Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.5 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VIỆN TRIẾT HỌC

TRẦN THỊ HỒNG LOAN
VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
SINH THÁI TRUYỀN THỐNG Ở VÙNG NÚI ĐÔNG BẮC
NƯỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS Phạm Thị Ngọc Trâm – Viện Triết học

Hà Nội - 2005


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Không phải ngẫu nhiên mà năm 2002 được Liên hợp quốc chọn là
năm quốc tế về miền núi. Qua thực tế và qua hàng loạt Hội nghị quốc tế về
môi trường từ năm 1972 đến nay, đặc biệt là Hội nghị Môi trường Quốc tế lần
thứ nhất tại Stốckhôm năm 1972, Hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất tại Rio
De Janeiro năm 1992 và ở Johan Nesburg (Nam Phi) năm 2002, nhân loại đã
phải chứng kiến biết bao thảm họa về môi trường do chính mình gây ra. Một


trong những nguyên nhân quan trọng gây nên các cuộc khủng hoảng sinh thái
cục bộ và đang đe dọa một cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu là sự khai
thác và sử dụng một cách vô ý thức, bừa bãi, lãng phí các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và môi trường, đặc biệt là sự lãng quên các giá trị văn hóa sinh
thái ở vùng rừng núi - nơi được coi là "lá phổi", là "mái nhà" của thế giới
sống. Qua đó, có thể thấy rằng, tự nhiên nói chung, đặc biệt là những nơi khởi
nguồn của những dòng sông, của những cánh rừng bạt ngàn, những dãy núi
trùng điệp, những thảo nguyên mênh mông đang có những vấn đề gay cấn và
nan giải, đòi hỏi phải có sự quan tâm nghiên cứu và giải quyết. Do đó, vấn đề
môi trường sinh thái nhân văn, đặc biệt là vấn đề môi trường ở các vùng núi
đã trở thành vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu, được cả nhân loại quan tâm
vì sự sinh tồn của chính con người.
Vì sự tồn tại và phát triển của mình, con người phải quan hệ với tự
nhiên và quan hệ với nhau; trong quá trình đó, những giá trị văn hóa sinh thái
cũng dần dần được hình thành. Nghĩa là những giá trị văn hóa sinh thái gắn
liền với mối quan hệ giữa con người và môi trường thiên nhiên. Vì vậy, trong
quá trình bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa sinh thái, cần phải tính đến
các yếu tố của môi trường tự nhiên và mối quan hệ, sự tác động giữa con
người với tự nhiên mà kết quả của chúng được biểu hiện trong các giá trị văn
hóa sinh thái. Do đó, vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay không chỉ đơn giản


là vấn đề sinh học, sinh thái học thuần túy, mà thực chất nó còn là vấn đề văn
hóa và lối sống của con người, vấn đề văn hóa sinh thái nhân văn.
Ở nước ta hiện nay, những vùng có điều kiện tự nhiên đa dạng như
vùng rừng rậm, vùng núi cao, …đều là những vùng sâu, vùng xa, trình độ
phát triển về mọi mặt nói chung còn rất hạn chế so với mặt bằng chung của cả
nước. Những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống được hình thành và phát
triển từ nhiều đời nay của những khu vực này đang chịu sự tác động mạnh mẽ
của kinh tế thị trường, của khoa học, công nghệ hiện đại, của sự hội nhập,...

