Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.83 KB, 119 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển của xã hội, du lịch ngày càng trở thành một hiện
tượng kinh tế xã hội phổ biến, là nhu cầu không thể thiếu của nhiều nước trên
thế giới, đặc biệt là những nước có nền kinh tế phát triển. Khi xã hội phát triển
đời sống vật chất tăng lên thì nhu cầu du lịch cũng tăng lên. Du lịch được coi là
một trong những tiêu chí đánh giá mức sống của dân cư mỗi nước. Du lịch là
chiếc cầu nối của tình hữu nghị, tạo sự đoàn kết cảm thông giữa các dân tộc,
tạo nên thế giới hoà bình tôn trọng lẫn nhau. Ở nước ta có tiềm năng du lịch dồi
dào phong phú và đa dạng đã thu hút nhiều khách đến thăm con người và đất
nước Việt Nam. Nhận thức được thế mạnh và vị trí của du lịch trong giai đoạn
hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang dành cho du lịch một vị trí xứng
đáng, coi phát triển du lịch là một định hướng chiến lược quan trọng trong
đường lối phát triển kinh tế xã hội nhắm góp phần CNH- HĐH đất nước.
Nghị quyết Trung ương IX xem “hoạt động du lịch là một trong những
ngành kinh tế mũi nhọn”. Ngày 22/7/2002.Thủ tướng chính phủ đã ký quyết
định số 97/2002/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển du lịch Việt Nam
2001-2010 với mục tiêu “phát triển du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn
trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền
thống văn hoá lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự
hợp tác, hỗ trợ quốc tế, góp phần thực hiện CNH- HĐH đất nước, từng bước
đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ khu vực, phấn đấu năm
2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát
triển”. Khi hoạt động du lịch phát triển sẽ kéo theo sự tăng trưởng của các
ngành kinh tế khác như vận tải, khách sạn, nhà hàng, bưu điện, các dịch vụ du
lịch khác...
Trong những năm qua, được Đảng và Nhà nước quan tâm, các ngành các
cấp phối hợp, giúp đỡ hoạt động du lịch Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, đạt
được nhiều kết quả tiến bộ. Về số lượng khách, doanh thu du lịch, thu nhập xã
hội về du lịch, giá trị sản xuất... thực tế cho thấy, từ năm 1991 đến năm 2002
lượng khách du lịch quốc tế tăng từ 300 nghìn lượt lên 2,63 triệu lượt người,


khách nội địa tăng từ hơn 1,5 triệu lượt người lên gần 12 triệu lượt người, tăng
khoảng 8 lần, thu nhập xã hội từ du lịch tăng nhanh, năm 2002 đạt 23500 tỷ
đồng. Doanh thu du lịch bình quân hàng năm tăng khoảng 9%. Đây là các chỉ
tiêu quan trọng phản ánh khối lượng kinh doanh và chất lượng phục vụ trong
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
lĩnh vực du lịch, được dùng để đánh giá hoạt động du lịch ở Việt Nam. Vì vậy
để nghiên cứu sâu hoạt động du lịch ở Việt Nam cần thiết phân tích, đánh giá
về khối lượng hoạt động kinh doanh du lịch và chất lượng phục vụ của các đơn
vị kinh doanh du lịch thông qua các chỉ tiêu và phương pháp thích hợp.
Xuất phát từ những vấn đề trên, trong thời gian thực tập ở Tổng cục Du
lịch Việt Nam, tôi đi sâu nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu thống kê kết quả hoạt
động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 1995 – 2002 và dự đoán đến năm 2005”.
Dưới góc độ nghiên cứu thống kê, trong phạm vi bài viết này nhằm hai
mục đích:
Thứ nhất: về phương pháp luận, hệ thống hoá phương pháp thống kê
nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch.
Thứ hai: về mặt thực tiễn, nhằm vận dụng phương pháp thống kê phân
tích và dự đoán kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 1995-2002.
Về phương pháp nghiên cứu, tiến hành nghiên cứu lý luận chung về du
lịch, ngành du lịch, nêu được hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du
lịch đồng thời đưa ra một số phương pháp thống kê nghiên cứu kết quả hoạt
động du lịch. Từ đó vận dụng để phân tích và đánh giá kết quả hoạt động du
lịch ở Việt Nam, làm cơ sở để đưa ra, đề xuất, kiến nghị đối với việc hoàn
thiện công tác thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam đồng thời đề
xuất giải pháp định hướng phát triển du lịch ở Việt Nam.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài này đề cập đến ba nội dung chính sau đây:
ChươngI: Những vấn đề lý luận chung về kết quả hoạt động du lịch
và hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch.
Chương II: Một số phương pháp thống kê phân tích và dự đoán kết quả
hoạt động du lịch.

Chương III: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích và dự
đoán kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam thời kỳ 1995-
2002.
Trong phạm vi bài viết này đã trình bày được một số nội dung chủ yếu
phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, tuy nhiên còn một số vấn đề tôi chưa có
điều kiện nghiên cứu sâu hơn.Vì vậy bài viết sẽ không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được ý kiến phê bình, đóng góp, bổ sung của
các thầy cô, bạn đọc cho bài viết để bài viết có thể hoàn thiện hơn.
Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Thầy giáo - Th.s Nguyễn
Hữu Chí, PGS.TS Phan Công Nghĩa - giảng viên Khoa Thống kê - Trường
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
ĐHKTQD đã trực tiếp hướng dẫn, các thầy cô giáo trong khoa, cùng các cô các
chú ở Vụ Kế hoạch và Đầu tư thuộc Tổng cục Du lịch Việt Nam đã giúp đỡ em
hoàn thành tốt bài viết này.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾT QUẢ
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VÀ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ
NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
I. KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH VÀ NGÀNH DU LỊCH
1. Khái niệm và phân loại về du lịch
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến
không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở cả các nước đang phát triển. Trong
đó có Việt Nam. Hoạt động du lịch liên quan trực tiếp đến cuộc sống con
người, nó đáp ứng được các nhu cầu của cong người, của xã hội. Tuy nhiên,
cho đến nay nhận thức về du lịch vẫn chưa thống nhất. Hiện nay, có rất nhiều
tác giả nghiên cứu về du lịch do đó có rất nhiều khái niệm về du lịch, trong các
khái niệm này có những điểm khác biệt do các cách tiếp cận khác nhau. Tuy
nhiên, nhìn chung có một số cách tiếp cận phổ biến nhất về du lịch như sau:
*Một là, coi du lịch là một hiện tượng xã hội.Với cách tiếp cận này, du lịch
được hiểu là:
Theo Ausher: du lịch là nghệ thuật đi chơi của các cá nhân.

