Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO xây DỰNG mô HÌNH tổ CHỨC kế TOÁN QUẢN TRỊ ở các DOANH NGHIỆP sản XUẤT KINH DOANH nước TA TRONG điều KIỆN KINH tế THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.29 KB, 132 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
- Kế toán quản trị (KTQT) là một bộ phận của hệ thống kế toán, nó ra
đời trong điều kiện nền kinh tế thị trường, KTQT được coi là loại kế toán
dành riêng cho những người làm công tác quản lý kinh doanh, phục vụ cho
các nhà quản trị ra các quyết định kinh doanh.
- Trong điều kiện kinh tế thị trường, để đưa ra quyết định kinh doanh,
các nhà quản lý doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào các thông tin quá khứ,
mà còn phải dựa vào các thông tin liên quan đến tương lai, để phân tích các
tình huống, các phương án kinh doanh và lựa chọn phương án kinh doanh có
hiệu quả nhất. KTQT sẽ giúp cho các nhà quản trị trong doanh nghiệp thu
thập và phân tích các thông tin cần thiết liên quan đến các tình huống, các
phương án kinh doanh trong quá trình lựa chọn ra quyết định.
- KTQT rất phát triển ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển,
ở Việt Nam KTQT cũng đã được đề cập đến trong định hướng phát triển hệ
thống kế toán Việt Nam từ năm 1995, đặc biệt trong chiến lược phát triển hệ
thống kế toán Việt Nam 2000-2010 đã xây dựng cụ thể chương trình phát
triển công tác KTQT ở các doanh nghiệp.
- Tuy nhiên sự quan tâm đến KTQT ở góc độ vĩ mô cũng mới là định
hướng chiến lược; còn đối với các nhà nghiên cứu, các trường Đại học chuyên
ngành đã quan tâm rất nhiều về lý luận và tính ứng dụng KTQT đối với các
doanh nghiệp. Mặt khác thực tế các doanh nghiệp, nhất là các DNNN hiện
nay còn rất bỡ ngỡ và chưa thực sự quan tâm đến KTQT.
- Do các lý do nêu trên, đề tài: "Xây dựng mô hình tổ chức KTQT ở
các DNSXKD trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta" là một đề tài
hết sức cần thiết hiện nay. Đề tài góp phần bổ sung thêm những vấn đề lý luận
về KTQT, tăng cường tính ứng dụng của KTQT đối với các DN, góp phần
phát triển công tác KTQT ở Việt Nam.
1



2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nội dung KTQT và tổ
chức công tác KTQT trong doanh nghiệp, góp phần làm sáng tỏ hơn một số
vấn đề lý luận về nội dung KTQT và tổ chức công tác KTQT trong doanh nghiệp.
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng về vận dụng và tổ chức KTQT ở các
DN hiện nay.
- Đề xuất mô hình tổ chức KTQT ở doanh nghiệp SXKD.
- Cung cấp thêm tài liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu và học tập
của Trường.
3. Đối tượng và phạm vi đề tài nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ yếu sau:
- Nội dung tổ chức KTQT trong các doanh nghiệp SXKD
- Tổ chức bộ máy kế toán để thu nhập, xử lý và cung cấp thông tin
KTQT trong các doanh nghiệp SXKD.
4. Nội dung của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương
- Chương 1: Lý luận cơ bản về KTQT trong các doanh nghiệp
- Chương 2: Thực trạng về vận dụng và tổ chức KTQT ở các DN hiện
nay.
- Chương 3: Phương hướng xây dựng mô hình tổ chức KTQT ở các
DNSXKD trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta.

2


Chương I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀ TỔ CHỨC
KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP


1.1. Khái quát chung về kế toán quản trị
1.1.1. Khái niệm kế toán quản trị (KTQT)
Kế toán là nhu cầu tất yếu khách quan, là công cụ không thể thiếu
được để phục vụ quản lý kinh tế, đặc biệt trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa.
Chức năng của kế toán là cung cấp thông tin cần thiết về tình hình và
sự vận động của tài sản trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp (tổ chức) cho các đối tượng sử dụng thông tin với các mục đích
sử dụng khác nhau ra được các quyết định phù hợp.
Đối tượng sử dụng thông tin kế toán của một doanh nghiệp rất đa
dạng: các nhà quản trị doanh nghiệp, các chủ đầu tư, các chủ nợ, các cơ quan
quản lý chức năng của Nhà nước.
Các nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp sử dụng thông tin kế toán
để điều hành, quản lý hoạt động của doanh nghiệp, đề ra được các quyết định
quản lý phục vụ cho việc điều hành, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu của các nhà quản trị doanh nghiệp.
Các chủ đầu tư, chủ nợ sử dụng thông tin kế toán để ra được các quyết
định đầu tư, quyết định cho vay một cách đúng đắn với mục đích đầu tư, cho
vay của họ.
Các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước sử dụng thông tin kế
toán của doanh nghiệp để kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp,
việc thực hiện, chấp hành các chính sách chế độ quản lý kinh tế - tài chính nói
chung, chế độ thể lệ, quy định về kế toán nói riêng, phục vụ cho việc điều
hành và quản lý nền kinh tế quốc dân.
3


Như vậy do mục đích sử dụng thông tin của các đối tượng sử dụng
khác nhau, nên thông tin do kế toán cung cấp cũng rất đa dạng và khác nhau,
khác nhau về nội dung, phạm vi, về mức độ, tính chất, thời gian cung cấp kể
cả về mặt giá trị pháp lý của thông tin. Sự khác nhau đó là tiêu thức để chia kế

toán doanh nghiệp thành các loại kế toán khác nhau: kế toán tài chính, kế toán
quản trị, kế toán tổng hợp, kế toán chi tiết.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều quá
trình, nhiều hoạt động khác nhau. Đề điều hành và quản lý một cách có hiệu
quả, các nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp phải có được thông tin về
tình hình và kết quả hoạt động của từng quá trình, từng hoạt động và toàn bộ
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở thông tin do kế
toán cung cấp về tình hình và kết quả hoạt động các nhà quản trị doanh
nghiệp tiến hành kiểm tra, phân tích thông tin để đánh giá hoạt động từ đó lập
kế hoạch cho kỳ hoạt động tiếp theo. Qua đó ta thấy thông tin do kế toán cung
cấp được các nhà quản trị doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động quản lý, nó
luôn gắn liền với việc ra quyết định quản lý, với các chức năng quản lý của
doanh nghiệp.
Quá trình hoạt động của doanh nghiệp cũng chính là quá trình bỏ chi
phí để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua các chức năng quản lý mà các nhà quản trị doanh nghiệp
kiểm tra, giám sát việc sử dụng chi phí (tiêu dùng nguồn lực), tính toán hiệu
quả của việc bỏ chi phí - hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp có
thể hoạt động ở các phạm vi, lĩnh vực khác nhau, xong việc bỏ chi phí của
doanh nghiệp luôn luôn gắn liền với các quá trình cung ứng: mua sắm nguyên
vật liệu, vật tư, hàng hóa, mua sắm, xây dựng tài sản cố định, tuyển dụng lao
động; quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm, thực hiện lao vụ, dịch vụ; quá trình
bán hàng, tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, lao vụ, dịch vụ; quá trình quản lý, các
nhà quản trị doanh nghiệp không chỉ cần những thông tin tổng hợp về tình
hình tài sản, chi phí và kết quả toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và cần
thiết hơn với họ là những thông tin về từng quá trình, từng loại hoạt động.
Trong từng quá trình, từng hoạt động, các nhà quản trị các cấp khác nhau
4



