Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo xây DỰNG căn cứ địa CÁCH MẠNG ở tây NINH TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG mỹ, cứu nước từ năm 1954 đến năm 1968

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.78 KB, 95 trang )

LÊ XUÂN ĐÀI

ĐẢNH CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TÂY
NINH
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ,
CỨU NƯỚC
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1968

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2008


2

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương
1

3
YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA
ĐẢNG KHÔI PHỤC, PHÁT TRIỂN CĂN CỨ ĐỊA CÁCH
MẠNG Ở TÂY NINH TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1968

11

1.1


Yêu cầu khách quan của cách mạng miền Nam khôi phục,
11

1.2

phát triển căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh sau năm 1954
Chủ trương của Đảng khôi phục, phát triển căn cứ địa cách
mạng ở Tây Ninh (1954 - 1968)

17

Chương

ĐẢNG CHỈ ĐẠO KHÔI PHỤC, PHÁT TRIỂN CĂN

2

CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TÂY NINH TỪ NĂM 1954
ĐẾN NĂM 1968, KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM

2.1

Sự chỉ đạo của Đảng xây dựng căn cứ địa cách mạng ở

2.2

Tây Ninh (1954 - 1968)
Kết quả, nguyên nhân và kinh nghiệm rút ra từ quá trình

36

36

Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh
(1954 - 1968)
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

56
84
86
89


3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa qua đã để lại cho dân tộc ta
nhiều bài học kinh nghiệm quý giá. Một trong những bài học đó là bài học về xây
căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến. Hậu phương là một trong những
nhân tố thường xuyên quyết định thành bại của chiến tranh. Như V.I. Lênin từng
nói: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự phải có một hậu phương được
tổ chức vững chắc”. Tiếp thu học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế
thừa truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc trong quá trình lãnh đạo
kháng chiến, Đảng ta luôn đặt vấn đề xây dựng hậu phương lên hàng quan trọng
bậc nhất, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, nên đã nhân lên
gấp bội sức mạnh của một dân tộc nhỏ bé, kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, nhưng đủ
sức đánh bại kẻ thù là một cường quốc, có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất thế
giới tư bản. Một trong những chìa khoá tạo nên sức mạnh của chiến tranh nhân dân
Việt Nam chính là vấn đề xây dựng căn cứ địa. Bởi vì, theo quan điểm của Đảng ta;

căn cứ địa cách mạng là những vùng giải phóng xuất hiện trong vòng vây của địch,
cách mạng dựa vào đó để tích luỹ và phát triển lực lượng của mình về mọi mặt, tạo
thành những trận địa vững chắc về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, lấy đó làm
nơi xuất phát để mở rộng dần ra, cuối cùng tiến lên đánh bại kẻ thù lớn mạnh, giải
phóng hoàn toàn đất nước - Căn cứ địa cách mạng là chỗ đứng chân của cách
mạng, đồng thời là chỗ dựa để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh
đấu tranh vũ trang. Trên ý nghĩa đó, nó cũng là hậu phương của chiến tranh cách
mạng.
Trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp và 21 năm kháng chiến chống
Mỹ, trên chiến trường Tây Ninh, dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Nam Bộ (Trung
ương Cục miền Nam) và đảng bộ địa phương các cấp, các căn cứ địa với đủ loại
và quy mô lần lượt ra đời, tạo thành một hệ thống liên hoàn, đan xen trên toàn địa


4
bàn. Đó là những khu vực được lựa chọn làm nơi đứng chân, bảo tồn và phát triển
lực lượng kháng chiến; làm nơi tích luỹ, xây dựng cơ sở kinh tế, chính trị xã hội;
làm chỗ dựa và bàn đạp cho các lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân thực
hành phản công, tiến công tiêu diệt địch. Hoạt động xây dựng, bảo vệ và phát huy
tác dụng của căn cứ địa ở Tây Ninh thực sự trở thành một nguyên nhân quan trọng
góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân
tộc ta.
Hiện nay, vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng trong quy hoạch phát triển
địa phương, vấn đề xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực
phòng thủ tỉnh (thành phố) trở thành một trong những nhiệm vụ chính trị trung
tâm của lực lượng vũ trang các quân khu. Nhiệm vụ ấy đặt ra yêu cầu phải nghiên
cứu vấn đề xây dựng hậu phương, xây dựng căn cứ địa trong quá khứ nhằm tìm ra
những kinh nghiệm để vận dụng vào hoàn cảnh lịch sử mới.
Với lý do trên, tác giả chọn đề tài: “ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây
dựng căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước từ năm 1954 đến năm 1968” làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Thành
công của đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Do tầm quan trọng của vấn đề hậu phương, căn cứ địa trong chiến tranh, nên
đề tài này đã được sự quan tâm nghiên cứu rộng rãi của các lãnh tụ, tướng lĩnh,
các cơ quan nghiên cứu khoa học và các nhà khoa học từ nhiều năm nay. Tiêu
biểu có các công trình khoa học sau:
Nhóm các công trình mang tính chất tổng kết như: Bộ Quốc phòng Viện Lịch
sử quân sự Việt Nam (1977), Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam 1945 1975, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội; Ban Chỉ đạo tổng kết
chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước thắng lợi và bài học, bài học kinh nghiệm thứ năm, “Căn cứ địa cách
mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà


5
Nội; Bộ Quốc phòng (1996), Chiến tranh nhân dân địa phương trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975, Phần bài học kinh nghiệm thứ năm: “Xây dựng
căn cứ, tạo thành thế trận chiến tranh nhân dân địa phương vững mạnh của chiến
tranh nhân dân Việt Nam”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội; Ban Tổng
kết chiến tranh B2 (1979), Đề cương báo cáo Tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ, tập V
- Mục VIII. Những công trình trên đây đã tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của dân tộc ta, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm, trong đó vấn đề hậu
phương, căn cứ địa cách mạng, được trình bày dưới dạng bài học kinh nghiệm chứ
chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống, tổng quát.
Ngoài các tổng kết chung, một số căn cứ địa trên địa bàn miền Đông Nam Bộ
cũng được quan tâm nghiên cứu trong các công trình tổng kết như: Lương Văn Nho
(1983), Chiến khu rừng Sác, Nhà xuất bản Đồng Nai; Lê Trí Viễn (1985), Căn cứ
địa An Phú Đông, Đảng uỷ xã An Phú Đông. Các tác phẩm này, trình bày dưới dạng
ký sự, quá trình hình thành phát triển của căn cứ trong quá trình tiến hành cuộc kháng

chiến ở địa phương chứ chưa đi sâu, nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của Đảng trong
xây dựng căn cứ địa cách mạng và những kinh nghiệm thực tiễn được rút ra.
Nhóm các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội và các
Nhà khoa học có liên quan đến nội dung nghiên cứu đề tài như: Hồ Chí Minh (1960),
Ngọn cờ giải phóng, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh đã giành một
trang bàn về căn cứ địa đầu tiên mang tính hướng dẫn; Đại tướng Võ Nguyên Giáp
(1970), Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng ta, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội.
Đại tướng đã giành một mục lớn nói về “Đảng lãnh đạo thành công công cuộc xây
dựng căn cứ địa cách mạng và hậu phương chiến tranh cách mạng”; Trần Bích
(2004), “Hậu phương căn cứ địa cách mạng - một trong những nhân tố góp phần
quyết định sự hình thành, phát triển của lực lượng vũ trang”, Quân đội nhân dân Việt
Nam với sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân, Hà Nội, có một chương của tác giả trình bày về hậu phương căn cứ địa;


