Tải bản đầy đủ (.doc) (167 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ cơ sở KHOA học và THỰC TIỄN của CÔNG CUỘC đổi mới KINH tế ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (729.71 KB, 167 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam, được chính thức khởi động từ Đại
hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đến nay đã trải qua gần 10
năm, đã đạt được những thành tựu ban đầu rất quan trọng, đóng góp
quyết định vào việc đưa nền kinh tế cơ bản ra khỏi khủng hoảng, hoàn
thành vượt mức và toàn diện kế hoạch năm 1991- 1995, đạt được mức
tăng trưởng cao và lâu dài nhất từ trước đến nay.
Công cuộc đổi mới về thực chất là một cuộc cải cách mang tính chất
chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, mang nặng tính
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới bao hàm những thay đổi rất
cơ bản, sâu sắc, với một khối lượng công việc rất đồ sộ, phức tạp, mới
mẻ và liên quan đến hầu hết các mặt của hoạt động kinh tế, xã hội.
Cho đến nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về công cuộc
đổi mới ở nước ta vẫn còn là vấn đề đang đặt ra để đáp ứng cho nhu
cầu xây dựng các chính sách vĩ mô cho công cuộc đổi mới trong thời
gian đến. Vì những lý do nêu trên, việc phân tích công cuộc đổi mới ở
Việt Nam dưới giác độ phương pháp luận nhằm rút ra những bài học
thành công và không thành công của giai đoạn đã qua và đề xuất những
kiến nghị cho giai đoạn tới là một việc rất cần thiết.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề về phương pháp luận, cơ sở khoa học và
thực tiễn của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Thông qua phân tích so
sánh, đối chiếu với công cuộc cải cách ở các nước khác, rút ra những
1


mặt hợp lý và chưa hợp lý về phương pháp luận trong công cuộc đổi
mới ở Việt Nam cho đến nay, làm sáng tỏ mối quan hệ giữa tính phổ


biến và tính đặc thù, giữa tính lịch sử và tính gôgíc trong phương pháp
luận cải cách thông qua phân tích trường hợp đổi mới ở Việt Nam. Trên
cơ sở đó sẽ đề xuất những kiến nghị cho những bước cải cách tiếp theo
trong tương lai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là quá trình đổi mới nền kinh tế từ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ngoài ra, cũng sẽ nghiên cứu
về phương pháp luận và kinh nghiệm cải cách của một số nước trên thế
giới nhằm so sánh đối chiếu để rút kinh nghiệm cho việc xây dựng lộ
trình tiếp tục cải cách kinh tế ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu chủ yếu
bao gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến công cuộc đổi mới
kinh tế ở nước ta, đặc biệt từ Đại hội VI đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp
với phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp phân tích của kinh tế
học vĩ mô hiện đại, đối chiếu so sánh với thực tiễn để nghiên cứu và giải
quyết vấn đề đặt ra.
5. Những đóng góp chủ yếu của luận án
Trên cơ sở tổng kết quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam và kinh
nghiệm cải cách của quốc tế, luận án đã hệ thống hoá và làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn đói với công cuộc cải cách kinh tế ở nước ta trong thời

2


gian qua, nêu lên những nét đặc trưng của công cuộc đổi mới ở Việt
Nam cho đến nay và căn cứ lý luận và thực tiễn cho đổi mới kinh tế giai
đoạn các năm tiếp theo.

- Đánh giá một cách tổng thể hiện trạng đổi mới kinh tế ở nước ta,
làm rõ các kết quả đã đạt và các mặt tồn tại trong tiến trình đổi mới hiện
nay.
- Đề xuất các nội dung cơ bản trong xây dựng lộ trình đổi mới và
phương pháp phân tích sử dụng trong xây dựng lộ trình đổi mới.
- Nêu các kiến nghị liên quan đến tiến trình đổi mới kinh tế ở nước
ta thời gian tới.
6. Nội dung luận án
a) Tên luận án: "Cơ sở khoa học và thực tiễn của công cuộc đổi
mới kinh tế ở Việt Nam"
b) Kết cấu luận án: Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận
án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học và thực tiễn của công cuộc đổi mới
kinh tế ở Việt Nam.
Chương 2: Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam từ sau Đại hội VI
đến nay
Chương III: Triển vọng đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong thời gian
tới và một số kiến nghị
Tài liệu tham khảo

3


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
CỦA QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM

I. MỘT SỐ NÉT TỔNG QUÁT VỀ CÁC MÔ HÌNH KINH TẾ
Các mô hình kinh tế được xây dựng trên cơ sở các lý thuyết kinh tế.
Các lý thuyết kinh tế thường không phải là các quy luật chính xác như

các quy luật của tự nhiên. Các quy luật kinh tế mang tính "sác xuất" và
không thể áp dụng một cách chặt chẽ như các quy luật của khoa học tự
nhiên. Nền kinh tế của các quốc gia và của thế giới phát triển và biến đổi
không ngừng. Mỗi lý thuyết kinh tế ra đời được ứng dụng phù hợp với
những điều kiện thực tế cho đến khi nào nó không còn phù hợp với
những điều kiện thực tế mới, đã được thay đổi. Khi đó nó sẽ được thay
thế bằng các lý thuyết mới, tổng quát hơn, phù hợp hơn với những điều
kiện thực tế mới xuất hiện.
1. Các mô hình kinh tế thị trường
1.1. Một số vấn đề về các lý thuyết về kinh tế thị trường và mô
hình kinh tế thị trường
Kinh tế học cổ điển: Thời điểm được coi là bắt đầu của kinh tế học
cổ điển là năm 1770. Với tác phẩm "Tìm hiểu về bản chất và nguyên
nhân giàu có của các dân tộc" của Ađam Smith (1723-1790), lần đầu
tiên kinh tế học đã được hình thành như một lĩnh vực khoa học độc lập:
Smith đại diện cho tầng lớp tư sản muốn xoá bỏ chế độ phong kiến và
xây dựng phương thức sản xuất mới thúc đẩy sự phát triển kinh tế và sự