trong doanh nghiệp lại cần có những thông tin cụ thể hơn, chi tiết hơn phù
hợp với yêu cầu quản lý và việc ra quyết định. Chẳng hạn như đối với quá
trình sản xuất chế tạo sản phẩm các nhà quản trị doanh nghiệp cần có những
thông tin cụ thể, chi tiết liên quan đến nhiều quá trình nhiều hoạt động khác
để quyết định khối lượng sản phẩm sản xuất ra, để quyết định mở rộng hay
thu hẹp quy mô sản xuất, để tiếp tục ngừng hoạt động, để chuyển hướng sản
xuất kinh doanh. Nói tóm lại, mục đích của việc điều hành, quản lý có hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các nhà quản trị doanh nghiệp là để đạt được lợi
nhuận tối đa với chi phí bỏ ra ít nhất. Các nhà quản trị doanh nghiệp luôn nghĩ
rằng lợi nhuận thu được chính là kết quả của việc sử dụng hiệu quả các chi
phí bỏ ra, cho nên họ luôn quan tâm đến việc kiểm soát chi phí, tính toán chi
phí, lập dự toán, định mức chi phí, kiểm tra việc thực hiện các định mức, dự
toán chi phí. Chính vì vậy một trong những nội dung quan trọng của quản trị
doanh nghiệp là quản lý, kiểm soát chi phí trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh. Thông tin chính phục vụ cho các nhà quản trị doanh nghiệp để họ
có thể quản lý, kiểm soát được chi phí, đánh giá việc sử dụng chi phí là thông
tin do kế toán cung cấp. Điều này được khẳng định là hoàn toàn đúng khi
nhiều người cho rằng kế toán chi phí và giá thành sản phẩm là xuất phát điểm,
là nội dung chính của kế toán quản trị. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng kế toán
quản trị là một bộ phận của hệ thống kế toán doanh nghiệp, nhưng chỉ được
thừa nhận một vài, ba thập kỷ nay, khi nền kinh tế thị trường đã thực sự phát
triển ở một số nước, khi mà yêu cầu quản lý đã cần thiết phải có sự phân chia
thành yêu cầu quản lý vĩ mô và yêu cầu quản lý vi mô - yêu cầu quản trị
doanh nghiệp.
Từ những điều phân tích trên có thể thấy kế toán quản trị là khoa học,
là công việc thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin một cách chi tiết cụ thể về
tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp
với yêu cầu quản lý của các nhà quản trị doanh nghiệp.
1.1.2. Vai trò, chức năng và mục đích của kế toán quản trị


5


Kế toán quản trị là một bộ phận cấu thành của hệ thống kế toán trong
doanh nghiệp, là công cụ phục vụ cho quản trị doanh nghiệp và xuất phát từ
yêu cầu chất lượng của các nhà quản trị doanh nghiệp.
Vai trò quan trọng của kế toán quản trị luôn xuất phát và gắn liền với
hoạt động quản lý từ khâu lập kế hoạch đến khâu thực hiện kế hoạch, kiểm tra
và phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, rồi lại tiếp đến khâu lập kế
hoạch cho kỳ hoạt động tiếp theo. Cứ như vậy các khâu công việc của hoạt
động quản lý tạo thành một quá trình liên tục, khép kín và luôn xoay quanh
việc ra các quyết định quản lý ở từng khâu. Hoạt động quản lý doanh nghiệp
có hiệu quả chỉ khi ở từng khâu của hoạt động này, các nhà quản trị ra được
các quyết định đúng đắn, phù hợp. Vậy dựa vào đâu, mà các nhà quản trị có
thể đưa ra các quyết định đúng đắn? Nguồn số liệu thông tin cung cấp cho
việc ra quyết định quản lý có thể đa dạng từ các nguồn khác nhau, song nguồn
số liệu thông tin quan trọng và hữu hiệu đó chính là thông tin chi tiết và cụ thể
do kế toán quản trị (KTQT) cung cấp theo yêu cầu của các nhà quản trị
doanh nghiệp.
Chức năng quan trọng của kế toán là cung cấp thông tin. KTQT có
chức năng cung cấp thông tin chi tiết, cụ thể về từng loại tài sản, vốn, về
doanh thu, chi phí và kết quả từng loại hoạt động cho các nhà quản lý làm cơ
sở cho việc ra quyết định điều hành, quản lý một cách đúng đắn, hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp hiện đại và tương lai.
Cũng cần nhận thức rằng thông tin của KTQT là thông tin không chỉ
về quá khứ, hiện tại mà cả thông tin về tương lai hoạt động của doanh nghiệp.
Chức năng cung cấp thông tin của kế toán quản trị xuất phát từ bản
chất và mục đích của kế toán quản trị. Sản phẩm cuối cùng của KTQT là số
liệu thông tin rất chi tiết cụ thể mà các nhà quản trị doanh nghiệp yêu cầu
phục vụ cho việc ra quyết định quản lý. Như vậy mục đích của kế toán quản

trị là thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin thích hợp cho việc ra quyết định
quản trị doanh nghiệp.

6


Tóm lại, vai trò, chức năng và mục đích của KTQT luôn thể hiện, gắn
liền với việc thực hiện các chức năng và mục đích của hoạt động quản lý
doanh nghiệp.
1.1.3. Kế toán quản trị và kế toán tài chính; kế toán tổng hợp và kế
toán chi tiết
1.1.3.1. Kế toán quản trị và kế toán tài chính (KTTC)
Cùng với sự phát triển của khoa học quản lý nói chung, kế toán nói
riêng để đáp ứng các yêu cầu quản lý hoạt động SXKD của các doanh nghiệp
trong việc cung cấp thông tin cho việc ra quyết định của các nhà quản lý ở các
cấp độ khác nhau phù hợp với mục đích sử dụng thông tin, hệ thống kế toán
doanh nghiệp đã chia tách thành KTQT và KTTC.
Kế toán tài chính là khoa học, thu nhận xử lý, tổng hợp thông tin về
tình hình tài sản, sự vận động tài sản trong quá trình hoạt động SXKD của
doanh nghiệp phục vụ cho việc lập hệ thống báo cáo tài chính và cung cấp
thông tin cho việc ra quyết định của các đối tượng sử dụng thông tin phù hợp
với yêu cầu, chức năng quản lý và mục đích sử dụng thông tin của các đối
tượng sử dụng ngoài doanh nghiệp.
Kế toán quản trị là khoa học, là công việc thu nhận, xử lý và cung cấp
thông tin về tình hình tài sản, sự vận động tài sản trong quá trình hoạt động
SXKD một cách chi tiết, cụ thể theo yêu cầu quản lý phục vụ cho việc ra
quyết định quản lý của các nhà quản trị doanh nghiệp.
* Kế toán với tư cách vừa là môn khoa học xã hội vừa là một nghề ngành kỹ thuật về tổ chức quản lý do vậy cũng cần có sự nhận thức một cách
đầy đủ đối với kế toán ở góc độ là một nghề.
Do vậy ngoài những khái niệm về kế toán đã nêu trên, với tư cách là

một nghề thì kế toán là công việc tổ chức thu nhận, xử lý, hệ thống hóa và
cung cấp thông tin về toàn bộ tình hình hoạt động kinh tế tài chính của các
đơn vị phục vụ cho việc ra quyết định kinh tế của các đối tượng sử dụng
thông tin, đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành hoạt động SXKD của đơn vị,
từng ngành cũng như toàn bộ nền KTQT.

