Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tăng cường giám sát từ xa đối với các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở tại chi nhánh bảo hiểm tiền gửi khu vực Đông Bắc bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.25 KB, 11 trang )

i

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Chương 1: Tổng quan về hoạt động giám sát từ xa của Bảo hiểm tiền gửi
đối với các tổ chức tín dụng hợp tác
Tổ chức tín dụng hợp tác là tổ chức tín dụng được hình thành và hoạt động
với tư cách pháp nhân của một hợp tác xã. Hay nói cách khác, tổ chức tín dụng hợp
tác cũng chính là loại hình hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tín dụng, thực hiện
kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh của các TCTD luôn chứa đựng những nguy cơ rủi ro
tiềm ẩn. Hơn thế nữa, rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có hiệu ứng dây
truyền, lây lan, phức tạp. Sự đổ vỡ một TCTD có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ
thống, đến toàn bộ nền kinh tế và có thể lan rộng quy mô quốc tế. Đối với các tổ
chức TDHT, rủi ro cũng như đối với hoạt động ngân hàng nói chung và có tính đặc
thù riêng. Các rủi ro cơ bản, phổ biến đối với các tổ chức TDHT: rủi ro tín dụng, rủi
ro lãi suất, rủi ro thanh khoản…
BHTG ra đời nhằm mục đích phát hiện, cảnh báo và ngăn chặn những rủi ro
đó. BHTG ra đời từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, theo thời gian tổ chức này phát
triển bên cạnh các tổ chức tài chính có nhận tiền gửi, nó như một sản phẩm tất yếu
của kinh tế thị trường, một định chế tài chính không thể thiếu của hoạt động ngân
hàng. Sự cần thiết của hoạt động BHTG được khẳng định gián tiếp thông qua hoạt
động của hệ thống ngân hàng. Hoạt động BHTG góp phần củng cố niềm tin của
công chúng đối với hệ thống ngân hàng. Hoạt động BHTG cung cấp đầy đủ hơn cho
công chúng thông tin về các ngân hàng; hỗ trợ các TCTG BHTG có vấn đề về mặt
tài chính để giúp giải quyết khó khăn tạm thời nhằm duy trì hoạt động; chi trả tiền
bảo hiểm cho người gửi tiển trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi bị đóng cửa
hoặc mất khả năng thanh toán.
Tuỳ vào mục đích và mô hình tổ chức của tổ chức BHTG ở mỗi quốc gia mà


ii



tổ chức này ở mỗi quốc gia có những nghiệp vụ cụ thể. Tuy nhiên, nhìn chung các
tổ chức BHTG trên thế giới đều thực hiện một số nghiệp vụ chính đó là: (1) Cấp thu
hồi giấy chứng nhận BHTG, yêu cầu đơn vị tham gia BHTG thực hiện nghĩa vụ với
tư cách tham gia BHTG; (2) nghiệp vụ kiểm tra TCTG BHTG; (3) nghiệp vụ giám
sát TCTG BHTG; (4) nghiệp vụ hỗ trợ khách hàng; (5) nghiệp vụ chi trả tiền BHTG
và quản lý thanh lý tài sản sau khi chi trả BHTG.
Trong đó giám sát từ xa là một trong những nghiệp vụ quan trọng của
BHTG. Giám sát từ xa là việc gián tiếp kiểm tra, thông qua tổng hợp, tính toán,
phân tích chỉ tiêu dựa trên báo cáo của TCTD nhằm đánh giá tình hình hoạt động
của từng TCTD riêng biệt, từ đó xác định những TCTD có vi phạm để cảnh báo kịp
thời và đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp. Nghiệp vụ giám sát là một công cụ để
các tổ chức BHTG trên thế giới thực hiện chức năng kiểm soát các TCTG BHTG
thực hiện những quy định về BHTG và bảo đảm an toàn, lành mạnh trong hoạt động
tài chính. Qua đó, tổ chức BHTG thể hiện rõ vai trò của mình trong mạng lưới bảo
đảm an toàn hoạt động tài chính quốc gia. Mục đích giám sát từ xa là bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của TCTG
BHTG, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng. Để đạt được
mục đích thì yêu cầu giám sát từ xa phải phát hiện sớm và có biện pháp ngăn chặn
kịp thời vi phạm về BHTG và an toàn trong hoạt động ngân hàng của TCTG
BHTG.
Hiện nay BHTG của các nước thực hiện giám sát từ xa đối với các TCTG
BHTG theo mô hình CAMELS với các tiêu chí giám sát theo chuẩn mực quốc tế về
đảm bảo tỷ lệ an toàn theo các nguyên tắc của Basel.
Hiệp ước Basel về quy chuẩn tài chính đối với ngân hàng là thỏa thuận giữa
các nước thuộc nhóm G10 gồm: Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Italia, Nhật Bản, Hà Lan
Thụy Điển, Anh Quốc và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay đã có trên 100
nước đã áp dụng các quy chuẩn tài chính của Hiệp định này. Mục đích của việc ban



