay XNK lãi suất ưu đãi hoặc cấp tín dụng cho các đối tượng
có nhiều rủi ro mà không có chế tài bảo hiểm. Thông tin về thị trường còn
nhiều yếu kém trong khâu thu thập, phân tích và xử lý và thông tin về khách
hàng còn nhiều hạn chế do các số liệu báo cáo không được kiểm toán công
khai nên các đánh giá khó chính xác.


ix

CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ
TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NHTMCP NT
VIỆT NAM
3.1. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHUNG:
Trong suốt quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức
được vai trò quan trọng của XNK trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân.
Chính vì vậy, trong các chiến lược phát triển của mình, Đảng và Nhà nước
luôn đưa những biện pháp, chính sách đẩy mạnh hoạt động XNK đặc biệt là
xuất khẩu nhằm làm cho nền kinh tế nước ta phát triển một cách bền vững và
toàn diện.
Trước hết nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành
phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch
vụ. Nhà nước xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là với hàng nông sản,
khuyến khích sử dụng hàng hoá thiết bị sản xuất trong nước. Tăng nhanh kim
ngạch xuất khẩu tiến tới cân bằng với nhập khẩu. Thực hiện chính sách bảo

hộ có lựa chọn, có thời hạn đối với các sản phẩm sản xuất trong nước. Phát
triển du lịch quốc tế, xuất khẩu lao động và các dịch vụ thu ngoại tệ khác.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIETCOMBANK
Qua thực trạng nghiệp vụ tín dụng XNK tại HSC- NHNT Việt Nam
năm 2008 ta thấy, bên cạnh những thành tựu đáng mừng vẫn còn những tồn
tại chưa được giải quyết. Vì vậy, Vietcombank cần phải thực hiện một số giải
pháp để khắc phục những tồn tại kể trên, nâng cao hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng.
3.2.1 Các giải pháp về nghiệp vụ tín dụng:


x

Ngân hàng cần phải đổi mới qui trình nghiệp vụ, đa dạng hoá các hình
thức tín dụng xuất nhập khẩu, tăng cường biện pháp phòng ngừa rủi ro, nâng
cao chất lượng thẩm định tín dụng dự án, mở rộng cho vay đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp hoạt động trong khu chế xuất.
3.2.2 Các giải pháp cơ bản trong quản trị điều hành
Ngân hàng cần hoàn thiện hệ thống văn bản chế độ quản lý điều hành,
các hướng dẫn nghiệp vụ, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi cấp
tín dụng, tăng cường và đổi mới công tác khách hàng, đẩy mạnh công tác
tuyên truyền quảng cáo, đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, xây dựng chiến lược tín dụng tài trợ XNK theo hướng ưu tiên
xuất khẩu và CNH- HĐH.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Kiến nghị với NH TMCP NT Việt nam
Cần tăng cường hơn nữa công tác thanh tra trong toàn hệ thống, các chi
nhánh phối hợp với các ban ngành liên quan tại các địa phương như: UBND
địa phương, địa chính, xây dựng, tài chính, thuế… để tiến hành định giá trước

khi bán tài sản, nhằm tránh thiệt thòi trong việc phát mại tài sản thế chấp để
thu hồi nợ vay, cũng như vấn đề tranh chấp về giá cả phát mại tài sản.
Cần có những sửa đổi về thủ tục vay vốn để tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng, thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng.
Tăng cường chất lượng và hiệu quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát.
Công việc cần được tiến hành theo hướng tổ chức lại bộ máy và hoạt động
của Ban kiểm soát HĐQT và phòng kiểm tả nội bộ TW. Kết hợp việc kiểm
tra, kiểm soát nội bộ với kiểm toán các hoạt động ngân hàng. Coi trọng việc
kiểm tra, giám sát từ xa bằng cách tạo ra các thông tin cảnh báo để ngăn chặn
sớm các sự cố gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động của Vietcombank.
Kiến nghị với NHNN và các Bộ, ngành liên quan