Theo Nguyễn Khắc Viện: du lịch lịch là mở rộng không gian văn hoá con
người, nghĩa là đi chơi cho biết xứ người.
Theo Glusman: “ du lịch là sự khắc phục về mặt không gian văn hoá của
con người hướng tới một điểm nhất định nhưng không phải là nơi ở thường
xuyên của họ”.
Theo Guer Freuler: “du lịch là một hiện tượng của thời đại, dựa trên sự
tăng trưởng về nhu cầu khôi phục sức khoẻ và sự đổi thay của môi trường xung
quanh, dựa vào sự phát sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp thiên nhiên”.
*Hai là, coi du lịch là quá trình hoạt động của con người trong xã hội.
Theo cách tiếp cận này có một số khái niệm như sau:
Theo Phó tiến sĩ Trần Nhạn: “du lịch là quá trình hoạt động của con người
rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích là được thẩm nhận những
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo, khác lạ với quê hương không
nhằm mục đích sinh lời được tính bằng đồng tiền”.
Theo Hunziker và Kraf: “du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và hiện
tượng bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú tạm thời cuả các cá nhân tại
những nơi không phải là nơi ở và nơi làm việc thường xuyên của họ”.
*Ba là, coi du lịch là một ngành kinh tế. Theo cách tiếp cận này có các
khái niệm sau:
Theo nhà kinh tế học Kalfiotis: “du lịch là sự di chuyển tạm thời của các
cá nhân hay tập thể từ nơi ở đến một nơi khác nhằm thoả mãn nhu cầu tinh
thần, đạo đức do đó tạo nên các mối quan hệ kinh tế ”.
Năm 1963, Hội nghị Liên hợp Quốc cho rằng: “du lịch là tổng hợp các
mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ cuộc hành trình
và lưu trú của các cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ
hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình”.
Còn các học giả Việt Nam cho rằng du lịch phải được hiểu theo hai nghĩa:
Nghĩa thứ nhất: “du lịch là một đợt nghỉ dương sức tham quan tích cực
của con người ngoài nơi cư trú với mục đích nghỉ ngơi, giải trí xem danh lam

thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hoá, nghệ thuật, …
Nghĩa thứ hai: “du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao
về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử văn hoá
dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước, đối với người nước
ngoài là tình hữu nghị đối với dân tộc mình, về mặt kinh tế du lịch có thể coi là
hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ”.
Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu thống kê, du lịch cần được hiểu theo
nghĩa đầy đủ nhất nhằm phục vụ cho quá trình thống kê du lịch. Vì vậy, Hội
nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Ottawa – Canada ngày 24-28/6/1991 đã
thống nhất khái niệm về du lịch như sau:
“Du lịch là các hoạt động của con người đi tới một môi trường thường
xuyên trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức
du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải để tiến hành các
hoạt động kiếm tiền trong phạm vi của vùng tới thăm”.
Khái niệm trên là cơ sở định tính và lượng hoá trong việc thống kê du lịch
nói chung và thống kê kết quả hoạt động du lịch nói riêng.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
Mặt khác, khái niệm này được áp dụng cho mọi phạm vi nghiên cứu. Nó
cho biết du lịch bao gồm cả các chuyến đi ra khỏi môi trường thường xuyên
của con người trong một ngày không nghỉ qua đêm hoặc nhiều ngày đêm
nhưng ít hơn 12 tháng.
Qua khái niệm có thể thấy hoạt động du lịch bao gồm ba nội dung sau:
* Về mặt không gian:
Du lịch bao gồm các chuyến đi của con người ra khỏi môi trường thường
xuyên của mình. Môi trường thường xuyên được hiểu là phạm vi không gian
của nơi cư trú hoặc những chuyến đi có tính chất thường xuyên như: đi làm
việc ở cơ quan, đi chợ hàng ngày, …
* Về mặt thời gian:
Được tính vào hoạt động du lịch khi về mặt thời gian không quá dài vượt
ra phạm vi được qui định. Thời gian này ít nhất là một ngày đêm, nhiều nhất

không quá 6 tháng nếu đi du lịch trong nước và không quá một năm nếu đi du
lịch nước ngoài. Tuy nhiên việc quy định thời gian là khó khăn, mỗi nước có
một cách quy định khác nhau.
* Về mục đích chuyến đi:
Đi du lịch “không nhằm mục đích kiếm tiền tại địa phương đến thăm”, có
nghĩa tại đó họ tiêu dùng sản phẩm du lịch để thỏa mãn nhu cầu ngắm cảnh,
nghỉ ngơi, giải trí,… thì được gọi là khách du lịch. Những trường hợp di cư để
làm việc tạm thờitại địa phương đến sẽ không được coi là đi du lịch và khi đó,
mục đích của họ là để kiếm tiền.
Từ khái niệm ta thấy, khách du lịch bao gồm cả khách tham quan trong
ngày không ngủ qua đêm miễn là mục đích của chuyến đi không phải để kiếm
tiền ở nơi đến và khách nghỉ qua đêm với các mục đích khác.
Như vậy, những chuyến đi không được thống kê là khách du lịch bao
gồm:
* Những người đi lại trong môi trường thường xuyên của mình.
- Người đi làm việc hàng ngày bằng vé ôtô tháng.
- Người lao động sống ở các vùng biên giới hàng ngày phải qua biên giới
làm việc.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
- Người đi lại nơi cư trú thường xuyên của mình. Chẳng hạn những người
ở một nơi nhưng lại làm việc một nơi khác, phải đi lại hàng ngày, hàng tháng,

* Những người di cư với mục đích thay đổi nơi cư trú: di cư trong thời
gian dài, chuyển đến nơi ở khác…
* Những người không có nơi cư trú cố định: những người dân du mục,
những người dân lang thang không có nơi cư trú, những người tị nạn, sơ tán…
* Những người đi với mục đích kiếm tiền: di cư trong thời gian ngắn,
những người đi làm theo thời vụ, các giảng viên đi giảng bài ở nơi khác, hoạ sĩ
đi thực tế để vẽ…
* Những người đi lại khác: những hành khách quá cảnh, lực lượng vũ

trang đi hành quân, đại diện các cơ quan tư vấn đi làm nhiệm vụ…
Nhưng trong thực tế, các đối tượng nêu trên nếu có tiêu dùng sản phẩm
của ngành du lịch thì vẫn được tính vào khách du lịch. Vì vậy, quy định nói
trên vẫn mang tính chất tương đối.
Nền kinh tế càng phát triển, đời sống dân cư càng được nâng cao thì nhu
cầu của khách du lịch ngày càng đa dạng và phát triển không ngừng. Du lịch
của khách có rất nhiều mục đích khác nhau, vì vậy việc phân loại khách du lịch
là hết sức quan trọng và cần thiết. Hoạt động du lịch có thể được phân chia
thành các nhóm khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích, quan điểm khác nhau. Một
số cách tiếp cận phổ biến bao gồm:
* Căn cứ theo môi trường tài nguyên: Gồm du lịch văn hoá và du lịch
thiên nhiên.
Du lịch văn hoá là du lịch diễn ra chủ yếu trong môi trường nhân văn. Tài
nguyên du lịch nhân văn bao gồm: các di tích lịch sử, các công trình đương đại
lễ hội, phong tục tập quán, viện bảo tàng, …
Du lịch thiên nhiên là loại hình du lịch đưa du khách về những nơi có điều
kiện, môi trường tự nhiên trong lành, cảnh quan tự nhiên hấp dẫn… nhằm thoả
mãn nhu cầu đặc trưng của họ.
* Căn cứ vào mục đích chuyến đi, gồm hai loại: du lịch thuần tuý và du
lịch kết hợp.
Du lịch thuần tuý là loại hình hoạt động du lịch nhằm nghỉ ngơi, giải trí,
tham quan nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh. Du lịch thuần tuý bao
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
gồm: Du lịch tham quan, du lịch giải trí, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch khám phá,
du lịch thể thao, du lịch lễ hội
Du lịch kết hợp là loại hình hoạt động du lịch thuần tuý kết hợp với các
mục đích khác như học tập, công tác, nghỉ ngơi, tôn giáo, nghiên cứu… bao
gồm: du lịch kết hợp mục đích tôn giáo, du lịch kết hợp học tập, nghiên cứu,
du lịch kết hợp, du lịch kết hợp hội nghị, du lịch kết hợp thể thao, du lịch kết
hợp chữa bệnh, du lịch kết hợp thăm thân, du lịch kết hợp với mục đích kinh

