Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ VAI TRÒ của CHỦ TỊCH hồ CHÍ MINH LÃNH đạo ĐÁNH THẮNG CHIẾN lược CHIẾC CHIẾN TRANH cục bộ của đế QUỐC mỹ từ năm 1965 đến năm 1968

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.16 KB, 111 trang )

1

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Ban Chấp hàng Trung ương
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
Chính trị quốc gia
Chủ nghĩa đế quốc
Chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc
Hội nghị Trung ương
Nhà xuất bản
Qn đội nhân dân
Quốc phịng tồn dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
BCHTƯ
CMDTDCND
CTQG
CNĐQ
CNXH
ĐLDT
HNTƯ
Nxb
QĐND
QPTD
XHCN



2

MỤC LỤC
Tran
g
MỞ ĐẦU

3

Chương 1 CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CÙNG TRUNG ƯƠNG
ĐẢNG XÂY DỰNG QUYẾT TÂM ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC
“CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ

10

1.1. Đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh - cách mạng Việt Nam
đứng trước thử thách mới
1.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh với quyết tâm chống Mỹ và thắng

10

Mỹ của toàn Đảng, toàn dân ta
Chương 2 CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CÙNG TRUNG ƯƠNG

29

ĐẢNG CHỈ ĐẠO ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC
BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ

47


2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng chỉ đạo đẩy
mạnh đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ từ
năm 1965 đến năm 1968 trên cả hai miền Nam Bắc
2.2. Những vấn đề cần vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và

47

bảo vệ Tổ quốc hiện nay

82
98
101

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


3

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta là một trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử đấu tranh chống
ngoại xâm của dân tộc. Trải qua 21 năm chiến đấu gian khổ và ác liệt, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh, đánh thắng tên đế quốc
xâm lược hùng mạnh nhất trong thế giới tư bản. Sau thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên

cả nước độc lập, thống nhất, đi lên xây dựng CNXH.
Một trong những nhân tố quan trọng làm nên thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước chính là cơng lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, như Đảng ta từng khẳng định: “Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam
ngót nửa thế kỷ nay mãi mãi gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người khai sinh nền Cộng hoà Dân chủ
Việt Nam, người vun trồng khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng lực lượng
vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân ta,
người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản
quốc tế”[23, tr.474].
Ngay sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhận định, sớm hay muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ vào miền
Nam Việt Nam. Chính vì thế, khi Mỹ can thiệp vào miền Nam Việt Nam,
từng bước leo thang chiến tranh, với âm mưu biến miền Nam Việt Nam trở
thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ, để ngăn cản sự phát triển
của CNXH xuống phía nam, đồng thời lấy Việt Nam làm bàn đạp tiến công
vào hệ thống XHCN, chúng ta khơng bị bất ngờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
cống hiến lớn lao vào việc định ra đường lối chống Mỹ, cứu nước và góp
phần quyết định vào việc xây dựng quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ cho toàn


4

Đảng, toàn dân. Đặc biệt trong giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1968, trong
bối cảnh chúng ta đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, buộc Mỹ phải
thay đổi bằng chiến lược “chiến tranh cục bộ”, trực tiếp đưa quân vào miền
Nam, đồng thời leo thang đánh phá dữ dội miền Bắc bằng hải quân và không
quân, nhằm cứu vãn tình thế trên chiến trường. Đây là bước leo thang chiến
tranh rất nghiêm trọng, đặt cả một dân tộc và chế độ mới do nhân ta lựa chọn

trước thử thách hiểm nghèo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã
thể hiện bản lĩnh chính trị, tài thao lược của mình, giữ vững thế chủ động,
chấp nhận “cuộc đụng đầu lịch sử” với đế quốc Mỹ. Chính Người đã ra sức
động viên, cổ vũ và chỉ đạo toàn Đảng, tồn dân, tồn qn ta khơng ngại
gian khổ, khơng sợ hy sinh, kiên trì đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước trên cả hai miền Nam Bắc. Từ đó, chúng ta đã đánh thắng chiến
lược “chiến tranh cục bộ”, tạo ra một bước ngoặt quan trọng để đưa cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi cuối cùng.
Nghiên cứu vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong đánh thắng
chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ từ năm 1965 đến năm 1968
là yêu cầu cần thiết. Làm tốt vấn đề này sẽ góp phần tích cực vào việc nghiên
cứu, làm sáng tỏ hơn về những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ tối cao của Đảng, của dân tộc đối với cách mạng Việt Nam. Đồng
thời cịn góp phần làm sáng tỏ một thời kỳ đấu tranh hào hùng của dân tộc
chống đế quốc Mỹ xâm lược dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Trung ương Đảng ta. Trên cơ sở đó, đấu tranh chống lại những quan điểm sai
trái, phản động cố tình hạ thấp vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như trong tồn bộ tiến trình lịch sử
cách mạng Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, khi các thế lực thù địch ln tìm mọi cách
chống phá cách mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực, việc nghiên cứu đầy đủ,