xi

Thực hiện chính sách tỷ giá có khuyến khích xuất khẩu
Tỷ giá là một nhân tố có tác động to lớn tới quan hệ thương mại quốc
tế, XNK hàng hoá, dịch vụ của một nước với nước khác. Tỷ giá có tác động
như một công cụ cạnh tranh trong thương mại giữa các nước, ảnh hưởng
mạnh mẽ tới giá cả, tới mọi hoạt động kinh tế- xã hội của nước đó và các
nước có liên quan. Vì vậy, NHNN cần phải có chính sách tỷ giá linh hoạt, đặt
trọng tâm vào ổn định kinh tế vĩ mô.
Kiềm chế tiến tới đẩy lùi hiện tượng đôla hoá
Trước hết phải giữ vững ổn định giá trị VNĐ ở mức lạm phát thấp với thời
gian dài, gây long tin của dân chúng và của các doanh nghiệp vào VNĐ. Cần
dùng phương pháp kích thích lợi ích để điều chỉnh vấn đề này.
 Áp dụng cơ chế lãi suất tiền gửi VNĐ cao hơn lãi suất tiền gửi USD
để thu hút dân chúng tích luỹ và gửi vào ngân hàng tiền VNĐ.
 Lãi suất tiền gửi USD phải hạ thấp dần dần cho đến khi bằng 0 để
hướng những người có USD bán cho ngân hàng rồi gửi vào ngân hàng bằng

VNĐ (kể cả các nhà xuất khẩu), những người có USD trước đó đã gửi vào
ngân hàng thì vẫn được hưởng lãi suất cũ cho đến khi hết hạn.
Khắc phục tình trạng thiếu vốn nội tệ cho vay nền kinh tế
Ngân hàng Trung ương cần thực hiện giải pháp tình thế, khắc phục tình
trạng thiếu vốn VNĐ cho vay nền kinh tế hiện nay của các ngân hàng và hạ
thấp tỷ giá gia tăng trong thực hiện mua bán ngoại tệ theo nghiệp vụ hoá đổi
(Swap) cho phù hợp và không làm nản long các ngân hang trong nỗ lực cố
gắng nhận vốn nội tệ của ngân hàng trung ương để cho vay nền kinh tế.
Kiến nghị với Chính phủ
Hoàn thiện môi trường pháp lý ổn định đồng bộ và nhất quán.
Trách nhiệm về hành chính và kinh tế cần được qui định rõ ràng đối với
các cơ quan, cá nhân ban hành văn bản, ra quyết định như quyết định thành


xii

lập doanh nghiệp, cấp giấy phép kinh doanh, thẩm định phê duyệt các dự án
đầu tư ký xét duyệt các hồ sơ đề nghị bảo lãnh vay vốn, cấp vốn…
Hoàn thiện quản lý Nhà nước về thị trường và thương mại cho đồng bộ
với chiến lược phát triển và kế hoạch của nền kinh tế.
Bắt đầu từ việc điều tiết cấp hạn ngạch hàng hóa XNK, hạn chế tối đa
việc cấp hạn ngạch và xoá bỏ dần cơ chế đầu mối XNK. Hiện nay, chúng ta
đang có các đầu mối xuất khẩu gạo, nhập khẩu xăng dầu. Nhà nước quản lý
được các mặt hàng thuộc cân đối lớn của nền kinh tế nhưng mặt trái của hạn
ngạch là duy trì cơ chế “xin, cho” tạo khe hở cho tham nhũng và tiêu cực phát
sinh ngay trong bản thân cơ chế quản lý đồng thời không phù hợp với tập
quán thương mại quốc tế.
Chính phủ cần có chính sách trợ giá và thiết lập một Công ty Bảo hiểm
XNK riêng trực thuộc Chính phủ
Có thể nói một số mặt hàng xuất khẩu của ta hiện nay chịu thua thiệt

nhiều do thiếu vốn và cơ chế chính sách, đặc biệt là mặt hàng nông sản như:
gạo, cà phê, hạt điều… Những dự án nhập khẩu thiết bị đòi hỏi phải được đầu
tư đồng bộ tránh tình trạng như nhiều dự án do Vietcombank cho vay đều
chậm tiến độ thi công, các nguồn đầu vào (nguyên liệu, nhân lực, cán bộ
chuyên gia lành nghề) chưa được quy hoạch hợp lí trong khi hạn vay của các
khoản tín dụng trong nước đã hết hạn, gây khó khăn cho ngân hàng.
Cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính đối với các hoạt động xuất
nhập khẩu
Đơn giản hoá các thủ tục hành chính đối với hoạt động xuất nhập khẩu
sẽ giúp cho hoạt động này diễn ra nhanh chóng, thuận tiện, là động lực thúc
đẩy hạot động xuất nhập khẩu phát triển. Đơn giản hoá thủ tục hành chính
như đơn giản hoá thủ tục hải quan; thực hiện đúng tiến độ về giảm thuế trong
khuôn khổ giảm thuế của khối AFTA; thành lập các trung tâm xúc tiến