7


Là một nghề, kế toán đòi hỏi những người làm công việc kế toán phải
có những kiến thức lý luận cơ bản của khoa học kinh tế, phải có trình độ,
năng lực thực hành, những kỹ năng, kỹ thuật tổ chức quản lý.
* Là những bộ phận cấu thành hệ thống kế toán doanh nghiệp do vậy
KTQT và KTTC đều là công cụ phục vụ quản lý, luôn gắn liền và xuất phát từ
chức năng, mục đích của hoạt động quản lý ở những mức độ, phạm vi khác
nhau. Tuy nhiên, giữa KTQT và KTTC có những điểm khác nhau nhất định.
Sự khác nhau giữa KTQT và KTTC thể hiện ở những mặt sau:
- Mục đích
- Đối tượng sử dụng thông tin
- Đặc điểm, tính chất thông tin
- Giá trị pháp lý của thông tin
- Thời gian cung cấp thông tin
1.1.3.2. Kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết
Tùy thuộc vào mức độ tổng hợp hay chi tiết của việc ghi chép, phản
ánh các đối tượng kế toán vào các tài khoản, sổ kế toán và báo cáo kế toán,
cũng như yêu cầu quản lý đối với từng đối tượng kế toán cụ thể, kế toán chia
thành kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết.
Kế toán tổng hợp là việc ghi chép,phản ánh một cách tổng hợp, khái
quát trên các TK, sổ kế toán tổng hợp và báo cáo tài chính theo chỉ tiêu giá trị.
Kế toán chi tiết là việc ghi chép, phản ánh một cách chi tiết, cụ thể các

đối tượng, các nghiệp vụ cần quản lý một cách chi tiết cụ thể trên các tải
khoản, sổ kế toán chi tiết. Kế toán chi tiết có thể sử dụng các loại thước đo
hiện vật, thước đo lao động và thước đo giá trị tùy theo yêu cầu quản lý. Vậy
xuất phát từ yêu cầu quản lý, chỉ một số đối tượng kế toán mới cần thiết phải
ghi chép, phản ánh chi tiết. Điều đáng lưu ý là số liệu chi tiết của đối tượng kế
toán phản ánh trên các tài khoản, sổ kế toán chi tiết phải khớp đúng với số
liệu của đối tượng kế toán đó trên tài khoản, sổ kế toán tổng hợp.

8


Như vậy giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau về thời gian ghi chép phản ánh, về tính thống nhất của số liệu
trên cùng cơ sở nền tảng là các chứng từ ghi chép ban đầu.
Tuy nhiên cũng cần thấy sự khác biệt giữa kế toán tổng hợp và kế toán
chi tiết với kế toán quản trị, đồng thời cũng nhận thức được mối quan hệ nhất
định giữa kế toán chi tiết và kế toán quản trị ở những số liệu chi tiết về những
đối tượng tượng kế toán cụ thể.
Kế toán tổng hợp là việc ghi chép, phản ánh một cách tổng hợp, khái
quát trên các TK, sổ kế toán tổng hợp và báo cáo tài chính theo chỉ tiêu giá trị.
Kế toán chi tiết là việc ghi chép, phản ánh một cách chi tiết, cụ thể các
đối tượng, các nghiệp vụ cần quản lý một cách chi tiết cụ thể trên các tài
khoản, sổ kế toán chi tiết. Kế toán chi tiết có thể sử dụng các loại thước đo
hiện vật, thước đo lao động và thước đo giá trị tùy theo yêu cầu quản lý. Vậy
xuất phát từ yêu cầu quản lý, chỉ một số đối tượng kế toán mới cần thiết phải
ghi chép, phản ánh chi tiết. Điều đáng lưu ý là số liệu chi tiết của đối tượng kế
toán phản ánh trên các tài khoản, số kế toán chi tiết phải khớp đúng với số
liệu của đối tượng kế toán đó trên tài khoản, sổ kế toán tổng hợp.
Như vậy giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau về thời gian ghi chép phản ánh, về tính thống nhất của số liệu

trên cùng cơ sở nền tảng là các chứng từ ghi chép ban đầu.
Tuy nhiên cũng cần thấy sự khác biệt giữa kế toán tổng hợp và kế toán
chi tiết với kế toán quản trị, đồng thời cũng nhận thức được mối quan hệ nhất
định giữa kế toán chi tiết và kế toán quản trị ở những số liệu chi tiết về những
đối tượng kế toán cụ thể.
Mặc dù kế toán quản trị và kế toán chi tiết đều thực hiện việc ghi chép
phản ánh một cách chi tiết, cụ thể về đối tượng kế toán phù hợp với yêu cầu
quản lý của doanh nghiệp những phạm vi của kế toán chi tiết giới hạn ở một
số đối tượng, còn phạm vi của kế toán quản trị lại rộng hơn. Ngoài ra số liệu
của kế toán quản trị không nhất thiết phải hoàn toàn phù hợp, khớp đúng với
số liệu của kế toán chi tiết hoặc kế toán tài chính.

9


Tóm lại: Kế toán tài chính, kế toán quản trị, kế toán tổng hợp và kế
toán chi tiết đều là những bộ phận cấu thành của hệ thống kế toán, chúng có
nội dung, phạm vi khác nhau, xong giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với
nhau và đều cung cấp thông tin thiết thực, hữu ích cho các đối tượng sử dụng
thông tin được các quyết định phù hợp với mục đích sử dụng thông tin của mình.
1.2. Sự cần thiết phải xây dựng mô hình tổ chức KTQT ở các
doanh nghiệp
Từ những điều phân tích, khái quát chung về KTQT, chúng ta thấy
việc xây dựng mô hình tổ chức KTQT ở các doanh nghiệp là nhu cầu bức
bách hiện nay không chỉ ở góc độ thực tiễn mà cả về mặt lý luận. Nhu cầu này
xuất phát từ vai trò quan trọng của KTQT trong việc thu nhận, xử lý và cung
cấp thông tin cho việc ra quyết định của các nhà quản trị doanh nghiệp.
Về mặt lý luận, do chưa có sự khẳng định, nhận thức đúng về vai trò,
bản chất, sự khác biệt giữa KTTC và KTQT, KTQT và kế toán chi tiết do vậy
chưa có một văn bản pháp lý nào về chế độ, thể lệ kế toán ghi nhận có một

loại kế toán cần thiết cho quản trị doanh nghiệp - đó là KTQT.
Mặc dù, thông tin KTQT cung cấp xuất phát từ yêu cầu quản lý của
các nhà quản trị doanh nghiệp và việc ghi chép kế toán quản trị có tính độc
lập và không hoàn toàn tuân thủ theo các nguyên tắc, chuẩn mực, văn bản quy
định của Nhà nước về kế toán, xong cần thiết phải có các tài liệu hướng dẫn
tổ chức KTQT cho các doanh nghiệp. Hiện nay chúng ta cũng chưa có những
tài liệu hướng dẫn này.
Cùng với sự nhận thức chưa đầy đủ ở góc độ lý luận về KTQT trên
thực tế các nhà quản trị doanh nghiệp cũng không thấy rõ được vai trò của
KTQT trong công tác quản lý doanh nghiệp. Có thể, có rất nhiều doanh
nghiệp thực, chấp hành tốt các chính sách chế độ quản lý kinh tế tài chính nói
chung, các chế độ, thể lệ kế toán do Nhà nước quy định nói riêng, thực hiện
tốt các quy định về hệ thống báo cáo tài chính, xong họ không thấy được tác
dụng to lớn của những thông tin phục vụ cho việc ra quyết định, để điều hành,
quản lý hoạt động SXKD một cách kịp thời, hiệu quả, mà những thông tin đó