doanh.
* Căn cứ vào lãnh thổ hoạt động gồm ba loại: du lịch quốc tế, du lịch nội
địa và du lịch quốc gia.
Du lịch quốc tế gồm du lịch quốc tế đến và du lịch ra nước ngoài.
Du lịch quốc tế đến là chuyến đi của người nước ngoài đến tham quan du
lịch, còn du lịch ra nước ngoài là chuyến đi của người trong nước đến tham
quan du lịch ở nước ngoài. Du lịch quốc tế làm biến đổi cán cân thu chi của
quốc gia tham gia hoạt động du lịch quốc tế.
Ở Việt Nam, du lịch quốc tế được chia thành du lịch đón khách và du lịch
gửi khách.
Du lịch đón khách là loại hình du lịch quốc tế phục vụ đón tiếp khách
nước ngoài đi du lịch, nghỉ ngơi, tham quan các đối tượng du lịch trong đất
nước.
Du lịch gửi khách là loại hình du lịch quốc tế phục vụ và tổ chức đưa
khách trong nước đi du lịch ở nước ngoài.
Du lịch nội địa: là hoạt động tổ chức, phục vụ người trong nước đi du lịch,
nghỉ ngơi và tham quan các đối tượng du lịch trong lãnh thổ quốc gia, về cơ
bản không có giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ.
Du lịch quốc gia: là hoạt động du lịch của một quốc gia, từ việc gởi khách
ra nước ngoài đến việc phục vụ khách trong và ngoài nước tham quan, du lịch
trong phạm vi nước mình.
* Căn cứ vào đặc điểm địa lý của điểm du lịch bao gồm: du lịch miền
biển du lịch núi, du lịch đô thị, du lịch thôn quê.
* Căn cứ vào phương tiện đến bao gồm:
- Du lịch xe đạp: loại hình này rất được ưa chuộng ở Châu Âu đặc biệt là ở
Hà lan, Đan Mạch. Phương tiện này làm cho du khách dễ dàng tiếp cận được
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
cuộc sống dân cư ở nước đến. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây đã có tổ
chức một số chuyến đi du lịch vòng quanh đất nước bằng xe đạp.
- Du lịch ôtô: hiện nay có tới 80% người Châu Âu đi du lịch bằng ôtô, loại

phương tiện này nhà cung ứng được chủ động hơn,
- Du lịch bằng tàu hoả: phương tiện này rất thuận lợi, nhanh chóng, an
toàn và giá cả thấp, do đó hình thức du lịch này cũng khá phổ biến song kém
linh động.
- Du lịch bằng tàu thuỷ: hiện nay, nhờ tiến bộ của khoa học công nghệ,
nhiều tàu du lịch ra đời với đầy đủ tiện nghi như phòng ăn, phòng ngủ, bar,
phòng khiêu vũ, hoà nhạc, sân thể thao … Loại hình này đang là thời thượng.
- Du lịch máy bay: đây là phương tiện ưa dùng nhất trong du lịch vì nó
cho phép du khách đi đến nhiều nơi xa xôi trong thời gian nhất định. Song chủ
yếu là với khách quốc tế.
Bảng 1.1: Cơ cấu du khách quốc tế đến Việt Nam theo phương tiện
(Đơn vị: %)
Phương tiện 1993 1994 1995 1996 1997
Đường không 89,8 92,4 98,3 58,5 60,3
Đường bộ 5,0 4,6 9,1 31,5 32,1
Đường thuỷ 5,2 3,0 1,6 10,0 7,6
Nguồn: Bộ Công An, Tổng cục Du lịch Việt Nam
* Căn cứ vào loại hình lưu trú:
Lưu trú là một trong những nhu cầu chính của du khách trong chuyến đi
du lịch. Bao gồm:
- Khách sạn: là cơ sở lưu trú có đầy đủ tiện nghi phục vụ việc ăn, ngủ, vui
chơi giải trí …
Ở Việt Nam, khách sạn đước xếp hạng từ một đến năm sao, đây là hình
thức xếp hạng phổ biến nhất.
- Motel: là một dạng cơ sở lưu trú được xây dựng gần đường giao thông -
Nhà trọ thanh niên: là dạng cơ sở lưu trú phục vụ chủ yếu cho sinh viên, thanh
niên và những người không có khả năng thanh toán cao.
- Camping.
- Bungalow: là một dạng nhà trọ làm bằng gỗ hay bằng các vật liệu nhẹ,
thường xuất hiện ở các vùng ven biển hay vùng núi.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
Làng du lịch: là một quần thể biệt thự tạo ra một không gian du lịch cho
phép du khách vừa có điều kiện giao tiếp vừa có không gian biệt lập khi họ
muốn.
* Căn cứ vào lứa tuổi du khách, bao gồm: du lịch thiếu niên, du lịch
thanh niên, du lịch trung niên, du lịch người cao tuổi
* Căn cứ vào độ dài chuyến đi gồm: du lịch ngắn ngày và du lịch dài
ngày. Song du lịch ngắn ngày thường chiếm tỉ lệ cao hơn so với du lịch dài
ngày.
* Căn cứ vào hình thức tổ chức: du lịch tập thể, du lịch cá thể, du lịch gia
đình
* Căn cứ vào phương thức hợp đồng gồm: du lịch trọn gói, du lịch thành
phần.
2. Khái niệm và đặc điểm ngành du lịch
2.1. Khái niệm về kinh doanh du lịch
Kinh doanh du lịch là quá trình tổ chức lưu thông, mua, bán hàng hoá du
lịch trên thị trường nhằm đảm bảo hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội. Kinh
doanh du lịch, cũng như các loại hình kinh doanh khác, nó diễn ra theo một chu
trình như sau:
- Tiếp thị- tổ chức sản xuất hàng hoá du lịch.
- Tiếp thị- ký kết các hợp đồng du lịch
- Tổ chức thực hiện hợp đồng
- Thanh quyết toán hợp đồng và rút kinh nghiệm
Các hoạt động kinh doanh này diễn ra ở nhiều hình thức kinh doanh khác
nhau, về cơ bản có 4 loại hình chủ yếu sau:
- Kinh doanh lữ hành
- Kinh doanh khách sạn du lịch
- Kinh doanh vận chuyển du lịch
- Kinh doanh các dịch vụ khác
* Về kinh doanh lữ hành:

Kinh doanh lữ hành là ngành kinh doanh các chương trình du lịch, là hoạt
động đặc trưng trong kinh doanh du lịch bao gồm sản xuất, đại lý, môi giới,
nhằm cung ứng một cách thuận lợi các sản phẩm dịch vụ du lịch.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
Hiện nay, loại hình này rất phát triển trên thế giới nói chung và ở Việt
Nam nói riêng. Ở nước ta hiện nay có gần 80 hãng lữ hành quốc tế.
Kinh doanh du lịch lữ hành được tổ chức thành các hãng lữ hành bao gồm:
hãng lữ hành quốc tế, hãng lữ hành nội địa và đại lý lữ hành.
- Hãng lữ hành quốc tế bao gồm lữ hành quốc tế chủ động, kinh doanh các
chương trình du lịch đón khách và lữ hành quốc tế bị động, kinh doanh các
chương trình gửi khách ra nước ngoài.
- Hãng lữ hành nội địa là kinh doanh các chương trình đưa khách du lịch
trong nước đi du lịch ở các vùng thuộc lãnh thổ nước đó.
- Đại lý lữ hành là những hãng kinh doanh thực hiện một hoặc nhiều công
đoạn do các hãng du lịch quốc tế hay du lịch nội địa uỷ thác.
Ngành kinh doanh lữ hành có vai trò quyết định đối với sự phát triển du
lịch thế giới. Thực tế cho thấy trên 80% khách du lịch sử dụng dịch vụ của
ngành du lịch lữ hành. Kinh doanh du lịch lữ hành phát triển sẽ góp phần thúc
đẩy sự phát triển của các loại hình kinh doanh du lịch khác.
* Về kinh doanh khách sạn-du lịch.
Nếu xét trong tổng thể kinh doanh du lịch, kinh doanh khách sạn là công
đoạn phục vụ khách du lịch để họ hoàn thành chương trình du lịch đã chọn, bao
gồm các dịch vụ cho khách thuê phòng, bán hàng ăn uống, hàng lưu niêm, các
hàng hoá khác, các dịch vụ phục vụ vui chơi giải trí, dịch vụ phục vụ sinh hoạt
các nhân…
Sản phẩm của hoạt động du lịch khách sạn là sản phẩm dịch vụ trực tiếp
phục vụ người tiêu dùng hay xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, ngành này mang
tính độc lập tương đối.
Hiện nay, kinh doanh khách sạn du lịch rất đa dạng, bao gồm: Hotel,
Motel, Camping, biệt thự, toa xe lửa có giường nằm (Rotel), toa xe có giường

