Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Phát triển hoạt động đầu tư tại công ty Bảo hiểm BIDV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.93 KB, 17 trang )

i

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị
trường bảo hiểm Phi nhân thọ nói riêng đã có vai trò rất quan trọng trong việc
ổn định đời sống xã hội và hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và
các tổ chức/doanh nghiệp. Ngoài vai trò trên, bảo hiểm còn đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển của thị trường tài chính thông qua hoạt động đầu tư
vốn và các quỹ nhàn rỗi được hình thành trong quá trình kinh doanh của các
công ty bảo hiểm.
Bên cạnh những kết quả của ngành bảo hiểm đạt được (tốc độ tăng
trưởng doanh thu cao; đóng góp vào Ngân sách nhà nước lớn; đầu tư trở lại
nền kinh tế với vốn đầu tư lớn …) thì thị trường bảo hiểm Phi nhân thọ Việt
Nam vẫn tồn tại nhiều bất cập/nguy cơ đã xuất hiện từ nhiều năm nhưng vẫn
chưa được cải thiện, cụ thể:
- Công tác quản lý/quản trị doanh nghiệp nhìn chung còn nhiều bất cập. Số
lượng các DNBH tăng nhanh chóng trong thời gian qua đã làm căng thẳng
thêm tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực bảo hiểm, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
quản lý cấp cao. Việc quản lý và quản trị rủi ro/chi phí của các doanh nghiệp
đang thực sự là vấn đề lớn trong hệ thống của mỗi doanh nghiệp. Mặc dù các
doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp lớn) đã hết sức chú trọng vấn đề
này nhưng để cải thiện tình hình cần có thời gian.
- Tình hình cạnh tranh giảm phí, hạ mức khấu trừ, mở rộng điều kiện điều
khoản trên thị trường ngày càng quyết liệt, đặc biệt là các nghiệp vụ BH hàng
hóa xuất nhập khẩu, cháy, xây dựng lắp đặt, ôtô… Chi phí khai thác dịch vụ
tăng cao do cạnh tranh, lạm phát. Tổn thất tiếp tục khuynh hướng gia tăng (do
thiên tai, lạm phát, điều kiện bảo hiểm mở rộng …).


ii


- Xu hướng các dịch vụ “xấu”, không đáp ứng được điều kiện chuyển tái bảo
hiểm ra nước ngoài, được chuyển tái bảo hiểm cho thị trường trong nước hoặc
các doanh nghiệp trong nước chia sẻ dịch vụ với điều kiện bảo hiểm và giá
không thuận lợi hơn so với chuyển tái bảo hiểm ra nước ngoài ngày càng trở
lên phổ biến.
- Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động ở nước ngoài được cung cấp một số sản
phẩm bảo hiểm qua biên giới vào Việt Nam: đây là khó khăn lớn đối với các
doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung vì đó là cuộc cạnh tranh không
cân sức và các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam là những người bất lợi.
- Kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ đã bọc lộ nhiều yếu kém:
bảo hiểm phi nhân thọ vẫn giữ cách thức khai thác chủ yếu từ cán bộ bảo
hiểm (đại lý chỉ mang tính chất hình thức).
Những khó khăn và tồn tại trên đã dẫn đến hậu quả là hầu hết các doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2007 và
năm 2008 đều không có lãi từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Vì vậy để tồn tại
và phát triển bên cạnh các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo
hiểm thì các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải phát triển hoạt động đầu tư. Nhận
thấy sự quan trọng của hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp bảo hiểm, tác
giả đã tập trung nghiên cứu đề tài “Phát triển hoạt động đầu tư tại Công ty bảo
hiểm BIDV”. Kết cấu của Luận văn gồm 3 phần:
Chương 1: Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm Phi nhân thọ
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư tại Công ty bảo hiểm BIDV
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tại Công ty bảo
hiểm BIDV.


iii

CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA DOANH NGHIỆP BẢO
HIỂM PHI NHÂN THỌ

