Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của học sinh các dân tộc ít người ở trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 101 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
-----------

LÊ THÙY LINH

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH HỌC
CỦA HỌC SINH CÁC DÂN TỘC ÍT NGƯỜI Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ
TỈNH HÀ GIANG
Chuyên ngành : Sinh học thực nghiệm
Mã số: 60 42 01 14

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS MAI VĂN HƯNG

HÀ NỘI, 2012


2

LỜI CẢM ƠN
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc nhất tôi xin chân thành cảm ơn
PGS.TS. Mai Văn Hưng, người đã hết lòng giúp đỡ tôi trong quá
trình nghiên cứu khoa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong bộ môn
Sinh lý người và động vật khoa Sinh – KTNN, Phòng Sau đại học
trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi học


tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo và
các em học sinh trường PTDT Nội trú tỉnh Hà Giang cùng tất cả bạn
bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình đã giúp đỡ,
động viên tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 11 năm
2012
Tác giả


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả

Lê Thùy Linh


4

CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN
BMI

Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể)

CDC


Centers for Disease Control and Prevention (Trung
tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ )

cs

Cộng sự

FAO

Food and Agriculture Organization (Tổ chức
Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc)

GTSH TK90 Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường
thập kỷ 90 - thế kỷ XX
HATT

Huyết áp tâm thu

HATTr

Huyết áp tâm trương

NXB

Nhà xuất bản

PTDT

Phổ thông dân tộc


THSC

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TSL HSPT

Các chỉ số cơ bản về sinh lý và tâm lý học sinh phổ
thông hiện nay

tr

Trang

VC

Vital capacity (Dung tích sống)

VNTB

Vòng ngực trung bình

WHO

World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)



5

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
Trang
1. Bảng 1.1. Huyết áp tâm thu và tâm trương ở trẻ thuộc

11

các lứa tuổi khác nhau
2. Bảng 2.1. Phân bố học sinh theo tuổi, dân tộc và giới

19

tính
3. Bảng 2.2. Chỉ số pignet và tình trạng sức khoẻ

21

4. Bảng 2.3. Phân loại thể trạng theo BMI

22

5. Bảng 3.1. Chiều cao đứng của học sinh dân tộc Mông

25

6. Bảng 3.2. Chiều cao đứng của học sinh dân tộc Tày

26


7. Bảng 3.3. Chiều cao đứng của học sinh dân tộc Mông và

28

Tày
8. Bảng 3.4. Cân nặng của học sinh dân tộc Mông

30

9. Bảng 3.5. Cân nặng của học sinh dân tộc Tày

32

10. Bảng 3.6. Cân nặng của học sinh dân tộc Mông và Tày

33

11. Bảng 3.7. Vòng ngực trung bình của học sinh dân tộc

35

Mông
12. Bảng 3.8. Vòng ngực trung bình của học sinh dân tộc

36

Tày
13. Bảng 3.9. Vòng ngực trung bình của học sinh dân tộc

38


Mông và Tày
14. Bảng 3.10. Pignet của học sinh dân tộc Mông

39

15. Bảng 3.11. Pignet của học sinh dân tộc Tày

41


6

16. Bảng 3.12. Pignet của học sinh dân tộc Mông và Tày

43

17. Bảng 3.13. BMI của học sinh dân tộc Mông

45

18. Bảng 3.14. BMI của học sinh dân tộc Tày

46

19. Bảng 3.15. BMI của học sinh dân tộc Mông và Tày

48

20. Bảng 3.16. Tần số tim của học sinh dân tộc Mông


50

21. Bảng 3.17. Tần số tim của học sinh dân tộc Tày

51

22. Bảng 3.18. Tần số tim của học sinh dân tộc Mông và

53

Tày
23. Bảng 3.19. Huyết áp tâm thu của học sinh dân tộc Mông

55

24. Bảng 3.20. Huyết áp tâm thu của học sinh dân tộc Tày

56

25. Bảng 3.21. Huyết áp tâm thu của học sinh dân tộc Mông

58

và Tày
26. Bảng 3.22. Huyết áp tâm trương của học sinh dân tộc

59

Mông

27. Bảng 3.23. Huyết áp tâm trương của học sinh dân tộc

60

Tày
28. Bảng 3.24. Huyết áp tâm trương của học sinh dân tộc

62

Mông và Tày
29. Bảng 3.25. Tần số thở của học sinh dân tộc Mông

64

30. Bảng 3.26. Tần số thở của học sinh dân tộc Tày

65

31. Bảng 3.27. Tần số thở của học sinh dân tộc Mông và

67

Tày
32. Bảng 3.28. Dung tích sống của học sinh dân tộc Mông

69

33. Bảng 3.29. Dung tích sống của học sinh dân tộc Tày

70



7

34. Bảng 3.30. Dung tích sống của học sinh dân tộc Mông

72

và Tày
35. Bảng 3.31. Mối tương quan giữa VNTB với một số chỉ
số hô hấp

74


8

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Các chỉ số sinh học của con người không chỉ cung cấp những thông tin
khoa học cần thiết cho các nghiên cứu y sinh học mà còn được sử dụng trong
nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Các chỉ số sinh học ở người Việt Nam đã được các nhà khoa học
nghiên cứu từ những năm 50 của thế kỷ XX và được tổng kết trong cuốn sách
“Hằng số sinh học người Việt Nam” xuất bản năm 1975 và cuốn sách “Các
giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 – thế kỷ XX” xuất
bản năm 2003. Kết quả của những nghiên cứu này cho thấy, các chỉ số về
hình thái và chức năng sinh lý của người Việt Nam có nhiều thay đổi. Vì vậy,
việc nghiên cứu các chỉ số sinh học cần phải được tiến hành thường xuyên.
Ở nước ta, những năm gần đây đã có nhiều tác giả tiến hành nghiên cứu