do ôtô kéo (Caravan), tàu du lịch trên sông, trên biển được thiết kế phòng ăn,
phòng ngủ như khách sạn. Tất cả các khách sạn đều được phân hạng, cấp quốc
tế từ một đến năm sao, tuỳ thuộc vào từng đặc điểm khách sạn.
Kinh doanh khách sạn có hai chức năng chính là kinh doanh lưu trú và
kinh doanh ăn uống, ngoài ra còn có dịch vụ bổ sung. Trong đó:
- Kinh doanh lưu trú bao gồm kinh doanh các loại buồng ngủ, nghỉ… loại
này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh thu khách sạn. Thực tế
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
cho thấy, du khách thường chi cho lưu trú trong tổng chi tiêu cho du lịch là:
Trung Quốc 22,5%, Austraylia 46%; Indonesia 30,8%.
- Kinh doanh ăn uống là kinh doanh các mặt hàng ăn uống và chủ yếu
phục vụ cho khách lưu trú theo tuyến khép kín. Kinh doanh ăn uống đóng vai
trò quan trọng trong tổng doanh thu của khách sạn, đây là phương thức xuất
khẩu tại chỗ tối ưu. Thực tế cho thấy, đối với khách quốc tế, phương thức này
mang lại hiệu quả gấp 10 lần so với xuất khẩu ngoại thương. Ở một số nước,
chi cho ăn uống của khách chiếm trong tổng chi tiêu là: Trung Quốc 9,5%;
Hồng Kông 10,98%; Indonesia: 17,4%; Thái Lan 15,1%.
- Kinh doanh các dịch vụ bổ sung bao gồm: dịch vụ giặt là quần áo, sửa
chữa giày dép, đồng hồ …; dịch vụ mua vé xem phim, đặt vé máy bay, đặt chỗ
khách sạn, dịch vụ vui chơi giải trí, biểu diễn ca nhạc …; dịch vụ trông coi các
phương tiện, cho thuê xe đạp, xe máy, ôtô, bán hàng lưu niệm, chữa bệnh…
Loại hình kinh doanh này rất khó thống kê đầy đủ do luôn thay đổi theo nhu
cầu của khách.
Tuy nhiên, hiện nay kinh doanh khách sạn trên thế giới diễn ra theo ba xu
hướng rõ rệt, đó là: tập trung, mini hoá và tăng văn minh khách sạn.
* Về kinh doanh vận chuyển khách du lịch.
Kinh doanh vận chuyển khách du lịch là loại hinh kinh doanh bao gồm vận
chuyển bằng máy bay, tàu hoả, tàu thuỷ, ôtô, xe đạp, cáp vận chuyển … và các
phương tiện vận chuyển thông tin theo nhu cầu của khách như điện thoại, fax, …
Loại hình kinh doanh này đòi hỏi phải đáp ứng các nhu cầu đa dạng của

khách và đạt hiệu quả cao.
* Về kinh doanh các dịch vụ khác.
Đây là loại hình kinh doanh thông tin trong du lịch bao gồm nhiều dạng
khác nhau: dịch vụ môi giới, tìm địa chỉ, thông tin về giá cả, tư vấn về pháp lý,
thông tin nguồn khách, tổ chức tuyên truyền quảng cáo, xúc tiến hội chự du
lịch, …
Tuy nhiên, để kinh doanh thông tin đòi hỏi các doanh nghiệp du lịch phải
có nguồn dự trữ thông tin, xử lý chọn các thông tin đáng tin cậy, trừ các thông
tin thuộc bí mật quốc gia không được cung cấp.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
2.2. Đặc điểm ngành du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế mang tính chất tổng hợp. Hoạt động của
ngành du lịch vừa mang tính kinh tế vừa mang tính chất văn hoá xã hội. Vì vậy,
hoạt động sản xuất cũng rất phong phú và đa dạng. Nó bao gồm nhiều hoạt
động có tính chất kinh tế rất rõ rệt, đồng thời cũng có những hoạt động nhằm
nâng cao hiệu quả đối với con người. Nhìn chung có ba hoạt động chính:
- Hoạt động sản xuất bao gồm chế biến các món ăn uống của các cửa hàng
phục vụ ăn uống, hoặc sản xuất vật liệu phục vụ du lịch, sản xuất hàng du lịch,
hàng thông thường, …
- Hoạt động thương nghiệp bao gồm các hoạt động mua bán các món hàng
ăn, các hàng hoá khác đối với khách du lịch.
- Hoạt động dịch vụ bao gồm hoạt động lữ hành, dịch vụ lưu trú, hướng
dẫn khách, vận chuyển hành khách, vui chơi giải trí và các dịch vụ bổ sung
khác …
Ngành du lịch là một ngành kinh doanh đặc biệt, do đó nó có nhiều đặc
điểm khác biệt với các ngành kinh doanh khác.
- Thứ nhất, du lịch là ngành phụ thuộc vào tài nguyên du lịch. Tài nguyên
du lịch là cơ sở khách quan, là điều kiện ban đầu để phát triển ngành du lịch,
bao gồm tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Đó là những nơi,
những khu vực do tạo hoá của thiên nhiên, cũng có thể là do bàn tay của con

người xây dựng nên. Đó cũng là nơi kết tinh những giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ,
kiến trúc … làm cho du khách có thể đến và chiêm ngưỡng, hưởng thụ và được
sống một cách thoải mái với những cảnh vật xung quanh mình. Hơn nữa,
những kỳ quan, thắng cảnh đó còn được các nhà du khách ghi chép lại theo
năm tháng. Đó mới là cái đáng trân trọng và ó giá trị to lớn của ngành du lịch.
Tài nguyên du lịch càng phong phú và đa dạng thì càng hấp dẫn khách du lịch,
càng thu hút được nhiều du khách đến tham quan.
- Thứ hai, du lịch là ngành kinh doanh tổng hợp phuc vụ nhu cầu tiêu dùng
đa dạng chung và cao cấp của du khách. Mức sống dân cư không ngừng nâng
cao, đời sống không ngừng cải thiện, nhu cầu con ngời ngày cang đa dạng theo
hướng tiêu dùng ngày càng cao cấp. Vì vậy, nhu cầu du lịch cũng ngày càng đa
dạng và nhiều dần và du lịch là ngành kinh doanh tổng hợp có thể đáp ứng
được những nhu cầu đó, kể cả đối với du khách nội địa hay du khách ngoại
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
quốc. Du lịch sẽ đáp ứng theo chương trình các nhu cầu khác nhau một cách
hiệu quả nhất.
- Thứ ba, kinh doanh du lịch mang tính thời vụ cao. Thời vụ trong du lịch
là một quy luật phổ biến, nó tồn tại ở tất cả các nước và các vùng có hoạt động
du lịch. Tính thời vụ du lịch chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, có nhân tố
mang tính chất thiên nhiên, có nhân tố mang tính chất kinh tế-xã hội, có nhân
tố mang tính tâm lý, … chẳng hạn như khí hậu, thời gian nhàn rỗi, quần chúng
hoá, phong tục tập quán, điều kiện tài nguyên du lịch, sự sẵn sàng đón tiếp
khách, … Thời gian mùa vụ chính là lúc ngành du lịch được mùa kinh doanh,
vì thế thời gian này càng kéo dài càng tốt, nếu sử dụng tốt nguồn lực du lịch thì
sẽ làm tăng chất lượng phục vụ du lịch, tăng thu nhập từ du lịch. Ngược lại tính
thời vụ gây ra khá nhiều khó khăn trong việc tổ chức kinh doanh du lịch, cơ sở
vật chất kỹ thuật, …. Thời vụ ngắn sẽ làm cho việc sử dụng tài nguyên, sử
dụng cơ sở vật chất kỹ thuật không hết công suất, lãng phí tài nguyên, làm
giảm khả năng áp dụng chính sách giá linh hoạt. Mặt khác, tính thời vụ làm hạn
chế khả năng tìm chỗ nghỉ thích hợp hợp cho du khách tập trung quá đông tại