6
Hoàng Xuân Lâm (1993),“Tìm hiểu về khái niệm của căn cứ địa”, Tập san Nghiên
cứu Nghệ thuật quân sự, số 19; Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1993), Lịch sử cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954, Tập 6, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, Hà Nội, giành hẳn một chương trình bày về “Xây dựng hậu phương, căn cứ địa
chiến tranh nhân dân”; Trần Bạch Đằng (1993), “Vài suy nghĩ về hậu phương chiến
tranh nhân dân Việt Nam’’, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 3; Văn Tạo (1995), “Căn cứ
địa cách mạng, truyền thống và hiện tại”, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 4; Nguyễn
Thới Bưng (2003), “Quan điểm của Đảng ta về vấn đề xây dựng căn cứ địa cách
mạng trong chiến tranh giải phóng 1945-1975”, Tạp chí Giáo dục Lý luận Chính trị
quân sự, số 2; Phan Trung Kiên (2002), “Kinh nghiệm xây dựng căn cứ địa cách
mạng và phát huy nó trong chuẩn bị thế trận quốc phòng toàn dân”, Tạp chí Giáo
dục Lý luận Chính trị quân sự, số 6; Lê Thị Bân (2002), “Căn cứ địa Dương Minh
Châu một nhân tố góp phần quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến ở Tây Ninh
và Miền Đông Nam Bộ”, Tạp chí Giáo dục Lý luận Chính trị quân sự, số 6; Trịnh

Vương Hồng (2004) “Vai trò của căn cứ địa kháng chiến qua sự kiện thành lập
Trung ương Cục miền Nam tại Chiến khu Đ, thời kỳ 1961-1962”, Tạp chí Lịch sử
quân sự, số 9; Trần Thị Nhung (1996), Căn cứ Khu uỷ và Bộ chỉ huy Miền trong
chiến tranh chống Mỹ, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Trần Thị Nhung (1994),
“Vấn đề tổ chức và xây dựng căn cứ đầu não của Trung ương Cục và Bộ chỉ huy
Miền”, Tham luận Hội thảo kỷ niệm 30 năm chiến thắng Bình Giã; Trần Thị Nhung
(1997), “Trận tập kích Tua Hai và vấn đề xây dựng căn cứ địa Bắc Tây Ninh”, Tham
luận Hội thảo kỷ niệm 30 năm đánh bại cuộc hành quân Gian-xơnxi-ti. Các công
trình nêu trên đã trình bày về căn cứ địa dưới góc độ lý luận, giải quyết một số vấn đề
khái niệm về căn cứ địa, các hình thức phát triển từ thấp đến cao của căn cứ địa, nội
dung xây dựng và vai trò của căn cứ địa trong chiến tranh giải phóng và việc vận
dụng nó vào sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng trong giai đoạn cách mạng hiện
nay.


7
Các đề tài khoa học, các luận văn, luận án tiến sỹ, tiêu biểu như: Hồ Sơn Đài,
Căn cứ địa kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Đông Nam Bộ (1945 - 1954),
Luận án phó tiến sỹ Khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, mã số:
50315, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia - Viện Khoa học Xã hội
Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh; Đề tài này đã nghiên cứu một cách khái quát và
có hệ thống về toàn bộ căn cứ địa miền Đông Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống
Pháp dưới góc độ lịch sử, chứ chưa đi sâu luận giải về chủ trương và sự chỉ đạo của
Đảng trong lãnh đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng. Song đây cũng là một công
trình khoa học đem lại những kiến thức bổ ích và những bài học về phương pháp cho
tác giả kế thừa và nghiên cứu luận văn.
Nhóm các bài hội thảo khoa học liên quan trực tiếp đến đề tài. Năm 2002, Bộ
Tư lệnh Quân khu 7 và Tỉnh uỷ Tây Ninh tổ chức hội thảo, Căn cứ địa cách mạng ở
Tây Ninh trong chiến tranh giải phóng (1945 - 1975). Hội thảo đã thu hút được sự
tham gia của nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả viết bài tham luận gồm các bài viết

tiêu biểu như; Nguyễn Viết Tá “Căn cứ đia Tây Ninh, một vị trí chiến lược quan
trọng”; Trần Phấn Chấn, “Căn cứ địa Tây Ninh, một điểm chọn của lịch sử ba mươi
năm chiến tranh giải phóng”; Nguyễn Đức Tấn, “Tại sao trong kháng chiến chống
Mỹ, căn cứ địa của Miền thường nằm ở khu vực Bắc Tây Ninh”; Trần Ngọc Long,
“Căn cứ địa - nhìn từ mối quan hệ giữa các yếu tố địa - chính trị, địa - quân sự, địa văn hoá, địa - kinh tế”; Nguyễn Tuấn Thiết, “Góp phần tìm hiểu đặc điểm của vùng
căn cứ địa kháng chiến Tây Ninh”; Trần Nam Tiến, “Âm mưu của đế quốc Mỹ đối
với căn cứ địa ở Tây Ninh trong chiến tranh cục bộ”; Trần Ngọc Long, “Căn cứ địa nhìn từ mối quan hệ giữa các yếu tố địa - chính trị, địa - quân sự, địa - văn hoá, địa kinh tế”; Nguyễn Văn Hải, “Đảng bộ Tây Ninh lãnh đạo nhân dân địa phương xây
dựng và bảo vệ căn cứ địa”; Nguyễn Thành Cung, “Căn cứ địa cách mạng, nơi hội
tụ sức mạnh tổng hợp của quân và dân Tây Ninh trong chiến tranh giải phóng”; Hồ
Sỹ Thành, “Bời Lời - căn cứ bàn đạp vùng trung tuyến trong giai đoạn ác liệt nhất
của cuộc chiến tranh chống Mỹ”; Nguyễn Văn Mẹo, “Đấu tranh bằng ba mũi giáp


8
công trong bảo vệ căn cứ địa tại địa bàn huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh”; Nguyễn
Lâm Thanh, “Thế trận lòng dân trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ căn cứ địa Bời
Lời”; Phú Văn Hẳn, “Công tác hậu cần tại vùng căn cứ địa kháng chiến Tây Ninh”;
Cao Thị Hiền Thuý, “Một số trận đánh tiêu biểu bảo vệ căn cứ địa Tây Ninh trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”; Nguyễn Văn Hùng, “Căn cứ địa Dương Minh
Châu với sự phát triển của lực lượng chủ lực Miền trong kháng chiến chống Mỹ ở
chiến trường Nam Bộ”; Nguyễn Công Trứ, “Những trận đánh Mỹ đầu tiên của lực
lượng võ trang Tây Ninh góp phần bảo vệ căn cứ địa cách mạng”; Hoàng Thu Hà,
“Cuộc hành quân của Mỹ đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu - Bắc Tây Ninh
nhìn từ phía bên kia”; Nguyễn Thế Nghĩa, “Mấy vấn đề mang tính quy luật về xây
dựng căn cứ địa trong chiến tranh giải phóng (1945 - 1975)”; Huỳnh Nghĩ, “Xây
dựng đi đôi với bảo vệ, quy luật tồn tại và phát triển căn cứ địa cách mạng ở Tây
Ninh”; Nguyễn Thành Long “Tỉnh uỷ Tây Ninh lãnh đạo xây dựng và bảo vệ căn cứ
địa Trà Vông trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”; Hà Duy Cường, “Thế trận
chiến tranh nhân dân trên vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn huyện Châu Thành góp phần
bảo vệ căn cứ địa cách mạng tỉnh Tây Ninh”; Đinh Thu Xuân, “Tìm hiểu chính sách