5

sâu sắc về những cống hiến lớn lao của Hồ Chí Minh đối với cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1968 cịn có một ý nghĩa
giúp ta nâng cao lòng tự hào, niềm kính u vơ hạn đối với vị cha già dân tộc,
cho ta những kinh nghiệm quí báu trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của
khối đại đoàn kết toàn dân, trong xây dựng các lực lượng cách mạng, trong
đoàn kết quốc tế... Để giúp Đảng ta kế thừa, vận dụng vào quá trình hoạch định

đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn cách mạng
mới, đưa cách mạng nước ta vững bước trên con đường đi lên xây dựng
CNXH, vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Với những ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: “Vai trị của Chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế
quốc Mỹ từ năm 1965 đến năm 1968” làm luận văn tốt nghiệp cao học lịch
sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, có nhiều đóng góp lớn lao
cho cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Vì vậy, đã có rất nhiều cơng
trình nghiên cứu, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân
đội cũng như của các nhà khoa học trong và ngoài nước đề cập, nghiên cứu ở
các góc độ khác nhau.
Các văn kiện của Đảng và các tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước gồm có: Văn kiện Đảng, tồn tập, tập 25, Nxb CTQG, Hà
Nội 2003; Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 26, Nxb CTQG, Hà Nội 2003; Văn
kiện Đảng, toàn tập, tập 27, Nxb CTQG, Hà Nội 2003; Văn kiện Đảng, toàn
tập, tập 28, Nxb CTQG, Hà nội 2003; Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 29, Nxb
CTQG, Hà Nội 2004; Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 37, Nxb CTQG, Hà Nội
2004; Hồ Chí Minh tồn tập, tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội 2002 ; Hồ Chí
Minh, tồn tập, tập 12, Nxb CTQG, Hà Nội 2002; Chủ tịch Hồ Chí Minh tiểu


6

sử và sự nghiệp, Nxb CTQG, Hà Nội 2002, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng
Trung ương; “Hồ Chủ tịch, lãnh tụ kính u của giai cấp cơng nhân và nhân
dân Việt Nam”, Nxb Sự thật, Hà Nội 1975 và “Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách
mạng Việt Nam”, Nxb Thơng tin lý luận, Hà Nội 1991 của đồng chí Trường
Chinh; “Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và của dân tộc ta”,

Nxb Sự thật, Hà Nội 1986 của đồng chí Lê Duẩn; “Hồ Chủ tịch lãnh tụ của
chúng ta”, Nxb Sự thật, Hà Nội 1967 và “Hồ Chí Minh - một con người, một
dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp”, Nxb Sự thật, Hà Nội 1990 của đồng
chí Phạm Văn Đồng; “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt
Nam”, Nxb CTQG, Hà Nội 2000 và “Những chặng đường lịch sử”, Nxb
CTQG, Hà Nội 2001 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; “Bước ngoặt lớn của
cuộc kháng chiến chống Mỹ”, Nxb Sự thật, Hà Nội 1989 và “Về cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước”, Nxb QĐND, Hà Nội 2005 của Đại tướng Văn
Tiến Dũng; “Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo chiến lược sắc bén, huy
động sức mạnh cả nước hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước”, Tạp chí Quốc phịng tồn dân số 4 năm 2005 của Đại tướng Phạm
Văn Trà... Những văn kiện, cơng trình trên đã có những đánh giá sâu sắc,
khách quan về sự nghiệp cũng như những cống hiến lớn lao của Chủ tịch Hồ
Chí Minh qua các giai đoạn lịch sử. Song việc nghiên cứu về vai trò to lớn
của Người đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ giai đoạn từ năm 1965 đến
năm 1968 chỉ dừng lại ở những vấn đề lớn, phạm vi rộng. Đây là cơ sở và
nguồn tư liệu q giúp tơi định hướng nội dung trong q trình nghiên cứu đề
tài.
Những cơng trình của các cơ quan và các nhà nghiên cứu đó là: “Lịch
sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975”, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội
1999, Viện Lịch sử quân sự - Bộ Quốc phòng; “Sự nghiệp và tư tưởng quân
sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Nxb QĐND, Hà Nội 1990, Viện Lịch sử quân