1.1. Những hoạt động cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp bảo hiểm: Trong phần này Luận văn
trình bày những vấn đề sau:
- Trích dẫn các khái niệm trong luật kinh doanh bảo hiểm: doanh
nghiệp bảo hiểm, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tái bảo hiểm, theo đó
“Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và
hoạt động theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác
của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm”
“Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm
mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người
được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh
nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho
người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”
“Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản phí
bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm khác để cam kết bồi thường cho các
trách nhiệm đã nhận bảo hiểm”
- Trình bày 7 đặc điểm đặc trưng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm,
các đặc điểm đặc trưng thể hiện sự khác biệt giữa hoạt động kinh doanh bảo
hiểm với hoạt động kinh doanh khác: vốn pháp định lớn; kiểm soát chặt của
Nhà nước; đối tượng kinh doanh đa dạng; sản phẩm vô hình dễ bắt chước;
định giá sản phẩm theo chu trình ngược; phải có dự phòng nghiệp vụ; luôn
gắn kết với hoạt động đầu tư.


iv

1.1.2. Những hoạt động cơ bản của công ty bảo hiểm phi nhân thọ
Để có một cái nhìn tổng quan về hoạt động của các doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ, trong phần này tác giả trình bày 6 hoạt động cơ bản của các

công ty bảo hiểm phi nhân thọ, bao gồm: kinh doanh bảo hiểm; kinh doanh tái
bảo hiểm; Đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất; Giám định tổn thất; Đại lý giám
định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn; Quản lý
quỹ và đầu tư vốn; Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
Trong 6 hoạt động cơ bản trên của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ thì 3 hoạt động quan trọng nhất mà hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ đều thực hiện là: Hoạt động kinh doanh bảo hiểm; hoạt động
kinh doanh tái bảo hiểm và hoạt động đầu tư vốn.
1.2. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.
1.2.1. Khái niệm, đăc điểm hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
- Có nhiều khái niệm về hoạt động đầu tư, nhưng tựu chung lại “Hoạt
động đầu tư đều có nghĩa là bỏ ra một lượng giá trị ở hiện tại nhằm thu về giá
trị lớn hơn ở thời điểm trong tương lai”. Từ khái niệm chung về hoạt động
đầu tư có thể thấy hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp bảo hiểm được
hiểu là việc sử dụng vốn tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp bảo hiểm vào
các hoạt động sinh lợi mà pháp luật cho phép.
- Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm có 4 đặc điểm chính:
+ Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm là hoạt động hợp
pháp và chịu sự kiểm soát đặc biệt của Nhà nước: Nhà nước quản lý và kiểm
soát hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm bằng cách quy định danh
mục và tỷ lệ nguồn vốn đầu tư tối đa đối với từng danh mục (đặc biệt là
nguồn đầu tư từ quỹ dự phòng nghiệp vụ) và quy định biên khả năng thanh
toán nhằm đảm bảo khả năng thanh toán đối với các doanh nghiệp bảo hiểm.


v

+ Hoạt động đầu tư phải đáp ứng các yêu cầu của doanh nghiệp bảo
hiểm: an toàn vốn, an toàn khả năng thanh toán và sinh lời.
+ Hoạt động đầu tư mang đặc điểm của doanh nghiệp bảo hiểm: nếu

doanh nghiệp bảo hiểm có quy mô, cơ cấu nguồn vốn khác nhau thì hoạt động
đầu tư khác nhau.
1.2.2. Vai trò của hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng không chỉ đối với chính doanh
nghiệp bảo hiểm (làm tăng khả năng cạnh tranh, bù đắp sự mất giá của đồng
tiền, tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp, quảng bá thương hiệu…) mà còn có
vai trò quan trọng đối với xã hội thông qua việc đầu tư trở lại nền kinh tế tác
động đến tăng trưởng kinh tế, giải quyết vấn đề việc làm, phát triển các
ngành…
1.2.3. Các nguyên tắc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm: 3 nguyên tắc cơ
bản đối với hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm là: nguyên tắc
an toàn, nguyên tắc sinh lời và nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán.
1.2.4. Nguồn vốn đầu tư
Theo quy định của pháp luật về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ thì có nhiều nguồn vốn doanh nghiệp có thể đem đầu tư
(vốn điều lệ, lợi nhuận chưa chia của những năm trước để lại, quỹ dự phòng
nghiệp vụ, quỹ dự trữ bắt buộc, quỹ khen thưởng phúc lợi…), tuy nhiên có 2
nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất và quan trọng nhất của doanh nghiệp bảo
hiểm là Vốn điều lệ và nguồn vốn từ quỹ dự phòng phí. Hai nguồn vốn này
bản chất khác nhau. Nguồn vốn điều lệ là do các cổ đông đóng góp là nguồn
vốn có thể đầu tư dài hạn và ít chịu sự quản lý của Nhà nước, trong khi đó
nguồn vốn từ quỹ dự phòng nghiệp vụ do người tham gia bảo hiểm đóng góp
và nguồn vốn này thường là nguồn ngắn hạn (đối với doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ) và phải chịu sự kiểm soát rất chặt của Nhà nước.