thương nghiệp vùng căn cứ địa cách mạng của Trung ương Cục miền Nam trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”; Lê Đình Sỹ “Một số vấn đề mang tính quy luật
về xây dựng căn cứ địa cách mạng trong chiến tranh giải phóng (1945-1975)”;
Nguyễn Văn Diệu “Mối quan hệ giữa yêu cầu xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách
mạng trong chiến tranh giải phóng (1945 - 1975)”; Phùng Đình Ấm “Mối quan hệ
giữa xây dựng căn cứ địa với xây dựng lực lượng vũ trang tại Tây Ninh trong chiến
tranh giải phóng”; Nguyễn Ngọc Dung “Các mô hình căn cứ địa ở Tây Ninh qua hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ từ góc nhìn đối chiếu”; Hồ Sơn Đài “Vai
trò của căn cứ Dương Minh Châu trong kháng chiến chống Mỹ”; Nguyễn Trung
Thành “Về tác dụng của căn cứ địa Dương Minh Châu trong kháng chiến chống thực
dân Pháp”; Cao Bá Hiền “Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển căn cứ địa cách
mạng ở Tây Ninh”; Lê Thành Tâm “Tìm hiếu khả năng huy động chính trị - tinh thần


9
và vật chất của vùng căn cứ địa cách mạng Tây Ninh trong chiến tranh giải phóng
(1945-1975) và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay”. Các bài viết
này tập trung đề cập đến vị trí vai trò của căn cứ địa Tây Ninh, những vấn đề mang
tính quy luật trong xây dựng căn cứ địa, mối quan hệ giữa xây dưng căn cứ với xây
dựng lực lượng vũ trang, vai trò của quần chúng nhân dân trong xây dựng và bảo vệ
căn cứ và việc dụng xây dựng căn cứ địa vào xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh hiện
nay. Đây là nguồn tài liệu chủ yếu để tác giả nghiên cứu làm luận văn.
Có thể nhận thấy rằng, các công trình kể trên đã đề xuất, lý giải khái niệm về
căn cứ địa, chức năng, nội dung hoạt động và vai trò của nó đối với sự nghiệp
kháng chiến của nhân dân ta, những nét lớn về lịch sử hình thành, phát triển và hoạt
động của căn cứ địa cách mạng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược cùng một số căn cứ địa cụ thể. Song chưa có một công trình nào
nghiên cứu về Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh một cách
hệ thống, tổng quát dưới góc độ Lịch sử Đảng. Vì vậy, đề tài luận văn mà tác giả
lựa chọn không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố trước đây và hi

vọng luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1954 đến năm 1968.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Làm rõ tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo xây
dựng căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh từ năm 1954 đến năm 1968, từ đó rút ra
một số kinh nghiệm để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân
trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ yêu cầu khách quan của cách mạng miền Nam sau năm 1954 phải
khôi phục, phát triển căn cứ địa cách mạng nói chung và ở Tây Ninh nói riêng. Trên


10
cơ sở đó phân tích luận giải chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển căn cứ địa
cách mạng ở Tây Ninh.
- Trình bày có hệ thống quá trình Đảng chỉ đạo khôi phục, phát triển căn cứ
địa cách mạng ở Tây Ninh từ năm 1954 đến năm 1968.
- Khái quát thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm
bước đầu về sự lãnh đạo của Đảng xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh từ
năm 1954 đến năm 1968.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Nghiên cứu quá trình lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng về xây dựng
căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
* Phạm vi nghiên cứu: Sự lãnh đạo của Đảng xây dựng căn cứ địa cách
mạng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, thời gian, từ năm 1954 đến năm1968.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Nghiên cứu đề tài này tác giả dựa trên những luận điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta
về xây dựng hậu phương - căn cứ địa cách mạng.

* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, phương
pháp lôgíc và sự kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là chủ yếu, đồng
thời sử dụng một số phương pháp khác như: Phương pháp thống kê, so sánh, đồng
đại, lịch đại, phân tích tổng hợp để làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu trong đề tài.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần vào việc làm sáng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn sáng tạo của
Đảng trong lựa chọn, lãnh đạo xây dựng căn cứ địa ở Tây Ninh góp phần làm nên
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Luận văn rút ra những kinh nghiệm về
sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng căn cứ địa làm cơ sở cho việc xây dựng các
khu vực phòng thủ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc hiện nay. Luận văn
có thể làm tài liệu tham khảo trong các nhà trường trong quân đội.


11
7. Kết cấu của luận văn
Mở đầu, 2 chương( 4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục


12
Chương 1
YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG KHÔI PHỤC,
PHÁT TRIỂN CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TÂY NINH
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1968

1.1.Yêu cầu khách quan của cách mạng miền Nam khôi phục, phát
triển căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh sau năm 1954
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, xã hội và truyền thống xây dựng căn cứ địa
chống ngoại xâm của Tây Ninh trước năm 1954
Đặc điểm tự nhiên.

Tây Ninh là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, ở vào vị trí 10 057’80” đến
11046’36’’ vĩ độ bắc và từ 105048’43’’ đến 106022’48’’ kinh độ đông. Khí hậu thuộc
loại nóng và ẩm, nhiệt độ trung bình trong năm là 27,4 0c. Thời tiết chia làm 2 mùa rõ
rệt, mùa nắng từ tháng 10 đến tháng 4, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa
trung bình trong năm là 1.589mm, không có bão. Với điều kiện khí hậu thời tiết như
vậy, Tây Ninh thuộc loại “mưa thuận gió hoà”, không khắc nghiệt, ít dịch bệnh, nhất
là sốt rét không như các vùng rừng núi khác trong Miền. Về diện tích tự nhiên là
4048km2. Phía Bắc, phía Tây và một phần phía Nam giáp Campuchia, có biên giới
dài 232km. Phía Nam giáp Long An và Sài Gòn, phía Đông giáp Bình Dương và nối
thông với các tỉnh còn lại của miền Đông Nam Bộ. Địa hình bằng phẳng, duy nhất có
núi Bà Đen cao 986m. Rừng chiếm 2/3 diện tích của tỉnh. Đất đỏ bazan màu mỡ rất
thuận lợi cho việc trồng cây lương thực và hoa màu quanh năm, có thể sản xuất tự túc
và huy động tiếp tế trong nhân dân bảo đảm nguồn hậu cần phong phú phục vụ
kháng chiến lâu dài.
Về giao thông thuận lợi; giao thông đường bộ có 2 quốc lộ chính 22 và 22b
nối thông với nhau đi suốt từ Nam lên Bắc: quốc lộ 22b từ suối Sâu lên Trảng
Bàng qua Gò Dầu sang Campuchia, quốc lộ 22 nối tiếp đường 1 tại Gò Dầu qua
thị xã và thẳng lên biên giới Công-Pông-Chàm. Có hai cửa khẩu lớn thông với