10


không phải là những thông tin trình bày trên các báo cáo tài chính. Điều này
cũng có thể do sự nhận thức về yêu cầu quản lý, sự kết hợp hài hòa giữa yêu
cầu quản lý vĩ mô và vi mô của doanh nghiệp.
Một vấn đề quan trọng đặt ra đối với các nhà quản trị doanh nghiệp là
phải xác định được mục tiêu,yêu cầu quản trị doanh nghiệp và từ mục tiêu,
yêu cầu đó mà xác định những thông tin cần thiết phục vụ cho việc ra quyết
định. Nếu không xác định rõ được mục tiêu, yêu cầu quản trị doanh nghiệp thì
việc tổ chức KTQT để cung cấp thông tin sẽ không hiện thực ở các doanh nghiệp.
Từ những vấn đề nêu trên khẳng định sự cần thiết phải xây dựng mô
hình tổ chức KTQT ở các doanh nghiệp với những nội dung cụ thể, để tổ chức
thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin phục vụ cho việc ra quyết định của các

nhà quản trị doanh nghiệp.
1.3. Nội dung và phạm vi của KTQT
Kế toán quản trị có nội dung và phạm vi khác với nội dung và phạm vi
của kế toán tài chính và kế toán chi tiết. Xác định nội dung và phạm vi của
KTQT cần xuất phát từ mục tiêu và nhiệm vụ của kế toán quản trị ở từng
doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu của các nhà quản trị doanh nghiệp. Điều
này khẳng định nội dung cụ thể và phạm vi của KTQT ở các doanh nghiệp
không hoàn toàn giống nhau. Tuy vậy, có thể căn cứ vào yêu cầu kiểm soát,
quản lý hoạt động SXKD và chức năng KTQT với quá trình và chức năng của
hoạt động quản lý chúng ta có thể xác định được những nội dung khái quát
của KTQT trong các doanh nghiệp.
1.3.1. Căn cứ vào yêu cầu kiểm soát, quản lý chi phí trong các quá
trình hoạt động SXKD, nội dung KTQT bao gồm
- KTQT quá trình cung ứng, sử dụng các yếu tố SXKD
+ Quá trình mua sắm, dự trữ, sử dụng đối tượng lao động
+ Quá trình mua sắm, trang bị và sử dụng tư liệu lao động
+ Quá trình tuyển dụng và sử dụng lao động

11


- KTQT quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiện các công việc,
lao vụ, dịch vụ.
- KTQT doanh thu bán hàng và kết quả kinh doanh.
- KTQT quá trình và kết quả đầu tư tài chính
Nội dung cụ thể của KTQT đối với từng quá trình hoạt động KSKD
được các doanh nghiệp xác định thành các chỉ tiêu căn cứ vào yêu cầu quản
trị của mỗi doanh nghiệp, từ đó mà KTQT thực hiện việc thu nhận, xử lý và
cung cấp thông tin chi tiết, cụ thể theo từng chỉ tiêu phù hợp với mục đích sử
dụng thông tin của các nhà quản trị doanh nghiệp.

1.3.2. Căn cứ vào mối quan hệ giữa vai trò và chức năng của KTQT
với quá trình và chức năng của hoạt động quản lý, nội dung của kế toán
quản trị bao gồm:
- Phân loại chi phí và giá thành sản phẩm
- Thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin phục vụ cho việc ra quyết
định kinh doanh.
- Phân tích thông tin, nêu ý kiến đề xuất, tư vấn cho các nhà quản trị.
- Tham gia lập dự toán SXKD.
1.4. Tổ chức công tác kế toán quản trị trong doanh nghiệp
1.4.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức công tác kế toán quản trị
trong các doanh nghiệp
1.4.1.1. Ảnh hưởng của loại hình kế toán áp dụng: (Việc xây dựng các
quy định kế toán nhằm đạt được mục đích xác định) đối với tổ chức công tác
kế toán quản trị
Nghiên cứu việc thực hành kế toán của các nước khác nhau cho phép
phân biệt chủ yếu 6 loại hình kế toán cơ bản, đó là:
- Kế toán quỹ
- Kế toán tĩnh
- Kế toán động
12


- Kế toán kinh tế vĩ mô
- Kế toán hiện tại hóa
Trong 6 loại hình kế toán cơ bản trên, kế toán tĩnh và kế toán động
thường được coi là cốt lõi để xây dựng mô hình kế toán doanh nghiệp của các
Quốc gia trong quan hệ kết hợp với các đặc điểm của kế toán thuế và kế toán
vĩ mô.
Kế toán tĩnh: Mục tiêu là kiểm tra xem tại một thời điểm nào đó việc
thực hiện các tài sản có cho phép trả nợ hay không, nguyên tắc nền tảng là

"giả thiết bị thanh lý định kỳ".
Kế toán động: Mục tiêu là đánh giá hiệu quả của một doanh nghiệp,
nguyên tắc nền tảng là đánh giá thường xuyên lợi nhuận sinh ra bởi những
nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp trong khuôn khổ hoạt động của doanh
nghiệp, tức là: "Giả thiết doanh nghiệp hoạt động liên tục"
* Khối các nước kế toán ANGLOSAXON (Anh, Mỹ, Canada,
Bulgari, Hà Lan, các nước thuộc địa cũ của Anh ở Châu Phi...) Xây dựng mô
hình kế toán gồm:
- Kế toán tài chính: Là kế toán động, lấy ra những dữ liệu "Đã lựa
chọn" để công bố công khai, tách hoàn toàn mối quan hệ giữa kế toán và thuế
(Thái độ nhằm phá vỡ liên kết).
- Kế toán quản trị: là kế toán động, bí mật và tự do, thuộc nội bộ
doanh nghiệp.
Do đó tạo nên chế độ kế toán nhất nguyên (Nhất nguyên chính thống).
Ở đây kế toán chi phí không tách khỏi phần kế toán còn lại, kiểm soát toàn bộ
hệ thống kế toán bao gồm kế toán chi phí, tài khoản thường tổ chức theo cách
theo dõi tiến hành sản xuất. Trong trường hợp kết quả "Tài chính" (kết quả
xác định theo kế toán quản trị) thì kế toán tài chính trở nên gần giống với kế
toán động (chỉ khác là kế toán tài chính tổng hợp hơn vì lý do bí mật kinh
doanh). Nếu kết quả "tài chính" không tương ứng hoàn toàn với kết quả kinh
doanh thì kế toán tài chính giống như một kiểu kế toán động pha tạp.