vi

1.2.5. Các hình thức đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.
Mỗi doanh nghiệp bảo hiểm có chiến lược đầu tư riêng vì vậy danh

mục đầu tư, cơ cấu danh mục và hình thức đầu tư của các doanh nghiệp bảo
hiểm cũng rất khác nhau, tuy nhiên hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp
bảo hiểm cũng chỉ tập trung đầu tư dưới 4 hình thức đầu tư (Gửi tiền tại các tổ
chức tín dụng; Mua các loại chứng khoán; Đầu tư bất động sản; Góp vốn liên
doanh)
1.3. Phát triển hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
1.3.1. Quan niệm về phát triển hoạt động đầu tư của Doanh nghiệp bảo hiểm
- Quan niệm về tăng trưởng hoạt động đầu tư: Tăng trưởng hoạt động
đầu tư là sự gia tăng về mặt lượng của các chỉ tiêu phản ánh quy mô hoạt
động đầu tư (nguồn vốn đầu tư; doanh thu đầu tư; lợi nhuận hoạt động đầu
tư).
- Quan niệm về Phát triển hoạt động đầu tư: Phát triển hoạt động đầu tư
ngoài việc bao hàm quá trình tăng trưởng hoạt động đầu tư, còn có nội dung
phản ánh rộng hơn, sâu hơn, đó là sự biến đổi về mặt chất của hoạt đầu tư mà
trước hết là sự biến đổi các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động đầu tư theo
hướng tích cực (tỷ suất lợi nhuận đầu tư; chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn..) và
kèm theo đó phải luôn luôn đảm bảo khả năng thanh toán; cơ cấu danh mục
đầu tư hợp lý; nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động đầu tư...
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá phát triển hoạt động đầu tư của doanh nghiệp
bảo hiểm
+ Các chỉ tiêu đánh giá quy mô hoạt động đầu tư gồm: Doanh thu hoạt
động đầu tư; lợi nhuận hoạt động đầu tư; quy mô nguồn vốn đầu tư.
+ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư gồm: Tỷ suất lợi
nhuận đầu tư; Hiệu quả sử dụng vốn; khả năng thanh toán.


vii

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TẠI CÔNG TY
BẢO HIỂM BIDV.

2.1. Thực trạng hoạt động đầu tư
2.1.1. Nguồn vốn đầu tư của Công ty bảo hiểm BIDV.
Nguồn vốn đầu tư chủ yếu của Công ty bảo hiểm BIDV là nguồn vốn
từ vốn chủ và nguồn vốn từ quỹ dự phòng nghiệp vụ, các nguồn vốn khác
(quỹ khen thưởng, khấu hao tài sản..) chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Hầu hết các
nguồn vốn đầu tư của Công ty đều có tốc độ tăng trưởng bình quân cao (Vốn
chủ tăng 96%; Quỹ dự phòng nghiệp vụ tăng 85%; các nguồn khác tăng
94%...).
+ Nguồn vốn chủ bình quân tăng là do Công ty tăng vốn điều lệ từ 200
tỷ lên 500 tỷ vào năm 2007. Mặc dù nguồn vốn chủ tăng mạnh nhưng lợi
nhuận chưa phân phối giảm mạnh do năm 2008 Công ty bị thua lỗ.
+ Quỹ dự phòng nghiệp vụ tăng nhanh là do trong 3 năm đầu hoạt động
Công ty luôn có tốc độ tăng trưởng doanh thu cao (tốc độ tăng trưởng doanh
thu của Công ty luôn đứng ở top đầu của thị trường) vì vậy quỹ dự phòng
nghiệp vụ có tốc độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên trong quỹ dự phòng nghiệp vụ
(dự phòng phí, dự phòng bồi thường, dự phòng dao động lớn) thì quỹ dự
phòng bồi thường có tốc độ tăng trưởng cao (170%) điều này tiềm ẩn nhiều
rủi ro và là hệ quả của việc phát triển nóng sau 3 năm đầu hoạt động.
2.1.2. Tổng vốn đầu tư bình quân
Tổng vốn đầu tư bình quân của BIC giai đoạn 2006 – 2008 có sự tăng
trưởng mạnh, tăng trưởng bình quân 90% (trong đó năm 2007 tăng so với
năm 2006 là 146%, năm 2008 tăng so với năm 2007 là 46%). Tốc độ tăng
trưởng của vốn đầu tư qua 3 năm chủ yếu là do tăng vốn điều lệ của Công ty
từ 200 tỷ đồng lên 500 tỷ đồng năm 2007. Quỹ dự phòng của Công ty mặc dù
tăng trưởng rất nhanh qua 3 năm tuy nhiên với tỷ lệ giới hạn đầu tư theo quy
định của pháp luật (không vượt quá 75% quỹ dự phòng) hơn nữa quy mô quỹ