các chỉ số sinh học trên đối tượng người dân tộc thiểu số. Trong số các tác giả
này phải kể đến Nguyễn Đình Khoa [22], [23], [24], Nguyễn Yên và cs [47],
Nguyễn Thị Lan [26], Đào Mai Luyến [30], Hồ Thị Thanh Tâm [36], Đỗ
Hồng Cường [7], Hoàng Quý Tỉnh [40]. Kết quả nghiên cứu của các tác giả
trên cho thấy, có sự khác biệt về một số chỉ số hình thái và chức năng sinh lý
(chiều cao, cân nặng, chỉ số pignet, BMI, chỉ số hô hấp,…) giữa các dân tộc.
Tuy nhiên, những nghiên cứu trên đối tượng học sinh phổ thông người dân
thiểu số còn hạn chế hoặc có những nghiên cứu đã được tiến hành từ lâu và
không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay. Vì thế, việc nghiên cứu các chỉ số
thể lực và sinh lý trên đối tượng là học sinh các dân tộc thiểu số đang sinh
sống tại các vùng miền núi là rất cần thiết.
Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới nằm ở cực bắc của Việt Nam
với diện tích tự nhiên 7.914,9 km2, dân số trên 746.300 người (2011). Toàn


9

tỉnh có 22 dân tộc sinh sống trong đó dân tộc Mông chiếm 32,0%, dân tộc Tày
chiếm 23,3%, dân tộc Dao chiếm 15,1%, dân tộc Kinh chiếm 13,3%, dân tộc
Nùng chiếm 9,9%, còn lại là các dân tộc khác. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào
tiến hành nghiên cứu các chỉ số sinh học trên đối tượng người dân tộc thiểu số
ở nơi đây.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu
một số chỉ số sinh học của học sinh các dân tộc ít người ở trường phổ
thông Dân tộc nội trú tỉnh Hà Giang”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định một số chỉ số hình thái – thể lực, tuần hoàn, hô hấp của học
sinh dân tộc Mông và Tày ở trường PTDT nội trú tỉnh Hà Giang.
- Tìm hiểu sự giống và khác nhau về một số chỉ số hình thái – thể lực,
tuần hoàn, hô hấp của học sinh dân tộc Mông và Tày ở trường PTDT nội trú

tỉnh Hà Giang.
- Cho thấy được mối liên quan giữa một số chỉ số hình thái với chức
năng sinh lý của học sinh dân tộc Mông và Tày ở trường PTDT nội trú tỉnh
Hà Giang.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các chỉ số hình thái thể lực, tuần hoàn và hô hấp của học
sinh dân tộc Mông và dân tộc Tày.
- So sánh sự giống và khác nhau về một số chỉ số hình thái – thể lực,
tuần hoàn, hô hấp của học sinh dân tộc Mông và dân tộc Tày.
- Nghiên cứu mối liên quan giữa một số chỉ số hình thái – thể lực với
chức năng sinh lý của học sinh dân tộc Mông và dân tộc Tày.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là một số chỉ số hình thái – thể lực và
hô hấp, tuần hoàn của học sinh trường PTDT nội trú tỉnh Hà Giang.


10

5. Những đóng góp của đề tài
Đã xác định được một số chỉ số sinh học của học sinh dân tộc Mông và
Tày ở trường PTDT nội trú tỉnh Hà Giang trong giai đoạn hiện nay.
Đã cho thấy mối tương quan giữa một số chỉ số sinh học của học sinh
dân tộc Mông và Tày tuổi từ 16 đến 18 ở trường PTDT nội trú tỉnh Hà Giang.
Các kết quả thu được qua nghiên cứu này có thể được sử dụng cho việc
nâng cao thể chất của học sinh.


11

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Khái quát về chỉ số sinh học người
1.1.1. Các chỉ số hình thái thể lực cơ thể người
Hình thái và thể lực là những đặc điểm sinh thể quan trọng phản ánh
một phần thực trạng của cơ thể và đặc biệt liên quan chặt chẽ đến khả năng
lao động và thẩm mỹ của con người. Vì vậy, từ lâu hình thái – thể lực đã được
nhiều nhà y học trên thế giới cũng như ở Việt Nam quan tâm nghiên cứu [19].
Thể lực của con người được đánh giá dựa trên nhiều chỉ số sinh học
khác nhau, trong đó chiều cao, cân nặng, vòng ngực là những chỉ số được lựa
chọn sớm nhất dùng để đánh giá tình trạng sức khoẻ, tầm vóc, sự tăng trưởng,
phát triển, khả năng học tập và lao động của con người, cũng như tốc độ tăng
trưởng, đặc điểm di truyền của mỗi dân tộc và của từng người từ khi sinh ra
đến khi chết. Từ ba chỉ số cơ bản này người ta có thể biết được mối liên hệ
giữa chúng thông qua chỉ số pignet và BMI. Các chỉ số này có ý nghĩa quan
trọng trong việc đánh giá sự tăng trưởng hình thái, thể lực của con người.
Chiều cao cơ thể là dấu hiệu được nhận xét sớm nhất trong hầu hết các
lĩnh vực ứng dụng của nhân trắc học, trước cả giai đoạn hình thành khoa học
nhân trắc. Chiều cao được coi như biểu hiện của thể lực và nó đã là một chỉ
tiêu quan trọng đánh giá thể lực trong công tác tuyển chọn [19]. Chiều cao
phản ánh quá trình phát triển chiều dài của xương và nói lên tầm vóc của con
người. Sự phát triển chiều cao mang tính chất đặc trưng cho chủng tộc, giới
tính và chịu ảnh hưởng của môi trường. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự
gia tăng chiều cao đứng ở thế hệ sau so với thế hệ trước nhưng yếu tố di truyền
và yếu tố ngoại cảnh đươc coi là hai yếu tố chính.
Cân nặng cũng là một chỉ số được khảo sát thường xuyên trong các
nghiên cứu nhằm đánh giá thể lực của con người. So với chiều cao, cân nặng


12

ít phụ thuộc vào yếu tố di truyền mà liên quan chủ yếu tới chế độ dinh dưỡng.