13
nước bạn Campuchia là Mộc Bài và Xa Mát. Song song với đường 22 là tỉnh lộ 4
lên phía Bắc tỉnh và tỉnh lộ 26 xuống phía Nam chạy qua vùng nông thôn đồng
bằng rộng lớn. Nối liền các trục chính này là một hệ thống đường nhánh rất thuận
tiện cho việc đi lại và vận chuyển. Giao thông thuỷ cũng thuận lợi có hai sông lớn
là sông Vàm Cỏ Đông ở phía Tây và sông Sài Gòn ở phía Đông cùng hệ thống
kênh rạch nối liền thị trấn Trảng Bàng và ngược lên các vùng phía Bắc. Hệ thống
giao thông thuỷ bộ thuận lợi giúp cho ta có điều kiện khơi nguồn tiếp tế, móc nối
các cơ sở hậu cần đường dài từ các thành thị nhất là Sài Gòn lên căn cứ địa.
Với yếu tố địa lợi ấy, Tây Ninh là vùng đất biên giới có vị trí chiến lược

quan trọng cho việc thiết lập căn cứ địa của Miền. Nơi đây ta có thể chủ động
trong việc tiến công địch ra các hướng, xâm nhập sâu vào các đô thị ở miền Đông
Nam Bộ, tỏa xuống đồng bằng sông Cửu Long và cũng rất thuận lợi cho việc
ngăn chặn các cuộc tiến công của địch bảo vệ căn cứ.
Đặc điểm về xã hội
Thủ phủ Tây Ninh được thành lập vào thế kỷ XIX, ban đầu gồm 2 huyện: Tây
Ninh và Quy Hoá, sau thêm huyện Phú Khương. Tây Ninh thuộc loại “đất rộng
người thưa”, năm 1921 có 200.000 dân, năm 1972 có 392.840 dân, năm 1975 có
578.000 dân, có nhiều dân tộc cư trú như Kinh, Khơmer, Chăm, Hoa, Mường, Êđê,
Tà Mun…Trong đó người Kinh chiếm 98% dân số. Từ ngày khai khẩn, ruộng đất
Tây Ninh tuy không tập trung lớn như các nơi khác ở Nam Bộ, nhưng qua quá trình
lịch sử với ách áp bức bóc lột nặng nề của phong kiến, thực dân, dần dần những
ruộng đất tốt có vị trí thuận lợi đều thuộc về địa chủ, tư sản, quan chức, sự phân hóa
giàu nghèo ngày càng sâu sắc. Những người nông dân thất thế phải lui vào những
vùng sâu, vùng xa cách trở để làm ăn sinh sống. Nhân dân ở Tây Ninh chủ yếu là
những người nông dân nghèo và tầng lớp giai cấp công nhân ở các đồn điền cao su,
họ là những người bị ách áp bức, bóc lột nặng nề nhất của tư sản và địa chủ và
chính họ là những người hăng hái tham gia vào các phong trào đấu tranh cách
mạng.


14
Truyền thống xây dựng căn cứ địa chống ngoại xâm ở Tây Ninh trước năm
1954
Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn không
những không phát động quần chúng nhân dân đấu tranh chống giặc ngoại xâm mà
còn bạc nhược cắt 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ dâng cho giặc Pháp (6/1862). Ngoài
ra triều đình còn ra lệnh giải tán các lực lượng kháng chiến của nhân dân ta. Bất
chấp lệnh của triều đình, ở Tây Ninh các lãnh binh không tuân theo lệnh Vua mà
cùng nhân dân lui về các vùng rừng núi lập căn cứ địa chống Pháp. Tiêu biểu lúc

bấy giờ có Khâm Tấn Tường là một vị tướng tài giỏi, Ông đã chọn vùng Trà Vông
để xây dựng căn cứ địa chống Pháp. Tại đây, Ông cùng anh em binh sỹ và nhân dân
đánh cho giặc Pháp những đòn chí mạng. Sau Khâm Tấn Tường có Trương Quyền,
con trai Trương Định, sau khi Trương Định hy sinh ở Gò Công, Trương Quyền đưa
quân về Tây Ninh thiết lập căn cứ địa, tiếp tục chống Pháp, Ông lấy Truông Mít
(Gò Dầu), Trảng Bàng Tây Ninh làm căn cứ khởi nghĩa lâu dài của mình và đặt tên
là căn cứ “Mãnh Hoả”. Cuộc khởi nghĩa của Trương Quyền đã gây cho địch nhiều
thiệt hại nặng nề. Năm 1870, ông bị bệnh mất tại Cẩm Giang, cuộc khởi nghĩa do
Trương Quyền lãnh đạo chỉ kéo dài được 6 năm từ (1864 - 1870). Sau khi Trương
Quyền chết, cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo cuối cùng cũng tan rã.
Cũng vào thời kỳ này, ở phía Nam Tây Ninh, vùng Trảng Bàng có căn cứ
khởi nghĩa do Lãnh Binh Tòng chỉ huy, sau khi triều đình ký Hòa ước dâng đất
cho giặc Pháp, Ông đã chiêu mộ nhân dân lập chiến khu tổ chức kháng chiến
chống Pháp. Cùng phối hợp chiến đấu với nghĩa quân của Lãnh Binh Tòng có lực
lượng nghĩa quân của ông Két. Lực lượng nghĩa quân đã chọn vùng Bến Cầu làm
căn cứ địa, lợi dụng địa hình vừa có rừng rậm, vừa có đầm lầy để mai phục và chủ
động đánh Pháp, làm cho giặc Pháp nhiều phen thất điên bất đảo. Một thời gian
sau Ông Két mất, Ông Tòng bị bắt. Phong trào do hai ông lãnh đạo tàn lụi dần.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thực dân Pháp trở lại xâm lược nước
ta. Ngày 8/11/1945 chúng dùng bộ binh cơ giới từ Sài Gòn lên và từ Campuchia
về tiến công thị xã Tây Ninh. Biết trước được âm mưu thủ đoạn của địch, trước kẻ