4


giàu có cho xã hội. Luận điểm nổi tiếng về mô hình kinh tế thị trường tự
do sơ khai là luận điểm về "bàn tay vô hình" của A.Smith. Luận điểm
tương tự "laisser faire" hay để mặc cho mọi người làm gì thì làm ở Pháp
cùng thời, thể hiện mong muốn tự do của lớp người mới ủng hộ sự phát
triển của phương thức kinh tế tư bản thời bấy giờ. Nhà nước không nên
can thiệp. Tư tưởng "phó mặc cho thị trường" không chỉ là đòn công kích
về phía các nhà theo trường phái trọng thương, những người ủng hộ
hạn chế nhập khẩu, mà còn là sự bác bỏ chủ nghĩa can thiệp. Theo họ,
Nhà nước chỉ nên thực hiện hai chức năng là đảm bảo an ninh và thiết

lập hệ thống pháp lý để duy trì quyền tự do thương mại và tài sản tư
nhân. Mối quan hệ tâm chính của các nhà kinh tế học cổ điển không
phải là vấn đề phân bổ nguồn lực hay lý thuyết về cơ chế giá, mà là sự
hình thành thặng dư và tăng trưởng kinh tế.
Karl Marx (1818- 1873). Theo cách phân loại của nhiều tác giả hiện
nay [40] thì K.Marx thuộc vào nhóm các nhà kinh tế cổ điển. Vào giữa
thế kỷ 19, kinh tế thị trường không còn phát triển êm đềm như giai đoạn
đầu. Các học thuyết kinh tế trước đó không đủ giải thích các vấn đề kinh
tế xã hội nảy sinh. Marx đã xây dựng một học thuyết mới đánh dấu bằng
bộ "Tư bản" (1857-1858). Marx đã phát triển tiếp tục lý thuyết giá trị của
Ricardo và xem xét lại các lý thuyết kinh tế trước đó. Marx được thừa
nhận như một nhà kinh tế học cổ điển lỗi lạc, có ảnh hưởng sâu sắc tới
sự phát triển của kinh tế học, người có công lao to lớn trong việc phát
triển phép biện chứng vào kinh tế và xây dựng học thuyết về chủ nghĩa
cộng sản khoa học. ứng dụng học thuyết Marx về sau này liên quan đến
xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch tập trung sẽ nói ở phần sau. Một
điều đáng nói ở đây khi so sánh với kinh tế học hiện đại, do các hạn chế

5


của lịch sử thời đó, các đánh giá về sản xuất xã hội hình thành giá trị
của Marx đã đánh giá thiên về các hoạt động sản xuất ra sản phẩm vật
chất mà đánh giá chưa đầy đủ giá trị của các hoạt động phi sản xuất vật
chất. Điều đó liên quan đến toàn bộ quan điểm và cách phân tích kinh tế
sau này của các nước kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Năm 1870 được coi là thời điểm kết thúc của kinh tế học cổ điển và
cũng là thời điểm khởi đầu của kinh tế học tân cổ điển. Mặc dù có sự
khác biệt quan trọng giữa kinh tế học cổ điển và kinh tế học tân cổ điển,
nhưng khái niệm "cổ điển" vẫn chưa được hiểu và sử dụng một cách

nhất quán. Thí dụ như vào năm 1936 bản thân Keynes đã coi tất cả các
nhà kinh tế trước thời đại của mình là cổ điển, và vì vậy ông đã gộp các
nhà kinh tế học cổ điển và tân cổ điển lại làm một. Các nhà kinh tế hiện
đại có sự phân loại khác nhau và cũng khác với quan điểm này của
Keynes.
Kinh tế học tân cổ điển (Neoclasical Ecônmic).
Từ cuối thế kỷ 19 trở đi, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ,
kinh tế thị trường tự do phát sinh nhiều mâu thuẫn mới, khủng hoảng
chu kỳ, lạm phát, thất nghiệp là các hiện tượng mà các lý thuyết cổ điển
không giải thích được. Ngoài ra, học thuyết Marx ra đời trước đó cũng
gây ra một kích thích, trở thành đối tượng tranh cãi và thúc đẩy phát
triển các học thuyết kinh tế mới.
Trường phái kinh tế mà về sau này được gọi là tân cổ điển, tập
trung tìm các giải đáp các hiện tượng kinh tế từ việc phân bổ và sử dụng
các nguồn lực ở cấp vĩ mô, và sử dụng các thành tựu toán học phát triển
trong thời kỳ này, đặc biệt là lý thuyết giới hạn (hay cận biên) vào phân

6


tích (hiệu ích giới hạn, năng suất giới hạn, sản phẩm giới hạn) và giải
thích các vấn đề kinh tế.
Kinh tế học tân cổ điển tiếp tục ủng hộ tự do cạnh tranh không có sự
can thiệp của Nhà nước. Do vận dụng các công cụ toán học hiện đại vào
phân tích và dự báo, kinh tế học tân cổ điển đã đóng góp nhiều cho sự
phát triển của kinh tế học hiện đại sau này.
1.2. Các lý thuyết kinh tế thị trường và mô hình kinh tế thị
trường từ Keynes và sau Keynnes
John Mâynrd Keynes (1883-1946)
Cả lý thuyết cổ điển đến tân cổ điển đều không thể giải đáp đầy đủ

và thoả đáng các khía cạnh khác nhau của thực tế kinh tế dẫn đến cuộc
Đại suy thoái kinh tế năm 30. Sự ra đời học thuyết Keynes đánh dấu một
giai đoạn mới của sự phát triển các học thuyết kinh tế để giải thích và
tìm các giải pháp để giải quyết các khó khăn của các nền kinh tế thị
trường trong giai đoạn phát triển mới. JohnMaynard Keynes (1883-1946)
với tác phẩm "Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ" đã đặt
nền móng cho lý thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại. Thuật ngữ "tổng quát"
hàm ý việc Keynes cho rằng lý thuyết cổ điển chỉ là một trường hợp
riêng của "lý thuyết tổng quát", vì giả thiết về toàn dụng lao động của lý
thuyết cổ điển là trường hợp riêng và Keynes khảo sát cho cả trường
hợp có thất nghiệp.
Keynes đã đưa phương pháp phân tích vĩ mô vào trong phân tích
kinh tế, dựa trên các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và mối quan hệ giữa chúng.
Chẳng hạn, thất nghiệp không chỉ xác định dựa trên thị trường lao động
mà còn liên quan đến sản xuất và thu nhập. Cách phân tích như vậy