13


* Khối các nước tổ chức kế toán theo mô hình truyền thống Pháp
(Đức, Pháp, Ý, Rungri, Nhật, các nước thuộc địa Pháp ở Châu Phi...), xây
dựng mô hình kế toán gồm:
- Kế toán tổng quát: Là kế toán pháp quy, chủ yếu là kế toán tĩnh, thái
độ này nhằm liên kết các quy định về kế toán và thuế (thái độ nhằm liên kết).

- Kế toán phân tích: Kế toán bí mật, phi pháp quy là kế toán động, sự
đối lập giữa kế toán tổng quát và kế toán phân tích hầu như không được giải thích.
Do đó tạo nên chế độ kế toán nhị nguyên (Nhị nguyên chính thống),
chế độ này tách kế toán chi phí khỏi bộ phận kế toán còn lại, nếu chỉ có số
liệu của kế toán tổng quát (Kế toán tĩnh, phục vụ tính thuế) thì không thể có
số liệu về kết quả "động" của kế toán phân tích. Người ta cho phép giữ bí mật
kinh doanh thể hiện ở tính "Tự do" của kế toán chi phí, còn các phần kế toán
còn lại được chuẩn hóa phục vụ cho mục đích kiểm soát thuế. Công chúng chỉ
có thể biết được chi phí theo bản chất (Theo nội dung kinh tế) gắn liền kế toán
tổng quát, còn các chi phí theo chức năng và các loại chi phí khác gắn liền kế
toán phân tích (Kế toán động) thì không có được.
Như vậy, cả kế toán quản trị của các nước kế toán ANGLOSAXON
và kế toán phân tích của khối theo kế toán truyền thống Pháp đều là kiểu kế
toán động và thuộc thẩm quyền của doanh nghiệp.
Còn phần kế toán tài chính, hoặc kế toán tổng quát (Kế toán chính
thống, pháp quy) được lựa chọn theo loại hình kế toán nào là tùy thuộc vào
cách thức điều tiết kinh tế mà chủ yếu là hình thức kiểm soát kinh tế của từng
quốc gia. Việc lựa chọn một loại hình kế toán chủ đạo sẽ ảnh hưởng đến tổ
chức kế toán và việc giảng dạy kế toán. Việt Nam hiện nay tổ chức kế toán tài
chính theo kiểu kế toán động sẽ tổ chức kế toán theo kiểu "Nhất nguyên
chính thống".
1.4.1.2. Ảnh hưởng của tính chất loại hình kinh doanh, quy mô, phạm
vi hoạt động của từng doanh nghiệp đối với tổ chức công tác kế toán quản trị
- Tính chất loại hình kinh doanh là doanh nghiệp sản xuất hay doanh
nghiệp thương mại, ảnh hưởng rất lớn đến tổ chức kế toán quản trị của doanh

14


nghiệp. Kế toán quản trị phản ánh quá trình chi phí trong hoạt động của doanh

nghiệp. Do đặc điểm vận động, tuần hoàn và chu chuyển vốn của từng loại
hình kinh doanh khác nhau, đối với doanh nghiệp thương mại chi phí và nhận
diện chi phí đơn giản, dễ dàng hơn, đối với doanh nghiệp sản xuất thì hoạt
động diễn ra phức tạp hơn, phong phú hơn, lĩnh vực kế toán quản trị chi phí
giá thành áp dụng cho loại hình doanh nghiệp sản xuất.
- Quy mô, phạm vi hoạt động của từng doanh nghiệp khác nhau:
Những doanh nghiệp có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng rãi thì toàn bộ
cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp sẽ phức tạp hơn, có thể tổ chức trên nhiều
địa điểm ở nhiều vùng khác nhau. Kế toán quản trị phản ánh mô tả hoạt động
của doanh nghiệp dựa trên cách thức huy động và tiêu dùng các nguồn lực.
Trong trường hợp này, việc xác định các trung tâm chi phí có tính chất phức
tạp khác nhau. Đặc biệt trong điều kiện phân tích thông qua mô hình ABC xác định giá chi phí trên cơ sở hoạt động. Quy mô doanh nghiệp lớn, phạm vi
hoạt động rộng rãi đòi hỏi việc lập báo cáo bộ phận, phân tích báo cáo bộ
phận và đánh giá trách nhiệm của bộ phận sẽ phức tạp hơn...
1.4.1.3. Ảnh hưởng của đặc điểm doanh nghiệp đối với tổ chức kế
toán quản trị
Kế toán quản trị dựa trên việc mô tả cách thức hoạt động và tiêu dùng
nguồn lực. Như vậy, kế toán quản trị gắn liền với tổ chức và công nghệ của
doanh nghiệp. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường, thông tin kế toán là
nguồn thông tin quan trọng cung cấp cho nhà quản lý, kênh thông tin đòi hỏi
phải trải suốt trong nội bộ doanh nghiệp và do đó các cấp quản lý khác nhau
có thể liên lạc với nhau. Kế toán quản trị cung cấp các thông tin cụ thể phục
vụ cho việc ra quyết định điều hành quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, những đặc điểm sản xuất kinh doanh, tính chất của quy trình công
nghệ, yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp là những nhân tố ảnh
hưởng đến tổ chức công tác kế toán quản trị trong doanh nghiệp.
a) Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm

15



Nếu quy trình công nghệ sản xuất giản đơn thì toàn bộ quy trình sẽ
không thể chia nhỏ làm nhiều công đoạn, do đó chi phí sản xuất chỉ có thể tập
hợp chung cho toàn bộ quy trình công nghệ sản phẩm và sẽ tính giá thành cho
sản phẩm đã hoàn thành ở cuối quy trình sản xuất đó.
Nếu quy trình công nghệ sản xuất phức tạp thì toàn bộ quy trình công
nghệ có thể chia nhỏ thành nhiều giai đoạn công nghệ
+ Trường hợp các giai đoạn công nghệ chế biến liên tiếp theo một quy
trình nhất định, được gọi là quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu liên
tục, kết thúc mỗi giai đoạn công nghệ tạo ra nửa thành phẩm, nửa thành phẩm
tạo ra từ giai đoạn công nghệ trước chủ yếu chuyển giai đoạn sau tiếp tục chế
biến, tuần tự như vậy cho đến giai đoạn công nghệ cuối cùng mới tạo ra thành
phẩm. Trong trường hợp này đòi hỏi phải thu nhận, xử lý và cung cấp thông
tin về chi phí sản xuất của từng giai đoạn công nghệ, ngoài chỉ tiêu giá thành
thành phẩm còn có thể cung cấp các chỉ tiêu giá thành nửa thành phẩm.
+ Trường hợp các giai đoạn công nghệ được bố trí song song đồng bộ
với nhau, mỗi giai đoạn công nghệ tạo ra một bộ phận, chi tiết của sản phẩm,
cuối cùng mới thực hiện lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh (thành
phẩm). Trong trường hợp này kế toán cần phải thu nhận, xử lý và cung cấp
thông tin về chi phí sản xuất từng giai đoạn công nghệ, giá thành thành phẩm,
ngoài ra còn có thể phải cung cấp cả chỉ tiêu giá thành của từng bộ phận, chi
tiết sản phẩm.
Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm chi phối rất lớn đến
đặc điểm và tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh của từng doanh nghiệp.
b) Đặc điểm về tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh
- Về tổ chức sản xuất
Nếu địa bàn hoạt động của doanh nghiệp không phân tán thì tùy thuộc
vào đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất, có thể tổ chức sản xuất phù hợp,
trường hợp quy trình công nghệ sản xuất phức tạp thì mỗi giai đoạn công
nghệ có thể được tổ chức thành một phân xưởng.