Cân nặng của một người gồm 2 phần: Phần cố định chiếm 1/3 khối lượng cơ
thể gồm có xương, da, nội tạng, thần kinh…và phần không cố định chiếm 2/3
khối lượng cơ thể là khối lượng cơ, khối lượng mỡ và nước. Ở người trưởng
thành, sự tăng cân chủ yếu là tăng phần không cố định và có liên quan chặt
chẽ đến chế độ dinh dưỡng [6], [14].
Vòng ngực trung bình cũng là một trong số những kích thước quan
trọng được dùng để đánh giá thể lực của con người. Vòng ngực đã trở thành
chỉ tiêu đánh giá thể lực quan trọng sau chiều cao trong các cuộc tuyển chon
binh lính, nhân công lao động từ khoảng cuối thế kỉ XIX [19].
Chỉ số pignet là chỉ số đánh giá mối tương quan giữa chiều cao với cân
nặng và vòng ngực. Chỉ số pignet đã được quốc tế thừa nhận từ lâu và được
dùng để đánh giá thể lực của một người. Đây là chỉ số dễ vận dụng trong việc
phân loại sức khỏe cho nhiều đối tượng nên đã được nhiều tác giả nghiên cứu
[7], [20], [29], ...
Hiện nay, tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tổ chức Nông lương Thế giới
(FAO) đã công nhận chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index - BMI) là chỉ số
được dùng để đánh giá mức độ gầy hay béo của một người, còn chỉ số pignet
dùng để đánh giá mức độ khỏe hay yếu.
Nhìn chung, các chỉ số thể lực được xây dựng trên quan điểm chủ đạo
là: Đối với một chiều cao nhất định, thể lực được coi là tốt nếu có kích thước
ngang như vòng ngực, cân nặng lớn. Điều này có nghĩa là thể lực của một
người không chỉ phụ thuộc vào kích thước hình thái mà còn phụ thuộc vào
các yếu tố chức năng và sự rèn luyện. Mặt khác, các kích thước hình thái thay
đổi theo giới tính, lứa tuổi và chủng tộc [31]. Vì vậy, các chỉ số chỉ có giá trị
khi chúng được xét đúng mục đích nghiên cứu.


13

1.1.2. Các chỉ số về chức năng sinh lý của một số hệ cơ quan

1.1.2.1. Tần số tim và huyết áp động mạch
Hoạt động của hệ tuần hoàn đảm bảo cung cấp ôxi và chất dinh dưỡng
cho toàn bộ cơ thể sống, trong đó tần số tim và huyết áp động mạch là những
chỉ số cơ bản biểu hiện hoạt động của hệ tuần hoàn.
Tần số tim là số lần tim co bóp trong một phút. Tim có chức năng vừa
hút và vừa đẩy máu, là động cơ chính của hệ tuần hoàn. Bởi vậy, tần số tim là
một trong số các chỉ số dùng để đánh giá hoạt động của hệ tuần hoàn và tình
trạng sức khỏe của con người.
Tần số tim thay đổi theo lứa tuổi, theo trạng thái cơ thể và có sự khác
nhau ở các giới. Vì vậy, việc nghiên cứu tần số tim của trẻ em cũng như ở
người trưởng thành được nhiều tác giả tiến hành. Theo nhiều công trình
nghiên cứu thì tần số tim của con người giảm dần theo lứa tuổi, và tần số tim
của nam giới thường thấp hơn tần số tim ở nữ giới... [3], [14]. Sự giảm dần
của tần số tim có liên quan đến hoạt động của nút xoang và của các dây thần
kinh ngoài tim.
Tim co bóp tạo nên áp lực đẩy máu trong động mạch. Áp lực của máu
lên thành mạch máu gọi là huyết áp. Huyết áp khi tim co và khi tim giãn
không giống nhau [29].
Huyết áp khi tim co gọi là huyết áp tâm thu (huyết áp tối đa) là áp lực
của máu đo được khi tim bơm máu vào động mạch. Huyết áp này phụ thuộc
vào sức co cơ tim và mức độ đàn hồi của mạch. Khi tim co bóp mạnh hoặc
tần số tim tăng, huyết áp sẽ tăng; nhưng khi tần số tim quá cao thì huyết áp
lại giảm do thể tích tâm thu giảm đi [39].
Huyết áp khi tim giãn gọi là huyết áp tâm trương (huyết áp tối thiểu) là
áp lực của máu đo được khi tim ngừng co và là giai đoạn tim không bơm
nhưng máu vẫn chảy được trong lòng mạch nhờ có sự đàn hồi của thành