7


ngày nay trở thành quen thuộc trong kinh tế vĩ vô chính là công lao của
Keynes người đã đưa lý thuyết kinh tế vĩ mô vào trong kinh tế học.
Mô hình nền kinh tế xây dựng theo học thuyết Keynes so với mô
hình trước Keynes có sự thay đổi cơ bản, đó là xuất hiện thêm vai trò
Nhà nước trong điều tiết sự vận hành nền kinh tế. Theo Keynes, sản
xuất phát triển nhưng tiêu dùng là có giới hạn và do đó kìm hãm sản
xuất. Chu trình Keynes là: thúc đẩy tăng cầu (chi tiêu cho đầu tư, chi
tiêu cho tiêu dùng cuối cùng…) sẽ dẫn đến tăng cung, tăng cung sẽ tăng
thu nhập và tăng thu nhập sẽ thúc đẩy tăng cầu chu trình sau. Nhà nước
sử dụng ngân sách để thúc đẩy tăng cầu như hỗ trợ đầu tư, đặt hàng thu
mua, trợ cấp tài chính, trợ cấp tín dụng. Ngân sách đảm bảo điều kiện

ổn định về lợi nhuận và đầu tư cho tư nhân.v.v. Nhà nước đóng vai trò
quan trọng trong khắc phục các nhược điểm của thị trường và trên thực
tế đã đưa các nền kinh tế thị trường châu Âu và Mỹ thoát ra khỏi cuộc
Đại khủng hoảng kinh tế.
Kinh tế học sau Keynes
Kinh tế học sau Keynes hay kinh tế học hiện đại bao gồm tất cả các
lý thuyết kinh tế vĩ mô phát triển từ giữa thời kỳ của những năm 1950
đến nay. Tất cả các sự phát triển đó đều nhằm vào việc giải thích các
hiện tượng kinh tế mà học thuyết Keynes không giải thích được. Nổi bật
là các trường phái tiền tệ, phỏng đoán hợp lý (bao gồm học thuyết cổ
điển hiện đại và học thuyết Keynes hiện đại), học thuyết phi cân bằng,
học thuyết trọng cung hoặc trọng cầu,v.v. Tất cả các trường phái này
đều có những luận điểm riêng về vai trò của Nhà nước. Các điều kiện
giả thiết được sử dụng trong mỗi trường phái cũng khác nhau. Vì vậy

8


việc áp dụng một học thuyết nào cũng đều cần xem xét các điều kiện cụ
thể.
Trường phái tiền tệ do Milton Friedman đứng đầu, được phát triển
vào những năm 1960, hứa hẹn những giải pháp cho các vấn đề lạm
phát. Kinh tế học trọng cung (suppply- side cácônmics) đã trở thành một
trường phái vào đầu những năm 1980, hứa hẹn đem lại các giải pháp
cho vấn đề kinh tế trong giai đoạn mới. Hiện nay, phạm vi và giới hạn
của chính sách kinh tế vẫn còn là trung tâm của các bàn cãi. Vấn đề áp
dụng các chính sách nào cho thích hợp cũng đã được nhiều nhà kinh tế
lớn sau Keynes chuyên tâm nghiên cứu như Milton Friedman, Franco
Modigliani, Robert Solow, James Tobin, Robert Barro, Martin Feldstein,
Robert Lucas, Robert Hall, Thomas Sargent, và John Taylor.

Mô hình nền kinh tế của các trường phái sau Keynes khác nhau ở
mức độ và cách thức can thiệp của Nhà nước, nhưng về cơ bản trong
mô hình kinh tế có vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Cách thức can
thiệp khác nhau thể hiện hoặc đề cao vai trò của chính sách tài chính
hoặc đề cao vai trò của chính sách tiền tệ (học thuyết tiền tệ) hoặc cách
thức tiếp cận kết hợp giữa chính sách tài chính và tiền tệ trong mô hình
cân bằng tổng quát. Cho tới thời điểm hiện nay, đã có rất nhiều trường
phái kinh tế học. Nhiều nền kinh tế thị trường hiện nay là kinh tế hỗn
hợp.
1.3. Vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường
Trong các nền kinh tế thị trường, vai trò quản lý của Nhà nước có xu
hướng tăng dần lên cùng với trình độ xã hội hoá của sản xuất và sự phát
triển của nền kinh tế. Nhà nước đóng vai trò "khiêm tốn" trong thời kỳ
đầu của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Bước sang giai đoạn tư bản
9


phát triển, chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Nhà nước
trực tiếp chi phối những tập đoàn tư bản lớn và thông qua các chính
sách kinh tế, các thể chế tài chính và các tổ chức kinh tế để khống chế
thị trường.
Trước những thử thách của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên
quy mô toàn cầu và dưới áp lực của cuộc chay đua kinh tế giữa hai hệ
thống kinh tế XHCN và TBCN trong các thập niên vừa qua, vai trò và tác
động của Nhà nước đến nền kinh tế nói chung và đến thị trường nói
riêng ngày càng rõ nét và mạnh mẽ, nhất là để thực thi những chính
sách xã hội và gây ảnh hưởng về chính trị trên quy mô quốc gia và quốc
tế để hỗ trợ cho hoạt động kinh tế.
Khi lấy vai trò Nhà nước để phân loại các mô hình kinh tế, người ta
thu được một dải tần khá rộng những kiểu kinh tế thị trường khác nhau,

trong đó mô hình thị trường cạnh tranh thuần tuý ban đầu kiểu A.Smith
và mô hình kinh tế thị trường xã hội có thể coi như là hai thái cực ở hai
đầu. Để phân tích vai trò Nhà nước trong kinh tế thị trường, có thể tóm
tắt nêu một số ưu điểm và khuyết tật của thị trường như sau:
a) Ưu điểm và khuyết tật của kinh tế thị trường:
Về ưu điểm:
• Đáp ứng các nhu cầu có thể thanh toán được của xã hội một cách
tự động mà không một bộ máy hoạch định nào có thể thay thế được.
• Huy động tối đa tiềm năng của xã hội hơn bất cứ một tổ chức nào.
• Tạo ra động lực mạnh để thúc đẩy hoạt động của các doanh
nghiệp đặt hiệu quả cao và thông qua phá sản tạo ra cơ chế đào thải các
doanh nghiệp yếu kém.
10


