Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Nghiên cứu thống kê đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 24 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển bền vững không chỉ đơn thuần là quá trình phát triển kinh tế, là
sự gia tăng về quy mô sản lượng mà còn là phát triển mang tính bền vững, đảm
bảo sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế, xã hội và sự cân bằng của môi trường sinh thái.
Hiện nay, phát triển bền vững là một trong những nhiệm vụ quan trọng
nhất của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Để có thể giám sát
tình hình phát triển của đất nước, Việt nam đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu
thống kê phát triển bền vững với những mục tiêu cụ thể. Tuy nhiên, các chỉ
tiêu trong bộ chỉ tiêu này có thể có sự biến động ngược chiều nhau. Có những
chỉ tiêu phát triển tốt theo thời gian, bên cạnh đó, một số chỉ tiêu chuyển biến
xấu, tác động tiêu cực tới quá trình phát triển. Điều đó gây khó khăn trong
đánh giá và phân tích xu hướng phát triển bền vững. Đã có nhữngtổ chức, cá
nhân quan tâm, nghiên cứu phương pháp xây dựng chỉ số tổng hợp đánh giá
phát triển bền vững để có cái nhìn tổng quát về vấn đề này. Mặc dù vậy, cho
đến nay vẫn chưa có hệ thống đánh giá nào được đề xuất cụ thể và áp dụng trên
thực tiễn. Từ đó, tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu "Nghiên cứu thống kê
đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam", đề xuất phương pháp tính chỉ số
tổng hợp phát triển bền vững rõ ràng, cụ thể và khả thi. Từ đó, tác giả sử dụng
dữ liệu sẵn có của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 để tính toán thử nghiệm.
Đề tài này sẽ góp phần trả lời cho câu hỏi quản lý "Làm thế nào để đánh giá
thực trạng phát triển bền vững ở Việt Nam?" và “Thực tế phát triển bền vững ở
Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 như thế nào?”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chung của luận án là xây dựng phương pháp tính chỉ số tổng
hợp phát triển bền vững để có thể vận dụng đánh giá thực trạng phát triển ở Việt
Nam. Cụ thể, nghiên cứu sẽ:
- Hệ thống hóa và làm rõ các nội dung liên quan tới phát triển bền vững,
hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững


- Đề xuất phương pháp tính các chỉ số riêng biệt, chỉ số thành phần, chỉ
số tổng hợp đánh giá phát triển bền vững trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu đã có ở
Việt Nam


2

- Tính toán thử nghiệm chỉ số tổng hợp phát triển bền vững ở Việt Nam
giai đoạn 2001 – 2010
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là phát triển bền vững.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận án tổng hợp số liệu, tính toán và phân tích chỉ số tổng hợp phát
triển bền vững trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam
+ Thời gian nghiên cứu: giai đoạn 10 năm, từ 2001 đến 2010, phù hợp với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm của Việt nam.
Về phương pháp nghiên cứu, luận án dự kiến sẽ sử dụng một số phương
pháp thống kê sau:
- Phương pháp phân tích tư liệu. Đây là một trong các phương pháp thu
thập thông tin trong điều tra xã hội học. Dựa trên các tài liệu đã có về phát triển
bền vững cũng như cách tính các chỉ số tổng hợp, tác giả đưa ra cái nhìn tổng
quát về đối tượng nghiên cứu, làm cơ sở thực hiện các đánh giá sau này.
- Phương pháp bảng, đồ thị thống kê: tổng hợp và biểu diễn số liệu các chỉ
tiêu thống kê phát triển bền vững theo thời gian.
4. Những đóng góp mới của luận án
Thông qua nghiên cứu của mình, tác giả đã có một số đóng góp tri thức
mới về mặt lý luận và thực tiễn hoạt động thống kê. Cụ thể :
Thứ nhất, đề tài xây dựng phương pháp tính chỉ số tổng hợp đánh giá phát
triển bền vững ở Việt Nam. Trong đó nêu rõ cách thức tính từ chỉ số riêng biệt,
chỉ số thành phần tới chỉ số tổng hợp, xác định rõ các cận trên, cận dưới của

từng chỉ số... Đây sẽ là một đóng góp mới, tích cực về mặt lý luận cho các
nghiên cứu đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam trong tương lai.
Thứ hai, về mặt thực tiễn, đề tài đưa ra các phân tích, đánh giá tính bền
vững trong phát triển của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. Tác giả sử dụng số
liệu thực tế của Việt Nam và công thức tính chỉ số tổng hợp vừa nêu để đi vào
tính toán thử nghiệm, phân tích thực trạng phát triển bền vững của Việt Nam
trong 10 năm qua.
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đưa ra phương
pháp tổng hợp, đánh giá và so sánh tính bền vững trong quá trình phát triển của


3

đất nước. Ngoài ra, đề tài cũng mở ra hướng nghiên cứu tiếp về việc hoàn thiện
hơn nữa hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững đã có cũng như lựa chọn
phương pháp đánh giá cụ thể trong giai đoạn phát triển mười năm tới.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu đề cập đến sự cần thiết, mục tiêu, đối tượng và phạm
vi nghiên cứu, nội dung chính của đề tàiđược chia làm 3chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về phát triển bền vững
Chương 2: Xây dựng phương pháp tính chỉ số tổng hợp đánh giá phát
triển bền vững ở Việt Nam
Chương 3: Tính toán thử nghiệm và phân tích biến động chỉ số tổng hợp
phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010


4

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀPHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1.Khái niệm phát triển và phát triển bền vững

1.1.1.Khái niệm phát triển
Phát triển là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản, tài
liệu và trong sinh hoạt hàng ngày. Theo các giai đoạn phát triển khác nhau của
lịch sử, các nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới đưa ra nhiều khái niệm khác
nhau về phát triển.
Cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người, khái niệm phát triển
đã dần được hoàn thiện. Hiện nay, về cơ bản, khái niệm phát triển vẫn giữ
nguyên nội dung của thập niên trước nhưng trong đó nhấn mạnh hơn quyền của
con người. Phát triển kinh tế bao hàm tăng trưởng về kinh tế, tiến bộ về cơ cấu
kinh tế và sự tiến bộ về xã hội.
1.1.2.Khái niệm phát triển bền vững
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong
ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên
nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản:
"Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà
còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi
trường sinh thái học" [41, tr.18-19].
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo
Brundtland (còn gọi là báo cáo Tương lai chung của chúng ta) của Ủy ban Môi
trường và Phát triển Thế giới(WCED) thuộc Liên hiệp quốc. Báo cáo này ghi rõ
"phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại
mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế
hệ tương lai" [42, tr.37].
Phát triển bền vững được biết đến ở Việt Nam vào khoảng cuối thập niên
80 đầu thập niên 90. Trên cơ sở những khái niệm trên và từ sự phát triển thực tế
của đất nước, các nhà nghiên cứu kinh tế của Việt Nam đã đưa ra khái niệm về
phát triển bền vững là cơ sở để thực hiện những mục tiêu phát triển của đất
nước. Đó là sự phát triển lành mạnh, trong đó sự phát triển của cá nhân này
không làm thiệt hại đến lợi ích của các cá nhân khác, sự phát triển của cá nhân
không làm thiệt hại đến lợi ích của cộng đồng, sự phát triển của cộng đồng