đang có những biến đổi theo cả xu hướng tích cực lẫn tiêu cực, tuy nhiên theo
xu hướng tiêu cực vẫn nhiều hơn. Điều này do trình độ nhận thức của người
dân còn thấp, các điều kiện thiên nhiên phức tạp, xa xôi, cách trở, kinh tế - xã
hội còn lạc hậu,…của vùng này tạo nên. Do vậy, việc bảo tồn và phát huy
những mặt tích cực, còn phù hợp của các giá trị văn hóa sinh thái truyền
thống ở các vùng này đang được đặt ra hết sức cấp thiết nhằm phục vụ cho
mục tiêu phát triển bền vững của đất nước, mà trước tiên là phát triển bền vững
các vùng đặc biệt này. Vấn đề này luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức
quan tâm, và khẳng định: "Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái"
[12, tr. 72](*).
Khu vực miền núi Đông Bắc nước ta là một vùng có nhiều dân tộc
khác nhau cùng sinh sống, do đó ở đây, trải qua nhiều thế hệ đã hình thành
nên một vùng văn hóa đặc thù và đa dạng. Vùng này có vị trí địa lý và môi
trường tự nhiên rất đặc biệt, là nơi khởi nguồn cung cấp nước cho các con
sông chính của đồng bằng Bắc bộ. Nơi đây còn có rừng rậm, núi cao nên
được coi là "lá phổi", là "mái nhà" của cả nước. Do đó, việc nghiên cứu và
bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này là một
đóng góp không nhỏ vào quá trình xây dựng và phát triển bền vững của đất
nước. Trong khi đó, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái
truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế do các
(*)

Từ đây:
- Số đầu là số thứ tự trong danh mục tà i liệu tham khảo.
- Số cuối là số trang của tà i liệu tham khảo.


điều kiện kinh tế, xã hội và sự nhận thức của con người ở đây còn nhiều bất
cập so với yêu cầu đặt ra. Vì vậy, vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn

hóa sinh thái truyền thống ở vùng này hiện nay đang là vấn đề cấp bách cần
được nghiên cứu cả trên bình diện lý luận lẫn thực tiễn.
Chính vì những lý do trên mà chúng tôi đã chọn đề tài "Vấn đề bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông
Bắc nước ta hiện nay" làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa luôn được Đảng ta chú ý ngang
tầm với những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội và đã xác định: văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay,
Đảng ta đã tiếp tục khẳng định phải giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc,
chúng ta "hòa nhập" nhưng không "hòa tan". Và điều này đã được bàn đến rất
cụ thể trong Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII. Mặt
khác, trước nguy cơ cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm
nặng nề môi trường sống hiện nay, cũng như nhu cầu cấp thiết của phát triển
bền vững, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về bảo vệ môi trường trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (15-11-2004). Với mục tiêu
chung là tìm ra con đường để nước ta phát triển nhanh và phát triển bền vững,
đã có nhiều công trình nghiên cứu đến những vấn đề văn hóa và vấn đề sinh
thái ở nước ta hiện nay như:
Về văn hóa nói chung có các công trình: "Văn hóa và đổi mới" (Nxb Chính
trị quốc gia, H, 1994) của cố vấn Phạm Văn Đồng, trong đó tác giả đã đề cập
đến văn hóa một cách có hệ thống và nêu lên được mối quan hệ giữa văn hóa
và đổi mới; "Sự chuyển đổi các giá trị trong văn hóa Việt Nam" (GS.TS Đỗ
Huy, PGS. Trường Lưu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989); "Chân - thiện
- mỹ sự thống nhất và đa dạng trong văn hóa nghệ thuật" (Đỗ Huy, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 1994); "Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" (GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn - TS. Phạm