• Phản ứng nhanh, nhạy trước các thay đổi trong nhu cầu xã hội và
các điều kiện kinh tế trong nước và thế giới .
• Buộc các doanh nghiệp thường xuyên học hỏi lẫn nhau, hạn chế
các sai lầm trong kinh doanh diễn ra trong thời gian dài hạn và trên các
quy mô lớn.
Về khuyết tật:
Mô hình kinh tế thị trường tự do có tính chất lý tưởng kiểu A. Smith
không tồn tại trong thực tế. Do thị trường chỉ đáp ứng những nhu cầu có
khả năng thanh toán được nên những nhu cầu dài hạn, không có khả
năng thanh toán của dân tộc hay của nhân loại có nguy cơ không được
đáp ứng. Vì vậy, kinh tế thị trường chứa nhiều khuyết tật. Các khuyết tật
của kinh tế thị trường được tổng kết trong nhiều tài liệu khác nhau. Có
thể điểm qua một số điểm chính như:
• Tạo ra bất bình đẳng và tái sản sinh ra các bất bình đẳng về thu
nhập:

• Động lực lợi nhuận tạo ra môi trường thuận lợi dẫn đến nguy cơ vi
phạm luật pháp, thương mại hoá các giá trị đạo đức và đời sống tinh
thần.
• Sự cạnh tranh không tổ chức dẫn đến các mất cân đối vĩ mô và
dẫn đến lạm phát, thất nghiệp chu kỳ;
• Cạnh tranh dẫn đến độc quyền và độc quyền hạn chế nghiêm
trọng các ưu điểm của kinh tế thị trường;
• Lợi ích dài hạn, chung của xã hội không được chăm lo;

11


• Tài nguyên thiên nhiên và môi trường bị tàn phá trong khi các nhu
cầu không khả năng thanh toán tăng lên.
Nhà nước trong kinh tế thị trường đóng vai trò hạn chế các khuyết
tật nêu trên và phát huy các ưu việt của thị trường. Tuy nhiên để làm rõ
vai trò của Nhà nước cần phân loại vai trò Nhà nước theo chức năng
quản lý kinh tế-xã hội và phân loại theo chức năng hẹp hơn trong phạm
vi quản lý kinh tế. Xem R.Wadew [64].
b. Vai trò Nhà nước theo chức năng quản lý xã hội. Với chức
năng quản lý xã hội Nhà nước có các chức năng chủ yếu như sau:
• Bảo đảm an ninh quốc phòng, chủ quyền quốc gia, sự toàn vẹn
lãnh thổ và các điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự phát triển của đất
nước.
• Tạo khung khổ pháp lý cho mọi thành viên xã hội đều được có cơ
hội bình đẳng trong học tập, tìm kiếm việc làm, tạo điều kiện tự do kinh
doanh bình đẳng cho mọi người theo pháp luật;
• Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên:
• Tổ chức việc cung ứng các hàng hoá và dịch vụ công cộng cho xã
hội bao gồm kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội (giáo

dục, đào tạo, y tế, văn hoá.v.v.);
• Thu thuế điều tiết thu nhập, trợ giúp người nghèo hoặc bị thiệt thòi
trong xã hội, khống chế mức độ chênh lệch giàu nghèo trong xã hội.
c. Vai trò Nhà nước trong quản lý kinh tế
Các học thuyết kinh tế khác nhau như Keynes đã tập trung vào
nghiên cứu vai trò Nhà nước trong điều tiết kinh tế, hạn chế, tiến tới

12


khắc phục các nhược điểm của kinh tế thị trường. Trong thực tế quản lý,
mỗi nước can thiệp với mức độ khác nhau và với các biện pháp khác
nhau. Điều đó phụ thuộc vào đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế xã hội
nói riêng của mỗi nước. Có thể nêu một số điểm chính về vai trò Nhà
nước trong quản lý kinh tế đối với các nước đang phát triển được tổng
kết như sau:
1. Định hướng chiến lược cho sự phát triển kinh tế: Thực tiễn phát
triển ở các nước NICs (mới công nghiệp hoá) ở Châu Á chỉ ra rằng việc
xác định được một chiến lược đúng đắn của Chính phủ có ý nghĩa quyết
định đối với sự thành công của các nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt
từ thập kỷ 70 đến nay. Xem Ngân Hàng thế giới, sự kỳ Diệu của các nền
kinh tế Đông Á [70].
2. Nhà nước sử dụng khu vực kinh tế Nhà nước như một công cụ
điều tiết vĩ mô: Khu vực kinh tế Nhà nước ở đây bao gồm tài chính, ngân
hàng và các doanh nghiệp Nhà nước, trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ
thuộc sở hữu Nhà nước toàn bộ hay bộ phận. Sử dụng kinh tế Nhà
nước, Chính phủ có thể kiểm soát một cách có hiệu quả các hoạt động
của nó. Khu vực kinh tế Nhà nước tham gia vào một số khâu quan trọng
nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân nhanh
chóng phát huy hiệu quả đầu tư sản xuất, trước hết là phát triển cơ sở

hạ tầng kỹ thuật, hiện đại hoá mạng lưới giao thông, kho bãi, bến cảng,
các dịch vụ thông tin, tiếp thị và nghiên cứu ứng dụng các kỹ thuật mới.
Gần đây, cùng với tiến bộ của khoa học kỹ thuật và quá trình quốc tế
hoá của nền kinh tế, vai trò Nhà nước tăng lên không những trong hoạch
định các chính sách kinh tế mà còn trong bảo đảm giáo dục, đào tạo, y
tế, văn hoá, tức là đầu tư vào con người. Xem M.Gillis và cộng sự [14].