7

sự - Bộ Quốc phòng; “Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng
lợi và bài học”, Nxb CTQG, Hà Nội 1995 của Ban chỉ đạo tổng kết chiến
tranh; Hà Nội 2002; “Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử”, Nxb CTQG, Hà Nội
1996 do GS Đặng Xuân Kỳ chủ biên; “Tìm hiểu tư duy khoa học của Đảng ta

trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Nxb Sự thật, Hà Nội 1996 của
Hồng Tùng; “Hồ Chí Minh tầm nhìn thời đại”, Nxb CTQG, Hà Nội 2000
của Bùi Đình Phong; “Bác Hồ viết Di chúc”, Hồi ký của Vũ Kỳ, Thế Kỷ ghi,
Nxb CTQG, Hà Nội 1999; “Hồ Chí Minh nhà dự báo thiên tài”, Nxb Thông
tấn, Hà Nội 2004 của Trần Đương; “Nhà chiến lược quân sự Hồ Chí Minh”,
Nxb CTQG, Hà Nội 2004 của Phạm Chí Nhân; “Hồ Chí Minh - cuộc đời và
sự nghiệp”, Nxb Lao động, Hà Nội 2005 của Bá Ngọc; “Tìm hiểu sự nghiệp
và di sản quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh” Nxb QĐND, Hà Nội 1989 của
Đồn Chương; “Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hố kiệt
xuất”, Hoằng Quang, Vĩnh Trị biên soạn và trích dẫn, Nxb Từ điển bách
khoa, Hà Nội 2006; “Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh”, Nxb QĐND, Hà Nội
1998 của Phạm Hồng Sơn; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị nhân tố chính
trị - tinh thần trong chiến tranh”, Nxb QĐND, Hà Nội 2003 của Nguyễn
Mạnh Hưởng... đây là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho đề tài.
Các luận văn, luận án như: “Quá trình hình thành đường lối cách
mạng miền Nam của Đảng ta trong thời kỳ đầu của công cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước (1954 - 1960)”, Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ
Chí Minh, 1996 của Nguyễn Việt Hùng; “Bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng
sản Việt Nam thể hiện trong quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ thời kỳ 1965 1973”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị quân sự, 2000 của Nguyễn Văn
Long; “Đảng Cộng sản Việt Nam Lãnh đạo đấu tranh ngoại giao trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ 1965 - 1973”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị
quân sự, 2002 của Nguyễn Văn Hoà; “Đảng lãnh đạo đấu tranh chống chính


8

sách bình định của Mỹ và chính quyền Sài Gịn ở nông thôn miền Đông Nam
bộ ( 1965 - 1968)”, Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2003
của Trịnh Thị Hồng Hạnh; “Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thời kỳ 1965 - 1975”, luận án tiến sĩ,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003 của Nguyễn Xuân Tú... và
các bài viết: “Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước”, Nxb KHXH, 1985 của Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam; “Cục diện
kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ - Sự thống nhất giữa chiến lược của
Đảng với tiên đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí QPTD, số 1
năm 2005 của Hồ Kiếm Việt... những cơng trình, bài viết này đã trình bày cụ
thể, có hệ thống về những đóng góp của Hồ Chí Minh trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc 1954 - 1975.
Những cơng trình trên lý giải nhiều nội dung về tư tưởng và hoạt động
lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước. Tuy
nhiên, cho đến nay chưa có một cơng trình nào trình bày một cách cụ thể, có
hệ thống về vai trị của Hồ Chí Minh trong lãnh đạo đánh thắng chiến lược
“chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ giai đoạn 1965 - 1968. Tác giả kế thừa
những thành tựu nghiên cứu của những cơng trình trên trong việc thực hiện
luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Nhằm khẳng định công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong lãnh đạo đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” nói riêng,
trong thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung của dân
tộc và sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ chí Minh vào nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay.
- Nhiệm vụ: Trình bày những khó khăn của nhân dân ta trong việc đế
quốc Mỹ leo thang chiến tranh giai đoạn 1965 - 1968 và những yêu cầu bức


9

thiết của cuộc kháng chiến.
Trình bày những quan điểm chỉ đạo và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ từ 1965 - 1968.