iii

hành quy chuẩn tài chính trong Hiệp định Basel là nhằm tạo ra một sự ổn định và
lành mạnh hệ thống tài chính ngân hàng quốc tế. Hiệp định Basel mang tính chất
thỏa thuận quốc tế và các tiêu chuẩn về vốn đã trở thành chuẩn mực quốc tế về vốn
tự có. Nó quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và quản lý rủi ro tín dụng đối với
ngân hàng, là một trong những căn cứ, tiêu chuẩn để các ngân hàng của các quốc
gia trên thế giới áp dụng quản lý, bảo đảm an toàn trong hoạt động.
Hệ thống CAMELS là hệ thống đánh giá hoạt động ngân hàng toàn diện,
được dùng phổ biến trên thế giới. Để góp phần nâng cao hiệu quả thanh tra giám sát
ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Hệ thống CAMELS phân tích 6 khía
cạnh truyền thống được xem là quan trọng nhất trong hoạt động của trung gian tài
chính. Các lĩnh vực phản ánh các điều kiện tài chính và khả năng hoạt động nói
chung của một TCTD gồm: Khả năng tự cân đối vốn (C); Chất lượng tài sản (A);
Quản lý (M); Khả năng sinh lời (E); Khả năng thanh khoản (L) và Độ nhạy cảm với
rủi ro thị trường (S).
Các tổ chức BHTG trên thế giới sử dụng hệ thống CAMELS để giám sát
hoạt động của các TCTG BHTG. Từ kinh nghiệm giám sát hoạt động ngân hàng
của các quốc gia trên thế giới có thể rút ra những bài học kinh nghiệm đối với Việt
Nam về: lựa chọn phương pháp giám sát thống nhất cho mọi tổ chức có chức năng
giám sát hoạt động ngân hàng, trong xu thế hiện nay thực hiện giám sát theo mô
hình CAMELS với các tiêu chí giám sát theo chuẩn mực quốc tế về đảm bảo an
toàn theo các nguyên tắc của ủy ban Basel là thích hợp; phát hiện và có biện pháp
ứng phó với những dấu hiệu cảnh báo; quyết định thứ tự ưu tiên, phạm vi và tần
suất kiểm tra cung cấp thông tin cho việc quản trị rủi ro của các TCTD; thực hiện
các biện pháp can thiệp và là công cụ giảm thiểu rủi ro cho tổ chức tham gia BHTG;
sau khi giám sát thực hiện phân loại các TCTG BHTG theo các mức rủi ro; tính
điểm số cho hệ thống tính phí theo mức độ rủi ro; sớm xây dựng Luật để quy định
rõ quyền hạn và vai trò giám sát của BHTG.