xiii

thương mại để cung cấp các thông tin về thị trường XNK, các đối tác thương
mại… tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập
khẩu nhằm tăng kim ngạch của cả nước.
Không luật hoá các loại hình bảo đảm tiền vay của NHTM nhưng phải
nâng cao tính pháp lý của các hợp đồng tín dụng.
Việc ngân hàng cho vay có thế chấp cầm cố hay không là do hai bên
thoả thuận trong hợp đồng, nếu vi phạm sẽ do toà án kinh tế xử. Ngân hàng
sẽ không phải chịu sự rang buộc của những qui định về thế chấp cầm cố và
như vậy ngân hàng sẽ chủ động hơn trong hoạt động tín dụng của mình.
Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị đưa ra để hoàn thiện nghiệp
vụ tín dụng XNK tại NHTMCP Ngoại thương Việt nam. Những biện pháp và
kiến nghị này có thể áp dụng không chỉ đối với NHNT mà còn với các NHTM
khác. Với những biện pháp trên, cùng với sự quan tâm phối hợp đồng bộ của

các Bộ, ngành, cơ quan có liên quan, hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại
NHNT nói riêng và các NHTM nói chung sẽ trở nên hiệu quả hơn.


xiv

KẾT LUẬN
Nhờ những cuộc cải cách mạnh mẽ, nền kinh tế nước ta đã có sự ổn
định và đang trên đà phát triển. Cơ hội để Việt nam phát triển nhanh được các
chuyên gia đánh giá là lạc quan. Để làm được việc này cần phải có những
thay đổi lớn trong cơ cấu của nền kinh tế và các lĩnh vực liên quan.
Trong quá trình chuyển đổi để hội nhập, hoạt động XNK đóng vai trò
đáng kể. Hoạt động XNK mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm nội
địa đem lại ngoại tệ cho đất nước và tạo khả năng cho việc tài trợ những hoạt
động nhập khẩu quan trọng mà đất nước không phải vay nợ thêm ở nước
ngoài. Bằng cách đó, nó cũng đảm bảo một phần tự chủ của quốc gia.
Dù bất cứ khi nào doanh nghiệp tham gia hoạt động XNK, các NHTM
cũng có vai trò hết sức quan trọng. NHTM góp phần thúc đẩy sự phát triển
của hoạt động XNK. Để đáp ứng nhu cầu phát triển XNk đòi hỏi các NHTM
tham gia vào quá trình này một cách tích cực và hữu hiệu. NHTM tài trợ cho
các doanh nghiệpvà cung ứng các dịch vụ thanh toán, đảm bảo cho hoạt động
XNK được thông suốt, đảm bảo an toàn, hiệu quả cho hoạt động này. Tài trợ
XNK là chức năng quan trọng nhất do các NHTM thực hiện, liên quan trực
tiếp đến hoạt động kinh tế đối ngoại.
Nâng cao hiệu quả nghiệp vụ tín dụng XNK là vấn đề luôn cần sự quan
tâm của những người quản lý ngân hàng cũng như những nhà hoạch định
chính sách cho nền kinh tế. Nó ảnh hưởng một cách trực tiếp đến năng lực
cạnh tranh; tiềm lực tài chính và sự lành mạnh về tài chính của các NHTM.
Đối với các NHTM Việt nam nói chung và NHNT nói riêng, việc thực hiện
nghiệp vụ này còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được hết khả năng thực có

của ngân hàng cũng như chưa đáp ứng thoả đáng nhu cầu của các doanh
nghiệpXNK. Trong những năm qua, Vietcombank đã có rất nhiều nỗ lực để


xv

đứng vững trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nâng cao vị thế cạnh
tranh của mình. Tuy nhiên, NHNT không thể đứng vững nếu không tìm mọi
cách để hoàn thiện hơn nữa các hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là
hoạt động tín dụng XNk, một cơ hội và thách thức do hội nhập đem lại.
Trước những yêu cầu thực tế khách quan, cùng với việc áp dụng các
biện pháp nghiên cứu linh hoạt, tác giả đã thực hiện các mục tiêu nghiên cứu
đề ra:
- Thứ nhất, khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động tín
dụng XNK của NHTM.
- Thứ hai, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng XNK tại NHTMCP
Ngoại thương Việt nam.
-

Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng XNK tại
NHTMCP Ngoại thương Việt nam.

Với một số giải pháp được đề xuất trong luận văn, tác giả hy vọng sẽ
góp một phần nhỏ bé để phát triển hơn nữa hoạt động tín dụng XNK tại
NHNT Việt nam. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các nhà khoa học,
các chuyên gia cùng toàn thể bạn đọc để có thể hoàn thiện hơn đề tài nghiên
cứu của mình.
Xin chân thành cám ơn!




×