5

người này không làm thiệt hại đến lợi ích của cộng đồng người khác, sự phát
triển của thế hệ hôm nay không xâm phạm đến lợi ích của các thế hệ mai sau và
sự phát triển của loài người không đe doạ sự sống còn hay làm suy giảm nơi
sinh sống của các sinh vật khác trên hành tinh.
1.2.Sự cần thiết phải thực hiện phát triển bền vững
Mọi người trên trái đất này luôn mong muốn hoàn thiện hơn cuộc sống
của mình để tạo nên những phát triển thần kỳ chưa từng có. Nhưng trái đất của
chúng ta với các điều kiện tự nhiên lại không thể đáp ứng được những mong
muốn vô hạn ấy của con người. Các nguồn tài nguyên chỉ là hữu hạn nên có thể
cạn kiện dần, điều kiện thiên nhiên có thể khắc nghiệt hơn... Điều này tạo nên
mâu thuẫn gay gắt, đòi hỏi vừa phải phát triển, vừa phải duy trì sự hài hoà giữa
con người với môi trường sống của mình. Do vậy, thực hiện phát triển bền vững
được coi như là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của mỗi quốc gia. Các tổ chức và
các quốc gia tuỳ theo những mục tiêu khác nhau mà đưa ra sự cần thiết phải phát
triển bền vững và các nội dung khác nhau về phát triển bền vững.
Ở Việt Nam, vấn đề phát triển bền vững đã được thể hiện rõ ràng, chi tiết
trong các Văn kiện chính trị, đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng Cộng
sản toàn quốc lần thứ IX đã nêu rõ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2001 - 2010: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”; “Phát triển kinh
tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa
môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học” [36].
Với giai đoạn 10 năm tiếp theo, từ 2011 - 2020, phát triển bền vững là yêu cầu
xuyên suốt trong Chiến lược kinh tế - xã hội mà Đại hội đại biểu lần thứ XI của
Đảng cộng sản Việt Nam đề ra: "Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển
nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển

nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và
chính sách phát triển kinh tế-xã hội" [38].
1.3.Nội dung của phát triển bền vững
1.3.1.Nội dung phát triển bền vững theo một số tổ chức quốc tế
Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển (Rio de Janero
6/1992) và diễn đàn thanh niên ASEM thống nhất phát triển bền vững gồm bốn
nội dung: kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế. Thể chế của mỗi quốc gia là cơ


6

sở lập các kế hoạch, chính sách, đề ra các mục tiêu hướng tới cũng như phổ
biến hành động cho toàn dân. Chính vì vậy, hai tổ chức này đã đưa thể chế là
một nội dung ngang hàng với ba yếu tố chính tạo nên phát triển bền vững (kinh
tế, xã hội và môi trường).
Theo quan điểm khác, hai nhà môi trường học Canada là Jacobs và Sadler
tiếp cận phát triển bền vững theo bản chất của nó là sự phát triển có tính tổng
hợp và tính hệ thống. Theo mối quan hệ không tách rời nhau giữa ba nhân tố
kinh tế, xã hội và môi trường, Jacobs và Sadler đưa ra nội dung của phát triển
bền vững là ba đỉnh của một tam giác: môi trường, kinh tế và xã hội; trong đó,
môi trường được đặt lên hàng đầu và nhân tố thể chế được gộp trong xã hội. Mô
hình này đã được Mohan Munasingle, chuyên gia của Ngân hàng thế giới (WB)
phát triển thành sơ đồ ba cực.
Quan điểm này hiện nay được áp dụng phổ biến trên toàn thế giới. Đó là
sự kết hợp của ba nhân tố với sức mạnh tổng hợp để tạo nên được sự ổn định,
bền vững của mỗi quốc gia.
1.3.2. Việt Nam
Năm 2004, Việt Nam đã xây dựng được cho mình chương trình phát triển
bền vững riêng, mang tên AGENDA-21. Trong đó, Việt Nam nêu rõ mục tiêu
tổng quát của phát triển bền vững là “đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có

về văn hoá và tinh thần, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã
hội, sự hài hoà giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp
lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường”. Từ đó, nội dung phát triển bền vững gồm ba nhân tố cụ thể: về kinh tế,
xã hội và môi trường.
1.4.Hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững
1.4.1.Một số vấn đê chung về hệ thống chỉ tiêu thống kê
Hệ thống chỉ tiêu là một tập hợp nhiều chỉ tiêu nhưng không phải là các
chỉ tiêu bất kỳ nào đó mà là một tập hợp có tính hệ thống nhằm phản ánh hai nội
dung lớn: về các mặt, các tính chất quan trọng nhất của tổng thể và về mối liên
hệ cơ bản giữa các mặt trong tổng thể cũng như giữa tổng thể nghiên cứu và
hiện tượng có liên quan (trong phạm vi mục đích nghiên cứu).


7

Để có được hệ thống chỉ tiêu thống kê phù hợp, có thể sử dụng để đánh
giá tình hình phát triển thực tế, hệ thống chỉ tiêu cần đáp ứng bốn yêu cầu: mục
đích nghiên cứu, đặc điểm phản ánh, tính khả thi và số lượng chỉ tiêu.
Dựa vào các yêu cầu này, luận án sẽ đánh giá tính hợp lý, khả thi của hệ
thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững áp dụng vào Việt Nam sau này.
1.4.2.Các nghiên cứu về hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững trên
thế giới
Bắt đầu vào năm 1995, đáp ứng yêu cầu của Hội đồng phát triển bền vững
của Liên hợp quốc (UN CSD), Ủy ban kinh tế và các vấn đề xã hội Liên hợp quốc
hợp tác với các chuyên gia từ các tổ chức quốc tế và các thành viên khác đã xây
dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê gồm 134 chỉ tiêu quốc gia về phát triển bền vững.
Năm 2001, UN CSD đã đưa ra hệ thống chỉ tiêu khuyến nghị gồm 15 chủ
đề chính, 38 chủ đề nhánh và 58 chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu này được sửa đổi
một lần nữa vào năm 2006, là cơ sở để các quốc gia xây dựng hệ thống chỉ tiêu

phát triển bền vững cho riêng mình.
Các tổ chức khác của Liên hợp quốc cũng như các tổ chức xã hội và phi
chính phủ cũng nghiên cứu và giới thiệu các chỉ số quốc gia như chỉ số phát
triển con người, chỉ số Dấu chân sinh thái...
Nhiều quốc gia cũng đưa ra các chiến lược phát triển bền vững
AGENDA-21 cùng hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững với số lượng
và nội dung khác nhau: Indonesia (21 chỉ tiêu), Trung Quốc (80 chỉ tiêu), Anh
(15 chỉ tiêu), Mỹ (32 chỉ tiêu)...