16


Nếu do đặc điểm sản phẩm sản xuất, hoặc do quy mô doanh nghiệp,
địa bàn hoạt động của doanh nghiệp phân tán, việc sản xuất có thể tổ chức
thành các tổ, đội, hoặc tổ chức thành các bộ phận sản xuất kinh doanh trực
thuộc.
- Trong thực tế sản xuất kinh doanh, một tổ chức doanh nghiệp có thể
chia thành nhiều tổ, đội, phân xưởng sản xuất và nhiều bộ phận quản lý riêng
biệt với nhau. Doanh nghiệp cần phải biết được chi phí theo từng địa điểm
phát sinh. Các bộ phận sản xuất và quản lý riêng biệt có quyền điều hành sự
phát sinh của các chi phí, thu nhập, cũng như có quyền đánh giá kết quả trong
phạm vi trách nhiệm của mình. Các nhà quản trị doanh nghiệp cần dựa vào đó
áp dụng các kỹ thuật phân tích đối với từng bộ phận kế toán chịu trách nhiệm
ở mỗi trung tâm nhằm cung cấp thông tin có tác dụng giúp cho nhà quản lý
kiểm soát các quá trình hoạt động.
Dựa vào đặc điểm tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, người ta
xác định chi phí, thu nhập bộ phận. Theo đó cần phân tích chi phí của từng bộ
phận theo cách ứng xử chi phí, tách chi phí của bộ phận thành biến phí và
định phí, và chúng được phân bổ riêng biệt khác nhau. Đồng thời trên báo cáo
chi phí, thu nhập bộ phận thì định phí được chia là 2 phần: Định phí bộ phận
và định phí chung. Định phí bộ phận là những khoản chi trong từng bộ phận,
gắn liền với bộ phận, có thể ghi nhận và kiểm soát được, còn định phí chung
là chi phí không kiểm soát được của bộ phận. Điều này nhằm tránh được sự
bất hợp lý trong phân bố chi phí, cung cấp số liệu có giá trình hơn cho việc
lập kế hoạch và kiểm soát hoạt động của từng bộ phận, từ đó đánh giá trách
nhiệm của quản lý từng bộ phận.
Hơn nữa, căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh và quản lý,
lập báo cáo chi phí thu nhập bộ phận, để đánh giá trách nhiệm thực hiện lợi

nhuận của từng trung tâm. Đồng thời xác định chi phí và mức độ ảnh hưởng
của chi phí tới các bộ phận, tùy theo yêu cầu quản lý mà xác định. Giá phí
theo phương pháp toàn bộ hay theo cách ứng xử của chi phí.
c) Tính chất (loại hình) sản xuất sản phẩm

17


- Nếu sản xuất đơn chiếc, hoặc sản xuất hàng loạt với khối lượng nhỏ
theo đơn đặt hàng của khách hàng: Loại sản phẩm này thường có giá trị cao,
có kích thước lớn, được đặt mua trước khi sản xuất. Trong trường hợp này
cần thiết thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm của từng sản phẩm đơn chiếc, từng đơn đặt hàng đặc biệt.
- Nếu sản xuất hàng loạt sản phẩm với khối lượng lớn, sản phẩm này
được sản xuất đại trà đồng loạt, đồng nhất, được đặt mua sau khi sản xuất
trong trường hợp này kế toán thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm của từng công đoạn, từng bộ phận sản xuất
cũng như của toàn bộ quy trình công nghệ.
Theo tính chất sản xuất sản phẩm để kế toán lựa chọn phương pháp
tập hợp, phân bố, phân tích chi phí và tính giá thành sản phẩm phù hợp. Đối
với sản xuất đơn chiếc hoặc hàng loạt nhỏ theo đơn đặt hàng, kế toán sử dụng
phương pháp tập hợp chi phí và tính giá thành theo công việc. Đối với sản
xuất đại trà hàng loạt với khi lượng lớn, kế toán sử dụng phương pháp tập hợp
chi phí và tính giá thành theo quá trình sản xuất.
d) Yêu cầu và trình độ quản lý
Tùy thuộc vào yêu cầu hạch toán kinh tế, nhu cầu thông tin trong quản
lý cũng như trình độ hạch toán kinh tế và quản lý kinh tế của doanh nghiệp,
phối hợp chuyên môn giữa các bộ phận khác nhau có liên quan cho công tác
thu thập số liệu, sử dụng số liệu để cùng tham gia nhận định, đánh giá các kết
quả phân tích đạt được, từ đó làm cơ sở ra quyết định. Thông tin của kế toán

cần được cung cấp cho người sử dụng đúng mục đích và đối tượng, các đối
tượng sử dụng thông tin theo các cấp độ quản trị khác nhau. Yêu cầu và trình
độ quản lý càng cao, càng đòi hỏi phải tổ chức công tác kế toán quản trị để
cung cấp thông tin cho nhà quản trị nắm bắt kịp thời, đầy đủ mọi thông tin cụ
thể chi tiết, để cung cấp thông tin cho việc ra quyết định của nhà quản lý.
Như vậy, xây dựng hệ thống kế toán quản trị phải phù hợp với đặc
điểm quy trình công nghệ sản xuất, đặc điểm tổ chức sản xuất và quản lý kinh
doanh, tính chất sản xuất, yêu cầu và trình độ quản lý. Nhà quản trị doanh

18


nghiệp phải căn cứ vào những đặc điểm đó để xác định các thông tin cần thu
thập, xử lý và cung cấp, cũng như lựa chọn phương án xây dựng hệ thống kế
toán quản trị hợp lý.
1.4.2. Nội dung tổ chức kế toán quản trị trong doanh nghiệp
1.4.2.1. Nội dung tổ chức kế toán quản trị trong nhân dân theo chức
năng của kế toán quản trị
Theo chức năng của kế toán quản trị, kế toán quản trị trong doanh
nghiệp được tổ chức theo các nội dung cụ thể:
- Tổ chức thu nhận thông tin
Kế toán doanh nghiệp Việt Nam từ lần cải cách 1995 đến nay cơ bản
được thiết kế theo loại hình "Kế toán động", trong khi đó hệ thống kế toán
quản trị cũng được tổ chức theo kiểu "kế toán động". Vì vậy, thu nhận thông
tin của kế toán quản trị gồm 2 bộ phận:
+ Thu nhận thông tin thực hiện quá khứ: Bộ phận thông tin này được
thu nhận phù hợp với kế toán tài chính, thực chất được thực hiện thông qua kế
toán chi tiết, chi tiết hóa các chỉ tiêu kế toán tài chính. Cho nên, khi thực hiện
nội dung này đòi hỏi phải tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực cơ bản của
kế toán.