viii


dự phòng của Công ty còn quá nhỏ vì vậy tác động không nhiều đến tổng vốn
đầu tư của Công ty trong 3 năm qua. Các quỹ khác của Công ty (Quỹ khen
thưởng phúc lợi, khấu hao tài sản cố định …) vì mới thành lập nên những quỹ
này có quy mô không đáng kể. Tổng vốn đầu tư qua 3 năm (2006, 2007,
2008) của Công ty bảo hiểm BIDV lần lượt là 117,89 tỷ đồng; 427,86 tỷ
đồng; 623,31 tỷ đồng.
2.1.3. Cơ cấu danh mục đầu tư của BIC tại thời điểm 31/12
- Chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu đầu tư của BIC trong 3 năm qua
vẫn là tiền gửi, tuy nhiên tỷ trọng tiền gửi ngày càng giảm trong cơ cấu đầu tư
của BIC. Nếu năm 2006 tỷ trọng tiền gửi chiếm đến 74% tổng vốn đầu tư thì
năm 2007 giảm xuống còn 51% và đến năm 2006 chỉ còn 33%.
- Trái phiếu là danh mục đầu tư có tốc độ tăng trưởng trung bình cao
thứ hai sau danh mục cổ phiếu (tăng trưởng 102%). Tỷ trọng trái phiếu trong
danh mục đầu tư qua 3 năm 2006 - 2008 của BIC lần lượt là: 15,48%;
13,52%; 25,56%.
- Cổ phiếu là danh mục đầu tư có tốc độ tăng trưởng trung bình cao
nhất trong tất cả các danh mục BIC đầu tư (tăng trưởng bình quân 226%). Tỷ
trọng cổ phiếu trong danh mục đầu tư của BIC ngày càng tăng (tăng từ 9,31%
năm 2006 lên 25,13% năm 2008).
- Góp vốn liên doanh: Với lợi thế vốn điều lệ lớn (BIC là một trong 5
công ty bảo hiểm phi nhân thọ có vốn điều lệ lớn nhất thị trường) BIC đã tìm
kiếm các cơ hội đầu tư để đa dạng danh mục đầu tư và với mục tiêu hướng
hoạt động đầu tư vào đầu tư dài hạn nhằm tạo sự ổn định, khuếch trương
thương hiện của công ty đồng thời phân tán rủi ro.
2.1.4. Kết quả hoạt động đầu tư
- Doanh thu hoạt động đầu tư: Doanh thu hoạt động đầu tư qua các
năm 2006, 2007, 2008 lần lượt là 20.043 trđ, 40.483 trđ và 71.023 trđ. Tốc độ
tăng trưởng doanh thu của năm sau tăng so với năm trước lần lượt là 100% và