13


3. Huy động vốn cho nền kinh tế phát triển: Mâu thuẫn lớn trong
giai đoạn đầu phát triển của các nước đang phát triển là mâu thuẫn giữa
nhu cầu đầu tư xây dựng lớn với số vốn trong nước ít ỏi. Nhà nước thực
hiện chính sách tiết kiệm, huy động vốn từ nguồn trong nước và ngoài
nước đóng một vai trò quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế.
4. Duy trì ổn định và tăng trưởng kinh tế: Ngoài ba chức năng mang
tính đặc thù kể trên đối với các nước đang phát triển ra, Chính phủ có
chức năng phổ biến trong mô hình kinh tế thị trường là duy trì ổn định và
tăng trưởng của nền kinh tế, thông qua các chính sách điều tiết vĩ vô.
Nếu kết hợp được các mặt mạnh của kinh tế thị trường với các chức
năng đúng và cần thiết của Nhà nước, nền kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh,
xã hội sẽ ổn định và đời sống của nhân dân sẽ được cải thiện. Đó là mô
hình của các "con rồng" Châu Á. xem [68]. Đó chính là mục tiêu công
cuộc đổi mới cần đạt tới.
Mặc dù Nhà nước có vai trò khắc phục các nhược điểm của thị
trường, nhưng bản thân bộ máy Nhà nước cũng có nhiều khuyết tật. Có
thể kể ra một số điểm chính sau đây:
• Bộ máy tăng lên không ngừng và xã hội phải chi phí lớn cho nó
hoạt động;

• Là nơi sản sinh các loại bệnh: quan liêu, lạm dụng chức quyền và
tham nhũng;
• Có thể đưa ra các quyết định hoặc chính sách vì lợi ích cục bộ của
một nhóm người chứ không phải cho xã hội;

14


• Quyền lực cộng với lợi ích cục bộ của một bộ phận người trong bộ
máy chính quyền có thể tạo ra các nhóm tội phạm có tổ chức gây thiệt
hại lớn cho xã hội (mafia).
Mếu các khuyết tật của vai trò Nhà nước kết hợp với các khuyết tật
của thị trường thì hậu quả tiêu cực sẽ tăng lên. Một nền kinh tế như vậy
sẽ đi đến tình trạng kinh tế xã hội tồi tệ; lạm phát cao, tăng trưởng chậm,
bất bình đẳng về thu nhập nghiêm trọng, một bộ phận dân chúng lầm
than, xã hội căng thẳng, chính trị không ổn định. Người ta gọi đó là mô
hình của Châu Mỹ la tinh vì một số nước châu Mỹ La tinh có hiện tượng
này, xemk R.Wade[62], M.Gillis và cộng sự [14].
2. Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung
2.1. Trước Đại chiến thế giới thứ II. Mô hình kinh tế kế hoạch hoá
tập trung bắt nguồn từ các chỉ dẫn có tính chất phỏng đoán của K.Marx
và F.Engels.
Trong "Nội chiến ở Pháp" Marx viết: "Nếu các tập đoàn hợp tác liên
hiệp lại tổ chức nền sản xuất quốc dân theo một kế hoạch chung, do đó
nắm lấy việc lãnh đạo nền sản xuất ấy trong tay và chấm dứt tình trạng
vô Chính phủ thường xuyên và những hiện tượng rối loạn chu kỳ không
thể tránh khỏi dưới nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì cái đó là gì nếu
không phải là chủ nghĩa Cộng sản"[17]. Trong "Chống During" Engels đã
viết: "Khi người ta bắt đầu đối xử với những lực lượng sản xuất hiện nay
theo bản chất của chúng (bản chất mà cuối cùng người ta đã nhận thức

được) thì tình trạng vô Chính phủ sản xuất xã hội sẽ được thay thé bằng
một sự điều tiết sản xuất có kế hoạch trên quy mô xã hội, theo nhu cầu
của toàn thể xã hội cũng như của mỗi một thành viên riêng biệt[2].

15


Các chỉ dẫn đó, do điều kiện lịch sử bấy giờ chưa có thực tế nên đã
chưa tính hết được tính phức tạp của quá trình kế hoạch hoá nền kinh tế
quốc dân. Mô hình kinh tế chỉ huy đầu tiên xuất hiện trong thực tế là của
nước Phổ trong Đại chiến thế giới thứ I. Sau cách mạng Tháng Mười
Nga,Liên Xô đã phát triển một hệ thống kinh tế kế hoạch tập trung, làm
hình mẫu cho mô hình kế hoạch hoá tập trung của các nước XHCN với
các đặc trưng sau, xem J.Komai [42].
Trong các năm trước và trong thời Đại chiến thứ II, mô hình trên đã
giúp cho việc huy động các nguồn tài nguyên và nhân lực để thực hiện
các chương trình kinh tế lớn và trong chiến tranh có thể huy động tối đa
nguồn lực cho chiến tranh và chiến thắng. Tuy nhiên, vào các năm tiếp
theo sau chiến tranh thế giới thứ II, kinh tế Liên Xô bắt đầu gặp các khó
khăn do các nhược điểm của mô hình kế hoạch hóa tập trung.
2 Thời kỳ các năm 70 và 80: Các phương pháp của nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung không xét đầy đủ đến các khó khăn trong vận hành
mô hình kế hoạch giai đoạn phát triển dưới điều kiện, quy mô và hoạt
động kinh tế trở nên phức tạp, tiến bộ khoa học và cộng nghệ phát triển
như vũ bão, quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển rất mạnh từ thập kỷ 60
đến thập kỷ 90. Các thử nghiệm cải cách được đưa ra dưới nhiều hình
thức giảm bớt mức độ tập trung trong kế hoạch, mô hình 2 cấp, mô hình
khuyến khích lợi ích. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau cộng
với guồng máy quản lý quan liêu độc quyền hạn chế các cải cách và do
đó đã dẫn đến các đổ vỡ vào đầu các năm 90 làm cho hệ thống kinh tế