một thời điểm nào đó trong một thời điểm nhất định, gây tắc nghẽn giao thông,
do đó làm giảm chất lượng phục vụ khách du lịch.
Tính thời vụ trong du lịch không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
của bản thân ngành du lịch mà còn ảnh hưởng đến các ngành kinh tế và dịch vụ
có liên quan.
-Thứ tư, hoạt động du lịch cần phải bảo đảm những nhu cầu về an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội cho du khách, cho địa phương đến nhận khách
Du lịch không chỉ là ngành kinh tế mà còn là một ngành văn hoá xã hội. Vì
vậy, ngoài kinh doanh, dịch vụ du lịch còn phải đảm bảo cho du khách được
tiếp cận với những nét thuộc đặc trưng về văn hoá- xã hội riêng của nước mình,
cho du khách tiếp cận với tinh hoa, bản sắc dân tộc của quốc gia, nhằm thu hút
và gây ấn tượng ban đầu đối với du khách. Khách tham quan cũng rất đa dạng,
với nhiều mục đích khác nhau, kể cả những mục đích không lành mạnh. Người
dân ở nước đến bao gồm nhiều thành phần xã hội kể cả thành phần xã hội đen,
có thể gây hại đến khách du lịch. Vì vậy để bảo đảm an toàn cho du khách, các
cơ quan, tổ chức du lịch cần phối hợp với Đảng, Nhà nước có những biện pháp
tạo môi trường lành mạnh đối với các hoạt động tham quan của du khách.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
3. Vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển của nền kinh tế
Du lịch là hiện tượng của một xã hội có trình độ cao, là ngành dịch vụ mà
sản phẩm của nó dựa trên sản phẩm có chất lượng cao của nhiều ngành kinh tế
khác nhau. Tuy du lịch là một ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt nhưng nó
phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế tác động trực
tiếp và nhiều mặt đến hoạt động du lịch. Khi nền kinh tế phát triển thì người
dân có cuộc sống ổn định, mức sống được cải thiện và nâng cao, thời gian nhàn
rỗi của họ nhiều hơn, khi đó, nhu cầu cho việc vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi, …
càng cao. Mặt khác kinh tế phát triển sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc phục
vụ nhu cầu đa dạng của khách, các ngành kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy sự phát
triển của ngành du lịch.
Nông nghiệp, công nghiệp chế biến thực phẩm đã cung cấp một khối

lượng lớn lương thực và thực phẩm cho ngành du lịch. Bên cạnh đó, ngành xây
dựng, giao thông vận tải cũng có vai trò quan trọng đối với ngành du lịch, đó là
những ngôi nhà đẹp, những công trình kiến trúc kỳ công, … những tuyến
đường giao thông tạo thuận lợi cho việc vận chuyển khách… Ngoài ra, thông
tin liên lạc cũng ảnh hưởng sâu sắc đến du lịch. Các phương tiện truyền tin
nhanh sẽ tạo điều kiện trong việc quảng bá du lịch một cách có hiệu quả, sẽ
thông tin đến cho hàng triệu khách hàng trên thế giới,…
Ngược lại, du lịch cũng tác động trở lại đến sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia. Du lịch có vai trò lớn đối với nền kinh tế và đối với văn hoá xã hội,
chính trị địa phương. Dưới góc độ kinh tế, du lịch là một ngành kinh doanh đạt
hiệu quả cao, có vốn đầu tư lớn, … So với ngoại thương, du lịch cũng có nhiều
ưu thế nổi trội, hoạt động du lịch làm biến đổi cán cân thu chi của khu vực và
đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất nước, làm tăng ngoại tệ cho
đất nước đến. Ngược lại, phần chi ngoại tệ tăng lên đối với quốc gia có người
đi du lịch nước ngoài. Trong phạm vi của một quốc gia, hoạt động du lịch làm
xáo động luân chuyển tiền tệ, hàng hoá. Cán cân thu chi này đối với các vùng
có trình độ kinh tế khác nhau và có tác dụng điều hoà nguồn vốn từ vùng kinh
tế phát triển sang vùng kinh tế kém phát triển, kích thích sự tăng trưởng các
vùng sâu, vùng xa.
Một khu vực đã là điểm du lịch, thì ở đó phải có khối lượng vật tư, hàng
hoá các loại… điều này đã kích thích được các ngành khác phát triển như nông
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng, giao thông vận tải, …. Mặt khác, hàng
hoá du lịch đòi hỏi chất lượng cao, đa dạng, phong phú và có tính hấp dẫn.
Điều này có nghĩa hàng hoá phải được sản xuất với công nghệ cao, buộc các
doanh nghiệp sản xuất này phải có các trang thiết bị hiện đại, công nhân có tay
nghề cao, … nhằm tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Mặt khác, du lịch quốc tế là một hình thức xuất khẩu tại chỗ rất nhiều mặt
hàng khác ngoài chương trình du lịch, mà không cần nhiều lao động, chênh
lệch giữa người tiêu dùng và người cung ứng không quá cao. Nhiều mặt hàng

xuất khẩu tại chỗ đôi khi không cần thiết phải đóng góp và bảo quản phức
tạp….
Như vậy, du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh tế khu
vực. Nhiều nước trên thế giới coi du lịch là cứu cánh để mong muốn vực dậy
nền kinh tế ốm yếu của mình. Du lịch là ngành công nghiệp không có khói, là “
con gà đẻ trứng vàng”.
Du lịch không chỉ tác động đến kinh tế khu vực mà còn có ý nghĩa rất
quan trọng trong lĩnh vực văn hoá, xã hội. Trên bình diện là ngành văn hoá-xã
hội, du lịch mang lại hiệu quả về mặt xã hội đối với con người. Du lịch không
chỉ tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên mà còn khám phá tài nguyên nhân văn. Điều
đó có nghĩa du lịch nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, nâng
cao sự hiểu biết, mở mang quan hệ của các du khách,…. Tạo điều kiện bảo tồn
di sản văn hoá dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc quốc gia, tăng cường các mối
quan hệ dân tộc, xã hội, tình hữu nghị và sự hiểu biết về con người với nhau
giữa các quốc gia.
Như vậy, du lịch là một ngành kinh tế mang tính chất tổng hợp, có tác
dụng góp phần tích cực thực hiện chính sách mở cửa, thúc đẩy sự đổi mới và
phát triển nhiều ngành kinh tế, tạo công ăn vệic làm, mở rộng giao lưu văn hoá-
xã hội giữa các vùng và giữa các quốc gia với nhau.
Thực tế cho thấy, trong mấy thập kỷ gần đây, du lịch ở nhiều nước rất phát
triển. Số lượng tham gia vào các chuyến du lịch quốc tế ngày càng tăng: năm
1950 mới có 25,3 triệu lượt người đi du lịch thì đến năm 1996 đã có 592 triệu
lượt người. Năm 1950, thu nhập ngoại tệ từ du lịch toàn thế giới mới là 2,1 tỷ
USD thì năm 1996 là 423 tỷ USD, bằng 8% kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nước. Hoạt động du lịch đã
tạo ra 180 triệu chỗ làm việc, thu hút khoảng 11% lực lượng lao động toàn cầu.
Nhìn chung, nền kinh tế nước ta thường nhập siêu cao. Trong khi đó, hoạt
động du lịch lại là hoạt động xuất khẩu tại chỗ (chỉ đứng sau ngành công
nghiệp khai thác và trồng trọt) nên đã có đóng góp to lớn nhằm giảm mức nhập