ix

75%. Nguyên nhân doanh thu đầu tư tăng trưởng nhanh qua các năm là do
nguồn vốn đầu tư của Công ty tăng.
- Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư: Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư
qua 3 năm (2006; 2007; 2008) lần lượt là: 14,35 tỷ đồng; 33,47 tỷ đồng và
– 39,3 tỷ đồng.
- Hiệu suất sử dụng vốn: Hiệu suất sử dụng vốn qua 3 năm (2006;
2007; 2008) lần lượt là: 81%; 83%; 85%.
- Tỷ suất lợi nhuận đầu tư: Tỷ suất lợi nhuận đầu tư của BIC qua 3
năm 2006, 2007, 2008 lần lượt là 8,25%; 7,82% và -6,31%.
- Khả năng thanh toán của BIC vào cuối các năm từ 2006 – 2008:
khả năng thanh toán qua các năm 2006, 2007, 2008 lần lượt là 3,9; 4,73; 1,25.
2.2. Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân:
2.2.1.1. Kết quả đạt được:
Sau 3 năm hoạt động, hoạt động đầu tư của Công ty bảo hiểm BIDV đã
đạt được một số kết quả đáng khích lệ, thể hiện:
- Là hoạt động chủ yếu và duy nhất tạo ra lợi nhuận để bù lỗ từ hoạt động
kinh doanh góp phần ổn định hoạt động kinh doanh chính và bảo tồn được
vốn chủ.
- Hoạt động đầu tư ngày càng mang tính chuyên nghiệp, thể hiện: phương
thức đầu tư ngày càng đa dạng (nếu như năm 2006 khoản mục tiền gửi chiếm
74% thì đến năm 2008 tiền gửi chỉ chiếm 33%; đầu tư dài hạn mang tính
chiến lược, góp vốn liên doanh liên kết với các công ty, góp vốn và trực tiếp
điều hành các công ty … ngày càng tăng lên)
- Quy mô hoạt động đầu tư ngày càng mở rộng: Tổng vốn đầu tư bình quân
của BIC không ngừng tăng qua các năm (năm 2006, 2007, 2008 vốn đầu tư
bình quân lần lượt là 174 tỷ đồng, 428 tỷ đồng, 623 tỷ đồng) tương ứng với



x

việc tăng vốn đầu tư thì doanh thu từ hoạt động đầu tư qua các năm cũng
không ngừng tăng (tăng lần lượt qua 3 năm 2006, 2007, 2008 là 20 tỷ đồng,
40,5 tỷ đồng, 71 tỷ đồng).
- Đảm bảo khả năng thanh toán tốt (khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và khả
năng thanh toán nhanh): Mặc dù tập trung nguồn lực cho hoạt động đầu tư
nhưng BIC luôn đảm bảo khả năng thanh toán. Với việc đảm bảo khả năng
thanh toán giúp BIC luôn đảm bảo thực hiện tốt nghĩa vụ thanh toán đối với
khách hàng, đảm bảo quyền lợi cũng như tạo sự uy tín cho Công ty.
- Hoạt động đầu tư của Công ty đã giúp Công ty phân tán rủi ro và đánh bóng
thương hiệu của Công ty: Với việc thành lập liên doanh bảo hiểm Lào - Việt
(LVI), một mặt giúp BIC phân tán rủi ro trong hoạt động bảo hiểm mặt khác
góp phần đánh bóng thương hiệu của BIC trên thị trường bảo hiểm Việt Nam
và trong khu vực.
2.2.1.2. Nguyên nhân:
- Có sự hậu thuẫn lớn từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: Với
nguồn vốn lớn, mối quan hệ đa dạng với nhiều đối tác, có nhiều chuyên gia
trong lĩnh vực đầu tư, Ngân hàng Đầu tư đã tạo cơ hội, tư vấn cho BIC trong
hoạt động đầu tư.
- Xây dựng được đội ngũ cán bộ đầu tư có năng lực và tâm huyết với nghề
nghiệp.
- Xây dựng chiến lược đầu tư đúng đắn: Với chiến lược tập trung nguồn lực
tại Trụ sở chính để phát huy lợi thế theo quy mô đầu tư, phí bảo hiểm thu
được từ các chi nhánh đều được chuyển về Trụ sở chính để đầu tư. Với chiến
lược đầu tư này vừa mang tính chuyên nghiệp, vừa tập trung được nguồn vốn
phát huy được lợi thế đầu tư theo quy mô.
- Phát triển hoạt động khai thác bảo hiểm gốc: Với tốc độ tăng trưởng doanh
thu phí bảo hiểm gốc cao đã giúp quỹ đầu tư của BIC tăng nhanh từ quỹ dự