iv

Chương 2: Thực trạng giám sát từ xa đối với các quỹ tín dụng nhân dân
cơ sở tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Đông Bắc Bộ
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở là tổ chức tín dụng hợp tác do các thành viên
trong địa bàn tự nguyện thành lập và hoạt động, nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ
giữa các thành viên. Với mô hình nhỏ bé như vậy nên hiện nay các QTDNDCS
được cho phép thực hiện một số các nghiệp vụ bao gồm: huy động vốn chủ sở hữu,
huy động tiền gửi, vay vốn, trích lập các quỹ; hoạt động cho vay, hoạt động hùn góp
vốn đầu tư; các hoạt động cung cấp dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng khác: dịch
vụ thanh toán và ngân quỹ chủ yếu cho các thành viên, dịch vụ ủy thác và làm đại lý
trong lĩnh vực hoạt động tiền tệ theo quy định của NHNN.
Đầu những năm 90 khi các định chế tài chính hình thành và phát triển chưa
đồng bộ và sự ra đời quá nhanh các quỹ tín dụng dẫn đến hàng loạt QTDNDCS đổ
vỡ. BHTGVN là một định chế tài chính mới ra đời, hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận, nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro hệ thống ngân hàng và bảo vệ quyền
lợi và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. BHTGVN bảo vệ người gửi tiền theo hai
cách đó là trực tiếp và gián tiếp. Công tác chi trả tiền gửi được bảo hiểm là cách bảo
vệ trực tiếp, còn công tác kiểm tra, giám sát hoặc hỗ trợ tài chính của BHTGVN đối
với TCTD là nhiệm vụ quan trọng, là cách bảo vệ gián tiếp người gửi tiền.
BHTGVN được thành lập không chỉ với mục đích chính là chi trả tiền gửi được bảo
hiểm mà điều cơ bản là góp phần tạo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống
ngân hàng thông qua công tác giám sát, cảnh báo sớm và hỗ trợ tài chính.
Chi nhánh BHTG khu vực Đông Bắc Bộ là một trong 6 chi nhánh trực thuộc
của BHTGVN đóng tại Hải Phòng. Chi nhánh phụ trách các TCTG BHTG thuộc
các tỉnh thành phố: Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình và Hải Dương, Bắc Ninh,
Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Bắc Giang, Bắc Cạn, Thái Nguyên và Lạng Sơn.
Đến thời điểm 31/12/2007, trên địa bàn quản lý của Chi nhánh có 287 QTDNDCS



v

và 1 ngân hàng thương mại cổ phần.
Giám sát từ xa đối với các QTDNDCS trên địa bàn của Chi nhánh luôn được
coi trọng hàng đầu. Song song với việc giám sát hoạt động các đơn vị theo phần
mềm giám sát Divas CIS, Chi nhánh cũng giám sát thông qua các ứng dụng của
Micosoft Excel. Cán bộ quản lý cũng tiến hành nhập số liệu từ báo cáo nhận được
của đơn vị, sau đó Excel tự động tính toán và đưa ra mẫu biểu và các chỉ tiêu cần
thiết cho hoạt động giám sát. Các chỉ tiêu giám sát của BHTG cơ bản dựa trên các
chỉ tiêu giám sát theo các văn bản quy phạm pháp luật của NHNN và các Bộ ngành
liên quan khác. BHTGVN sử dụng mô hình CAMELS với các tiêu chí giám sát
theo chuẩn mực quốc tế về đảm bảo an toàn theo các nguyên tắc của Basel để
giám sát hoạt động của các QTDND. Nhờ đó, BHTG nắm rõ được tình hình hoạt
động của từng đơn vị mà có những chấn chỉnh kịp thời.
BHTGVN đã xây dựng một hệ thống mẫu biểu các chỉ tiêu giám sát. Trong
đó tập trung giám sát về cơ cấu nguồn vốn, tài sản; vốn tự có; chất lượng tài sản;
các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng; kết quả hoạt động kinh doanh của các
QTDNDCS. Chi nhánh BHTG KV ĐBB đã thực hiện giám sát 100% các
QTDNDCS trên địa bàn phụ trách.
Thông qua giám sát từ xa, Chi nhánh đã đạt được một số kết quả như: Chi
nhánh BHTG KV ĐBB đã bước đầu thực hiện hiện đại hóa giám sát theo yêu cầu
của BHTGVN, nối mạng với các QTDNDCS để đảm bảo kênh thông tin đầy đủ,
chính xác và kịp thời hơn. Chi nhánh đã lần lượt hỗ trợ đường truyền cho một số
các QTDNDCS trên địa bàn quản lý. Từ khi các QTDNDCS thực hiện gửi báo cáo
qua đường truyền tin cho BHTG, báo cáo các đơn vị gửi cho BHTG đã đầy đủ hơn
về số lượng, chính xác hơn về chất lượng báo cáo và kịp thời về mặt thời gian. Chi
nhánh BHTG KV ĐBB đã giám sát hoạt động của 100% các QTDNDCS theo yêu
cầu của BHTGVN và theo tiêu chuẩn Việt Nam và có tiếp thu kỹ thuật và chuẩn
mực quốc tế. Phương pháp giám sát được chuyển từ giám sát tuân thủ sang giám sát