Nêu lên những vấn đề cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh cách mạng; các văn kiện, nghị
quyết và đánh giá, tổng kết của Đảng về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước giai đoạn 1965 - 1968.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng phương pháp luận
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin; tuân thủ việc kết hợp phương
pháp lịch sử và phương pháp lơgíc, đồng thời sử dụng phương pháp so sánh,
thống kê, tổng kết lịch sử...
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc khẳng định vai
trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục
bộ” giai đoạn 1965 - 1968 cũng như trong thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy, học tập bộ môn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở
các nhà trường trong và ngoài Quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương (4 tiết).


10


11

Chương 1
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CÙNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG XÂY DỰNG QUYẾT

TÂM ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC
MỸ

1.1. Đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh - cách mạng Việt Nam
đứng trước thử thách mới
1.1.1. Đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam
Với vị trí địa - chính trị quan trọng của Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới, đế quốc Mỹ từ lâu đã chú ý đến và ngày càng can thiệp sâu hơn
vào Việt Nam. Sau thất bại trong việc can thiệp giúp thực dân Pháp xâm lược
nước ta, đế quốc Mỹ đã trắng trợn gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam, thực hiện cuộc phản công lớn nhất của các nước đế quốc vào lực lượng
cách mạng thế giới, kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong những năm đầu cuộc chiến tranh, đế quốc Mỹ tiến hành chiến
tranh đơn phương chống lại nhân dân Việt Nam, nhưng chiến lược đó đã bị
thất bại, vì Mỹ khơng ngăn chặn nổi cuộc chiến tranh giải phóng ở Việt Nam,
không thể “biến Việt Nam thành con đê ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở phía
Đơng Nam châu Á”. Từ đó, đế quốc Mỹ buộc phải áp dụng chiến lược quân
sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt” vào Việt Nam. Căn cứ vào việc sử dụng lực
lượng, các nhà vạch chiến lược Mỹ phân chia chiến lược toàn cầu “phản ứng
linh hoạt” thành hai hình thức: Một là, hình thức “chiến tranh đặc biệt”, trong
đó Mỹ chỉ đóng vai trị cố vấn, chỉ huy, còn lực lượng chủ yếu là quân đội
nguỵ; Hai là, hình thức “chiến tranh cục bộ”, trong đó quân Mỹ làm lực
lượng chiến lược, trực tiếp tiến hành chiến tranh ngoài lãnh thổ nước Mỹ. Cả
hai hình thức chiến tranh hạn chế trên đây là một bộ phận quan trọng hợp
thành “chiến lược toàn cầu phản ứng linh hoạt”, được các nhà quân sự Mỹ
đánh giá là “lưỡi kiếm” tiến công sắc bén vào những nơi nguy hiểm nhất đối