xi

phòng nghiệp vụ. Với việc nỗ lực đẩy mạnh khai thác bảo hiểm cộng với việc
tăng vốn chủ sở hữu giúp BIC tăng nhanh quy mô vốn đầu tư.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đầu tư: BIC coi Công nghệ
thông tin là một công cụ giúp BIC cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng. Với việc áp dụng phần mềm
phân tích tài chính sẽ giúp BIC tiết kiệm thời gian, chi phí và giúp cho Hội
đồng đầu tư Công ty, ban lãnh đạo Công ty có những quyết định kịp thời và
chính xác đối với các hoạt động đầu tư vào các công ty niêm yết.
- Môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh
bảo hiểm và hoạt động đầu tư phát triển.
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
2.2.2.1. Những hạn chế
- Hiệu quả hoạt động đầu tư thấp: Hiệu quả hoạt động đầu tư của BIC trong 3
năm qua đạt rất thấp và có xu hướng ngày càng giảm (tỷ suất lợi nhuận đầu tư
trên vốn đầu tư qua 3 năm 2006, 2007, 2008 lần lượt là 8,25%, 7,82%, 6,31%)
- Tỷ trọng đầu tư dài hạn trong tổng vốn đầu tư chưa cao, trong khi nguồn
vốn có thể sử dụng cho đầu tư dài hạn tương đối lớn: Tỷ trọng đầu tư dài hạn
trong tổng vốn đầu tư của BIC qua 3 năm 2006, 2007, 2008 lần lượt là 17%;
33%; 44%.
- Quy mô hoạt động đầu tư còn nhỏ và chưa tương xứng với tiềm năng: Tính
đến hết 31/12/2008, Công ty bảo hiểm BIDV chiếm 2,5% thị phần bảo hiểm
gốc (đứng thứ 6/28 về thị phần doanh thu bảo hiểm gốc – Theo số liệu của
HHBH), tuy nhiên quy mô hoạt động đầu tư (Tổng quỹ đầu tư của BIC) còn
rất khiêm tốn (năm 2008 chiếm 4,28% tổng vốn đầu tư của toàn thị trường
bảo hiểm phi nhân thọ).



xii

2.2.2.2. Nguyên nhân
- Cơ cấu tổ chức hoạt động đầu tư còn nhiều bất cập: Cơ cấu tổ chức hoạt
động đầu tư của Công ty hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động đầu
tư, thể hiện: hoạt động đầu tư còn mang tính chất hành chính, tất cả các dòng
sản phẩm đều tập trung một đầu mối vì vậy không chuyên sâu dẫn đến hiệu
quả hoạt động không cao; chưa có cơ chế lương và cơ chế động lực cho cán
bộ đầu tư.
- Cán bộ đầu tư còn hạn chế về kinh nghiệm: Hầu hết cán bộ đầu tư còn trẻ,
hạn chế về kinh nghiệm, chưa có tính quyết đoán vì vậy trong giai đoạn khủng
hoảng thì hạn chế này càng bọc lộ rõ nét.

- Công tác dự báo, phân tích chưa thường xuyên, chất lượng của các báo cáo
đánh giá, phân tích và dự đoán chưa cao, chưa hỗ trợ nhiều đối với hoạt
động đầu tư: Do nhân sự trong tổ phân tích dự báo còn thiếu kinh nghiệm,
không phải nhiệm vụ chính của họ vì vậy chất lượng dự báo, phân tích không
cao.
- Hạn chế trong việc huy động vốn để đáp ứng hoạt động đầu tư: Trên thị
trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay, BIC là công ty duy nhất thuộc sở hữu
100% vốn nhà nước. Với đặc thù như trên BIC bất lợi hơn so với các doanh
nghiệp bảo hiểm khác trong việc huy động vốn từ thị trường để đáp ứng nhu
cầu về vốn đối với hoạt động đầu tư.
- Quy mô doanh thu bảo hiểm gốc của BIC còn quá nhỏ ảnh hưởng đến quy
mô hoạt động đầu tư (nguồn vốn đầu tư): Một trong những nguồn vốn đầu tư
quan trọng đối với hoạt động đầu tư là phí dự phòng. Phí dự phòng tỷ lệ thuận
với quy mô doanh thu vì vậy khi quy mô doanh thu lớn thì quỹ dự phòng phí
sẽ lớn và ngược lại. BIC là Công ty mới thành lập vì vậy quy mô doanh thu
còn nhỏ, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn đầu tư.