14


mạch. Do vậy huyết áp tâm trương phụ thuộc vào trương lực của mạch máu.
Huyết áp này tăng khi động mạch giảm tính đàn hồi, kháng lực ngoại biên
cao [39].
Huyết áp thay đổi theo giới tính và phụ thuộc vào các hoạt động của
con người như vận động cơ, hoạt động thần kinh, hoạt động tiêu hoá, hoạt
động sinh dục…[29]. Huyết áp động mạch có xu hướng tăng dần theo lứa
tuổi, nhưng tăng không đều, thời điểm huyết áp tăng mạnh nhất ở nữ giới là
lứa tuổi 10-12 và ở nam giới là lứa tuổi 12-14, tương đối ổn định ở lứa tuổi
trưởng thành.
1.1.2.2. Tần số hô hấp và dung tích sống
Để đánh giá chức năng hô hấp người ta căn cứ vào nhiều chỉ tiêu trong
đó có tần số hô hấp và dung tích sống.
Tần số hô hấp là số lần thở trong một phút. Tần số hô hấp tăng dần theo
tuổi và phụ thuộc vào kích thước cơ thể, lứa tuổi, trạng thái tâm sinh lý, khí
hậu [29].
Dung tích sống, ký hiệu là VC (Vital capacity), là lượng khí sau khi đã
hít vào tận lực rồi thở ra hết sức [29]. Nói cách khác đó là thể tích khí qua
miệng từ vị trí hít vào hoàn toàn đến vị trí thở ra hoàn toàn.
Ở người Việt Nam, có những thông số hô hấp thấp hơn của người Âu Mỹ như: dung tích sống, các thể tích hô hấp, biến thiên dung tích sống theo
chiều cao, độ dẻo phổi ngực, hệ số sử dụng ôxi, các dự trữ hô hấp tĩnh và
động, các lưu lượng tối đa. Điều này không phải do thể lực người Việt Nam
yếu mà do cơ thể người Việt Nam nhỏ và mảnh dẻ [14].
Tuy nhiên, người Việt Nam lại có những thông số hô hấp cao hơn
người Âu - Mỹ không phải do thể lực khoẻ hơn người Âu - Mỹ, mà chủ yếu là
liên quan đến cấu trúc cơ thể, hoặc với chức năng khác. Ví dụ, lưu lượng
thông khí phút cao do chức năng điều nhiệt, tỉ lệ FEV1/VC (chỉ số Tiffeneau)


15


hơi cao, chỉ số Demeny cao rõ rệt có liên quan đến cơ thể mảnh dẻ có tỉ lệ cơ
học cao…[14].
Tóm lại, trong phạm trù hô hấp, nếu như các khí trong máu có các
thành phần ổn định và giống của người Âu - Mỹ, thì các thông số liên quan
đến thông khí phổi rất biến động và có những thông số chắc chắn là khác biệt.
Sự khác biệt đó do cơ thể người Việt Nam nhỏ, nhẹ, mảnh dẻ, ít mỡ và ở môi
trường nhiệt đới, nóng ẩm [14].
1.2. Tình hình nghiên cứu các chỉ số sinh học trên thế giới
1.2.1. Những nghiên cứu về chỉ số hình thái thể lực
Những nghiên cứu về sự tăng trưởng và phát triển của trẻ em được bắt
đầu vào khoảng giữa thế kỷ XVIII. Quyển sách đầu tiên về sự tăng trưởng
chiều dài ở người (Wachstum der Menschen in die Lange) của J. A. Stoeller
được xuất bản ở Magdeburg (Đức) vào năm 1729, trước khi có sách giáo
khoa bệnh học trẻ em của Rosen von Rosenstein (1753). Tuy nhiên, trong
cuốn sách này chưa có các số liệu đo đạc cụ thể. Nghiên cứu về sự tăng
trưởng thực sự được trình bày trong luận án tiến sĩ của Christian Friedrich
Jumpert ở Halle (Đức) năm 1754. Trong đó trình bày các số liệu đo đạc về
cân nặng, chiều cao và các đại lượng khác của một loạt trẻ trai, trẻ gái và
thanh niên từ 1 đến 25 tuổi tại các trại mồ côi Hoàng gia ở Berlin và một số
nơi khác trên nước Đức. Công trình này được xem là nghiên cứu cắt ngang
đầu tiên về tăng trưởng ở trẻ em (theo [42]).
Nghiên cứu dọc đầu tiên về chiều cao được Philibert Guénneau de
Monbeilard thực hiện trên con trai của mình từ năm 1759 đến năm 1777,
trong 18 năm liên tục, mỗi năm được đo 2 lần, cách nhau 6 tháng. Đây là một
nghiên cứu tốt nhất đã được tiến hành cho đến nay và được trích dẫn trong
các nghiên cứu về tăng trưởng trong suốt thế kỷ XIX (theo [42]).


16


Một nghiên cứu tương tự theo hướng sức khoẻ công cộng đã được
Edwin Chadwick thực hiện ở Anh năm 1883, trong đó ông đã trình bày tầm
vóc nhỏ bé của trẻ em đang làm việc trong các nhà máy dệt ở miền Bắc nước
Anh, và nêu nên cần phải cải cách xã hội, cải thiện điều kiện và thời gian làm
việc cho họ. Hướng nghiên cứu này đến nay vẫn được tiếp tục và người ta đã
sử dụng chiều cao của trẻ em và người trưởng thành như là một chỉ số để
đánh giá tình trạng dinh dưỡng và xã hội liên quan tới quy luật tăng trưởng
theo thời gian. Cũng trong khoảng thời gian này H.P.Bowditch (1840 - 1911),
hiệu trưởng đầu tiên của Khoa Y trường Đại học Harvard (Mỹ) đã đưa ra
chuẩn tăng trưởng của trẻ em Mỹ và lần đầu tiên hệ thống bách phân vị được
sử dụng trong nghiên cứu tăng trưởng.
Vòng ngực là chỉ số được nghiên cứu từ những năm 20 của thế kỷ XIX,
đến cuối thế kỷ này thì vòng ngực trở thành một chỉ số quan trọng để đánh giá
thể lực sau chiều cao.
Cân nặng cơ thể tính bằng kilôgam đã được nhắc tới trong công trình
nghiên cứu của Tenon từ thế kỷ XIII. Sang đầu thế kỷ XIX cân nặng được coi
là tiêu chuẩn thứ ba không thể thiếu được khi đánh giá thể lực [20].
Tuy nhiên, việc đánh giá thể lực chỉ dựa trên một trong các chỉ số như
chiều cao, cân nặng hay vòng ngực đều không cho kết quả như mong muốn.
Vì vậy, người ta đã hợp nhất nhiều đại lượng tăng trưởng vào một chỉ số
chung để đánh giá thể lực. Ban đầu là những chỉ số dùng 2 kích thước (cân
nặng và chiều cao) như chỉ số Broca, chỉ số Quetelet, chỉ số Kaup, Rohrer và
Livi... sau đó là những chỉ số được hợp nhất từ 3 kích thước trở lên như chỉ số
Pignet, chỉ số Vervaek, chỉ số Pimo... Một chỉ số được xác định từ càng nhiều
thông số khác nhau thì càng chính xác nhưng việc đo đạc và tính toán cồng
kềnh và phức tạp. Do đó, tuỳ mục đích nghiên cứu mà các tác giả đã chọn các
chỉ số thích hợp đối với công việc của mình [33], [51], [52].