vi

rủi ro. Thay vì giám sát theo định kỳ quý theo yêu cầu của BHTGVN, Chi nhánh
BHTG KV ĐBB đã tiến hành giám sát theo định kỳ tháng đảm bảo theo dõi kịp thời
và chính xác hơn. Đối với hệ thống CAMELS, BHTG đã phần nào thực hiện giám
sát được các chỉ tiêu phản ánh khả năng tự cân đối vốn, chất lượng tài sản, lợi
nhuận, khả năng thanh toán của các TCTG BHTG. Các chỉ tiêu giám sát được xây
dựng phản ánh khách quan tình hình hoạt động của các QTDNDCS. Hoạt động
giám sát từ xa thực sự đã được coi như là một nghiệp vụ chủ yếu của BHTG, đây
được xem là hệ thống cảnh báo sớm để phát hiện và đánh giá những rủi ro tiềm ẩn
của các TCTG BHTG trên cơ sở các tiêu chí và chuẩn mực quốc tế. Cùng với việc
tham khảo kết quả xếp hạng TCTD của NHNN, kết quả giám sát từ xa đã xác định
được nguy cơ tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động của TCTG BHTG và kịp thời cảnh báo
tới đơn vị. Kết quả giám sát từ xa của Chi nhánh đã phát hiện ra nhiều trường hợp
vi phạm trong hoạt động, trên cơ sở đó đã xây dựng hồ sơ cảnh báo và tiến hành thủ
tục cảnh báo đối với các đơn vị có vi phạm, đã gửi những thông báo cảnh báo đến
các đơn vị này; tổ chức kiểm tra tại chỗ những đơn vị có nhiều vi phạm đồng thời
báo cáo với Chi nhánh NHNN trên địa bàn để phối hợp, chấn chỉnh. Thông qua
công tác cảnh báo sớm đã giúp cho các QTDNDCS nhìn nhận một cách khách quan
hơn về các vi phạm và nguyên nhân để sớm có biện pháp khắc phục, chỉnh sửa
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động và giảm thiểu rủi ro.
Tuy nhiên, giám sát từ xa đối với các QTDNDCS tại Chi nhánh cũng còn
một số hạn chế và nguyên nhân như: Chưa có sự đồng tình, ủng hộ tuyệt đối từ các
đơn vị chức năng có liên quan và khách hàng tới hoạt động giám sát của BHTG.
Thông tin đầu vào để giám sát còn chưa đầy đủ, một số đơn vị tham gia BHTG
chưa có ý thức chấp hành quy định báo cáo cho BHTG. Nguyên nhân là BHTG
không phải là cơ quan chủ quản của các TCTD, một số đơn vị chưa nhận thức rõ
được vai trò và chưa nhiệt tình hợp tác với BHTG. Hơn nữa, chưa có cơ chế xử phạt

đối với các QTDNDCS không nộp báo cáo hay nộp báo cáo chậm cho BHTG. Một
nguyên nhân khách quan nữa là do chậm chễ hoặc thất lạc báo cáo trên đường bưu
điện. Thêm vào đó, phần mềm giám sát Divas CIS của BHTGVN mới được triển


vii

khai nên vẫn còn một số bất cập. Sự cố mạng máy tính và lỗi đường truyền vẫn còn
xảy ra. Mặc dù lượng thông tin được gửi qua đường truyền đầy đủ hơn, chính xác
và kịp thời hơn nhưng Chi nhánh vẫn chưa được quyền kiểm soát kết quả phân tích
thông tin nên phần mềm này chưa phát huy được hiệu quả. Một số chỉ tiêu không có
đủ thông tin để giám sát như việc chấp hành giới hạn tín dụng đối với khách hàng,
tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, việc phân loại tài sản có rủi ro…
Việc tính toán các chỉ tiêu trên đòi hỏi rất nhiều thông tin mà thông qua giám sát từ
xa không thể xác định được hoặc chỉ tính toán được một cách tương đối. Hơn nữa,
hệ thống mẫu biểu của BHTGVN xây dựng trước khi một loạt các quy định mới của
NHNN ra đời như Quyết định 1328/QĐ-NHNN, Quyết định 493/QĐ-NHNN;
Quyết định 18/QĐ-NHNN nên một số chỉ tiêu vẫn chưa được chỉnh sửa kịp thời.
BHTG mới chỉ giám sát được một số khía cạnh theo các chỉ tiêu CAMELS nên
chưa đánh giá được toàn diện hoạt động của các TCTG BHTG. Việc xếp hạng các
TCTG BHTG mới chỉ trong giai đoạn xây dựng và thử nghiệm, chưa có hệ thống
điểm đánh giá cụ thể. Ngoài ra Chi nhánh còn gặp phải khó khăn về cơ sở vật chất,
số lượng và tốc độ máy vi tính chưa đáp ứng yêu cầu trong trao đổi và cập nhật dữ
liệu giám sát. Đội ngũ cán bộ của Chi nhánh BHTG KV ĐBB còn có những hạn chế
nhất định về số lượng, năng lực chuyên môn và kỹ năng để thực hiện có hiệu quả
công tác giám sát.
Chương 3. Giải pháp tăng cường giám sát từ xa đối với quỹ tín dụng
nhân dân cơ sở tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Đông Bắc Bộ
Với thành công của mô hình QTDNDCS trong thời gian qua, hiện nay hàng
loạt các QTDNDCS mới trên địa bàn quản lý của Chi nhánh BHTG KV ĐBB được