1.4.3.Các nghiên cứu vềhệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững ở
Việt Nam
Theo xu hướng thế giới, Việt Nam đã nghiên cứu để xây dựng hệ thống
chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững cho riêng mình. Quá trình này được các
Bộ, ban, ngành và các tổ chức rất quan tâm. Kết quả là có nhiều hệ thống chỉ
tiêu được đưa ra. Theo thời gian, hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững
dần được hoàn thiện và đi vào thực tế. Với mong muốn có được hệ thống chỉ
tiêu thống kê thống nhất, ngày 12/4/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định 432/QĐ-TTg năm 2012 phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Theo đó, hệ thống chỉ tiêu giám sát và đánh
giá phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đưa ra gồm 30 chỉ tiêu
với nguồn số liệu và lộ trình thực hiện, cụ thể ở bảng 1.1.


8

Bảng 1.1. Hệ thống chỉ tiêu thống kê giám sát và đánh giá
phát triển bền vững của Việt Nam
TT

Chỉ tiêu


Cơ quan
chịu trách nhiệm
thu thập, tổng hợp

Lộ
trình

I

Các chỉ tiêu tổng hợp

1

GDP xanh (VND hoặc USD)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Tổng cục Thống kê)

2015

2

Chỉ số phát triển con người (HDI) (0-1)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Tổng cục Thống kê)

2015


3

Chỉ số bền vững môi trường (0-1)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Tổng cục Thống kê)

2015

II

Các chỉ tiêu kinh tế

4

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) (số
đồng vốn đầu tư thực hiện tăng thêm 1 đồng
GDP)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Tổng cục Thống kê)

2011

5

Năng suất lao động xã hội (USD/lao động)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Tổng cục Thống kê)


2011

6

Tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố
tổng hợp vào tốc độ tăng trưởng chung (%)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Tổng cục Thống kê)

2015

7

Mức giảm tiêu hao năng lượng để sản xuất
ra một đơn vị GDP (%)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Tổng cục Thống kê)

2015

8

Tỷ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu sử
dụng năng lượng (%)

Bộ Công Thương


2011

9

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) (% so với tháng
12 năm trước)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Tổng cục Thống kê)

2011

10

Cán cân vãng lai (tỷ USD)

Ngân hàng Nhà nước

2011

11

Bội chi ngân sách Nhà nước (%/GDP)

Bộ Tài chính

2011

12


Nợ của Chính phủ (%/GDP)

Bộ Tài chính

2011

Chủ trì: Bộ Tài chính
13

Nợ nước ngoài (%/GDP)

Phối hợp: Ngân hàng
Nhà nước

2011

III Các chỉ tiêu về xã hội
14

Tỷ lệ nghèo (%)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Tổng cục Thống kê)

2011

15

Tỷ lệ thất nghiệp (%)


Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Tổng cục Thống kê)

2011


9

TT

Chỉ tiêu

16

Tỷ lệ lao động đang làm việc trong nền kinh
tế đã qua đào tạo (%)

Cơ quan
chịu trách nhiệm
thu thập, tổng hợp
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Tổng cục Thống kê)

17

Hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập (hệ số Gini) (lần)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Tổng cục Thống kê)


2011

18

Tỷ số giới tính khi sinh (trai/100 gái)

Bộ Y tế

2011

19

Số sinh viên/10.000 dân (SV)

Bộ Giáo dục và Đào tạo

2011

20

Số thuê bao Internet (số thuê bao/100 dân)

Bộ Thông tin
và Truyền thông

2011

21


Tỷ lệ người dân được hưởng bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp (%)

Bảo hiểm xã hội
Việt Nam

2011

22

Số người chết do tai nạn giao thông
(người/100.000 dân/năm)

Bộ Công an

2011

23

Tỷ lệ số xã được công nhận đạt tiêu chí
nông thôn mới (%)

Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn

2015

Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn


2011

Lộ
trình
2011

IV Các chỉ tiêu về tài nguyên và môi trường
24

Tỷ lệ che phủ rừng (%)

25

Tỷ lệ đất được bảo vệ, duy trì đa dạng sinh
học (%)

Bộ Tài nguyên
và Môi trường

2011

26

Diện tích đất bị thoái hóa (triệu ha)

Bộ Tài nguyên
và Môi trường

2015


27

Mức giảm lượng nước ngầm, nước mặt
(m3/người/năm)

Bộ Tài nguyên
và Môi trường

2011

28

Tỷ lệ ngày có nồng độ các chất độc hại
không khí vượt quá tiêu chuẩn cho phép (%)

Bộ Tài nguyên
và Môi trường

2011

- Chủ trì: Bộ Xây dựng

29

Tỷ lệ các đô thị, khu công nghiệp, khu chế
xuất, cụm công nghiệp xử lý chất thải rắn,
nước thải đạt tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia tương ứng (%)

- Chủ trì: Bộ Xây dựng


30

Tỷ lệ chất thải rắn thu gom, đã xử lý đạt tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương
ứng (%)

- Phối hợp: Bộ Tài
nguyên và Môi trường;
Bộ Công Thương
- Phối hợp: Bộ Tài
nguyên và Môi trường

2011

2011

(Nguồn:Quyết định 432/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
12/4/2012)


10

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nội dung chương 1 đã trình bày tổng quan về phát triển bền vững, bao
gồm khái niệm, sự cần thiết và nội dung của phát triển bền vững. Phát triển
bền vững là sự kết hợp chặt chẽ, là mối quan hệ qua lại giữa phát triển kinh tế
với các vấn đề xã hội và các yếu tố của môi trường một cách hài hoà, ổn định,
linh hoạt. Đây là yêu cầu cấp thiết của mỗi quốc gia trên thế giới, trong đó có
Việt Nam.