15
thù lớn mạnh, các lực lượng kháng chiến phải tạm thời rời các thị trấn, thị xã rút
về các địa bàn có lợi để xây dựng căn cứ, phát triển lực lượng. Tỉnh uỷ Tây Ninh
đã chọn vùng Trà Vông, Bời Lời làm căn cứ địa kháng chiến. Song song với căn
cứ địa Trà Vông, Bời Lời, Tỉnh uỷ Tây Ninh chỉ đạo cho xây dựng thêm một số
căn cứ khác như Bàu Chanh, Yên Thế, Lam Sơn, tạo thành thế trận liên hoàn,
vững chắc từ đó thế đứng chân của vùng căn cứ càng vững vàng, tạo điều kiện

thuận lợi cho các cơ quan của tỉnh chỉ đạo kháng chiến.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp Đảng bộ Tây Ninh hết sức coi trọng xây
dựng và phát triển hệ thống căn cứ địa, xác định mỗi huyện đều có căn cứ của mình,
năm 1948 hệ thống căn cứ địa được xây dựng hầu hết ở cấp huyện. Đến năm 1951, Xứ
uỷ và Bộ Tư lệnh Nam Bộ lấy rừng Trà Dơ, Đồng Rùm, Tây Ninh làm căn cứ. Cũng
trong năm 1951 Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông đóng ở Chiến khu Đ đã dời về
căn cứ Dương Minh Châu Tây Ninh để tiện việc liên lạc, tiếp tế và chỉ đạo toàn phân
liên khu. Với hệ thống căn cứ địa được xây dựng rộng khắp tạo thế liên hoàn vững
chắc, đã làm biến đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường. Dựa vào căn
cứ địa lực lượng vũ trang ở Tây Ninh không ngừng tiến công tiêu diệt địch, như trận
Bàu Gỗ và trận Thanh Điền 3/1946; trận Phước Thạnh 1947, trận Bến Củi 8/ 1947;
trận Bàu Sen 9/1953 và trận Ôcnel 3/1954; đã làm cho thực dân Pháp những thiệt hại
lớn, góp phần cùng nhân dân cả nước đánh thắng thực dân Pháp xâm lược 1954.
Có thể nói, truyền thống xây dựng căn cứ địa của Tây Ninh đã có từ lâu,
được các thế hệ đi sau kế thừa và phát triển lên cao độ trong vai trò là căn cứ địa
đầu não của cả miền Nam, xây đắp nên một Tây Ninh trung dũng kiên cường
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Căn cứ địa Tây Ninh đã trở
thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chỗ dựa và niềm tin cho
quân dân cả miền Nam kiên trì cuộc kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng, giải
phóng quê hương, thống nhất đất nước.


16
1.1.2. Bối cảnh lịch sử dẫn đến chủ trương tái lập căn cứ địa cách
mạng ở Tây Ninh sau năm 1954
Hiệp định Giơnevơ được ký kết ngày 20/7/1954 đã công nhận độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương. Theo quy định của
Hiệp định, tại Việt Nam hai bên sẽ đình chiến và tạm thời lấy vĩ tuyến 17 làm ranh
giới phân chia khu vực kiểm soát. Sau hai năm (tức đến 20/7/1956), Pháp rút khỏi
Việt Nam và hai miền Nam - Bắc sẽ thực hiện Tổng tuyển cử, thống nhất đất nước.

Ngày 22 tháng 7 năm 1954, lực lượng vũ trang cách mạng Nam Bộ cùng
lực lượng vũ trang cả nước thực hiện ngừng bắn theo lệnh của Bộ Tổng tư lệnh
Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau tháng 10 theo quy định của Hiệp định, lực
lượng vũ trang cách mạng Nam Bộ sẽ hoàn thành việc chuyển quân tập kết ra
miền Bắc, chỉ để lại khoảng 200 cán bộ, chiến sỹ ở các địa phương để đề phòng
tình huống địch không thi hành Hiệp định, dùng bạo lực trấn áp đảng viên và
quần chúng.
Về phía Mỹ, với âm mưu thôn tính miền Nam và Đông Dương do vậy
ngay sau khi Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ, Mỹ quyết định thay chân Pháp ở
miền Nam. Từ giữa năm 1954 đến giữa năm 1956, Mỹ buộc Pháp phải chuyển
giao quyền lực và đưa Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ lên làm Tổng thống, thành
lập “Việt Nam Cộng Hoà”, lấy Sài Gòn làm “thủ đô”, tuyên bố không hiệp
thương với miền Bắc, đơn phương xé bỏ Hiệp định Giơnevơ. Song song với việc
thâu tóm quyền lực ở Trung ương, Mỹ - Diệm từng bước loại bỏ các đối thủ uy
hiếp sự tồn tại của chính quyền mới được dựng lên ở miền Nam. Từ tháng 4 đến
cuối năm 1955, Ngô Đình Diệm thanh lọc quân đội ngụy, loại bỏ những tướng
lĩnh thân Pháp ra khỏi quân đội, đồng thời vừa dụ dỗ, mua chuộc, vừa tiến công
tiêu diệt các lực lượng vũ trang Bình Xuyên, Cao Đài, Hoà Hảo, giành trọn quyền
kiểm soát Sài Gòn - Chợ Lớn và nhiều vùng khác ở Nam Bộ.


17
Đối với lực lượng cách mạng (bao gồm cả các đảng viên cộng sản và những
người yêu nước trước đây) là lực lượng đối kháng mạnh nhất, đáng lo ngại nhất,
Diệm phát động chiến dịch “tố cộng”, thành lập Phủ đặc uỷ công dân vụ và Hội
đồng chỉ đạo tố cộng để thực hiện chiến dịch này. Từ tháng 5 năm 1955 đến tháng
5 năm 1956, Diệm thực hiện chiến dịch tố cộng giai đoạn một với các khẩu hiệu
phát xít phản động như: “tiêu diệt cộng sản tận gốc”, “thà giết nhầm còn hơn bỏ
sót”…, nhằm trọng điểm vào miền Trung và chuẩn bị cho giai đoạn 2 ở Nam
Bộ… Các chiến dịch đã gây ra nhiều vụ thảm sát giã man cán bộ đảng viên và

nhân dân: Chợ Được, Vĩnh Trinh, Hướng Điền, Đại Lộc,…“Từ tháng 7 năm 1955
đến tháng 2 năm 1956, Mỹ - Diệm đã giết hại, giam cầm 93.362 cán bộ, đảng viên
và những người yêu nước miền Nam” [39, tr. 22].
Từ tháng 7 năm 1956, Mỹ - Diệm phát động “tố cộng, diệt cộng” giai đoạn 2
nhằm trọng điểm ở Nam Bộ. Rút kinh nghiệm giai đoạn một, lần này hoạt động
“tố cộng, diệt cộng” được thực hiện thâm độc hơn, tinh vi hơn. Cảnh sát và quân
đội ngụy vừa triển khai nhiều chiến dịch đánh phá trên diện rộng để thăm dò, phát
hiện cán bộ cách mạng, vừa tập trung chà xát nhiều lần trên các khu vực được coi
là trọng điểm để “triệt tận gốc, trốc tận rễ” cộng sản, khủng bố bằng vũ lực, vừa
bằng thủ đoạn tâm lý, tinh thần. Cảnh sát, ngụy quân, mật vụ, dân vệ, chỉ điểm...
nhan nhản khắp đường làng, ngõ hẻm để phát hiện những người tình nghi. Nhân
dân bị phân loại để theo dõi, bị kiểm soát chặt chẽ, bị dồn vào các tổ chức “bảo vệ
hương thôn”, “thanh niên cộng hoà”, “phụ nữ liên đới”… Nhằm “dĩ cộng, trị
cộng”. Các gia đình có người thân tập kết hoặc từng đi theo kháng chiến thường
xuyên bị tập trung học tập “tố cộng”, “tẩy não”, bị bắt xé cờ Đảng, xé ảnh Bác
Hồ, phụ nữ bị buộc phải li khai chồng, con, bị ép lấy sỹ quan ác ôn ngụy v.v…
Tất cả các thủ đoạn đều nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân phải sợ hãi,
khủng khiếp mà khuất phục. Một số tỉnh uỷ bị động trước tình hình đã cố gắng
bảo tồn lực lượng bằng cách “phân loại đảng viên” hoặc thực hiện chủ trương