kế hoạch tập trung tan rã ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
2.3. Vai trò Nhà nước trong kinh tế kế hoạch tập trung: Nếu như
vai trò trong kinh tế thị trường là giới hạn trong một số chức năng và
16


phạm vi nhất định thì trong kinh tế kế hoạch tập trung vai trò Nhà nước
là không giới hạn và tuyệt đối. Đối với mô hình kế hoạch hoá tập trung
cao độ như ở Liên Xô trước và sau chiến tranh thế giới lần thứ II, thì
Nhà nước thay thế hầu như các chức năng của thị trường như hình
thành giá cả, phân phối tài nguyên và phân phối tiêu dùng. Trong thời kỳ
các năm 70 đến cuối các năm 80 Nhà nước có giảm bớt mức độ tập
trung trong kế hoạch. Tuy nhiên vai trò Nhà nước vẫn quyết định tất cả
các hoạt động kinh tế. Cũng chính vì thế nên các chức năng quản lý kinh
tế vĩ mô và quản lý kinh doanh sản xuất của bộ máy Nhà nước đã không
còn phân biệt mà hoà nhập vào nhau. Điều đó đã dẫn đến tình trạng
quan liêu và độc quyền của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung.
Mô hình trên đã được vận dụng lâu nhất và cao độ ở Liên xô. Ở các
nước Đông Âu, mô hình đó được cải biên, mức độ hoạt động của kinh tế
tư nhân và thị trường có được mở rộng hơn. Ở Việt Nam mức độ kế
hoạch hóa tập trung thấp hơn, kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân vẫn hoạt
động ở quy mô hạn chế. Xem Komai[42], Lê Đăng Doanh[44].
3. Các chỉ dẫn của Mác Lênin được vận dụng trong công cuộc
đổi mới
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã nhận thức được những chỉ dẫn
quan trọng từ các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin. Các Mác
trong "Hệ tư tưởng Đức" đã chỉ rõ "Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản
không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý
tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản
là sự vận động hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay"[18]. Như vậy,

Mác coi quá trình tiến lên chủ nghĩa cộng sản là một quá trình tự nhiên
mà sự vận động của lịch sử tất yếu sẽ dẫn đến. Các Mác không gắn chủ
17


nghĩa cộng sản với bất kỳ tiêu chuẩn hoặc khuôn mẫu cho trước nào.
Quan niệm đó là cơ sở phương pháp luận cho quá trình đổi mới, xuất
phát từ hiện thực kinh tế của đất nước và thúc đẩy nền kinh tế vận động
phù hợp với quy luật của chính nó. Trong "Nhà nước và cách mạng",
Lênin đã nhận xét "Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một
nhà tự nhiên học đặt, chẳng hạn vấn đề tiến hoá của một giống sinh vật
mới…"[16]. Trong quá trình chuẩn bị Đại hội VI đi đến đổi mới, nhiều tác
giả đã tìm thấy ở chính sách kinh tế mới của Lênin những luận điểm cơ
bản cho công cuộc đổi mới, như Đào Xuân Sâm [22], cũng xem thêm
Ambarơxumốp [1].
Trong bài "Để kỷ niệm lần thứ tư cuộc cách mạng Tháng Mười",
V.I.Lênin [15] đã phát biểu những tư tưởng nổi tiếng, tạo cơ sở lý luận
và phương pháp luận cho quá trình đổi mới của chúng ta: "Trong một
nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu vững
chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã
hội, không phải bằng cách trực tiếp dựa vào nhiệt tình, mà là với nhiệt
tình do cuộc cách mạng vĩ đại sinh ra, bằng cách khuyến khích lợi ích cá
nhân, bằng cách áp dụng chế độ hạch toán kinh tế. Nếu không, các
đồng chí sẽ không tiến đến chủ nghĩa cộng sản được; nếu không các
đồng chí sẽ không dẫn được hàng chục và hàng chục triệu người đến
chủ nghĩa cộng sản… Sự quan tâm thiết thân của cá nhân có tác dụng
nâng cao sản xuất; trước hết chúng ta cần nâng cao sản xuất bằng
được. Thương nghiệp bán buôn có thể liên kết, về mặt kinh tế, hàng
triệu tiểu nông lại với nhau, bằng cách lấy lợi ích mà khuyến khích họ".
Tổng Bí thư Đỗ Mười cũng đã nhiều lần nhắc đến chỉ dẫn này của Lênin

[18]. Đào Xuân Sâm cho rằng các quan điểm của Lênin là triệt để cách

18


mạng như: "Người cộng sản và Nhà nước vô sản phải làm nhà buôn,
chấp nhận trao đổi hàng hoá tự do, đặt xí nghiệp Nhà nước trên cơ sở
buôn bán và tư bản chủ nghĩa…"[22].
Các tư tưởng đó của Lênin đã là những cơ sở phương pháp luận
và tư tưởng chỉ đạo quan trọng để Đảng ta đề xuất những quan điểm đổi
mới phù hợp với thực tế của nước ta như khuyến khích lợi ích vật chất
cá nhân, xoá bỏ ngăn sông cấm chợ, đặt doanh nghiệp Nhà nước trên
nền tảng hạch toán kinh tế, vận dụng hình thức tư bản Nhà nước…
4. So sánh hai mô hình kinh tế và quá trình chuyển đổi
4.1. Quan điểm Komai[42]
Về cơ chế quản lý: Theo Komai, có thể phân lại các cơ chế quản lý
hay điều phối các nền kinh tế ra các loại sau:
1. Điều phối hành chính trực tiếp (IA)
2. Điều phối hành chính gián tiếp (IB)
2. Điều phối thị trường khống chế vĩ mô (IIA).
3. Điều phối thị trường khống chế vĩ mô ((IIB).
Điều phối hành chính trực tiếp IA và điều phối hành chính gián tiếp
IB đều dựa vào quan hệ lệ thuộc cấp trên, cấp dưới, sử dụng các mệnh
lệnh hành chính, thông qua dòng thông tin ngành dọc và biện pháp hành
chính để khống chế và vận hành nền kinh tế. Sự khác nhau của thể thế
IA và IB là sự khác nhau về biện pháp điều tiết ngành dọc. Trong thể chế
IA, bộ máy hành chính giao cho các doanh nghiệp các chỉ tiêu pháp lệnh
cụ thể về sản xuất. Trong thể chế IB, bộ máy hành chính không thông
qua việc ra lệnh sản xuất trực tiếp như thể chế IA mà thông qua quyền