17


Đầu thế kỷ XX, vấn đề nghiên cứu về thể lực trở thành khoa học thực
sự với đầy đủ ý nghĩa và tính chính xác của nó. Người đặt nền móng cho nhân
trắc học hiện đại là Rudolf Martin qua hai tác phẩm nổi tiếng: "Giáo trình về
nhân trắc học" (1919) và "Kim chỉ nam đo đạc và xử lý thống kê" (1924).
Trong các công trình này ông đã đề xuất một số phương pháp và dụng cụ đo
đạc các kích thước của cơ thể cho đến nay vẫn được sử dụng. Sau Rudolf
Martin đã có nhiều công trình bổ sung và hoàn thiện thêm các đề xuất của ông
cho phù hợp với thực tiễn của mỗi nước [20]. Vấn đề nhân trắc học còn được
thể hiện qua các công trình nghiên cứu của P. N. Baskirov trong cuốn "Nhân
trắc học" (1962). Ông đã đưa ra quy luật phát triển cơ thể người dưới ảnh
hưởng của điều kiện sống. Evan Dervael trong cuốn "Nhân trắc học" (1964)
đã đưa ra nhận xét toàn diện về các quy luật phát triển thể lực theo giới tính,
lứa tuổi và nghề nghiệp. Ngoài ra, còn có công trình nghiên cứu của Bunak,
A.M. Urúxon.
Từ các dẫn liệu thu thập được hầu hết các tác giả nhận định rằng, sự phát
triển và tốc độ tăng trưởng các chỉ số nghiên cứu diễn ra không đều qua các
thời kỳ khác nhau, có thời kỳ tốc độ tăng trưởng chậm, có thời kỳ tăng trưởng
nhanh. Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy có sự khác biệt theo các chỉ số
hình thái của trẻ sống ở các vùng, miền khác nhau, cũng như có sự khác biệt
theo tốc độ phát triển các chỉ số hình thái giữa các trẻ nam và trẻ nữ. Cụ thể là
các trẻ sống ở thành phố có các chỉ số hình thái tốt hơn so với các trẻ sống ở
nông thôn. Ở lứa tuổi 7-10, tốc độ tăng chiều cao của các trẻ nữ nhanh hơn so
với ở các trẻ nam, nhưng từ 11 tuổi trở đi tốc độ tăng chỉ số này ở các trẻ nam
lại nhanh hơn so với ở các trẻ nữ. Một nhận xét nữa của các nhà nghiên cứu là
sự phát triển các chỉ số hình thái của trẻ ở các lứa tuổi khác nhau phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như yếu tố di truyền, chế độ dinh dưỡng và hàng loạt các
yếu tố thuộc môi trường sống [7].



18

1.2.2. Những nghiên cứu về một số chức năng sinh lý
1.2.2.1. Những nghiên cứu về chức năng tuần hoàn
Các chỉ số chức năng hệ tuần hoàn được nghiên cứu thường tập trung
vào nhịp tim và huyết áp. Theo một số tác giả như Arshavski và Tur, Waldo
và Edmun nhịp tim của trẻ trong vài ngày đầu sau khi sinh khoảng 120-140
nhịp/ phút, ở trẻ đang bú mẹ khoảng 110-160 nhịp/phút, ở trẻ trước tuổi đi
học khoảng 85-100 nhịp/phút, ở học sinh khoảng 70-74 nhịp/phút. Các tác giả
trên cho rằng, sự giảm nhịp tim trong quá trình phát triển của trẻ là do sự thay
đổi mức chuyển hoá và giảm tính hưng phấn của nút xoang cũng như do tăng
ảnh hưởng trương lực của dây thần kinh số X lên tim (theo [7]).
Huyết áp động mạch cũng là một chỉ tiêu được nhiều người quan tâm
và được nhắc tới trong những nghiên cứu từ thế kỉ 19 [53], [54], [55]. Huyết
áp được Korotkov xác định bằng phương pháp đo gián tiếp và hiện vẫn đang
được dùng phổ biến.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, có sự biến đổi huyết áp theo các
giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển của trẻ. Điều này thấy rõ qua
bảng 1.1 (theo[7]).
Bảng 1.1. Huyết áp tâm thu và tâm trương ở trẻ thuộc các lứa tuổi khác nhau

11 ngày – 6 tháng

Huyết áp tâm thu
(mmHg)
70-109

Huyết áp tâm trương
(mmHg)
40-70


7 tháng – 2 năm

70-129

40-74

3 tuổi – 14 tuổi

106 ± 1,07

64 ± 1,13

15 tuổi – 17 tuổi

116 ± 1,26

67 ± 1,33

Lứa tuổi

Theo Panaven, huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương ở trẻ em 7-17
tuổi tăng dần theo tuổi, nhưng tăng không đều. Thời điểm huyết áp tăng
nhanh ở nữ là 9-12 tuổi, ở nam là 9, 12 và 13 tuổi (theo [46]).