18
“điều lắng” của Xứ uỷ, nhưng chỉ làm lực lượng của Đảng càng bị ít đi hoặc tổn
thất. Đến cuối năm 1957 số đảng viên của miền Đông Nam Bộ chỉ còn 1.950
người so với năm 1954 là (15.355 người) [22, tr. 65].
Trước sự đàn áp giã man của Mỹ – Diệm lực lượng cách mạng miền Nam bị
tổn thất nghiêm trọng, phong trào đấu tranh của quần chúng bị lắng xuống. Từ
thực tiễn tổn thất to lớn của Đảng bộ và nhân dân miền Nam, một yêu cầu khách
quan đặt ra cho cách mạng miền Nam là phải nhanh chóng tái lập căn cứ địa cách
mạng, phát triển lực lượng vũ trang cách mạng, hỗ trợ đấu tranh chính trị chống

địch khủng bố và đàn áp phong trào cách mạng của quần chúng và tiến tới sau này
dùng nó để đánh đổ Mỹ – Diệm giải phóng miền Nam khỏi ách đế quốc, phong
kiến, để cùng miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất và dân
chủ nhân dân.
Như vây là vấn đề xây dựng lực lượng, xây dựng căn cứ địa cách mạng thực
sự trở thành một yêu cầu hết sức khách quan của cách mạng miền Nam sau năm
1954.
1.2. Chủ trương của Đảng khôi phục, phát triển căn cứ địa cách
mạng ở Tây Ninh (1954 - 1968)
1.2.1. Chủ trương bảo vệ và củng cố hệ thống căn cứ địa cách mạng ở
Tây Ninh làm chỗ dựa đấu tranh giữ gìn lực lượng cách mạng (1954 -1960)
Chủ trương giữ gìn vùng căn cứ địa cách mạng sau Hiệp định Giơnevơ chống lại
sự phá hoại của địch
Sau Hiệp định Giơnevơ được ký kết, hầu hết các đơn vị bộ đội và một số cơ
quan rút khỏi căn cứ tập kết ra Bắc. Một số cơ quan và số ít cán bộ chiến sĩ được
giao nhiệm vụ ở lại chuyển về các vùng ven căn cứ, nơi đông dân để tiện lãnh đạo
đấu tranh chính trị, hoạt động bí mật. Trên một số căn cứ lớn như Dương Minh
Châu, Bời Lời (Tây Ninh), một số cán bộ đảng viên còn để cho dân rời khỏi vùng
căn cứ, về vùng dân cư đông đúc để mong hưởng cuộc sống hòa bình. Vì vậy, sau


19
tháng 7 năm 1954 các căn cứ không còn những hoạt động kháng chiến (trừ điểm
tập kết Xuyên Mộc còn kéo dài đến cuối tháng 10 năm 1954). Tuy vậy, với ý thức
dự liệu trước tình hình có khả năng diễn biến theo chiều hướng xấu, Hội nghi Xứ
uỷ Nam Bộ lần thứ nhất tháng 10 năm 1954, đã chỉ thị cho các liên tỉnh uỷ cố
gắng duy trì các vùng căn cứ, đặc biệt là các vùng căn cứ lớn như Dương Minh
Châu, Chiến khu Đ [9, tr. 377-378]. Vì ngay khi lực lượng ta rút khỏi căn cứ, các
đơn vị vũ trang ngụy, lực lượng vũ trang giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài đã tràn vào
chiếm đóng, tranh giành vùng kiểm soát. Quân đội Cao Đài, Hòa Hảo thả sức vơ

vét, cướp bóc của cải, bắn giết nhân dân các vùng căn cứ Dương Minh Châu, Bời
Lời (Tây Ninh), Quân Cao Đài còn lùa dân vùng căn cứ ra núi Bà Đen về các
vùng chúng kiểm soát. Quân ngụy thực hiện việc phá hoại căn cứ cách mạng một
cách cơ bản và chiến lược hơn. Ngay khi vừa đặt chân lên đất cách mạng, quân
ngụy cho xây dựng nhiều đồn bốt sâu trong vùng căn cứ, bố trí các đơn vị bảo an
trấn giữ, lập bộ máy chính quyền ở các thôn, xã (Hội đồng tề), lập các đơn vị dân
vệ địa phương, đưa hàng trăm ngàn dân công giáo di cư từ miền Bắc và một số
dân miền Trung về định cư trong vùng căn cứ dưới hình thức các khu dinh điền
(sau có thêm các khu trù mật); cuối năm 1956, sau khi đã dẹp xong các phe phái
thân Pháp, gồm lực lượng Bình Xuyên, Cao Đài, Hoà Hảo, quân ngụy bước đầu
thiết lập hệ thống đồn bốt, khu dinh điền, hệ thống ngụy quân, ngụy quyền ở các
vùng căn cứ, quân ngụy tiếp tục tiến thêm một bước trong hoạt động phá hoại căn
cứ; mở các con đường mới ngang dọc trong lòng căn cứ để chia cắt, tiện việc
kiểm soát cũng như việc chuyển quân tiến công khi cần. Ở Chiến khu Dương
Minh Châu (Bắc Tây Ninh), địch mở thêm hàng loạt các con đường bộ, còn ở khu
vực Đông Nam Tây Ninh do địa hình sông rạch nhiều nên ngoài việc đắp đường,
địch cho nạo vét các con kênh cũ và đào thêm các con kênh mới để tiện cho việc
lưu thông. Trong việc lập các khu dinh điền và mở đường, Diệm và Nhu công
khai bộc lộ ý định của mình: “Biện pháp xẻ đường, đưa dân vào khu Việt cộng là


20
để dùng dân đẩy cộng sản ra khỏi vùng đất đó. Dinh điền là nơi cung cấp tin tức
tình báo, nơi xuất phát để hành quân, rào chặn xâm nhập” [24, tr. 176].
Trước âm mưu và thủ đoạn của địch, ngày 5/9/1954, hơn một tháng kể từ khi
Hiệp nghị Giơ-ne-vơ có hiệu lực. Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp hội nghị
và đề ra nhiệm vụ của Đảng bộ miền Nam. Hội nghị xác định kẻ thù cụ thể trước
mắt của ta là đế quốc Mỹ, hiếu chiến Pháp và tay sai của chúng. Nhiệm vụ của
Đảng ở miền Nam trong giai đoạn hiện nay là lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu
tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hoà bình, thực hiện tự do dân chủ

cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời phải lãnh
đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở, bắt
bớ cán bộ của ta và quần chúng cách mạng, chống những hành động tiến công của
địch, giữ lấy quyền lợi của quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến,
nhất là ở những vùng căn cứ địa và vùng du kích cũ của ta. Hội nghị nhấn mạnh: “
Giữ vững và phát triển cơ sở nông thôn, đặc biệt là cơ sở vùng du kích và căn cứ
du kích”[36, tr. 19].
Những vấn đề về cách mạng miền Nam bàn trong Hội nghị đã chỉ đường cho
việc chuyển hướng công tác ở miền Nam trước những diễn biến phức tạp của tình
hình mới. Để thi hành chủ trương của Trung ương về những nhiệm vụ công tác của
Đảng bộ Nam Bộ trong tình hình mới, tháng 10/1954, Hội nghị Xứ uỷ Nam Bộ lần
thứ nhất đã được triệu tập. Hội nghị nghiên cứu các nghị quyết và chỉ thị của Trung
ương, nghiên cứu bản báo cáo của Trung ương Cục miền Nam. Hội nghị xác định
nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Nam trong thời gian tới là phải giữ gìn và
củng cố hoà bình, tranh thủ thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, tiến tới thực
hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Phương châm và
sách lược của cách mạng miền Nam là đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và
hoà bình trong mặt trận dân tộc thống nhất, chống âm mưu, chính sách của đế quốc
Mỹ, hiếu chiến Pháp và tay sai. Để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân vào mặt