+ Thu nhận thông tin tương lai: Kế toán quản trị thu nhận và cung cấp
thông tin tương lai bằng cách xây dựng kế toán chi phí, giá thành, lợi nhuận
đồng thời xây dựng hệ thống định mức chi phí, dự toán chi phí sản xuất kinh
doanh, giúp cho khả năng dự toán tương lai và khả năng điều hành sản xuất
kinh doanh có hiệu quả cho nhà quản trị.
- Tổ chức phân tích thông tin:
+ Tổ chức phân tích thông tin quá khứ: Căn cứ vào thông tin quá khứ
và thông tin tương lai đã thu nhập được, kế toán tiến hành so sánh phân tích
tình hình thực hiện kế hoạch, thực hiện dự toán chi phí sản xuất kinh doanh.
Thông qua phân tích thông tin quá khứ, có thể xác định được từng nhân tố,
nguyên nhân ảnh hưởng, từ đó nhà quản trị đưa ra những giải pháp khắc phục

19


những tồn tại, khai thác khả năng tiềm tàng để sử dụng các nguồn lực của
doanh nghiệp hiệu quả hơn.
+ Tổ chức phân tích thông tin tương lai, cung cấp thông tin để tư vấn
cho nhà quản trị.
Kế toán quản trị đặc biệt quan tâm tới phân tích mối quan hệ chi phí khối lượng - lợi nhuận, phân tích điểm hòa vốn, phục vụ cho ra quyết định
ngắn hạn như: Quyết định tiếp tục hay chấm dứt sản xuất kinh doanh một bộ
phận, quyết định tư sản xuất hay mua ngoài, quyết định bán ngay nửa thành
phẩm hay sản xuất thành phẩm rồi mới bán, quyết định trong điều kiện năng
lực sản xuất kinh doanh bị giới hạn, quyết định chấp nhận một đơn đặt hàng
hay không.
Bên cạnh đó, kế toán còn cung cấp, phân tích thông tin bằng những
phương pháp nhất định để giúp nhà quản trị ra quyết định dài hạn, lựa chọn
dự án đầu tư.
1.4.2.2. Nội dung tổ chức kế toán quản trị theo khâu công việc trong
quá trình kế toán

Chứng từ kế toán: Ngoài việc sử dụng những thông tin về những
nghiệp vụ kế toán phát sinh đã hoàn thành và phản ánh trên chứng từ kế toán
của hệ thống chứng từ bắt buộc để thực hiện thu nhận thông tin quá khứ chi
tiếp theo từng mục tiêu quản lý, kế toán quản trị cần sử dụng rộng rãi các
chứng từ hướng dẫn. Doanh nghiệp cần cụ thể hóa hệ thống chứng từ hướng
dẫn, chọn lọc, bổ sung, sửa đổi các chỉ tiêu trên chứng từ cho phù hợp với nội
dung kế toán quản trị, thiết kế một số chứng từ kế toán cần thiết để phản ánh
các nội dung thông tin thích hợp theo yêu cầu của quản trị doanh nghiệp, phục
vụ cho thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin cho việc đánh giá tình hình thực
hiện định mức, kế hoạch và dự toán cũng như phục vụ cho việc lập định mức,
kế hoạch và dự toán mới.
- Tài khoản kế toán: Dựa trên hệ thống tài khoản kế toán Nhà nước
ban hành, kế toán quản trị dựa trên cơ sở mục tiêu và yêu cầu quản lý chi tiết
với từng đối tượng để mở các tài khoản chi tiết 2, cáp 3, cấp 4... để chi tiết

20


hóa các tài khoản của kế toán tài chính, từ đó tập hợp, xử lý, phân tích thông
tin một cách có hệ thống và khoa học. Trên các tài khoản chi tiết phản ánh kết
hợp thước đo giá trị với các thước đo khác.
- Sổ kế toán: hệ thống sổ kế toán, đặc biệt là các sổ chi tiết cần thiết kê
mẫu sổ với số lượng, chủng loại, các chỉ tiêu cần phản ánh phù hợp theo yêu
cầu quản trị và trình độ trang bị công nghệ xử lý thông tin tại doanh nghiệp,
các sổ kế toán cần phản ánh theo nhiều chỉ tiêu phù hợp với các yêu cầu quản
lý khác nhau để có thông tin hữu ích sử dụng trên báo cáo kế toán quản trị đặc
thù để có thể tổng hợp theo nhiều yêu cầu khác nhau. Ví dụ, các sổ kế toán
phản ánh chi phí sản xuất kinh doanh vừa đảm bảo cung cấp thông tin về chi
phí theo nội dung kinh tế của chi phí, hay theo công dụng của chi phí, hay
theo mối quan hệ chi phí với khối lượng hoạt động, hay theo mối quan hệ chi

phí với quy trình công nghệ... đồng thời phục vụ cho việc lập các báo cáo
kiểm soát, đánh giá từng bộ phận.
- Tính giá và lập báo cáo kế toán quản trị:
Kế toán quản trị cũng phải tuân thủ những nguyên tắc và trình tự tính
giá các đối tượng trong quá trình thu nhận thông tin quá khứ như kế toán tài
chính. Tuy nhiên, do mục đích riêng của kế toán quản trị nên nguyên tắc và
trình tự tính giá trong những trường hợp đặc biệt mang tính đặc thù, đặc biệt
đối với chi phí - giá thành, dưới góc độ dự toán, quản lý và kiểm soát chi phí
thì chi phí thường được chia thành biến phí và định phí để phân tích điểm hòa
vốn, phân tích mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận, phân tích đánh
giá báo cáo thu nhập bộ phận, ... đồng thời tùy theo yêu cầu và mức độ quản
lý để tính giá theo phương pháp định phí toàn bộ, hay theo biến phí, hay theo
biến phí có phân bổ hợp lý định phí.
Trên cơ sở toàn bộ thông tin đã tập hợp trong nội bộ doanh nghiệp,
thiết lập hệ thống báo cáo kế toán nội bộ gồm các báo cáo nhanh, báo cáo
định kỳ, báo cáo đột xuất,... ngoài tổng hợp cân đối số liệu từ các sổ sách kế
toán, kế toán quản trị còn sử dụng kỹ thuật thống kê, phương pháp toán... để
phân tích các chỉ tiêu thực hiện mục tiêu quản lý doanh nghiệp, giúp cho nhà
quản trị ra quyết định đúng đắn, hiệu quả hơn.