Văn Đức - TS. Hồ Sĩ Quý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001);... Nhìn
chung, các công trình này nghiên cứu văn hóa dưới góc độ lý luận chung và
đã đạt được những thành công to lớn trong việc nghiên cứu khái niệm, cấu
trúc, giá trị, vai trò, hình thức biểu hiện của văn hóa.
Dưới góc độ văn hóa các dân tộc ít người, có các công trình: "Văn
hóa truyền thống Tày Nùng" (Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy
Phách, TS. Cung Văn Lược, PGS. Vương Toàn, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà
Nội, 1993); "Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang" (Hùng Đình Quý,
Sở Văn hóa - Thông tin Hà Giang xuất bản, 1994); "Văn hóa dân tộc H mông
Hà Giang" (PSG. Trường Lưu và Hùng Đình Quý, Sở Văn hóa - Thông tin Thể thao Hà Giang xuất bản, 1996); "Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà
Giang" (Phạm Quang Hoan và Hùng Đình Quý, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà
Nội, 1999); "Văn hóa các dân tộc Việt Nam thống nhất mà đa dạng" (Nông
Quốc Chấn - Huỳnh Khái Vinh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002),... Các
công trình trên về cơ bản chỉ nghiên cứu văn hóa của một số dân tộc ít người
tương đối điển hình trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở nước ta như: Tày,
Nùng, Dao, Mông, Thái, Ê đê,... vẫn còn văn hóa của nhiều dân tộc thiểu số
khác chưa được nghiên cứu và công bố rộng rãi.
Vấn đề sinh thái và môi trường đã có một số công trình đề cập đến
như: "Môi trường sinh thái - Vấn đề và giải pháp" (Phạm Thị Ngọc Trầm,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997); "Xã hội học môi trường" (Vũ Cao
Đàm, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2002); cuốn "Sinh thái học và môi
trường" (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002),... Nhìn
chung, qua các công trình nêu trên, vấn đề sinh thái và môi trường đã được
khai thác có hệ thống, nhất là những cảnh báo từ môi trường và các tương tác
của nó đến sự phát triển đã được đề cập tương đối rõ nét.
Vấn đề văn hóa sinh thái mới chỉ được quan tâm trong thời gian gần
đây, khi mà thực trạng môi trường sống đang có nhiều vấn đề có liên quan
đến văn hóa, lối sống... Nghiên cứu về vấn đề này, có thể kể ra một số công



trình như: "Văn hóa sinh thái - nhân văn" (Trần Lê Bảo (chủ biên), Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội, 2001); "Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi
trường thiên nhiên" (Nguyễn Viết Chức (chủ biên), Nxb Văn hóa - Thông tin,
2002); "Kỷ yếu diễn đàn phát triển bền vững miền núi Việt Nam" (Ủy ban dân
tộc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2003); "Một số vấn đề về bảo vệ môi trường
vùng dân tộc và miền núi" (Ủy ban dân tộc, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2003);
"Những giá trị văn hóa sinh thái nhân văn Hồ Chí Minh" (Phạm Thị Ngọc
Trầm, Tạp chí Triết học, số 12, 2003); "Về cách tiếp cận triết học - xã hội đối
với hiện trạng môi trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên
nhân và giải pháp" (Phạm Thị Ngọc Trầm, Tạp chí Triết học, số 6, 2004);
ngoài ra cũng có một số luận án tiến sĩ triết học đã bước đầu đi vào nghiên
cứu văn hóa sinh thái như: "Mối quan hệ giữa thích nghi và biến đổi môi
trường tự nhiên của con người trong quá trình hoạt động sống" Luận án tiến
sĩ của Đỗ Thị Ngọc Lan bảo vệ năm 1995, với nội dung chủ yếu bàn về mối
quan hệ giữa thích nghi và biến đổi môi trường tự nhiên của con người trong
quá trình hoạt động sống, cụ thể là trong quá trình lao động, và sự phát triển
lâu bền với mối quan hệ thích nghi và cải tạo môi trường tự nhiên; "Mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền "
Luận án tiến sĩ của Bùi Văn Dũng bảo vệ năm 1999, với nội dung chủ yếu
bàn về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, và đưa ra
một số giải pháp để kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường cho sự
phát triển lâu bền ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
luận án "Xây dựng ý thức sinh thái - yếu tố bảo đảm cho sự phát triển lâu
bền" của Phạm Văn Boong bảo vệ năm 2001, với nội dung chủ yếu bàn về vai
trò của ý thức sinh thái đối với sự phát triển lâu bền và vấn đề xây dựng ý
thức sinh thái trong điều kiện phát triển mới của thời đại;... Nhìn chung, các
công trình này mới chỉ đề cập đến văn hóa sinh thái ở dưới một số góc độ
khác nhau, mức độ khái quát tổng thể về nội dung giá trị văn hóa sinh thái vẫn
chưa rõ nét. Nó chỉ được đề cập đến như là một nội dung nằm trong toàn bộ
vấn đề văn hóa hoặc sinh thái nói chung, và nằm rải rác trong nhiều công trình

nghiên cứu khác nhau.