21
trận, cần chú ý khẩu hiệu dân sinh và dân chủ. Phương châm công tác của cách
mạng miền Nam là kết hợp công tác bí mật với công tác công khai; tổ chức và hoạt
động của Đảng phải hết sức bí mật, tổ chức và hoạt động của phong trào quần
chúng thì cần lợi dụng các hình thức công khai.
Chấp hành chủ trương của Hội nghị Xứ uỷ tháng 10 năm 1954, các liên tỉnh
uỷ và tỉnh uỷ đều cố gắng giữ gìn các vùng căn cứ. Thời gian đầu, các tỉnh uỷ,
huyện uỷ lãnh đạo nhân dân đấu tranh chính trị dưới các hình thức biểu tình, đưa
đơn kiến nghị chống đàn áp, khủng bố, chống cướp đất để bảo vệ cán bộ Đảng và

cơ sở cách mạng vùng căn cứ, bảo vệ ruộng đất mới được cấp cho nông dân.
Bước sang năm 1955 do nhu cầu bảo vệ cán bộ, bảo vệ phong trào cách
mạng, chống bắt bớ cán bộ, cướp bóc tài sản nhân dân. Xứ uỷ chủ trương lập các
đơn vị tự vệ vũ trang, “xây dựng, mở rộng các căn cứ địa cách mạng làm chỗ
đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo và lực lượng vũ trang”[8, tr. 41]. Chủ trương
xây dựng lực lượng tự vệ vũ trang tuyên truyền và các căn cứ địa cách mạng đã
hạn chế một phần sự khủng bố của địch, giữ gìn lực lượng cách mạng trong thời
gian đầu và chuẩn bị điều kiện cho việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh
vũ trang trong những năm tiếp theo.
Nhìn chung các cố gắng giữ gìn và duy trì các vùng căn cứ của lực lượng
cách mạng chỉ hạn chế được phần nào địch phá hoại căn cứ của ta. Tuy nhiên, sự
tái lập và phát triển của lực lượng vũ trang trên các vùng căn cứ đã cho thấy một
thực tế bức xúc cần phải gấp rút tái vũ trang và khôi phục lại các căn cứ địa cũ.
Chủ trương khôi phục lại hệ thống căn cứ địa đã có trong kháng chiến chống
Pháp, bảo tồn và phát triển lực lượng, chuẩn bị cho cuộc Đồng khởi 1960
Trước những hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đàn áp những người
cách mạng và yêu nước của chính quyền Mỹ - Diệm, Nghị quyết Bộ Chính trị
tháng 6 năm 1956 đã đề ra chủ trương cho cách mạng miền Nam, chủ trương chỉ
rõ: Hình thức đấu tranh của chúng ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính


22
trị, không phải là đấu tranh vũ trang, nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối
không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định, Nghị quyết xác định:
“Phải củng cố lực lượng vũ trang, nửa vũ trang hiện có, xây dựng căn cứ địa cách
mạng làm chỗ dựa, đồng thời xây dựng các cơ sở quần chúng vững mạnh là điều
kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang”[15, tr.228]. Bộ Chính trị
đã sớm nhìn thấy khuynh hướng phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam. Tuy
vậy, trong hoàn cảnh địch đánh phá ác liệt, nhiều cơ sở đảng ở các địa phương đã
không nhận được Nghị quyết này để sớm hành động bảo vệ lược lượng.

Từ thực tiễn tổn thất to lớn của các đảng bộ và nhân dân miền Nam, tháng 8
năm 1956, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ uỷ, đã viết bản “Đề cương cách mạng
miền Nam”. Thông qua sự phân tích tình hình mọi mặt, Đề cương xác định đường
lối cho cách mạng miền Nam trong thời gian tới là phải trực tiếp đánh đổ chính
quyền độc tài, phát xít Ngô Đình Diệm tay sai Mỹ, giải phóng nhân dân miền Nam
khỏi ách đế quốc, phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có
tính chất dân tộc, dân chủ, để cùng với miền Bắc thực hiện một nướcViệt Nam hoà
bình, thống nhất và dân chủ nhân dân.
Tháng 12 năm 1956, Xứ uỷ Nam Bộ họp Hội nghị thực hiện nghị quyết Bộ
Chính trị tháng 6 năm 1956 và nghiên cứu “Đề cương cách mạng miền Nam” của
đồng chí Lê Duẩn, Hội nghị nhận định: “Chính quyền ngụy ở miền Nam dựa vào
bạo lực và viện trợ Mỹ để tồn tại. Chúng quyết dìm cách mạng miền Nam trong
biển máu”. Vì vậy “Con đường tiến lên của cách mạng miền Nam phải dùng bạo
lực tổng khởi nghĩa để giành chính quyền”. Hội nghị chủ trương: “Tích cực xây
dựng lực lương vũ trang tuyên truyền, lập đội vũ trang bí mật, tích cực xây dựng
căn cứ địa ở vùng rừng núi”[9, tr. 377]. “Hiện nay trong chừng mực nào đó, phải có
lực lượng vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và tiến tới sau này dùng nó để
đánh đổ Mỹ -Diệm” [24, tr. 308]. Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6/1956 và Nghị
quyết Hội nghị Xứ uỷ tháng 12 năm 1956 đã đáp ứng yêu cầu về xây dựng căn cứ
địa. Do hoàn cảnh bí mật, nên việc tái lập được bắt đầu từ các căn cứ lớn ở vùng


23
rừng núi. Tây Ninh là một địa bàn chiến lược quan trọng, lại có thế rừng bao quanh
phía Bắc nên Xứ uỷ chủ trương xây dựng hai căn cứ địa lớn đó là Bời Lời và
Dương Minh Châu. Hai căn cứ này được xây dựng từ năm 1948 trong cuộc kháng
chiến chống Pháp: Kinh nghiệm xây dựng, bảo vệ cũng như những lực lượng lánh
né vào rừng ở những vùng này là những tiền đề cần thiết cho việc tiếp tục phát
triển. Những điều kiện thuận lợi quan trọng nhất của các vùng căn cứ này là vị trí
và địa thế.