19

Kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả cũng cho thấy có sự khác biệt về
huyết áp động mạch ở nam và nữ, ở các đối tượng sống ở những vùng, miền

khác nhau. Điều này phụ thuộc vào điều kiện sống và sự phát triển thể lực của
từng người (theo [7]).
1.2.2.2. Những nghiên cứu về chức năng hô hấp
Năm 1846 ra đời máy hô hấp kế (spirometer) do Hutchinson thiết kế
(theo [15]), đặt nền móng cho việc xét nghiệm chức năng phổi. Từ đó trở đi,
công tác nghiên cứu này phát triển tương đối tiệm tiến. Đến đầu thập kỷ 80
của thế kỷ trước, việc nghiên cứu chức năng phổi đã có những bước thay đổi
về chất (theo[7]). Bước ngoặt trong việc nghiên cứu này được đánh dấu bằng
việc xuất bản toàn văn bộ “Tiêu chuẩn xét nghiệm chức năng phổi” vào năm
1983 do Cộng đồng Than thép châu Âu đề xuất và được Tổ chức Y tế thế giới
ủng hộ [16].
Theo dẫn liệu của nhiều tác giả, tần số hô hấp của trẻ sơ sinh dao động
từ 29 đến 65 lần/ phút. Tần số hô hấp trở nên ổn định và giảm thấp trong quá
trình phát triển cá thể: ở trẻ 3- 4 tuổi tần số hô hấp khoảng 28-30 lần/ phút, ở
trẻ 5-6 tuổi chỉ số này khoảng 22-24 lần/ phút, ở trẻ 7-8 tuổi khoảng 22-23
lần/ phút, ở trẻ 9-10 tuổi khoảng 20-21 lần/ phút. Không có sự khác biệt rõ
theo tần số hô hấp ở trẻ nam và trẻ nữ lứa tuổi 12 đến 16, dao động trong
khoảng 15-17 lần/ phút (theo [7]).
Các nghiên cứu về các chỉ số chức năng phổi cho thấy, dung tích sống
phụ thuộc vào sự phát triển của phổi bao gồm số lượng, kích thước của phế
quản và phế nang.
Theo một số tác giả, dung tích sống tăng mạnh vào thời kỳ dậy thì, ở
nam dung tích sống tăng mạnh lúc 12-13 tuổi còn ở nữ tăng mạnh lúc 11-12
tuổi. Có sự khác biệt về dung tích sống theo giới tính và chỉ số này ở nam
luôn cao hơn ở nữ (theo [7]).


20

1.3. Tình hình nghiên cứu các chỉ số sinh học ở Việt Nam

1.3.1. Những nghiên cứu về chỉ số hình thái thể lực
Công trình nghiên cứu đầu tiên về sự tăng trưởng chiều cao và cân nặng
của trẻ em là của Mondiere (1875). Tiếp sau đó có công trình nghiên cứu của
Huard và Bigot (1938) và Đỗ Xuân Hợp (1943) [41]. Các công trình này tuy
số lượng chưa lớn nhưng đã phản ánh được những đặc điểm về nhân trắc học
của người Việt Nam đương thời.
Từ sau năm 1954, khi miền Bắc được giải phóng, đã có nhiều nghiên
cứu về các chỉ tiêu nhân trắc ở trẻ em và người lớn. Các nghiên cứu này được
tập hợp trong cuốn “Hằng số sinh học người Việt Nam” xuất bản năm 1975
[2]. Đây có lẽ là cuốn sách đầu tiên tập hợp các thông số về thể lực của người
Việt Nam ở mọi lứa tuổi trong đó có lứa tuổi 16-18. Tuy mới là các chỉ số
sinh học của người miền Bắc, song nó thực sự là chỗ dựa đáng tin cậy cho các
nghiên cứu sau này trên người Việt Nam.
Năm 1991, thông qua việc nghiên cứu các chỉ số nhân trắc của 1478
học sinh phổ thông, Đào Huy Khuê [25] đã rút ra một số kết luận về sự tăng
trưởng kích thước thể lực theo tuổi ở cả hai giới, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng
các thông số này không đồng đều theo tuổi và theo giới tính. Tác giả cũng đưa
ra những nhận định về sự ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của điều kiện sống
và văn hóa xã hội lên sự tăng trưởng và phát triển cơ thể con người ở giai
đoạn này.
Năm 1995, Nguyễn Yên và cộng sự [47] đã tiến hành nghiên cứu trên
2033 người thuộc các lứa tuổi từ 1 đến 5 và từ 18 đến 55 của 3 nhóm dân tộc
Việt, Mường, Dao ở tỉnh Hà Tây và nhận thấy tầm vóc - thể lực của người
Việt tốt nhất, sau đến người Mường và cuối cùng là người Dao.
Năm 1996, Thẩm Thị Hoàng Điệp và cộng sự [17] đã nghiên cứu về sự
phát triển chiều cao, vòng đầu, vòng ngực của người Việt Nam từ 1 đến 55