xiii

- Tỷ lệ nợ phí bảo hiểm trên tổng doanh thu bảo hiểm cao: Doanh thu từ
nghiệp vụ bảo hiểm tài sản chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu là nguyên
nhân chính dẫn đến tình trạng tỷ lệ nợ phí bảo hiểm trên tổng doanh thu bảo
hiểm gốc của BIC rất cao (19,3%) (cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ của các công
ty bảo hiểm khác). Tỷ lệ nợ phí cao làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
kinh doanh nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng (bởi vì khi không có
doanh thu thực thu thì không thể có nguồn để đem đầu tư).
- Công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch đầu tư còn yếu và thiếu: Công ty
vẫn chưa xây dựng chiến lược đầu tư nhất quán. Kế hoạch đầu tư được xây
dựng hàng năm nhưng chưa mang tính chuyên nghiệp.
- Những nguyên nhân khách quan: cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ và hệ quả của sự cạnh tranh quyết liệt đó là sự hạ phí
(hạ phí phi kỹ thuật), thiếu hụt nhân sự bảo hiểm (đặc biệt là những nhân sự
cao cấp), chênh lệch tỷ giá giữa tỷ giá ngân hàng công bố (dùng để tính phí)
và tỷ giá mua bán trên thị trường dùng để bồi thường hoặc thanh toán phí tái
bảo hiểm.


xiv

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM BIDV.
Từ định hướng phát triển của BIC đến năm 2020 và việc phân tích
S.W.O.T của BIC tại thời điểm hiện tại, tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm
phát triển hoạt động đầu tư của Công ty bảo hiểm BIDV. Các giải pháp bao
gồm:

3.1. Đẩy mạnh hoạt động khai thác bảo hiểm gốc: Nguồn vốn đầu tư từ quỹ
dự phòng phí là rất quan trọng và chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng quỹ đầu tư
của các doanh nghiệp bảo hiểm vì vậy để tăng quy mô vốn đầu tư, BIC cần
phải đẩy mạnh hoạt động khai thác bảo hiểm gốc.
3.2. Cổ phần hoá Công ty vào thời điểm thích hợp: Trong số 28 doanh nghiệp
bảo hiểm Phi nhân thọ thì BIC là Công ty duy nhất thuộc loại hình doanh nghiệp
Nhà nước (100% vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam). Với loại
hình doanh nghiệp Nhà nước như hiện nay BIC bộc lộ nhiều bất cập trong hoạt
động kinh doanh nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng (bị phụ thuộc quá
nhiều vào quy trình, quyết định, hạn mức … của Ngân hàng) dẫn đến việc thiếu
chủ động trong hoạt động. Vì vậy, việc cổ phần hoá BIC là việc làm cần thiết

để phát triển hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động đầu tư. Tuy nhiên khi
tiến hành cổ phần hoá cũng cần phải lựa chọn thời điểm thích hợp để dành
được những điều kiện thuận lợi nhất về phía Công ty.
3.3. Tăng cường các biện pháp nhằm giảm tỷ lệ nợ phí bảo hiểm: Kết hợp với
các chi nhánh BIDV trong việc thu phí bảo hiểm.
3.4. Đổi mới cơ cấu tổ chức hoạt động đầu tư:
- Chuyển đổi phòng Đầu tư thành Ban Đầu tư, trong Ban đầu tư thành
lập các phòng đầu tư theo dòng sản phẩm đầu tư: Phòng đầu tư Chứng khoán,
Phòng đầu tư Bất động sản, Phòng đầu tư tiền gửi, Phòng đầu tư trực tiếp
…để nâng cao hiệu quả và tính chuyên nghiệp của hoạt động đầu tư.


xv

- Xây dựng cơ chế tiền lương, thưởng, thu nhập của cán bộ đầu tư gắn
với hiệu quả hoạt động đầu tư, tránh tình trạng cán bộ đầu tư hưởng lương
theo kết quả kinh doanh bảo hiểm như tình trạng hiện nay. Việc xây dựng cơ
chế lương, thu nhập của cán bộ đầu tư gắn với kết quả hoạt động đầu tư gắn