21


1.5. Tổ chức bộ máy kế toán
Giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Tuy nhiên, hai loại kế toán này cũng có tính độc lập tương đối. Vì vậy,
trong quá trình tổ chức bộ máy kế toán cần phải xuất phát từ đặc điểm cụ thể
của doanh nghiệp để tổ chức hợp lý nắm đáp ứng được yêu cầu quản trị.
Dưới đây nghiên cứu hai mô hình cụ thể.
1.5.1. Mô hình kết hợp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị

Theo mô hình này, phòng kế toán của doanh nghiệp bao gồm các bộ
phận kế toán đảm nhiệm các phần hành kế toán tài chính cụ thể như:
- Bộ phận kế toán tài sản và thanh toán
- Bộ phận kế toán tiền và thanh toán
- Bộ phận kế toán chi phí và giá thành
- Bộ phận kế toán nguồn vốn, quỹ
- Bộ phận kế toán tổng hợp.
Tương ứng với mỗi bộ phận của kế toán tài chính nói trên bao gồm
các phần hành kế toán quản trị. Nhân viên kế toán thực hiện các công việc của
kế toán tài chính đồng thời được giao nhiệm vụ của kế toán quản trị.
Công việc chủ yếu của kế toán quản trị ở các bộ phận này căn cứ vào
yêu cầu quản lý cụ thể đối với từng chỉ tiêu lựa chọn trong quản lý doanh
nghiệp.
Nhiệm vụ cụ thể của kế toán viên trong các bộ phận kế toán theo mô
hình kết hợp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị như sau:
a. Bộ phận kế toán tài sản cố định và vật tư
- Kế toán tài chính ghi rổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết tài
sản cố định và các loại vật tư. Số liệu của kế toán tài chính cung cấp cho việc
lập báo cáo tài chính.
- Kế toán quản trị, căn cứ vào yêu cầu quản trị doanh nghiệp, lựa chọn
các chỉ tiêu chi tiết phục vụ cho yêu cầu kế toán quản trị.
22


+ Mở sổ chi tiết theo dõi tài sản cố định, khấu hao tài sản cố định.
+ Lập dự toán tình hình tăng, giảm tài sản cố định theo từng nguồn
vốn đầu tư, theo từng nơi sử dụng tài sản cố định.
+ Lập dự toán đối với các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định,
chỉ tiêu doanh thu trên tài sản cố định, chỉ tiêu lợi nhuận trên tài sản cố định
+ Phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu liên quan đến TSCĐ đã

được dự toán
+ Cung cấp số liệu cho việc lập báo cáo quản trị.
Kế toán tài
chính

- Ghi sổ
tổng hợp
- Ghi sổ chi
tiết

Xử lý số
liệu tổng

Lập báo cáo
tài chính
(các chỉ tiêu
liên quan)

hợp
- Lập các
dự toán
Lập báo cáo
- Ghi chép
quản trị (các
Kế toán
Xử lý số
số liệu theo
chỉ tiêu liên
quản trị
từng chỉ

liệu cụ thể
quan)
tiêu dự toán
- Phân
b) Bộ phận kế toán và thanh
toán
tích...
- Kế toán tài chính ghi sổ kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết các loại
tiền, các khoản thanh toán với người bán, người mua, với NSNN, với các đơn
vị phụ thuộc.
- Kế toán quản trị tiền và thanh toán căn cứ vào yêu cầu quản trị cụ thể
đối với từng chỉ tiêu để mở sổ kế toán nhằm thu nhận được các thông tin phục
vụ cho kế toán quản trị và lập báo cáo quản trị.
+ Lập dự toán thu, chi tiền cho mục đích khác nhau và theo từng bộ
phận sử dụng tiền.
+ Lập kế toán dự toán tình hình công nợ đối với từng đối tượng theo
từng khoản nợ, theo thời hạn nợ.

23


+ Tính toán so sánh các phương án, trả vay mua bán chịu hoặc trả tiền
ngay để hưởng chiết khấu...
+ Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán tiền thường xuyên.
+ Cung cấp số liệu cho lập báo cáo quản trị về các chỉ tiêu công nợ và
thanh toán.
c) Bộ phận kế toán chi phí và giá thành
- Kế toán tài chính ghi sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết chi
phí sản xuất, kinh doanh, tính giá thành sản phẩm theo loại sản phẩm... Nhằm
cung cấp cá số liệu tổng hợp phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính và các chỉ

tiêu chi phí và giá thành.
- Kế toán quản trị chi phí và giá thành căn cứ vào yêu cầu quản lý cụ
thể để thực hiện các công việc sau đây:
+ Lựa chọn phương pháp tập hợp chi phí, lập dự toán chi phí sản xuất
kinh doanh theo từng sản phẩm, chi tiết sản phẩm.
+ Phân loại chi phí sản xuất theo tiêu chuẩn phân loại phù hợp với yêu
cầu quản trị.
+ Lựa chọn tiêu chuẩn phân bố chi phí và tính toán phân bổ chi phí
các đối tượng chịu chi phí.
+ Lập kế hoạch giá thành theo công việc, theo địa điểm kinh doanh...
+ Mở sổ kế toán thu thập, ghi chép cụ thể, chi tiết các số liệu liên quan
đến tính toán giá thành sản phẩm theo yêu cầu quản trị.
* Các bộ phận kế toán thuộc mô hình này có quan hệ chặt chẽ với
nhau trong việc cung cấp thông tin, số liệu phục vụ yêu cầu kế toán tài chính
và kế toán quản trị cũng như các yêu cầu quản trị của nhà quản lý. Cụ thể là:
- Bộ phận kế toán vốn bằng tiền và thanh toán, cung cấp thông tin về
các loại tiền hiện có và tình hình thanh toán công nợ theo từng chủ nợ, khả
năng thanh toán hiện hành và thanh toán nhanh. Trên cơ sở đó nhà quản lý
nắm chắc tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp. Các thông tin này

24


được sử dụng để quyết định mua hàng, tài sản cố định và vật tư, đồng thời
xem xét tình hình chi phí bởi các số liệu được cung cấp từ bộ phận kế toán tài
sản cố định, vật tư, kế toán chi phí và giá thành sản phẩm.
- Bộ phận kế toán nguồn vốn
+ Phân tích chi phí và giá thành.
+ Cung cấp số liệu cho việc lập báo cáo quản trị về các chỉ tiêu liên
quan đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm...

d) Bộ phận kế toán nguồn vốn, quỹ
- Kế toán tài chính nguồn vốn, quỹ ghi sổ kế toán tổng hợp và sổ kế
toán chi tiết nguồn vốn, các quỹ của doanh nghiệp và cung cấp số liệu tổng
hợp để lập báo cáo tài chính về các chỉ tiêu này.
- Kế toán quản trị nguồn vốn, quỹ căn cứ yêu cầu cụ thể về quản lý
các nguồn vốn, quỹ để mở sổ thu nhận số liệu phục vụ cho quản trị các nguồn
vốn và các quỹ của doanh nghiệp.
+ Lập dự toán về khả năng khai thác và sử dụng nguồn vốn quỹ.
+ Tính toán các chỉ tiêu quản trị như tỷ suất tự tài trợ, tỷ suất tài trợ,
chỉ tiêu doanh thu trên nguồn vốn chủ sở hữu, lợi nhuận trên nguồn vốn chủ
sở hữu...
+ Phân tích các chỉ tiêu thuộc nguồn vốn, quỹ để có biện pháp khai
thác và sử dụng hiệu quả nguồn vốn, quỹ của doanh nghiệp.
+ Cung cấp số liệu cho việc lập báo cáo quản trị về các chỉ tiêu quản
trị nguồn vốn, quỹ.
e) Bộ phận kế toán tổng hợp
- Kế toán tài chính trên cơ sở tổng hợp số liệu, tài liệu từ các bộ phận
kế toán có liên quan và thực hiện ghi chép kế toán tổng hợp và chi tiết các
phần hàng kế toán tài chính còn lại để lập báo cáo tài chính.
- Kế toán quản trị ở bộ phận này có nhiệm vụ thực hiện các công việc
còn lại theo yêu cầu quản lý của doanh nghiệp; căn cứ số liệu, tài liệu đã thu

25


×