thành lập. Hiện nay, một số QTDNDCS đã được Chi nhánh NHNN tỉnh (thành phố)
cho phép mở rộng hoạt động ra địa bàn các xã (phường) bên cạnh. Đi đôi với việc
mở rộng kinh doanh là rủi ro tiềm ẩn nhiều hơn do QTDNDCS không có điều kiện
tìm hiểu rõ khách hàng của mình như đối với khách hàng trong địa bàn xã (phường)
của mình. Giám sát từ xa của Chi nhánh BHTG KV ĐBB ngày càng rộng về khối


viii

lượng và sâu về nội dung giám sát theo xu hướng của mô hình BHTG quốc tế là
giảm thiểu rủi ro. Công tác giám sát từ xa của BHTGVN tạo ra một kênh thông tin
độc lập, cùng với các kênh giám sát khác đã tạo ra một bức tranh đầy đủ hơn về các
tổ chức tín dụng. Qua giám sát từ xa, từng bước BHTGVN đã áp dụng các chỉ tiêu
bảo đảm an toàn cho các tổ chức tín dụng theo các tiêu chuẩn quốc tế, tiến tới phân
tích và đánh giá, phân loại TCTD để áp dụng mức phí rủi ro đối với từng TCTD.
Theo xu hướng phát triển đó, để phát huy những kết quả đã đạt được trong
thời gian qua và hạn chế những hạn chế của hoạt động giám sát từ xa của Chi nhánh
BHTG KV ĐBB, giám sát từ xa cần được xem là có tầm quan trọng đặc biệt. Tăng
cường giám sát từ xa sẽ có tác dụng nâng cao hiệu quả và chất lượng các hoạt động
khác của BHTGVN. Tăng cường giám sát từ xa cần tăng cường cả về tần suất giám
sát và chỉ tiêu giám sát. Nghĩa là các QTDNDCS phải được giám sát thường xuyên
hơn nhằm cảnh báo sớm và ngăn chặn rủi ro cũng như sự đổ vỡ của QTDNDCS;
các chỉ tiêu giám sát được xây dựng cần cụ thể chi tiết hơn và giám sát đầy đủ các
chỉ tiêu đặt ra, phù hợp với định hướng phát triển của BHTGVN và điều kiện của
các QTDNDCS.
Muốn hoạt động giám sát từ xa cũng như các hoạt động khác của BHTG
triển khai được thuận lợi và tích cực hơn nữa, việc nghiên cứu và sớm thông qua
Luật BHTG cần phải thúc đẩy nhanh chóng nhằm tạo một cơ sở pháp lý cao cho
hoạt động của BHTG nói chung và hoạt động giám sát nói riêng.
Chi nhánh cần duy trì và phát huy mối quan hệ và sự phối hợp chặt chẽ với

các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố trên những địa bàn quản lý để chia sẻ thông
tin, tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát từ xa, tránh chồng chéo
không cần thiết.
Cần phải có hệ thống giám sát từ xa đối với các TCTG BHTG nói chung và
riêng đối với QTDNDCS phù hợp với chuẩn mực quốc tế và đặc thù của Việt Nam.
Nghĩa là hệ thống giám sát của BHTGVN cần được xây dựng theo hướng giám sát