Nội dung của phát triển bền vững tập trung vào ba lĩnh vực chính, đó là
kinh tế, xã hội và môi trường, không thiên lệch bất kỳ lĩnh vực nào. Những nội
dung này là cơ sở cho việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền
vững trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Từ đó, chương 1 giới thiệu một số hệ
thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững đã có và đi sâu phân tích hệ thống
chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững của Việt Nam hiện nay. Đây là hệ thống
chỉ tiêu mới nhất do Chính phủ ban hành, có sự có mặt của một số chỉ tiêu mang
tính tổng hợp, đánh giá nhiều lĩnh vực.
Phần cuối của chương phân tích những điểm giống và khác nhau giữa hệ
thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững ở Việt Nam và hệ thống chỉ tiêu phát
triển bền vững do Hội đồng phát triển bền vững của Liên hợp quốc khuyến nghị.
Bên cạnh đó, tác giả cũng một số hạn chế trong hệ thống chỉ tiêu cần khắc phục
trong thời gian tới.
Với hệ thống chỉ tiêu thống kê đưa ra, việc đánh giá sẽ được thực hiện
theo từng chỉ tiêu riêng biệt, phản ánh từng mặt, từng khía cạnh của phát triển
bền vững. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó, nghiên cứu chưa thể đưa đến kết
luận tổng quát về kết quả thực hiện chiến lược phát triển bền vững của đất nước.
Cần phải có một đánh giá chung về quá trình phát triển bền vững của đất nước
theo thời gian để có thể so sánh và rút ra những kinh nghiệm cho phát triển. Đó
chính là khoảng trống về mặt lý thuyết cũng như thực tế mà luận án sẽ đi sâu
nghiên cứu.


11

CHƯƠNG 2.XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP TÍNH CHỈ SỐ TỔNG HỢP
ĐÁNH GIÁ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
2.1. Tổng quan nghiên cứu về phương pháp xây dựng chỉ số tổng hợp
Có nhiều phương pháp khác nhau được đưa ra để tính toán chỉ số tổng
hợp này. Cụ thể:

Thứ nhất, để tính chỉ số phát triển con người (HDI), chương trình phát
triển Liên hợp quốc (UNDP) đã tính theo công thức bình quân nhân giản đơn
của 3 chỉ số thành phần:
HDI

I

/

I

/

I

/

Trong công thức tính chỉ số tổng hợp, các chỉ số thành phần lại được tính
dựa trên lý thuyết chuẩn hóa dữ liệu min-max. Để tính toán và phân tích đơn
giản nhất, tổ chức thống kê Liên hợp quốc đã hướng dẫn cách tínhcác chỉ số
thành phần sao cho các chỉ số này sẽ nhận giá trị trong khoảng [0,1].
Ngoài ra, báo cáo phát triển con người năm 1991 của UNDP cũng giới
thiệu một chỉ số khác, đó là chỉ số về quyền tự do của con người.Nghiên cứu
thực hiện tính toán chỉ số bằng phương pháp rất đơn giản: cho điểm 1 đối với
những chỉ tiêu đảm bảo quyền tự do, và điểm 0 với những chỉ tiêu vi phạm
quyền tự do con người. Sau đó, điểm tổng hợp của 40 chỉ tiêu sẽ là căn cứ để
xếp hạng các quốc gia về việc đảm bảo quyền tự do của con người.
Bên cạnh đó, nghiên cứu của của Đại học Yale – Hoa Kỳ kết hợp với Đại
học Columbia và diễn đàn kinh tế thế giới đã đưa ra công thức tính
Environmental Performance Index (EPI) 2008 và Environmental Sustainability

Index (ESI) 2005 [35].Theo phương pháp này, chỉ số chung (điểm ESI) sẽ được
tính theo 2 cách: tính trực tiếp từ 21 chỉ thị và tính gián tiếp từ 5 chủ đề của 5
nhóm vấn đề chính. Khi tính từ các chỉ thị, các phép tính này đều sử dụng công
thức bình quân cộng giản đơn (bình quân cộng không trọng số). Khi tính từ các
chủ đề, sử dụng phép tính bình quân cộng gia quyền với quyền số được xác định
bởi các chuyên gia nghiên cứu chỉ số này.
Để quyết định cụ thể trọng số của từng chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu
cũng có nhiều phương pháp: phương pháp tổng quát của TS Nguyễn Trọng Hậu,
Viện nghiên cứu châu Âu; phương pháp sử dụng thống kê phân tích hồi quy


12

tương quan (hồi quy đa biến) và phân tích thành phần chính;phương pháp bán
ma trận hay phương pháp chuyên gia...
Qua tổng quan, nhận thấy có nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng
để tính chỉ số tổng hợp. Tuy nhiên, nghiên cứu riêng về chỉ số tổng hợp phát
triển bền vững ở Việt nam hiện mới chỉ có đề tài “Xác định bộ chỉ tiêu phát triển
bền vững và xây dựng cơ sở dữ liệu giám sát phát triển bền vững ở Việt Nam”
trong khuôn khổ Dự án VIE/01/021, triển khai tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề cập
tới. Trong đó, đề tài sử dụng công thức bình quân cộng gia quyền để tính chỉ số
chung. Tuy nhiên, phương pháp mà đề tài đưa ra chỉ mới gợi mở hướng tính chỉ
số phát triển bền vững quốc gia chứ chưa đi vào nghiên cứu cụ thể cách thức.
2.2. Đề xuất phương pháp tính chỉ số tổng hợp phát triển bền vững ở Việt Nam
2.2.1.Phương pháp tính các chỉ số riêng biệt
2.2.1.1.Lựa chọn công thức tính toán các chỉ số riêng biệt
Thứ nhất, đối với các chỉ tiêu thuận: giá trị của các chỉ tiêu này càng lớn,
phát triển sẽ càng bền vững. Vận dụng phương pháp tính chỉ tiêu tổng hợp mà
Liên hợp quốc giới thiệu trong tính HDI, lựa chọn một trong hai công thức đã
giới thiệu sau:

Công thức 2.1:
Giá tr thc t
Giá tr ti đa

I

Giá tr ti thiu
Giá tr ti thiu

Công thức 2.2:
ln giá tr thc t
ln giá tr ti đa

I

ln giá tr ti thiu
ln giá tr ti thiu

Thứ hai, đối với các chỉ tiêu nghịch: giá trị của chỉ tiêu càng lớn, tính bền
vững của chỉ tiêu càng thấp và ngược lại. Đề tài sẽ điều chỉnh theo chiều hướng
thuận: khi chỉ số tăng, giá trị gần 1, phát triển của đất nước bền vững hơn. Khi
đó, công thức tính sẽ có dạng ngược.
Công thức 2.3:
Giá tr thc t
Giá tr ti đa

I

1


1

ln giá tr thc t
ln giá tr ti đa

Giá tr ti thiu
Giá tr ti thiu

Công thức 2.4:
I

ln giá tr ti thiu
ln giá tr ti thiu


13

Thứ ba, đối với các chỉ tiêu hướng tâm: giá trị của chỉ tiêu càng gần một
giá trị trung tâm nào đó, quá trình phát triển sẽ càng bền vững. Công thức tính
2.5 và 2.6 có dạng:
I