21


tuổi ở 8 tỉnh thuộc 3 miền của đất nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các chỉ
số thu được trong công trình này đều cao hơn hẳn so với các kết quả nghiên
cứu trước đó.
Năm 1998, Nguyễn Thị Lan [26] đã tiến hành nghiên cứu một số chỉ số
về thể lực trên 1091 học sinh nam, nữ độ tuổi từ 9 đến 18 thuộc một số dân
tộc ít người tại Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Tác giả nhận thấy chiều cao đứng và
trọng lượng trung bình của nữ sinh dân tộc ít người tỉnh Vĩnh Phúc và Phú
Thọ tăng dần theo tuổi, trong đó tăng nhanh ở tuổi 9-15 và nhanh nhất ở lứa
tuổi 14-15, đối với nam các chỉ số này tăng nhanh dần ở tuổi 12-15.
Năm 2000, tác giả Đào Mai Luyến khi nghiên cứu về thể lực của người
Ê đê và người Kinh định cư ở Đăk Lăk [30] đã nhận thấy, hình thái – thể lực
của người Ê đê tốt hơn của người Kinh định cư. Tác giả cho rằng, đây là điểm
khác biệt mang tính dân tộc và do môi trường sống có ảnh hưởng nhất định
đến khả năng tăng trưởng các chỉ số hình thái.
Năm 1998-2002, Trần Thị Loan [29] nghiên cứu trên học sinh Hà Nội
từ 6-17 tuổi. Tác giả cho thấy, các chỉ số chiều cao, cân nặng, vòng ngực của
học sinh lớn hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác từ những thập
kỷ 80 trở về trước và so với học sinh ở Thái Bình và Hà Tây ở cùng thời điểm
nghiên cứu. Điều này chứng tỏ, điều kiện sống đã ảnh hưởng tới sự sinh
trưởng và phát triển thể lực của học sinh.
Kết quả của những nghiên cứu trong cuốn “Các giá trị sinh học người
Việt Nam bình thường thập kỷ 90 – thế kỷ XX” [3] xuất bản năm 2003 cho
thấy, ở lứa tuổi 16-18 sự tăng trưởng các chỉ số hình thái – thể lực giữa nam
và nữ có sự khác biệt. Cụ thể là chiều cao đứng của nam tăng từ 160,29 lên
163,45 cm, của nữ tăng từ 152,45 lên 152,77 cm. Cân nặng của nam tăng từ
45,33 lên 49,71 kg, của nữ tăng từ 42,13 lên 43,84 kg, vòng ngực trung bình
của nam tăng từ 71,44 lên 75,08 cm, của nữ tăng từ 69,18 lên 72,61 cm. Các


22


tác giả cũng tiến hành nghiên cứu một số chỉ số nhân trắc lứa tuổi 16-18 và
cho thấy, BMI ở nam tăng từ 17,67 lên 18,64 kg/m2, ở nữ tăng từ 18,14 lên
18,80 kg/m2, chỉ số pignet ở nam giảm từ 43,29 xuốn 38,61, ở nữ giảm từ
41,19 xuống 36,35.
Năm 2006, trung tâm Tâm lý học và Sinh lý lứa tuổi thuộc Viện Chiến
lược và Chương trình giáo dục [39] đã tiến hành nghiên cứu các chỉ số cơ bản
về sinh lý và tâm lý của 12824 học sinh phổ thông từ 8 đến 20 tuổi. Kết quả
nghiên cứu về chiều cao đứng cho thấy, học sinh nam lứa tuổi 11-15 và nữ ở
mọi lứa tuổi (trừ 16 và 18 tuổi) đã thoát khỏi trạng thái còi cọc. Các số liệu về
cân nặng cho thấy, có sự phân hóa sâu sắc ngay trong nhóm trẻ cùng độ tuổi,
bên cạnh những trẻ nhẹ cân đã xuất hiện những trẻ có dấu hiệu béo phì, đặc
biệt là các trẻ ở các thành phố lớn. Các tác giả cũng đã tiến hành so sánh chỉ
số pignet với các kết quả nghiên cứu chỉ số này trước đó và cho rằng, thể lực
của học sinh đã tăng ở một số bậc tuổi sớm hơn. Đồng thời, các tác giả cũng
lưu ý đến BMI ở học sinh nông thôn và nhận thấy chế độ dinh dưỡng ở nông
thôn còn hạn chế.
Năm 2008, Nguyễn Thị Bích Ngọc [32] , nghiên cứu trên 846 học sinh
dân tộc Sán Dìu từ 11 đến 17 tuổi. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy,
các chỉ số thể lực của học sinh dân tộc Sán Dìu tăng dần theo tuổi, tốc độ tăng
không đều. Các chỉ số thể lực của học sinh dân tộc Sán Dìu thấp hơn so với
học sinh ở thành thị và nông thôn.
Năm 2009, Đỗ Hồng Cường [7] đã tiến hành “Nghiên cứu một số chỉ số
sinh học của học sinh THCS các dân tộc tỉnh Hoà Bình”. Theo tác giả thì các
chỉ số chiều cao, cân nặng và các vòng của học sinh THCS ở tỉnh Hoà Bình
tăng dần theo tuổi, ở nữ tăng nhanh vào thời điểm 11-13 tuổi, sớm hơn nam
lúc 13-15 tuổi. Các chỉ số này ở học sinh Mường, Thái, Kinh cao hơn rõ so
với học sinh Tày, Dao.



23

Năm 2010, Hoàng Quý Tỉnh [40] “Nghiên cứu một số đặc điểm hình
thái cơ thể trẻ em người dân tộc Thái, Hmông, Dao ở tỉnh Yên Bái và các yếu
tố liên quan”. Khi so sánh các chỉ số thể lực của đối tượng nghiên cứu với
người Kinh tác giả cho thấy, các chỉ số hình thái thể lực của trẻ em các dân
tộc nghiên cứu thể hiện tính quy luật phát triển cơ thể của người Việt Nam.
Tuy nhiên, chế độ dinh dưỡng có ảnh hưởng đến chiều cao, cân nặng của trẻ
em, điều này thể hiện ở chỗ tỉ lệ suy dinh dưỡng thể còm, còi và nhẹ cân còn
cao ở trẻ em các dân tộc nghiên cứu.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về hình thái, thể lực của học
sinh Việt Nam khá phong phú. Ngoài những nghiên cứu tiêu biểu kể trên còn
có những nghiên cứu khác nữa [1], [5], [9], [31], [34], [35], [38]. Kết quả
nghiên cứu trong các công trình có khác nhau ít nhiều nhưng đều xác định
được rằng, các chỉ số thay đổi theo lứa tuổi và theo giới tính; có sự khác biệt
về các chỉ số giữa nam và nữ, giữa trẻ em thành thị và nông thôn, giữa các địa
bàn khác nhau và giữa các nhóm dân tộc với nhau. Tuy nhiên, các nghiên cứu
về hình thái - thể lực ở học sinh phổ thông người dân tộc còn hạn chế.
1.3.2. Những nghiên cứu về một số chức năng sinh lý
1.3.2.1. Những nghiên cứu về chức năng tuần hoàn
Những năm gần đây các vấn đề có liên quan đến chức năng của tim
mạch người Việt Nam cũng được nhiều tác giả Việt Nam quan tâm nghiên cứu.
Năm 1993, Đoàn Yên và cộng sự [46] đã nghiên cứu tần số tim và
huyết áp của người Việt Nam và nhận thấy, từ sau khi sinh, tần số tim và
huyết áp động mạch biến đổi có tính chất chu kỳ. Huyết áp động mạch tăng
dần đến 18 tuổi, sau đó ổn định đến 49 tuổi rồi lại tăng dần, còn tần số tim lại
giảm dần cho đến 25 tuổi, sau đó ổn định đến 69 tuổi. Huyết áp động mạch
trên người Việt Nam ở mọi lứa tuổi đều thấp hơn so với người Âu, Mỹ.
Cùng thời gian này, Nghiêm Xuân Thăng [37] đã nghiên cứu mối
tương quan giữa hoạt động tim mạch và huyết áp với khí hậu của cư dân vùng