Xét về vùng Tây Bắc, tức Chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh) mở rộng
lên phía bắc, ở đây địa hình có rừng rậm lại bằng phẳng. Rừng của Bắc Tây Ninh
chiếm 2/3 diện tích của tỉnh, nối toàn bộ vùng rừng núi Đông Bắc Campuchia và
hạ Lào. Toàn bộ phía tây tỉnh tiếp giáp Campuchia và hạ Lào, với đường biên giới
dài 232km. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng cách mạng miền Nam
hoạt động và qua lại vùng biên giới. Xây dựng căn cứ lớn ở Bắc Tây Ninh sẽ tiện
cho việc liên lạc vào Nam ra Bắc, lên Lào và sang Campuchia. Căn cứ có rừng
rậm che chở, địa hình bằng phẳng tiện cho việc di chuyển vật chất, cơ động các cơ
quan và đơn vị vũ trang quân đông, súng lớn, lại có thế dựa lưng vào Campuchia.
Việc cung cấp hậu cần cũng thuận lợi do nằm tiếp giáp với hai vựa lúa của bán
đảo Đông Dương đó là đồng bằng sông Cửu Long và Campuchia.
Xét về căn cứ Bời Lời nằm ở phía Đông tỉnh Tây Ninh. Phía Tây giáp với
vùng dân cư của hai huyện Gò Dầu, Trảng Bàng; phía Đông giáp sông Sài Gòn (là
ranh giới của hai tỉnh Tây Ninh và Bình Dương); phía Đông Nam giáp căn cứ Lộc
Thuận (Tây Ninh). Vùng trung tâm căn cứ rộng khoảng 150km 2 và cách Sài Gòn
khoảng 80 km. Căn cứ Bời Lời có thế liên hoàn với vùng rừng núi Chiến khu
Dương Minh Châu. Căn cứ Bời Lời có thế liên hoàn, tiến, lui, công, thủ, có cơ sở
hậu phương vững chắc, các xã xung quanh căn cứ đại đa số là dân chí cốt cách
mạng.


24
Bời Lời có vị trí đặc biệt quan trọng, là “bàn đạp” vùng trung tuyến để các lực
lượng của ta từ phía sau xuyên xuống áp sát vùng ven, tiến công Sài Gòn - thủ đô
ngụy. Ngoài ra, Bời Lời được coi như là vị trí “trung chuyển” của ta từ “R” xuống
miền Tây Nam Bộ và ngược lại. Bởi căn cứ này nằm trên “đường dây nội địa” đi về
hướng quốc lộ 4 (nay là quốc lộ 1) để tiếp cận vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Từ sự phân tích, cân nhắc mọi mặt, Xứ uỷ đặt mục tiêu xây dựng hai vùng căn
cứ Bời Lời và Dương Minh Châu thành căn cứ Miền từ tháng 12/1956. Mặc dù Bời
Lời trước đó là căn cứ của tỉnh, nhưng với vị trí chiến lược quan trọng là cửa ngõ vào

căn cứ Dương Minh Châu - Bắc Tây Ninh, muốn vào Trung ương Cục, Bộ chỉ huy
Miền phải đi qua và dừng chân lại Bời Lời. Mỹ - ngụy muốn tiến đánh được cơ quan
đầu não, muốn tiến công căn cứ Dương Minh Châu - Bắc Tây Ninh phải bằng mọi
giá chọc thủng được Bời Lời nên Xứ uỷ Nam Bộ chủ trương chỉ đạo tỉnh Tây Ninh
xây dựng Bời Lời thành một căn cứ địa vững chắc, là lá chắn bảo vệ cho cơ quan đầu
não B2, đồng thời là bàn đạp để tiến công vào sào huyệt của Mỹ - ngụy ở Sài Gòn.
Năm 1959, chính sách phát xít của ngụy quyền lên đến đỉnh cao với việc ban
hành luật 10/59 tàn bạo. Lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề. Cả miền Nam
sôi sục khí thế vùng lên theo tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng. Trước
tình hình đó yêu cầu xây dựng căn cứ địa cách mạng ngày càng trở nên cấp thiết, để
bảo tồn và phát triển lực lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Vì vậy, ngày
21/1/ 1959 Xứ uỷ Nam Bộ chủ trương vạch ra kế hoạch xây dựng căn cứ địa ở
miền Nam. Xứ uỷ xác định: “Xây dựng, củng cố mở rộng các vùng căn cứ là củng
cố địa bàn đứng chân hiện có và lập nhiều vùng căn cứ đứng chân khác. Xứ uỷ
cũng như các cấp tỉnh, huyện, xây dựng một, hai căn cứ, có căn cứ chính và căn cứ
phụ, làm nơi đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo”[37, tr. 174]. Xứ uỷ nêu yêu cầu
cụ thể đối với các cấp là khẩn trương xúc tiến việc xây dựng căn cứ địa, nhất là căn
cứ địa Đông Nam Bộ, căn cứ địa Đồng Tháp Mười [37, tr. 175].


25
Như vậy, Xứ uỷ Nam Bộ chủ trương xúc tiến xây dựng các căn cứ địa ở Tây
Ninh vừa thể hiện sự quán triệt Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương, chỉ thị của
Bộ Chính trị, vừa đáp ứng đòi hỏi khách quan của cách mạng miền Nam lúc bấy
giờ là cần phải có những căn cứ địa lớn để bảo tồn, xây dựng và phát triển lực
lượng cách mạng miền Nam.
Luật 10/59 của ngụy quyền ngày càng trở nên nguy hiểm và tàn khốc, phong
trào đấu tranh chính trị của cách mạng miền Nam gặp muôn vàn những khó khăn.
Thấy rõ nguy cơ của cách mạng miền Nam trước âm mưu thâm độc của kẻ thù.
Ngày 7/5/1959 chủ trương của Ban Bí thư gửi Xứ uỷ Nam Bộ nêu rõ: Để đối phó

lại với chính sách vũ lực quy mô và chính sách phát xít trắng trợn của địch giữ
vững và phát triển phong trào, Xứ uỷ cần nắm vững đường lối, phương châm,
sách lược của Đảng, hết sức linh hoạt trong chỉ đạo để thích ứng với sự chuyển
biến của tình hình hiện nay, ra sức xây dựng căn cứ địa cách mạng. Chủ trương
nhấn mạnh: “Nam Bộ có thể phải lập căn cứ địa cách mạng để xây dựng và xúc
tiến phong trào cách mạng. Cần phải đặc biệt chú trọng căn cứ miền Đông, nhưng
đồng thời phải củng cố các vùng căn cứ khác ở miền Tây và miền Trung” [16, tr.
516]. Chủ trương còn chỉ rõ: Xây dựng căn cứ là để làm cơ sở vững chắc cho lực
lượng cách mạng, là chỗ ở vững chắc của bộ tham mưu, là nơi đào tạo và giáo dục
cán bộ, xây dựng lực lượng để tiến tới làm nơi trung tâm hoạt động của Mặt trận
dân tộc thống nhất, để nêu cao ngọn cờ giải phóng cứu nước, đánh đổ Mỹ - Diệm.
“Căn cứ càng mở rộng thì uy thế chính trị của ta càng lên cao, càng tạo điều kiện
thuận lợi để đấu tranh chính trị”[19, tr. 516]. Xứ uỷ cần phải đặc biệt chú trọng
nắm công tác này trong khi lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị chung của toàn dân
và phải coi việc xây dựng căn cứ là một nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay để bảo
vệ và đẩy mạnh phong trào cách mạng tiến lên.
Quán triệt chủ trương của Ban Bí thư. Tháng 11 và tháng 12 năm 1959,
Xứ uỷ Nam Bộ họp bàn thực hiện Nghị quyết 15. Nghị quyết xác định đẩy


×