Giá trị thực tế
Giá trị tối đa

Giá trị trung tâm
Giá trị trung tâm

Và:
|ln giá tr thc t

ln giá tr trung tâm |
|ln giá tr ti đa
ln giá tr trung tâm |
Như vậy, tùy vào đặc điểm từng chỉ tiêu sẽ có các công thức tính chỉ số
riêng biệt phù hợp.
2.2.1.2.Xác định các giá trị tối đa, tối thiểu
Trong khuôn khổ đề tài, tác giả đưa ra hai lựa chọn với hai lý do sau:
Thứ nhất, nhóm chỉ tiêu thuận và nghịch:
- Giá trị tối đa: Nếu xác định được giới hạn lớn nhất có thể có của các chỉ
tiêu, giá trị tối đa sẽ sử dụng giá trị đó. Những chỉ tiêu không xác định được hay
không có bất kỳ hướng dẫn nào về giới hạn bền vững, giá trị tối đa sẽ chọn là
giá trị xu hướng: giá trị lớn nhất của chỉ tiêu trong khoảng thời gian nghiên cứu.
- Giá trị tối thiểu: Cũng như cách xác định giá trị tối đa, nếu có thể xác
định được giới hạn nhỏ nhất của các chỉ tiêu, giá trị tối thiểu sẽ sử dụng giá trị
đó. Các trường hợp còn lại có thể lựa chọn giá trị xu hướng làm giá trị tối thiểu
cho chỉ tiêu.
Thứ hai, nhóm chỉ tiêu hướng tâm.
- Giá trị trung tâm: Với những chỉ tiêu có thông tin về giá trị tối ưu, lựa
chọn giá trị trung tâm chính là giá trị tối ưu. Với những chỉ tiêu còn lại, căn cứ
vào đặc điểm từng chỉ tiêu để có lựa chọn phù hợp.
- Giá trị tối đa: là giá trị trong dãy số thời gian có chênh lệch lớn nhất (có
thể chênh lệch âm hoặc hoặc chênh lệch dương) với giá trị trung tâm.
2.2.2. Phương pháp tính các chỉ số thành phần
2.2.2.1.Bình quân cộng hay bình quân nhân?
Bình quân cộng và bình quân nhân đều mang đặc điểm của số bình quân
nói chung. Tuy nhiên, công thức bình quân nhân coi trọng sự đồng đều hơn bình
quân cộng. Một chỉ số đạt giá trị lớn không thể kéo theo chỉ số chung tăng lên
nhanh chóng nếu tính theo công thức bình quân nhân. Chính vì vậy, để có thể
I



14

phản ánh chính xác thực tế, chỉ số tổng hợp tính ra có ý nghĩa trong các trường
hợp số liệu khác nhau, công thức bình quân nhân là lựa chọn tốt hơn cả.
2.2.2.2. Bình quân nhân giản đơn hay bình quân nhân gia quyền?
Đề tài đưa ra cách tính theo cả hai phương pháp bình quân nhân giản đơn
và gia quyền. Số liệu thực tế sẽ quyết định phương pháp nào phù hợp hơn trong
điều kiện Việt Nam hiện nay.
Vấn đề quan trọng trong xác lập công thức bình quân nhân gia quyền
chính là gán cho các chỉ số riêng biệt quyền số phù hợp. Sử dụng phương pháp
bán ma trận là phương pháp đơn giản và đạt hiệu quả khá tốt khi có tính đến
chiến lược phát triển của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển.
2.2.3.Công thức tính chỉ số tổng hợp phát triển bền vững
Theo nội dung phát triển bền vững cũng như quan điểm phát triển của
Việt Nam, phát triển bền vững là sự phát triển cân đối, hài hòa giữa ba lĩnh vực
kinh tế, xã hội và môi trường, không coi nhẹ lĩnh vực nào. Vì thế, sự đóng góp
của các lĩnh vực này đối với quá trình phát triển là như nhau. Tác giả chọn công
thức bình quân nhân giản đơn (không trọng số) để tính toán chỉ số tổng hợp phát
triển bền vững. Đây là phương pháp tính đảm bảo nội dung, ý nghĩa phát triển
bền vững và dễ thực hiện.
Công thức tính: I = 4 ITH × I KT × I XH × I MT
Ngoài ra, trong điều kiện thiếu số liệu, nếu số lượng chỉ tiêu trong mỗi
nhóm không đủ để đại diện cho nhóm chỉ tiêu đó, chỉ số thành phần tính ra sẽ
không phản ánh chính xác thực tế phát triển. Khi đó, cần tính chỉ số tổng hợp
phát triển bền vững trực tiếp từ các chỉ số riêng biệt, trong đó coi vai trò của
n

từng chỉ tiêu đóng góp là như nhau. Công thức tổng quát: I = n ∏ I i
i =1


Theo các công thức nêu trên, chỉ số tổng hợp phát triển bền vững luôn
nhận giá trị trong khoảng 0 – 1. Các mức giá trị khác nhau sẽ cho thấy các trình
độ phát triển bền vững khác nhau. Từ đó, tác giả tạm đề xuất thang đo phát triển
để khi tính toán kết quả chỉ số tổng hợp, có thể xác định được phát triển bền
vững của Việt Nam hiện nay đang ở mức độ nào.
0.0 - 0.2: Phát triển kém bền vững
0.2 - 0.4: Phát triển hơi bền vững
0.4 - 0.6: Phát triển tương đối bền vững
0.6 - 0.8: Phát triển khá bền vững
0.8 - 1.0: Phát triển rất bền vững


15

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Từ hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững đã có, chương 2 đã tổng
quan các nghiên cứu về chỉ số tổng hợp và đề xuất phương pháp tính chỉ số tổng
hợp phát triển bền vững tại Việt Nam. Đây là nội dung chính của luận án.
Các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững được
chia thành ba nhóm chỉ tiêu thuận, chỉ tiêu nghịch và chỉ tiêu hướng tâm. Trong
từng nhóm chỉ tiêu, tác giả xác định các công thức tính chỉ số riêng biệt và giá
trị tối đa, giá trị tối thiểu phù hợp. Từ các chỉ số riêng biệt, tác giả phân tích và
lựa chọn các công thức tính chỉ số thành phần khác nhau trên cơ sở tính bình
quân: bình quân cộng hay bình quân nhân, bình quân nhân giản đơn hay bình
quân nhân gia quyền. Sau đó, tác giả đi vào giải quyết vấn đề xác định quyền số
trong công thức gia quyền.
Nội dung cuối cùng của chương 2 là xây dựng công thức tính chỉ số tổng
hợp phát triển bền vững. Tác giả đưa ra hai công thức tính: tính bình quân trực
tiếp từ chỉ số riêng biệt trong trường hợp thiếu số liệu và tính bình quân gián tiếp

từ các chỉ số thành phần khi số liệu thu thập được tương đối đầy đủ.
Sau khi xây dựng được các công thức tính, vấn đề đặt ra là: Các công
thức, cách tính đã nêu có thực sự khác biệt trong đánh giá phát triển bền vững
hay không? Nên lựa chọn cách tính nào để sử dụng thực tế?... Điều này không
thể chỉ sử dụng lý luận mà cần phải có luận cứ thực tế để chứng minh. Số liệu
thực tế phát triển của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 sẽ được áp dụng vào
phần lý thuyết nêu trên để tính toán thử nghiệm, lựa chọn công thức tính phù
hợp và chứng minh tính khả thi của nghiên cứu.