Về công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, đặc biệt là các
giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở trong cả nước nói chung cũng như ở
vùng núi Đông Bắc nói riêng trong thời gian qua hầu như chưa được nghiên
cứu đến mà mới chỉ được đề cập chung trong công tác bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống nói chung. Ở đây có thể kể đến một số công
trình đã công bố có liên quan tới vấn đề này như: "Phát triển văn hóa, giữ gìn
và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại" (Phạm Minh Hạc,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996); "Sáng tạo và bảo tồn giá trị văn hóa,
văn nghệ các dân tộc thiểu số Việt Nam" (Hội Văn học - Nghệ thuật các dân
tộc thiểu số Việt Nam, in tại trường Trung học Kỹ thuật In, Hà Nội, 1998);
"Tính đa dạng của văn hóa Việt Nam: những tiếp cận về sự bảo tồn " (Trung
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội, 2002).
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu việc bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong xu thế
toàn cầu hóa hiện nay. Vì vậy, luận văn không trùng lặp với bất kỳ luận văn,
công trình nào đã được công bố. Những tài liệu trên chỉ có tác dụng tham
khảo cho việc nghiên cứu đề tài của tác giả luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một số giá trị văn hóa sinh thái
truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta; chỉ ra sự cần thiết và một số giải
pháp nhằm bảo tồn và phát huy mặt tích cực, còn phù hợp của các giá trị đó
trong điều kiện đổi mới hiện nay, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững của
đất nước nói chung và của vùng đất đặc biệt này nói riêng.
- Với mục đích đó, luận văn có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm "giá trị văn hóa sinh thái truyền thống" và
xác định một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng núi Đông Bắc

nước ta.


Thứ hai, làm rõ thực trạng của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc: những kết quả đã đạt được
và những vấn đề cần khắc phục, bổ sung.
Thứ ba, chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu của thực trạng. Từ đó,
bước đầu đề xuất một số phương hướng và giải pháp để bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện
nay nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
- Về giới hạn nghiên cứu đề tài:
Đây là một đề tài rộng có liên quan đến nhiều ngành khoa học. Ở đây
luận văn chỉ giải quyết vấn đề dưới góc độ chuyên ngành triết học. Trên cơ sở
lý luận chung về văn hóa, chúng tôi xem xét vấn đề văn hóa sinh thái từ cách
tiếp cận giá trị.
Khu vực miền núi Đông Bắc nước ta về mặt phân giới địa lý chỉ
mang tính tương đối và ở khu vực này có rất nhiều dân tộc khác nhau cùng
sinh sống, nên văn hóa sinh thái truyền thống của các dân tộc ở đây rất đa
dạng, phong phú. Trong phạm vi của luận văn này chỉ có thể đi sâu vào
nghiên cứu những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của một số dân tộc
tiêu biểu như: Tày, Nùng, Dao, Mông vì đây là những dân tộc chiếm tỷ lệ cao
trong tổng số dân cư của vùng, văn hóa sinh thái của họ hiện nay còn lưu giữ
lại được nhiều giá trị truyền thống, họ lại đại diện cho các tộc người sinh sống
ở cả ba vị trí thung lũng, lưng núi và trên núi cao, nên các giá trị văn hóa sinh
thái truyền thống của họ mang tính đặc trưng chung cho giá trị văn hóa sinh
thái truyền thống cả vùng núi Đông Bắc.
Do điều kiện về lịch sử và địa lý của nước ta và tính chất giao thoa
mạnh mẽ của văn hóa, nên những đặc trưng về văn hóa sinh thái ở vùng này
không độc lập, riêng rẽ với văn hóa sinh thái của các vùng khác mà chỉ mang
tính tương đối.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu


Việc nghiên cứu và trình bày của luận văn dựa trên cơ sở lý luận và
các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan đến đề
tài. Luận văn còn kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng của một số công
trình nghiên cứu khoa học đi trước như các bài viết, các luận án, luận văn, các
tư liệu điều tra, khảo sát,... có liên quan đến nội dung được đề cập trong luận
văn.
Về mặt phương pháp, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng, các phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê, đối chiếu và so
sánh, lôgic và lịch sử... với quan điểm phải có sự kết hợp, thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong nghiên cứu cũng như trong trình bày.
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn trình bày một cách tương đối rõ ràng về "giá trị văn hóa
sinh thái truyền thống" và bước đầu chỉ ra được một số giá trị văn hóa sinh
thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta. Từ đó, luận văn góp phần
nâng cao nhận thức trong việc giải quyết vấn đề "sinh thái" - một vấn đề cấp
bách không chỉ đối với vùng núi Đông Bắc mà còn đối với cả nước nói riêng
cũng như đối với toàn cầu nói chung.
- Thông qua việc phân tích thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc, luận văn đã chỉ ra được
những nhân tố chủ yếu có ảnh hưởng tới công việc này và chỉ ra được một số
nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên.
- Luận văn bước đầu nêu lên một số phương hướng và giải pháp để
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi
Đông Bắc gắn với sự phát triển bền vững của vùng này cũng như của cả nước.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần củng cố nhận thức lý luận về văn hóa sinh thái,

nhất là các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống. Từ đó, góp phần nâng cao sự
nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, tạo cho con


người có một thái độ đúng đắn, hợp quy luật trong quá trình khai thác và sử
dụng tự nhiên. Luận văn còn có thể sử dụng vào việc nghiên cứu những vấn
đề dân tộc và chính sách dân tộc ở miền núi nước ta trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN

1- Trần Thị Hồng Loan (2002), "Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam
dưới tác động của kinh tế thị trường", Văn hóa các dân tộc, (3), tr.
41-44.
2- Trần Thị Hồng Loan (2002), "Một số vấn đề về văn hóa sinh thái ở miền
núi phía Bắc nước ta hiện nay", Triết học, (5), tr. 58- 61.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (2004), Nghị quyết của Bộ Chính trị về bảo
vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Hà Nội.
2. Trần Lê Bảo (Chủ biên), Nguyễn Xuân Kính, Vũ Minh Tâm, Phạm Thị
Ngọc Trầm (2001), Văn hóa sinh thái - nhân văn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
3. Phạm Văn Boong (2001), Xây dựng ý thức sinh thái - yếu tố bảo đảm cho
sự phát triển lâu bền, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà

Nội.
4. Nông Quốc Chấn - Huỳnh Khái Vinh (2002), Văn hóa các dân tộc Việt
Nam thống nhất mà đa dạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), "Vấn đề khai thác giá trị truyền thống vì
mục tiêu phát triển", Triết học, (2), tr. 16-19.
6. Nguyễn Trọng Chuẩn - Phạm Văn Đức - Hồ Sĩ Quý (đồng Chủ biên)
(2001), Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề về triết học - con người - xã
hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Viết Chức (Chủ biên), Đỗ Huy, Huỳnh Khái Vinh, Phạm Thị
Ngọc Trầm (2002), Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi
trường thiên nhiên, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà
Nội.
9. Bùi Văn Dũng (1999), Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ
môi trường cho sự phát triển lâu bền, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện
Triết học, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. V.K. Gac-đa-nôp (1962), Lê-nin với việc bảo vệ di sản văn hóa, xây dựng
bảo tàng, Nxb Văn hóa - Nghệ thuật, Hà Nội.

16. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc
dân tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
17. Hiến pháp năm 1992 (1992), Nxb Sự thật, Hà Nội.
18. Phạm Quang Hoan - Hùng Đình Quý (1999), Văn hóa truyền thống người
Dao ở Hà Giang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
19. Hội Văn học - Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1998), Sáng tạo
và bảo tồn giá trị văn hóa, văn nghệ các dân tộc thiểu số Việt Nam,
in tại Trường Trung học Kỹ thuật In, Hà Nội.
20. Đỗ Huy - Trường Lưu (1993), Sự chuyển đổi các giá trị trong văn hóa
Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
21. Đỗ Huy (1994), Chân - thiện - mỹ sự thống nhất và đa dạng trong văn
hóa nghệ thuật, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
22. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay - Từ
góc nhìn giá trị học, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà
Nội.
23. Nguyễn Văn Huyên (1999), "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc", Triết học (1), tr. 5 - 8.
24. Đinh Gia Khánh - Cù Huy Cận (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb
Văn học, Hà Nội.


25. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người, Môi trường và Văn hóa, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
26. Đỗ Thị Ngọc Lan (1995), Mối quan hệ giữa thích nghi và biến đổi môi
trường tự nhiên của con người trong quá trình hoạt động sống, Luận
án phó tiến sĩ khoa học Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
27. Đinh Xuân Lâm - Bùi Đình Phong (1998), Hồ Chí Minh văn hóa và đổi
mới, Nxb Lao động, Hà Nội.
28. Trường Lưu (1999), Văn hóa - một số vấn đề lý luận, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.

29. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
30. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
31. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
32. Nguyễn Xuân Nguyên (1996), "Một số quan hệ tác động đến diện tích đất
trống đồi trọc tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam", Nghiên cứu
kinh tế, (221), tr. 19-26.
33. Hùng Đình Quý (1994), Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang, Sở
Văn hóa - Thông tin Hà Giang xuất bản.
34. Hồ Sĩ Quý (1999), Tìm hiểu về văn hóa và văn minh, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
35. Tập thể tác giả Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1993), Văn
hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Tập thể tác giả (1995), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trung tâm Khoa học xã
hội và Nhân văn Quốc gia, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh xuất bản.


37. Lê Ngọc Thắng - Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc Văn hóa các dân tộc Việt
Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
38. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
39. Chu Khắc Thuật - Nguyễn Văn Thủ (1998), Văn hóa, lối sống với môi
trường, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
40. Nguyễn Hữu Tiến (1997), "Di cư tự do: Thực trạng và kiến nghị", Tạp chí
Cộng sản (7), tr. 55-59.
41. Lại Văn Toàn (1999), Truyền thống và hiện đại trong Văn hóa, Trung tâm
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội.

42. Phạm Thị Ngọc Trầm (1997), Môi trường sinh thái - Vấn đề và giải pháp,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Phạm Thị Ngọc Trầm (2002), "Vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái trong
điều kiện kinh tế thị trường", Triết học, (12), tr. 14-19.
44. Phạm Thị Ngọc Trầm (2003), "Những giá trị văn hóa sinh thái nhân văn
Hồ Chí Minh", Triết học, (12), tr. 14-19.
45. Phạm Thị Ngọc Trầm (2004), "Về cách tiếp cận Triết học - xã hội đối với
hiện trạng môi trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề,
nguyên nhân và giải pháp", Triết học, (6), tr. 23-31.
46. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2002), Tính đa dạng
của văn hóa Việt Nam: Những tiếp cận về sự bảo tồn, Hà Nội.
47. Nguyễn Văn Tuyên (1998), Sinh thái và môi trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
48. Từ điển triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
49. Ủy ban dân tộc (2003), Kỷ yếu diễn đàn phát triển bền vững miền núi Việt
Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
50. Ủy ban dân tộc (2003), Một số vấn đề về bảo vệ môi trường vùng dân tộc
và miền núi, Nxb Thống kê, Hà Nội.


51. Ủy ban quốc gia về Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa - Ủy ban quốc gia
UNESCO của Việt Nam - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Vũ
Khiêu - Phạm Xuân Nam - Hoàng Trinh (1993), Phương pháp luận về
vai trò của văn hóa trong phát triển, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
52. Huỳnh Khái Vinh (2000), Phát triển văn hóa, phát triển con người, Viện
Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
53. Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá
trị xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.




×