ix

rủi ro, kết hợp chặt chẽ giữa giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ.
Thông tin về các TCTG BHTG là cơ sở để thực hiện giám sát. BHTG phải
được nắm giữ một chế tài rõ ràng hơn về việc chấp hành chế độ thông tin báo cáo
của các TCTG BHTG. Đồng thời đôn đốc các TCTG BHTG thực hiện tốt chế độ
thông tin báo cáo theo yêu cầu của BHTGVN. Thực hiện tốt quy trình tiếp nhận và
xử lý thông tin đầu vào trong nội bộ BHTG.
Để giám sát đạt độ chính xác cao và kịp thời thì Chi nhánh cùng với
BHTGVN sớm đẩy nhanh việc hỗ trợ đường truyền thông tin báo cáo cho các
TCTG BHTG, xây dựng một hệ thống các danh mục báo cáo ngắn gọn nhưng vẫn
đảm bảo cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết cho giám sát. Nghiên cứu, khắc
phục những nhược điểm của phần mềm giám sát Divas CIS để sớm đưa phần mềm
này hoạt động thực sự có hiệu quả nhất.
Ngoài ra thông qua phần mềm giám sát Divas CIS, BHTGVN cũng cần có
cơ chế cho phép Chi nhánh truy cập thông tin về TCTG BHTG từ các đơn vị thực
hiện giám sát khác như NHNN và xây dựng một ngân hàng lưu trữ thông tin về
khách hàng để có nguồn dữ liệu so sánh và theo dõi sát sao hơn đối với các TCTG
BHTG.
Hiện nay BHTGVN chưa có quy định cụ thể về phân loại các TCTG BHTG.
Căn cứ các chỉ số giám sát, kiểm tra được và các chỉ tiêu định tính khác; Chi nhánh
có thể chấm điểm theo thang điểm và xếp loại theo định kỳ quý (năm) đối với các

QTDNDCS. Việc phân loại các QTDNDCS có thể chia thành 5 loại: Loại 1:
QTDNDCS mạnh về tài chính, đạt chất lượng cao về chất lượng quản lý, rất an
toàn, mức độ quan tâm giám sát ít; Loại 2: QTDNDCS mạnh về tài chính, đạt tiêu
chuẩn cao về chất lượng quản lý, an toàn, mức độ quan tâm không nhiều; Loại 3:
QTDNDCS an toàn trung bình, đáp ứng yêu cầu tối thiểu, nhưng có thể đạt mức cao
hơn, phần lớn các rủi ro được kiểm soát một cách đầy đủ, mức độ quan tâm ở mức
trung bình; Loại 4: QTDNDCS yếu, cần củng cố ngay; mức độ kiểm soát rủi ro không


x

đạt yêu cầu, không an toàn; cần đặt chế độ giám sát chặt chẽ; Loại 5: QTDNDCS rất
yếu về tài chính, có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán; thiếu
kiểm soát rủi ro một cách trầm trọng; cần đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt,
giám sát rất chặt chẽ. Trong đó, loại 4 và loại 5 cần được quan tâm, giám sát đặc
biệt hơn.
Với số lượng các QTDNDCS nhiều và ngày càng tăng như hiện nay, Chi
nhánh BHTG KV ĐBB cần một đội ngũ cán bộ có trình độ, có khả năng xử lý thông
tin, phân tích kinh tế, đánh giá rủi ro kinh tế và các kiến thức về quản trị tài chính
trong hoạt động ngân hàng.
Để động viên sự nỗ lực của cán bộ nhân viên, Chi nhánh cần có chính sách
động viên cán bộ nhân viên lao động sáng tạo, yên tâm công tác, phục vụ và cống
hiến lâu dài cho sự nghiệp phát triển của BHTG.
Với cơ chế hoạt động của BHTGVN là hoạt động mang tính công ích, không
vì mục tiêu lợi nhuận, hoạt động trên nguyên tắc lấy nguồn thu của số đông để tài
trợ khó khăn cho số ít, BHTGVN thông qua Chi nhánh cần hỗ trợ khách hàng về kỹ
thuật, nghiệp vụ kinh doanh và kỹ năng quản lý còn hạn chế trong lĩnh vực ngân
hàng.
Để thực hiện các giải pháp trên, một số khuyến nghị được đưa ra với Quốc
hội và Chính phủ; NHNN và Bộ tài chính; các QTDNDCS; BHTGVN. Các khuyến

nghị tập trung chủ yếu về các vấn đề cung cấp cho BHTGVN một chế tài để thực
hiện giám sát từ xa và xử lý sau giám sát, ban hành các quy định về thông tin báo
cáo cho BHTG, xây dựng một hệ thống giám sát hoàn chỉnh phù hợp với thông lệ
quốc tế, hợp tác tốt hơn nữa với BHTG, thực hiện xếp hạng các QTDNDCS…


11



×