16

CHƯƠNG 3. TÍNH TOÁN THỬ NGHIỆM
VÀ PHÂN TÍCH BIẾN ĐỘNGCHỈ SỐ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2010
3.1.Tính toán thử nghiệm chỉ số tổng hợp phát triển bền vững ở Việt Nam
giai đoạn 2001 – 2010
3.1.1.Điều kiện số liệu các chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững ở Việt Nam
hiện nay
Hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững được lựa chọn để tính chỉ
số tổng hợp phát triển bền vững là hệ thống chỉ tiêu sử dụng cho kế hoạch phát
triển giai đoạn 2011 - 2020. Chính vì vậy, khi sử dụng để tính toán thử nghiệm
cho giai đoạn 2000 - 2010, số liệu thực tế không đáp ứng đủ. Rất nhiều chỉ tiêu
chưa được thống kê đầy đủ. Thực tế chỉ có 16 chỉ tiêu có số liệu để có thể tính
toán thử nghiệm.
3.1.2.Tính toán các chỉ số riêng biệt
Với phương pháp xác định từng chỉ tiêu và từ dãy số thời gian đã có, lựa
chọn được các giá trị tối đa, tối thiểu phù hợp. Sau đó, sử dụng các công thức
tương ứng nêu ở chương 2 để tính các chỉ số riêng biệt.
3.1.3.Tính toán các chỉ số thành phần

Sử dụng các công thức đã nêu trong phần lý luận ở chương 2 để tính các
chỉ số thành phần phù hợp trong hai trường hợp: sử dụng công thức bình quân
cộng giản đơn và bình quân cộng gia quyền.
3.1.4. Tính toán chỉ số tổng hợp phát triển bền vững
Từ công thức đề xuất ở chương 2, tác giả tính toán và có kết quả chỉ số
phát triển bền vững ứng với ba công thức khác nhau. Trong đó, (1): tính trực
tiếp từ chỉ số riêng biệt; (2): tính từ chỉ số thành phần, trong đó, chỉ số thành
phần được tính theo công thức bình quân nhân giản đơn; (3): tính từ chỉ số
thành phần, trong đó, chỉ số thành phần được tính theo công thức bình quân
nhân gia quyền.
Kết quả tính cụ thể ở bảng 3.1.


17

Bảng 3.1. Chỉ số tổng hợp phát triển bền vững của Việt Nam
giai đoạn 2001 - 2010 theo các cách tính
Đơn vị tính: lần
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Cách tính
(1)
0.295
0.344
0.370
0.434

0.494
(2)
0.414
0.453
0.476
0.522
0.568
(3)
0.415
0.459
0.483
0.530
0.569
Năm
Cách tính
(1)
(2)
(3)

2006

2007

2008

2009

2010

0.492

0.569
0.574

0.403
0.509
0.523

0.316
0.446
0.460

0.284
0.420
0.435

0.420
0.529
0.565

3.1.5.Nhận xét các cách tính chỉ số tổng hợp phát triển bền vững
Ba cách tính ở trên cho ra ba kết quả khác nhau. Nhận thấy có hai trường
hợp sau:
- Khi số liệu các chỉ tiêu không đủ, một chỉ tiêu không thể mang tính đại
diện cho cả nhóm chỉ tiêu lớn nên trường hợp này nên công thức thứ nhất (tính
trực tiếp từ chỉ số riêng biệt) phản ánh tốt hơn thực trạng phát triển bền vững ở
Việt Nam giai đoạn 10 năm qua.
- Khi có đầy đủ số liệu các chỉ tiêu, cách tính thứ hai, tính bình quân gián
tiếp qua các chỉ số thành phần, sẽ phù hợp hơn. Chỉ số tổng hợp phát triển bền
vững cũng cần xây dựng dựa trên các mức độ đại diện cho từng lĩnh vực này.
Như vậy, do thực tế phát triển giai đoạn 2001 – 2010 chưa có đủ số liệu

hệ thống chỉ tiêu, nghiên cứu sẽ chọn kết quả từ cách tính thứ nhất, tính bình
quân nhân giản đơn từ các chỉ số riêng biệt, làm cơ sở phân tích thực trạng phát
triển bền vững của Việt Nam.
3.2.Phân tích xu thế phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010
3.2.1.Lựa chọn phương pháp phân tích
Sử dụng phương pháp bảng và đồ thị thống kê, chúng ta sẽ có cái nhìn
tổng quát bằng trực giác về xu hướng phát triển bền vững của Việt Nam giai
đoạn 10 năm vừa qua.


18

3.2.2.X
Xu hướngg phát triển
n bền vữn
ng ở Việt Nam
N
giai đoạn 20001 - 2010
Lựa chọnn cách tínhh chỉ số phát
L
p
triển bền vữngg dựa vào các chỉ số riêng
biệt, sử
ử dụng số bình quânn nhân giảản đơn. Kếết quả tínhh toán đượ
ợc biểu diễễn bằng
đồ thị 3.1.
3
Thực tế phát triển của
T
c Việt Nam

N
giai đoạn
đ
20011 - 2010 kkhông thựcc sự ổn
định vàà bền vữnng. Thời gian đầu củủa thập kỷ
ỷ này (từ 2001
2
đến 2005), xu
u hướng
phát trriển khá tốốt. Chỉ số phát triểnn bền vữn
ng tăng dầần theo thời gian, nếu
n như
năm 20001 phát triển
t
bền vững
v
chỉ ở mức yếu
u là 0.280 thì tới năăm 2006 đã
đ bước
lên mứ
ức trung bình, đạt giá trị 0.4770. Từ năm
m 2006, phhát triển bbền vững bắt
b đầu
giảm nhẹ
n và từ 2007, phááttriển bềnn vững giảảm mạnh cho tới năm 2009. Chỉ số
phát triển bền vữ
ững năm 2009
2
chỉ nằm
n trong khoảng phát triển hhơi bền vữ