siêu cả nước. Bên cạnh du lịch quốc tế, du lịch trong nước cũng đóng vai trò
quan trọng đối với nền kinh tế. Trong những năm gần đây, đời sống nhân dân
được nâng cao, từ năm 1993 đến năm 1998 khách du lịch nội địa tăng từ 2,5
triệu lên 9,6 triệu lượt người.
Nhận thức được vai trò của ngành du lịch, nhiều nước đã chú trọng và có
những chiến lược phát triển du lịch, coi là ngành kinh tế quan trọng đạt hiệu
quả cao.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến sự phát triển ngành du
lịch, xác định du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, phát triển du lịch là phương
hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế, xã hội góp
phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khuyến khích các thành
phần kinh tế phát triển. Hiện nay, ngành du lịch đã và đang phát huy vai trò đó
trong nền kinh tế và đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt nhiều kết qủa khả
quan về lượng khách đến, về doanh thu, về lợi nhuận, về kết quả sản xuất, về
thu nhập xã hội từ du lịch, …
II. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG DU
LỊCH.
1. Quan diểm về kết quả hoạt động du lịch.
Sản xuất là hoạt động của con người để tạo ra những sản phẩm hữu ích,
sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ, nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho
xã hội cho sản xuất, cho đời sống, cho tích luỹ cho xuất khẩu. Song không phải
mọi hoạt động nói trên đều được coi là sản xuất.
Kết quả của quá trình sản xuất xã hội là sản phẩm xã hội. Sản phẩm xã hội
là toàn bộ sản phẩm vật chất và dịch vụ, hữu ích, trực tiếp do lao động sản xuất
sáng tạo ra trong một thời kỳ nhất định. Kết quả của sản xuất bao gồm cả sản
phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những sản
phẩm mang lại lợi ích tiêu dùng xã hội được thể hiện là sản phẩm vật chất hoặc
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
sản phẩm dịch vụ, mà những sản phẩm này phải phù hợp với lợi ích kinh tế và

trình độ văn hoá của người tiêu dùng, phải được xã hội chấp nhận.
Đối với du lịch, hoạt động sản xuất kinh doanh du lịch tạo ra các sản phẩm
dịch vụ đặc biệt như: kinh doanh dịch vụ lữ hành, kinh doanh dịch vụ khách
san, dịch vụ ăn uống, dịch vụ vận tải hành khách và một số dịch vụ khác liên
quan. Những sản phẩm này phải phù hợp với tiêu chuẩn quy định, phục vụ
được mọi nhu cầu đa dạng của khách đi du lịch
Kết quả hoạt động du lịch được đánh giá qua các chỉ tiêu như: Số khách,
số ngày khách, doanh thu, lợi nhuận, giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, thu nhập
xã hội từ du lịch, số cơ sở lưu trú,…
Kết quả hoạt động du lịch bao gồm những nội dung sau:
Kết quả hoạt động du lịch phải do lao động sản xuất kinh doanh trong lĩnh
vực du lịch tạo ra có đủ tiêu chuẩn chất lượng mà Nhà nước quy định theo yêu
cầu sử dụng và hưởng thụ.
Kết quả hoạt động du lịch đáp ứng được mọi yêu cầu tiêu dùng đa dạng
của cá nhân, của cộng đồng có nhu cầu đi du lịch. Do đó sản phẩm của các
doanh nghiệp kinh doanh du lịch tạo ra phải có giá trị sử dụng và giá trị hưởng
thụ. Nếu sản phẩm dịch vụ này không được tiêu dùng thì sẽ không có giá trị,
nếu tiêu dùng càng nhiều càng có giá trị. Song giá trị sử dụng của những sản
phẩm này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ
thuật, nền văn minh xã hội…
Kết quả hoạt động du lịch đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng và doanh
nghiệp. Do vậy chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch không vượt quá giới hạn
lợi ích kinh tế của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Lợi nhuận của doanh
nghiệp thể hiện ở chi phí sản xuất không vượt quá giá bán các sản phẩm dịch
vụ du lịch cho khách và lợi ích của người tiêu dùng thể hiện ở khả năng thanh
toán khi mua hàng và mức tiết kiệm trong quá trình sử dụng sản phẩm.
Kết quả hoạt động du lịch mang lại lợi ích kinh tế chung cho tiêu dùng xã
hội, được biểu hiện bằng kết quả tiếp nhận, tiết kiệm chi phí, tiền của, thời gian
sử dụng sản phẩm và giảm thiệt hại cho môi trường xã hội.
2. Ý nghĩa, nhiệm vụ nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch.

Nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch là quá trình nghiên cứu, đánh giá
toàn bộ quá trình hoạt động và kết quả của hoạt động đó, bao gồm toàn bộ kết
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
quả kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch, các dịch vụ liên quan…Đó là
toàn bộ kết quả sản xuất của các hoạt động như lữ hành, khách sạn, ăn uống,
lưu trú, bán hàng hoá lưu niệm, dịch vụ vận chuyển khách, dịch vụ giải trí, nghỉ
ngơi, dưỡng bệnh…
Thống kê kết quả hoạt động du lịch nhằm phản ánh được chất lượng của
sản phẩm du lịch, chất lượng của hoạt động kinh doanh và các nguồn tiềm năng
cần được khai thác, trên cơ sở đó để đề ra các phương án giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch.
Trong phạm vi một quốc gia, nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch có ý
nghĩa:
Kết quả hoạt động du lịch là cơ sở để phát hiện những khả năng tiềm tàng
từ đó cho phép đưa ra phương hướng nhằm cải tiến cơ chế quản lý trong lĩnh
vực du lịch.
Nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch một quốc gia là cơ sở để đánh giá sự
phát triển của toàn ngành trong từng giai đoạn phát triển, từ đó xác định được
vị thế của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân. Đó là tiền đề để các nhà
quản lý trong lĩnh vực du lịch đưa ra các chính sách, các chiến lược phát triển
ngành phù hợp.
Các chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch bao gồm:
- Chỉ tiêu về khách du lịch Là chỉ tiêu cơ bản cho phép đánh giá khối
lượng hoạt động của từng đơn vị kinh doanh và toàn ngành trong từng thời kỳ
nhất định. Bao gồm các chỉ tiêu như: Tổng số khách, số ngày khách, kết cấu
khách,…Các chỉ tiêu này dùng để tính ra nhiều chỉ tiêu chất lượng và hiệu quả
của hoạt động du lịch. Mặt khác, chỉ tiêu về khách là cơ sở để lập kế hoạch cho
nhiều chỉ tiêu kết quả quan trọng khác.
- Chỉ tiêu về doanh thu du lịch: Không chỉ phản ánh khối lượng hoạt động
mà còn phản ánh chất lượng phục vụ, sự thay đổi trình độ hiện đại của các sơ