19


lực trong tay và sử dụng mọi biện pháp can thiệp (hành chính gián tiếp)
buộc xí nghiệp phải lựa chọn các quyết định sản xuất (về hình thức là
sự quyết định) nhưng đại thể là phù hợp với yêu cầu của cấp trên. Ở
đây các doanh nghiệp có hai chỗ dựa: chỗ dựa theo chiều dọc của bộ
máy quyền lực cấp trên và chỗ dựa theo chiều ngang là lực lượng thị
trường, trong đó chỗ dựa theo ngành dọc chiếm vị trí chủ đạo.
Điều phối thị trường không khống chế vĩ mô IIA và điều phối thị
trường có khống chế vĩ mô IIB đều thông qua thông tin theo chiều ngang
giữa các doanh nghiệp và lực lượng thị trường để điều tiết sự vận hành
nền kinh tế. Trong thể chế IIA, không có khống chế vĩ mô, sự vận hành
nền kinh tế hầu như hoàn toàn chịu sự điều tiết và dẫn dắt tự phát của
cơ chế thị trường. Trong thể chế IIB, cơ quan điều tiết ngành dọc không
phải thông qua biện pháp hành chính trực tiếp, cũng không phải thông
qua sự can thiệp hanh chính gián tiếp mà thông qua các biện pháp rộng
rãi và quy phạm để khống chế các tham số kinh tế vĩ mô và qua đó điều
tiết sự vận hành kinh tế.
Điều phối hành chính gián tiếp (IB) và điều phối thị trường có khống
chế vĩ mô (IIB) đều là khống chế gián tiếp nhưng khác nhau cơ bản.
Chẳng hạnh, Nhà nước phân chia lợi nhuận cho doanh nghiệp trong thể
chế IB theo tỷ lệ được quyết định bằng pháp luật còn trong IIB thì tỷ lệ
phân chia lợi nhuận được xác định qua hợp đồng. Trong thể chế IB. Nhà
nước cứu thoát hầu như toàn bộ các doanh nghiệp bị phá sản và các
doanh nghiệp sau kihi được cứu thoát vẫn còn có thể tiếp tục xin tiền
Nhà nước. Trong thể chế IIB, Nhà nước cũng cứu các doanh nghiệp phá
sản nhưng chỉ hạn chế ở một số rất ít doanh nghiệp lớn, sau khi được
cứu thoát các doanh nghiệp phải tự mình xoay sở để tồn tại.


20


Theo cách phân chia trên thì kinh tế Liên Xô và các nước XHCN
đông Âu trước những năm 60 là thể chế IA. Trong cải cách vào năm
1968 ở Hunggari đã xoá bỏ các biện pháp hành chính trực tiếp nhưng
vẫn sử dụng các biện pháp gián tiếp nên có dạng IB. Thể chế IIA trên
thực tế ngày nay không còn tồn tại. Nó chỉ tồn tại ở thời kỳ đầu của mô
hình kinh tế kiểu Adam Smith. Như vậy Komai thì mô hình IB và IIA đều
không phải là mô hình lý tưởng. Do đó mô hình mục tiêu để cải cách
hướng đến là mô hình IIB.
4.2. Phân loại mô hình theo L.Johanen[40]: Trên thực tế, trước
Komai, L.Johansen cũng đã phân loại các mô hình kinh tế tương tự theo
đặc trưng về các dòng thông tin. Theo L.Johansen, mô hình kinh tế kế
hoạch tập trung cao độ thể hiện ở cấu trúc các dòng thông tin dọc. Mô
hình kinh tế thị trường thuần tuý thể hiện ở cấu trúc các dòng thông tin
ngang, đó là thông tin về thị trường. Mô hình tồn tại trong thực tế là mô
hình kết hợp theo các mức độ khác nhau hai loại trên. Tuỳ thuộc vào ưu
thế của các thông tin dọc hay ngang mà mô hình thiên về điều tiết vĩ mô
qua cơ chế kế hoạch hay qua cơ chế thị trường.

Trung tâm

Đơn
Sơvị đồ
kinh tế

Đơn vị

kinh tế


Trung tâm

Đơn vị
kinh tế

Đơn vị

1: Đơn
Sơvịđồ phản ánh các dòng thông
kinh tế tin trong
kinh tếquản lý

Đơn vị
kinh tế

Trung tâm

21
Đơn vị
kinh tế

Đơn vị
kinh tế


(IA)

(IIA)


(IB)

(IIB)

4.3. Chuyển đổi là một quá trình diễn ra trong một thời gian dài:
Phân tích diễn biến chuyển đổi mô hình ở các nước Đông âu vừa
qua, Komai[40] nêu các ý kiến như sau:
Việc thay đổi Chính phủ (như diễn ra ở Tiệp khắc), chưa phải là sự
thay đổi của hệ thống. Quá trình cải cách là một quá trình lịch sử lâu dài.
Quá trình đó phụ thuộc rất nhiều vào điểm xuất phát của quá trình cải
cách, tức là di sản mà hệ thống cũ để lại. Di sản đó bao gồm tổng thể
thực trạng giàu có, tình trạng tài nguyên thiên nhiên, tình trạng nhà
xưởng, máy móc, trình độ trang thiết bị kỹ thuật, trình độ phát triển của
hệ thống thương mại, vận tải, trình độ giáo dục, y tế và bảo hiểm xã hội.
Trình độ bv môi trường cũng là một yếu tố quan trọng cho sự phát triển
của kinh tế- xã hội. Nền kinh tế của nhiều nước bước vào thời kỳ chuyển
đổi đều ở trong tình trạng khủng khoảng, trì trệ hoặc suy thoái nghiêm
trọng, trình độ trạng bị kỹ thuật bị lạc hậu, kết cấu hạ tầng không được
bảo dưỡng, một bộ phận môi trường bị ô nhiễm hoặc bị tàn phá. Vì vậy,
nhiều nước phải trải qua một giai đoạn ổn định, khôi phục đồng thời với
quá trình cải cách và phát triển.