ững hay
m chí kém
m hơn năm
m 2001 vớ
ới giá trị 00.270. Tuy
y nhiên,
tính bềền vững làà yếu, thậm
Việt Nam
N
đã có sự bứt phhá mạnh trrong năm 2010 với chỉ số pháát triển bềền vững
đạt tới 0.400. Tuuy chưa đạt
đ được mức
m phát triển
t
bền vững
v
của những năăm giữa
ới năm 20
010, Việt Nam
N
đã cóó xu hướn
ng phục
thập niiên này nhhưng nhìnn chung, tớ
hồi lại đà phát trriển của mình.
m

Đồ thị 3.1. Chỉ
C số pháát triển bềền vững của
c Việt N
Nam

giai đooạn 2001 - 2010
Trong cácc nhân tố đóng
T
đ
góp vào
v phát triển
t
bền vững,
v
nhóm
m nhân tố nào có
biến độộng mạnh,, ảnh hưởnng tới biếnn động chu
ung? Câu hỏi
h này đư
ược trả lời qua
q các
đồ thị 3.2.
3


19

Đồồ thị 3.2. Biến
B
độngg của chỉ số
s thành phần
p
kinh
h tế
vàà chỉ số th

hành phần
n xã hội giai
g đoạn 2001 - 2010
Dễ dàng nhận
D
n
thấyy sự cải thhiện rõ rệt về xã hộii, đời sống người dân
d tiến
bộ dầnn qua từngg năm. Tuuy nhiên, nhóm chỉ tiêu này có giá trịị khá thấp so với
các chỉ tiêu kinhh tế. Nghĩĩa là, việcc cải thiện
n đời sốngg con người chưa th
heo kịp
m. Cuộc sống
s
và môi
m trườngg sống củaa người
với phhát triển kiinh tế củaa Việt Nam
dân vẫẫn là nhữngg vấn đề cần
c được quan
q
tâm và
v ưu tiênn giải quyếết.
Xu hướngg biến độnng của cácc chỉ tiêu trong lĩnhh vực kinhh tế tương
X
g tự với
biến độộng chungg của phátt triển bềnn vững. Vậy, trong những chhỉ tiêu kinh
h tế đó,
chỉ tiêuu nào có tác
t dụng quyết
q

địnhh tới sự biiến động chung
c
như
ư vậy? Xéét trong
hai năm
m giảm súút mạnh vềề kinh tế làà năm 200
08 và 20099.
1.000
0.900
0.800
0.700
0.600
0.500
0.400

2008

0.300

2009

0.200
0.100
0.000
ICOR

NSL
LĐ Tỷ trọngg
XH
TFP


CPI

Cáán cân Bội chi
c
vããng lai NSNN
N

Nợ
nước
ngoài

Đồ thị 3.3.Biến
3
đ
động
tron
ng nhóm chỉ
c tiêu kiinh tế20088 - 2009


20

Trong năm 2008, cán cân vãng lai là nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm
sút về kinh tế: xuống thấp nhất trong giai đoạn 10 năm, thâm hụt tới 10.79 tỷ
USD, thấp hơn rất nhiều so với các năm khác. Nguyên nhân thứ hai là do chỉ số
giá tiêu dùng CPI hay lạm phát (CPI năm 2008 lên tới 123%).
Ngược lại với 2008, năm 2009 Chính phủ thực hiện các gói kích cầu tạo
nên sự hồi phục nhất định của quan hệ kinh tế quốc tế cũng như giữ tốc độ tăng
giá tiêu dùng chỉ trong vòng một chữ số (nhờ sử dụng gói giải pháp kiềm chế

lạm phát, chủ trương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt), nhưng lại gây sự sụt
giảm trong các chỉ số về tỷ trọng đóng góp của TFP vào tốc độ tăng trưởng
chung và bội chi ngân sách Nhà nước.
3.3.Đánh giá chung về chỉ số phát triển bền vững và một số kiến nghị
3.3.1.Đánh giá chung về chỉ số phát triển bền vững
Từ kết quả tính toán thử nghiệm chỉ số phát triển bền vững ở Việt Nam
giai đoạn 2001 – 2010, tác giả sẽ trở lại đánh giá sự phù hợp của hệ thống chỉ
tiêu thống kê phát triển bền vững cũng như các công thức tính đã đề xuất ở
chương 2.
Thứ nhất, về hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững: Số lượng chỉ
tiêu còn khá nhiều, làm cho quy trình tính toán chỉ số chung trở nên cồng kềnh;
một số chỉ tiêu chưa đảm bảo thống nhất về phương pháp tính, nguồn số liệu
cũng như kỳ báo cáo khiến việc thu thập dữ liệu rất khó khăn, ảnh hưởng tới độ
chính xác của kết quả tính toán; có sự trùng lặp dẫn tới việc tính trùng đối với
chỉ số tổng hợp phát triển bền vững.
Thứ hai, về các công thức tính đề xuất. Việc đề xuất các bước tính toán
chỉ số tổng hợp phát triển bền vững dựa trên việc nghiên cứu và phân tích một
cách tổng quát hệ thống chỉ tiêu thống kê đã có. Các chỉ số tính ra trong cùng
một giai đoạn phải thống nhất phạm vi và phương pháp tính để đảm bảo tính
chất so sánh được. Tuy nhiên, đối với từng giai đoạn phát triển khác nhau có thể
có những thay đổi khác nhau.
3.3.2.Một số kiến nghị và giải pháp về công tác thống kê phát triển bền vững ở
Việt Nam
3.3.2.1. Giải pháp
- Về mô hình báo cáo thống kê theo các cấp:


21

Sở liên


Bộ, cơ quan

quan

ngang Bộ có

liên quan

liên quan

Văn

Hội đồng

phòng

PTBV

Chính

quốc gia

phủ

Cục

Các Vụ

PTBV


Thống kê

chuyên môn -

quốc gia

các Tỉnh,

Tổng cục

Thành

Thống kê

phố

Sơ đồ 3.1. Mô hình báo cáo thống kê theo các cấp
- Về chế độ báo cáo thống kê:
Phát triển bền vững cũng là một vấn đề vĩ mô và cần được tích luỹ về
lượng trong một thời gian dài. Chính vì vậy, số liệu của các chỉ tiêu thống kê
phát triển bền vững cũng cần được các cơ quan có trách nhiệm tổng hợp theo
định kỳ hàng năm.
3.3.2.2.Kiến nghị
- Đối với Chính phủ và Hội đồng phát triển bền vững quốc gia: cần tổ
chức một bộ phận chuyên trách để phân tích các chỉ tiêu thống kê tổng hợp
được, qua đó đánh giá tình trạng phát triển bền vững ở Việt Nam trong từng thời
kỳ. Trên cơ sở đó, Hội đồng phát triển bền vững quốc gia đề xuất với Chính phủ
những định hướng, chính sách, mục tiêu phát triển bền vững cho những năm tiếp
theo. Các mục tiêu phát triển này sẽ là cơ sở thực tế để xác định các giá trị tối