sở vật chất kỹ thuật và mức độ phục vụ. Đó là cơ sở để tính ra nhiều chỉ tiêu
khác như cơ cấu doanh thu, …
- Chỉ tiêu giá trị sản xuất, lợi nhuận, giá trị tăng thêm, doanh thu xã hội từ
du lịch…: Là các chỉ tiêu kết quả quan trọng chho phép đánh giá khối lượng
kinh doanh đồng thời phản ánh hiệu quả hoạt động du lịch. Từ đó có thể lập kế
hoạch và dự báo cho tương lai.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
Thống kê kết quả hoạt động du lịch là một trong những nhiệm vụ rất quan
trọng trong thống kê kinh tế nói chung và thống kê về du lịch nói riêng, bao
gồm các nhiệm vụ sau:
- Xác định đúng kết quả hoạt động của các đơn vị kinh doanh du lịch và
của toàn ngành qua các chỉ tiêu: Số lượng khách, số ngày lưu trú của khách, kết
cấu khách, tổng doanh thu, kết cấu doanh thu, lợi nhuận, giá trị sản xuất, giá trị
tăng thêm, thu nhập xã hội từ du lịch…nhưng tránh việc tính trùng các kết quả.
-Từ cơ sở số liệu thu thập được có thể lựa chọn các phương pháp thống kê
vận dụng phân tích kết quả hoạt động du lịch bao gồm: phân tích theo thời
gian, phân tích theo không gian, phân tích mối liên hệảnh hưởng của các yếu tố
tác động đến biến động kết quả hoạt động du lịch.
- Đưa ra nhận xét, đánh giá xu hướng của sự biến động đồng thời dự báo kết
quả trong tương lai. Từ đó đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh đối với từng doanh nghiệp cũng như toàn ngành.
III. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ HOẠT
ĐỘNG DU LỊCH.
1. Khái niệm hệ thống chỉ tiêu thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động
du lịch.
Hệ thống chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch là tập hợp các chỉ tiêu phản
ánh các mặt, các tính chất quan trọng nhất, các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt
của kết quả sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực du lịch và mối liên hệ của nó
với các đối tượng có liên quan.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch hoàn chỉnh

có ý nghĩa trong việc lượng hoá các mặt, các biểu hiện quan trọng nhất, lượng
hoá cơ cấu và các mối liên hệ cơ bản của hiện tượng. Đó là cơ sở để có thể
nhận thức được bản chất và tính quy luật về sự phát triển của hoạt động du lịch.
Bao gồm tính quy luật về sự phát triển của kết quả hoạt động du lịch, tính quy
luật về mối liên hệ phụ thuộc giữa các nhân tố liên quan với kết quả hoạt động,
tính quy luật về sự tác động mang tính chất thời vụ.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch bao gồm các chỉ tiêu:
các chỉ tiêu về khách, các chỉ tiêu về doanh thu, chỉ tiêu lợi nhuận, chỉ tiêu giá
trị sản xuất, chỉ tiêu giá trị tăng thêm, chỉ tiêu thu nhập xã hội từ du lịch.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
2. Yêu cầu và nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu kết quả hoạt động
du lịch.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch phải nêu lên được
mối liên hệ giữa các mặt của hiện tượng du lịch và các hiện tượng kinh tế liên
quan tuỳ theo phạm vi và mục đích nghiên cứu.
Du lịch là một ngành dịch vụ đặc biệt vì vậy việc xây dựng hệ thống chỉ
tiêu thống kê về kết quả phải đảm bảo yêu cầu mang tính chất chung đồng thời
mang tính chất từng mặt của từng bộ phận, từng loại hình kinh doanh, từng loại
hình du lịch và phải phản ánh được đầy đủ đặc điểm và bản chất của hiện
tượng.
Các chỉ tiêu phải được tính toán theo phương pháp, phạm vi và nội dung
nhất định.
Kết quả hoạt động du lịch của một đơn vị, một doanh nghiệp, một địa
phương hay của một quốc gia đều có cách tính toán, cách thu thập số liệu, cách
đánh gía khác nhau nhưng ở bất kỳ phạm vi nào thì việc xâu dựng hệ thống chỉ
tiêu thống kê phản ánh kết quả hoạt động du lịch cũng theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch phải đảm
bảo tính hướng đích có nghĩa các chỉ tiêu này phải đáp ứng được nhu cầu thông
tin phục vụ cho việc đánh giá hiệu quả kinh doanh ở tầm vi mô và vĩ mô.
Thứ hai, hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch phải đảm

bảo tính hệ thống nghĩa là các chỉ tiêu phải nêu lên được mối liên hệ giữa các
mặt của hiện tượng sao cho phù hợp với mục đích nghiên cứu. Các chỉ tiêu này
vừa mang tính chất chung của tổng thể vừa mang tính chất bộ phận, phản ánh
được đặc điểm phát triển của ngành.
Thứ ba, hệ thồng chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch phải đảm bảo tính khả
thi nghĩa là ở từng doanh nghiệp, từng địa phương, từng quốc gia khi xây dựng
hệ thống chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch trước hết phải căn cứ vào đặc điểm
sản xuất của ngành ở đó và đặc điểm kinh tế chung ở từng phạm vi. Các chỉ
tiêu này không được tính trùng hoặc tránh trường hợp xây dựng quá nhiều chỉ
tiêu.
Thứ tư, hệ thống chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch phải đảm bảo tính hiệu
quả nghĩa là hệ thống chỉ tiêu được xây dựng phải mang đầy đủ thông tin phản
ánh được kết quả hoạt động du lịch. Những thông tin này phải đạt được tiêu
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
chuẩn và chất lượng nhất định. Mặt khác khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu cần
phải căn cứ vào mục đích nghiên cứu, căn cứ vào nhu cầu thông tin quản lý vĩ
mô. Tính hiệu quả ở đây được hiểu là hiệu quả về mặt lý luận cũng như hiệu
quả về mặt thực tiễn.
3. Các chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch.
3.1. Nhóm chỉ tiêu khách du lịch.
Khách du lịch được nhận thức theo 3 tiêu chí sau:
- Về không gian: Khách du lịch phải là người đi khỏi nơi cư trú thường
xuyên của họ.
- Về thời gian: Khách du lịch phải là người đi khỏi nơi cư trú thường
xuyên từ 24 giờ trở lên.
- Về mục đích chuyến đi: Khách đi du lịch không vì mục đích kinh tế,
không nhằm mục đích kiếm tiền nơi mà mình đến du lịch.
Việc phân biệt theo các điều kiện trên được cụ thể theo sơ đồ sau (trang
bên).
Các chỉ tiêu thống kê khách du lịch được xây dựng trên cơ sở: phân biệt