22


Một số nước phải đối phó với các căng thẳng về kinh tế vĩ mô: lạm
phát, thiếu hụt hàng hoá, dư thừa tiền mặt, mất cân đối ngoại thương và
nợ nước ngoài. Các biện pháp tình thế có thể giảm bớt những mất cân
đối nghiêm trọng nhất; song để giải quyết một cách cơ bản, phải xây
dựng những chính sách và thể chế mới, đồng thời phải cơ cấu lại nền

kinh tế.
Một bộ phận quan trọng của di sản là tình trạng nguồn nhân lực,
trình độ đào tạo chuyên môn, trình độ kỷ luật lao động của lực lượng lao
động xã hội nói chung. Đặc biệt trình độ đội ngũ cán bộ quản lý các
doanh nghiệp và cán bộ xây dựng chính sách về kinh tế thị trường, về
thị trường thế giới, có ý nghĩa rất quan trọng cho quá trình cải cách và
hiệu quả kinh tế. Ngay khi tình hình kinh tế không đến nỗi xấu nhưng
trình độ cán bộ kém, việc bù đắp một đội ngũ cũng đòi hỏi một thời gian
không ngắn.
Bộ máy và thể chế cũ đã được hình thành trong nhiều thập kỷ với
hệ thống thứ bậc và cơ cấu rất chi tiết cũng đòi hỏi phải cải cách cho
phù hợp với yêu cầu và chức năng mới. Quá trình đó cũng không thể
thực hiện trong một thời gian ngắn.
Các giá trị truyền thống trong xã hội, các giá trị văn hoá, tôn giáo
trong mỗi dân tộc được hình thành qua hàng nghìn năm phát triển cũng
quan hệ tới quá trình cải cách. Các nhân tố đó tác động theo hướng tích
cực, có nhân tố tác động theo hướng kìm hãm.
Từ những suy luận nêu trên, J.Kmai cho là trong một thời gian dài
trong nền kinh tế chuyển đổi sẽ tồn tại một hệ thống song hành, trong đó
các nhân tố mới sẽ không thể tách khỏi những đấu tranh và xung đột ở
các lĩnh vực khác nhau trong kinh tế và xã hội nhằm hình thành một nền
23


kinh tế và chế độ xã hội được nhân dân ủng hộ. Các suy nghĩ của
J.Komai rất gần gũi với các suy nghĩ và cách làm của chúng ta và đã
được quá trình phát triển vừa qua xác nhận là phù hợp với thực tế.
II. QUAN ĐIỂM HỆ THỐNG TRONG PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH
CHUYỂN ĐỔI
1. Quan điểm hệ thống về quá trình chuyển đổi

Bản thân nền kinh tế là một hệ thống phức tạp nên nó cũng tuân thủ
các quy luật cơ bản của lý thuyết hệ thống. Có thể nêu một số quan
điểm hệ thống liên quan đến nhận thức về cải cách kinh tế như sau đây,
xem Nguyễn Văn Quý [21]:
1.1. Quá trình chuyển trạng thái của hệ thống, từ trạng thái xuất
phát đến trạng thái mong muốn là quá trình phức tạp nhất của điều khiển
các hệ thống
a.
Trạng thái
mong muốn
Trạng thái ban đầu
Thời gian chuyển tt
b.
Trạng thái
mong muốn

Trạng thái

24


ban đầu

Thời gian chuyển tt

Hình 1: Quá trình chuyển đổi trạng thái của hệ thống
Các mục tiêu rút ngắn thời gian chuyển trạng thái và mục tiêu duy trì
ổn định (dao động không lớn) là hai mục tiêu mâu thuẫn nhau. Trên hình
3a và 3b là đồ thị về quá trình chuyển trạng thái trong lý thuyết hệ thống
thường gặp. Hình 3b là trường hợp thời gian chuyển trạng thái ngắn hơn

và do đó có dao động mạnh hơn hình 3a.
Không thể thực hiện cải cách nhanh mà không gây ra mất ổn định
và ngược lại ưu tiên mục tiêu duy trì ổn định thì không thể thực hiện mục
tiêu chuyển trạng thái nhanh. Tìm giải pháp dung hoà giữa hai mục tiêu
trên là vấn đề quan trọng trong thiết kế quá trình chuyển trạng thái hệ
thống.
1.2. Nền kinh tế là hệ thống lớn, phức tạp và có sự tham gia của
con người với các mục tiêu riêng, lợi ích riêng. Nguyên lý tối ưu của hệ
thống chỉ ra là tối ưu đối với bộ phận không phải lúc nào cũng dẫn đến
tối ưu tổng thể và ngược lại tối ưu tổng thể không phải lúc nào cũng dẫn
đến tối ưu bộ phận. Các cải cách bộ phận nếu không tuân thủ các
nguyên tắc thiết kế hệ thống sẽ không bảo đảm đạt được mục tiêu cải
cách tổng thể của nền kinh tế.
1.3. Đặc điểm phát triển của hệ thống là hệ thống càng phát triển thì
mức độ phức tạp của hệ thống càng tăng lên. Chính nhờ tính đa dạng và
phức tạp mà hệ thống dễ thích nghi với môi trường. Đối với các nền kinh
tế kế hoạch trước đây quá trình tập trung cao độ đã dẫn đến sự đơn
điệu về tổ chức sản xuất, về thành phần kinh tế, đơn điệu về các quan
hệ trong sản xuất và quản lý. Các quan hệ còn lại chủ yếu là quan hệ

25


×