đa, giá trị tối thiểu trong công thức tính chỉ số riêng biệt đã đề xuất.
- Đối với ngành Thống kê:thực hiệnrà soát lại các chỉ tiêu trong hệ thống
chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững để có được hệ thống chỉ tiêu đánh giá tốt
nhất quá trình phát triển ở Việt Nam. Tổng cục Thống kê cũng cần nghiên cứu
để đưa ra phương pháp tính cụ thể, thống nhất chỉ số tổng hợp phát triển bền
vững, giúp Hội đồng phát triển bền vững quốc gia trong đánh giá, phân tích thực
trạng phát triển của đất nước.
- Đối với các Bộ và cơ quan ngang Bộ có liên quan:Phối hợp với các cơ quan có
liên quan, thống nhất phương pháp luận tính một số chỉ tiêu mới. Nắm rõ và báo


22

cáo theo định kỳ các số liệu thống kê được yêu cầu, phục vụtổng hợp, xử lý và
phân tích dữ liệu kịp thời.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Nội dung chính của chương 3 là việc thu thập số liệu của các chỉ tiêu
trong hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững, từ đó áp dụng quy trình
tính toán đã nêu ở chương 2 để tính chỉ số tổng hợp phát triển bền vững. Với các
công thức khác nhau, tác giả tính toán được nhiều kết quả khác nhau đối với chỉ
số phát triển bền vững. Để có thể lựa chọn phương pháp phù hợp, tác giả đã sử
dụng phương pháp đồ thị thống kê và bảng thống kê để so sánh và phân tích.
Với các phân tích đã có, tác giả chọn công thức tính phù hợp nhất với điều
kiện số liệu giai đoạn 2001 – 2010. Tuy chỉ mang tính tương đối do số lượng chỉ
tiêu có số liệu còn hạn chế, nguồn số liệu chưa thống nhất, chỉ số tổng hợp phát
triển bền vững đã phản ánh phần nào quá trình phát triển ở Việt Nam trong giai
đoạn 10 năm, từ 2001 đến 2010. Điều đó chứng minh tính khả thi trong nghiên
cứu của luận án.
Qua tính toán và phân tích bằng đồ thị, chỉ số tổng hợp phát triển bền
vững cho thấy kết quả phát triển của Việt Nam chưa thực sự ổn định và bền

vững như mong muốn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001
– 2010. Kinh tế phát triển không ổn định do chịu ảnh hưởng bối cảnh chung của
thế giới, cũng như của các chính sách liên quan. Đời sống người dân tuy đã
được cải thiện nhưng vẫn còn khá thấp, chỉ ở mức trung bình.
Trong phần cuối của chương, tác giả quay trở lại đánh giá hệ thống chỉ
tiêu cũng như các công thức đã đề xuất dựa trên kết quả tính toán và phân tích
chỉ số tổng hợp phát triển bền vững giai đoạn 2001 – 2010 ở Việt Nam. Từ đó,
tác giả đưa ra một số kiến nghị cùng đề xuất giải pháp để hoàn thiện hơn công
tác thống kê trong xây dựng cơ chế thu thập, tổng hợp và công bố số liệu về phát
triển bền vững trong tương lai.


23

KẾT LUẬN
Phát triển bền vững - quá trình phát triển cân đối, hài hòa cả ba yếu tố
kinh tế, xã hội, môi trường - đang là đích hướng tới của phần lớn quốc gia trên
thế giới hiện nay. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2020 của Việt
Nam đã xác định quan điểm phát triển trong giai đoạn này là “Phát triển nhanh
gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong
Chiến lược”.
Để đánh giá kết quả thực hiện, Chính phủ đã đưa ra hệ thống chỉ tiêu
thống kê giám sát và đánh giá phát triển bền vững. Từ đó, cần thiết phải có chỉ
số tổng hợp đánh giá quá trình phát triển bền vững dựa trên hệ thống chỉ tiêu
này. Nhằm góp phần thực hiện yêu cầu đó, luận án đã nghiên cứu và giải quyết
được một số vấn đề cơ bản sau:
- Tổng quan chung khái niệm, sự cần thiết và nội dung phát triển bền
vững. Đây là cơ sở lý luận để nghiên cứu, phân tích hệ thống chỉ tiêu thống kê
phát triển bền vững.
- Tổng hợp một số hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững đã có

trên thế giới; tổng quan và phân tích các ưu, nhược điểm của hệ thống chỉ tiêu
thống kê phát triển bền vững ở Việt Nam. Với hệ thống chỉ tiêu vừa được Chính
phủ ban hành, luận án phân tích và đề xuất các biện pháp để hoàn thiện, tạo điều
kiện đánh giá tốt hơn thực trạng phát triển bền vững của đất nước.
- Đề xuất quy trình đánh giá tổng hợp phát triển bền vững gồm các công
thức và cách xác định các yếu tố trong tính toán chỉ số riêng biệt, chỉ số thành
phần và chỉ số tổng hợp phát triển bền vững. Đây là nội dung trọng tâm của luận
án. Kết quả của quá trình này sẽ cho thấy cái nhìn tổng quát về quá trình phát
triển của Việt nam theo thời gian nghiên cứu.
- Thu thập số liệu các chỉ tiêu giai đoạn 2001 – 2010 để tính toán thử
nghiệm chỉ số phát triển bền vững đề xuất. Việc tính toán này chứng minh tính
khả thi trong nghiên cứu của luận án. Bên cạnh đó, tác giả thực hiện phân tích
thực trạng phát triển bền vững của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 dựa trên kết
quả tính toán được.


24

- Trình bày một số kiến nghị và giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác
thống kê phát triển bền vững ở Việt Nam, tạo điều kiện số liệu tốt nhất, góp
phần đánh giá tính bền vững trong quá trình phát triển đất nước một cách
chính xác.
Luận án đề xuất phương pháp luận cơ bản tính chỉ số tổng hợp phát triển
bền vững cho Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển. Trong đó, việc xác định
các giá trị giới hạn cũng như quyền số của từng chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu
cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Ngoài ra, trên cơ sở phương pháp luận đã
nêu và hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững địa phương, có thể tính toán chỉ số
tổng hợp phát triển bền vững cho các vùng, địa phương. Từ đó, tạo điều kiện so
sánh và đánh giá trình độ phát triển của mỗi tỉnh thành trong cả nước, rút ra các
yếu tố cần khắc phục để đưa đất nước phát triển ngày càng bền vững hơn.




×