giữa khách du lịch quốc tế và khách du lịch trong nước. Khách du lịch quốc tế
là một khách đi du lịch tới một đất nước không phải là đất nước mà họ cư trú
thường xuyên trong khoảng thời gian ít nhất là một ngày đêm nhưng không
vượt quá một năm và mục đích chính của chuyến đi không phải là để thực hiện
việc kiếm tiền từ đất nước đến thăm. Khách du lịch trong nước là một khách cư
trú ở một đất nước đi du lịch tới một địa phuơng trong phạm vi lãnh thổ của đất
nước đó nhưng ngoài môi trường thường xuyên của họ trong thời gian ít nhất là
một ngày đêm nhưng không quá 6 tháng và mục đích chính của chuyến đi
không phải để thực hiện hoạt động kiếm tiền từ địa phương đến thăm.
Phân biệt khách thăm quan và du khách. Khách thăm quan là một loại
khách đến với mục đích nâng cao nhận thức tại chỗ có kèm theo việc tiêu thụ
những giá trị tinh thần, vật chất, dịch vụ nhưng không lưu lại qua đêm tại một
cơ sở lưu trú của ngành du lịch. Còn du khách là người khách cũng với mục
đích thẩm nhận tại chỗ những giá trị tinh thần, vật chất, dịch vụ nhưng có lưu
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
lại qua đêm tại một cơ sở lưu trú và có sử dụng các sản phẩm dịch vụ khác của
các doanh nghiệp như lữ hành, khách sạn, ăn uống…
Chỉ tiêu về khách du lịch là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá khối lượng hoạt
động của từng đơn vị cũng như của toàn ngành bao gồm các nhóm chỉ tiêu sau:
nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô khách du lịch, nhóm chỉ tiêu nghiên cứu cơ cấu
khách du lịch, nhóm chỉ tiêu phản ánh đặc trưng tiêu dùng của khách.
3.1.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô khách du lịch.
* Chỉ tiêu số khách du lịch
Số khách du lịch là tổng số lượt người đến và tiêu dùng các sản phẩm dịch
vụ du lịch trong kỳ nghiên cứu.
Đơn vị tính: Lượt người (lượt khách)
- Đối với từng đơn vị kinh doanh du lịch: số khách du lịch quốc tế là số
lượt khách mà đơn vị phục vụ trong kỳ nghiên cứu.
- Đối với toàn ngành: Số khách du lịch quốc tế là tổng số khách được thu
thập ở các cửa khẩu, đường hàng không, đường bộ, đường biển.

Còn số khách du lịch trong nước được thu thập theo 2 cách như sau:
+ Theo thống kê kinh nghiệm: Số khách du lịch trong nước là tổng số
khách của các đơn vị kinh doanh nhân hệ số điều chỉnh quy định trước.
+ Qua điều tra: Điều tra từng hộ gia đình hoặc điều tra chọn mẫu.
Ngoài ra tổng số khách du lịch bao gồm số khách của 3 bộ phận:
Số lượng khách du lịch quốc tế
Số lượng khách du lịch trong nước
Số lượng khách du lịch trong nước đi ra nước ngoài.
* Chỉ tiêu số ngày khách:
Số ngày khách là tổng số ngày khách được thu thập từ các báo cáo thống
kê định kỳ của các tổ chức kinh doanh du lịch
Đơn vị tính: ngày khách (ngày người)
- Đối với từng đơn vị kinh doanh: tổng số ngày khách bằng tổng số khách
cộng dồn trong kỳ nghiên cứu.
- Đối với toàn ngành: tổng số ngày khách bằng tổng số khách cộng dồn
của các đơn vị kinh doanh du lịch trong kỳ nghiên cứu.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
Chỉ tiêu về số ngày khách phản ánh cụ thể hơn về quy mô khách du lịch so
với chỉ tiêu số khách.
3.1.2. Nhóm chỉ tiêu thống kê nghiên cứu kết cấu khách du lịch.
* Kết cấu theo nguồn khách.
- Khách du lịch quốc tế phân theo khu vực và quốc tịch.
- Khách du lịch trong nước chia theo vùng và địa phương
* Kết cấu theo mục đích chuyến đi.
- Nhóm khách vui chơi giải trí, du lịch
- Nhóm khách du lịch kết hợp với công việc.
- Nhóm khách với mục đích thăm thân và bạn bè.
- Nhóm khách với mục đích khác.
* Kết cấu theo phương tiện đến.
- Khách đến bằng đường không

- Khách đến bằng đường bộ
- Khách đến bằng đường biển
* Kết cấu theo thời gian lưu trú.
* Kết cấu theo độ tuổi
*Kết cấu theo nghề nghiệp
*Kết cấu theo đặc tính tinh thần của khách.
* Kết cấu theo phương thức hợp đồng
- Khách đi trọn gói
- Khách đi từng phần
* Kết cấu theo loại hình lưu trú.
- Khách đến ở khách sạn
- Khách đến ở Motel
- Khách đến ở nhà nghỉ
- Khách đến ở nhà trọ
- Khách ở bằng Campping…
* Kết cấu theo tháng, theo quý, theo năm.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
3.1.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh đặc trưng tiêu dùng của khách.
- Thu nhập bình quân của khách
- Chi tiêu bình quân của khách cho du lịch
- Cơ cấu tiêu dùng của khách
- Số ngày lưu trú bình quân của khách
3.2. Nhóm chỉ tiêu thống kê doanh thu du lịch.
Doanh thu du lịch là toàn bộ số tiền thu được từ khách du lịch trong kỳ
nghiên cứu do hoạt động phục vụ các loại bao gồm các chi phí của khách về du
lịch, doanh thu bán hàng hoá (trừ chi phí cho vận tải hành khách quốc tế)
Chỉ tiêu doanh thu du lịch cho phép phản ánh khối lượng hoạt động và
chất lượng phục vụ của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch
3.2.1. Chỉ tiêu tổng doanh thu du lịch.
- Doanh thu lữ hành

- Doanh thu khách sạn
- Doanh thu vận chuyển khách
- Doanh thu khác: doanh thu bán hàng, doanh thu dịch vụ vui chơi giải
trí…
3.2.2. Nhóm chỉ tiêu thống kê nghiên cứu kết cấu doanh thu du lịch
* Theo từng loại khách
- Doanh thu khách quốc tế
- Doanh thu khách du lịch trong nước
- Khách trong nước ra nước ngoài
* Theo loại hình sản phẩm du lịch
- Doanh thu cho thuê phòng
- Doanh thu lữ hành
- Doanh thu bán hàng hoá
- Doanh thu vận chuyển khách
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thái Thị Bé - Lớp: Thống kê 41A
- Doanh thu bánông nghiệp hàng ăn uống
- Doanh thu dịch vụ vui chơi giải trí
- Doanh thu khác
3.2.3. Chỉ tiêu doanh thu bình quân 1 khách, doanh thu bình quân 1 ngày khách.
3.3. Chỉ tiêu lợi nhuận du lịch.
Tổng lợi nhuận của tổ chức du lịch là khoản chênh lệch giữa tổng doanh
thu và tổng chi phí (hoặc giá thành toàn bộ) của tổ chức du lịch đó.
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động du lịch trong kỳ
nghiên cứu vì mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận.
3.4. Chỉ tiêu giá trị sản xuất ngành du lịch.
Giá trị sản xuất là toàn bộ của cải vật chất và dịch vụ được tạo ra trong
một thời kỳ nhất định của doanh nghiệp, thường là 1 năm.
Đây là chỉ tiêu quan trọng, nó phản ánh toàn bộ kết quả cuối cùng của hoạt
động du lịch. Nghiên cứu chỉ tiêu này cho phép phản ánh một cách tổng hợp
thành quả đạt được của đơn vị. Giá trị sản xuất du lịch toàn ngành bao gồm:

- Giá trị sản xuất của hoạt động lữ hành
- Giá trị sản xuất của hoạt động khách sạn
- Giá trị sản xuất của hoạt động vận chuyển khách
- Giá trị sản xuất của các dịch vụ khác
3.5. Chỉ tiêu giá trị tăng thêm ngành du lịch.
Giá trị tăng thêm là giá trị sản xuất sau khi trừ chi phí trung gian ngành du
lịch.
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả thuần cuối cùng của hoạt động du lịch, là
chỉ tiêu quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động du lịch của từng đơn vị hoặc
của toàn ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân.
Giá trị tăng thêm toàn ngành bao gồm:
- Giá trị tăng thêm hoạt động lữ hành
- Giá trị tăng thêm hoạt động khách sạn

×