trách nhiệm với quyền lợi của cán bộ đầu tư.
- Tăng cường hoạt động và nâng cao chất lượng của Hội đồng tư vấn
đầu tư
3.5. Nâng cao chất lượng nhân sự của hoạt động đầu tư: Thông qua việc thu
hút nhân sự, đào tạo, đánh giá, quy hoạch cán bộ.
3.6. Thành lập bộ phận phân tích tài chính Công ty trực thuộc phòng Tài
chính kế toán
3.7. Phân tích các yếu tố mùa đối với dòng tiền vào và ra để có kế hoạch đầu
tư trong ngắn hạn: Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm thì “dòng tiền
vào” chủ yếu là doanh thu phí bảo hiểm và “dòng tiền ra” chủ yếu là hoạt
động bồi thường thường có một khoảng thời gian nhất định vì vậy để nâng
cao việc sử dụng nguồn vốn tận dụng vốn để đầu tư thì cần phải phân tích các
yếu tố mùa “Mùa doanh thu” và “Mùa bồi thường” để có kế hoạch đầu tư
trong ngắn hạn.
3.8. Đa dạng hoá hoạt động đầu tư trong đó tập trung vào hoạt động mua bán
các doanh nghiệp để trực tiếp nắm quyền điều hành.


xvi

KẾT LUẬN
Với những kết quả đã đạt được thông qua việc thực hiện đề tài “Phát
triển hoạt động đầu tư tại Công ty bảo hiểm BIDV”, Luận văn đã có những
đóng góp chủ yếu sau:
1. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động đầu tư của các
doanh nghiệp bảo hiểm Phi nhân thọ, trong đó nên lên được tầm quan trọng
của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, những đặc
trưng của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm về các mặt như
nguồn vốn đầu tư, hạn mức đầu tư, các hình thức đầu tư, đồng thời chỉ ra các
yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.

2. Bằng những số liệu cụ thể, thông qua các phương pháp thống kê, so sánh,
tổng hợp, phân tích, Luận văn đã tập trung phân tích thực trạng hoạt động đầu
tư tại Công ty bảo hiểm BIDV trong giai đoạn 2006 – 2008 với những đánh
giá chính là: (1) Quy mô hoạt động đầu tư ngày càng mở rộng; (2) Hoạt động
đầu tư là hoạt động duy nhất tạo ra lợi nhuận để bù lỗ cho hoạt động kinh
doanh bảo hiểm trong những năm đầu hoạt động; (3) Hoạt động đầu tư ngày
càng mang tính chuyên nghiệp; (4) Hoạt động đầu tư luôn đảm bảo khả năng
thanh toán của doanh nghiệp; (5) Hoạt động đầu tư giúp công ty phân tán rủi
ro và đánh bóng thương hiệu. Bên cạnh những kết quả đạt được luận văn còn
chỉ ra những hạn chế của hoạt động đầu tư: (1) Hiệu quả hoạt động đầu tư
thấp; (2) Tỷ trọng đầu tư dài hạn trong tổng vốn đầu tư của Công ty chưa cao;
(3) Quy mô hoạt động đầu tư còn nhỏ và chưa tương xứng với tiềm năng.
3. Để phát triển hoạt động đầu tư tại Công ty bảo hiểm BIDV, Luận văn đã
đưa ra một số giải pháp như: đẩy mạnh hoạt động khai thác bảo hiểm gốc; Cổ
phần hoá Công ty vào thời điểm thích hợp; tăng cường các biện pháp nhằm
giảm tỷ lệ nợ phí bảo hiểm; đổi mới cơ cấu tổ chức hoạt động đầu tư; nâng
cao chất lượng nhân sự hoạt động đầu tư; phân tích các yếu tố mùa đối với


xvii

dòng tiền vào và ra để có kế hoạch đầu tư trong ngắn hạn; đa dạng hoá hoạt
động đầu tư trong đó tập trung vào việc mua bán các doanh nghiệp để nắm
quyền điều hành. Bên cạnh đó Luận văn cũng nêu một số những kiến nghị đối
với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam về việc xây dựng cơ chế linh
hoạt đối với Công ty bảo hiểm BIDV trong nhiều lĩnh vực (đặc biệt là nhân
sự); đề nghị tăng vốn điều lệ lên 1.000 tỷ đồng. Đối với Cục Giám sát quản lý
bảo hiểm - Bộ tài chính đề nghị: (1) Bổ sung các công cụ, biện pháp quản lý
rủi ro hoạt động của các công ty bảo hiểm; (2) Đề nghị xem xét nâng điều
kiện thành lập mới công ty bảo hiểm; (3) Tăng cường quan hệ với các tổ chức

cơ quan quản lý bảo hiểm của các nước có thị trường bảo hiểm phát triển để
học hỏi kinh nghiệm quản lý và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm
trong nước giao lưu, học hỏi các doanh nghiệp/tổ chức bảo hiểm nước ngoài
có kinh nghiệm.



×