24

Nghệ An, Hà Tĩnh ở hai nhóm tuổi 12-15 và 18-25. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, tần số tim và huyết áp ở bất cứ độ tuổi nào cũng chịu ảnh hưởng của khí
hậu. Tần số tim tăng theo sự tăng nhiệt độ môi trường và biến đổi theo ngày,
theo mùa, theo mức độ bức xạ.
Năm 1996, kết quả nghiên cứu huyết áp người Việt Nam của Trần Đỗ
Trinh và cs [43] đã được công bố trong chương trình nghiên cứu một số chỉ
tiêu sinh học người Việt Nam thập kỷ 90. Công trình được tiến hành tại 20
tỉnh thuộc 7 vùng địa lý trong cả nước. Kết quả cho thấy, chỉ số huyết áp tăng
dần theo tuổi ở cả nam và nữ, huyết áp ở nam giới cao hơn so với ở nữ giới,
tuy sự khác biệt không nhiều nhưng có ý nghĩa thống kê.
Theo tác giả Phạm Thị Mỹ Đức [18] huyết áp tâm thu bình thường
bằng 90-110 mmHg, nếu trên 140 mmHg được coi là tăng huyết áp và dưới
90 mmHg được coi là hạ huyết áp. Huyết áp tâm trương bình thường là 50-90
mmHg, nếu vượt quá 90 mmHg được coi là tăng huyết áp và dưới 50 mmHg
được coi là hạ huyết áp.
Năm 2002, kết quả nghiên cứu tần số tim lứa tuổi 1-17 của Trần Thị
Loan [28], [29] cho thấy, tần số tim giảm dần theo độ tuổi và tốc độ giảm tần
số tim không đều, có thời kì giảm nhanh, có thời kì giảm chậm. Ở cùng một
độ tuổi tần số tim của nam và của nữ khác nhau.
Năm 2006, Trần Trọng Thủy và cs [39] đã tiến hành nghiên cứu huyết
áp tâm thu và huyết áp tâm trương của học sinh phổ thông từ 8 đến 20 tuổi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hai chỉ số huyết áp này ở học sinh nam và nữ
không giống nhau. Chỉ số huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương đều tăng
dần theo độ tuổi, ở học sinh nông thôn cao hơn so với học sinh thành phố
nhưng vẫn thấp hơn so với chuẩn về huyết áp của Tổ chức Y tế thế giới.
1.3.2.2. Những nghiên cứu về chức năng hô hấp

Năm 1993, kết quả nghiên cứu của Đoàn Yên và cs [46] về nhịp thở,
dung tích sống, thể tích lưu thông, thể tích phút của người Việt Nam từ 6 đến


25

79 tuổi cho thấy, chỉ số thông khí ở trẻ biến đổi không đều, dung tích sống
tăng nhanh đến 19 tuổi rồi đi vào ổn định ở cả hai giới, từ 30 tuổi chỉ số này
bắt đầu giảm. So với người Âu - Mỹ dung tích sống của người Việt Nam luôn
nhỏ hơn.
Kết quả nghiên cứu của Nghiêm Xuân Thăng [37] về ảnh hưởng của
khí hậu lên chức năng hô hấp của cư dân Nghệ An, Hà Tĩnh đã cho thấy, tần
số hô hấp và dung tích sống đều chịu ảnh hưởng của khí hậu, dung tích sống
đạt giá trị lớn nhất ở nhiệt độ từ 30 đến 32oC, độ ẩm không khí khoảng từ 70
đến 80%. Trong cùng một điều kiện thì dung tích sống của nam giới luôn cao
hơn của nữ giới.
Năm 1996, Nguyễn Đình Hường [21] đã tiến hành nghiên cứu các giá
trị bình thường của 9 chỉ số thông khí phổi của người Hà Nội từ 11-80 tuổi.
Các tác giả đã chia các đối tượng theo 4 nhóm tuổi và xác định các chỉ số:
dung tích sống thở mạnh, dung tích sống thở chậm, thể tích thở ra tối đa giây
đầu… Và nhận thấy các thông số chức năng thông khí phổi ở người Việt Nam
đều thấp hơn so với ở người châu Âu.
Trên đây là những công trình nghiên cứu tiêu biểu của các tác giả về
chức năng sinh lý cơ quan tuần hoàn và hô hấp của người Việt Nam trong đó
có độ tuổi 16-18, ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu khác [4], [8],
[10], [12], [13], [15], [16], [44]. Hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ tập
trung vào một số đối tượng nhất định. Các nghiên cứu trên đối tượng học sinh
phổ thông người dân tộc ít người trong những năm gần đây rất ít.



×