12


với “thế giới tự do”. Đế quốc Mỹ coi chiến trường Việt Nam là nơi quan
trọng bậc nhất để chúng thí điểm các chiến lược tồn cầu phản cách mạng.
Khi tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” chống Việt Nam, Mỹ Diệm coi việc lập ấp chiến lược là “quốc sách”, là “xương sống” của chiến
lược này. Từ đó, Mỹ dùng một khối lượng lớn viện trợ tiền của, vũ khí và cố
vấn Mỹ, kết hợp với lực lượng quân đội nguỵ, với âm mưu tiêu diệt lực lượng
vũ trang ta, triệt phá cơ sở cách mạng, bình định miền Nam trong vòng 18
tháng bằng kế hoạch Stalây - Taylo, với ba nhiệm vụ đặt ra là:
Một là, tăng cường quân nguỵ về số lượng, trang bị và tính cơ động,
mở nhiều cuộc hành quân, dùng nhiều máy bay lên thẳng và xe thiết giáp để
nhanh chóng tiêu diệt các lực lượng vũ trang cách mạng của ta.
Hai là, xây dựng nguỵ quyền mạnh, ra sức “bình định”, lập “ấp chiến
lược” và ngăn chặn đấu tranh chính trị ở thành thị để dập tắt phong trào cách
mạng ở nông thơn.
Ba là, ra sức ngăn chặn biên giới, kiểm sốt ven biển, cắt đứt nguồn
chi viện từ miền Bắc vào để cô lập cách mạng Việt Nam.
Tổng thống Mỹ Kennơđi hy vọng rằng đến cuối năm 1962, lực lượng
quân sự của quân đội nguỵ sẽ được tăng cường vượt bậc, chắc chắn sẽ giành
lại thế chủ động và tiêu diệt được các lực lượng cách mạng. Thế nhưng sau 18
tháng với khơng ít tiền bạc và cơng sức bỏ ra, với hàng chục ngàn cuộc hành
quân càn quét lớn nhỏ, chúng vẫn khơng đạt được mục tiêu đề ra đó là giành
thắng lợi trên chiến trường, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới lâu dài trên đất
nước ta. Chúng đã thất bại thảm hại khi phải đương đầu với một cuộc chiến
tranh nhân dân rộng lớn của dân tộc Việt Nam. Trải qua hai năm từ 1962 đến
1963, quân và dân ta đã gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề về quân sự.
Chiến thuật “Trực thăng vận” và “Thiết xa vận” đã không phát huy được tác
dụng như mong muốn của địch, trái lại hầu hết các cuộc tấn công, càn quét


13


vào các thơn xóm của chúng đều bị bẻ gãy. Đầu năm 1963, chiến thắng Ấp
Bắc vang dội của Quân giải phóng và du kích Mỹ Tho đã mở đầu cho quá
trình đánh bại chiến thuật “Trực thăng vận” và “Thiết xa vận” của địch, đồng
thời đã nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm và dấy lên phong trào thi đua
giết giặc lập công trong các lực lượng vũ trang yêu nước ở miền Nam. Trong
những năm chiến tranh du kích từ 1960 đến 1963, ta đã tiêu diệt và làm tan rã
hơn 25 vạn binh lính địch, trong đó có gần 1.500 tên Mỹ, bắn rơi và bắn hỏng
hàng trăm máy bay địch, thu trên 3 vạn vũ khí các loại.
Quốc sách “ấp chiến lược” là xương sống của “chiến tranh đặc biệt”;
Mỹ - Diệm rất hy vọng vào chủ trương này, do đó chúng đã đầu tư nhiều nhân
lực, vật lực để thực hiện cho kỳ được. Chúng tưởng rằng trong một thời gian
khơng lâu có thể thực hiện xong việc gom 10 triệu nông dân vào 16.000 ấp
chiến lược trong tổng số 17.000 ấp đã dự định, biến miền Nam trở thành một
trại giam khổng lồ. Để thực hiện kế hoạch đó, địch tiến hành nhiều thủ đoạn
khốc liệt, đẫm máu, chúng mở hàng chục nghìn cuộc hành quân, càn quét dài
ngày, dùng bom đạn đánh phá ác liệt vào các nơi chúng cho là cần thiết, như
các khu căn cứ cách mạng, nơi bộ đội chủ lực và du kích ta đóng qn...
Chúng dùng cả máy bay trực thăng, xe cơ giới, thiết giáp để gom dân đến
những nơi tập trung lập ấp chiến lược. Trong các cuộc càn, địch áp dụng
những chiến thuật mới như “bủa lưới phóng lao”, “trên đe dưới búa”,
“phượng hồng vồ mồi”... nhằm tiêu diệt bộ đội và du kích, thanh lọc quần
chúng, bắn giết cán bộ của ta.
Đế quốc Mỹ hy vọng rằng quốc sách “ấp chiến lược” thành cơng, khi
đó chúng sẽ tách dân chúng khỏi lực lượng cách mạng, khống chế quần
chúng, cô lập tiến tới tiêu diệt lực lượng cách mạng, khi đó trên tồn miền
Nam cộng sản sẽ suy tàn. Nhưng ngay từ đầu, chúng đã vấp phải sự kháng cự
quyết liệt của đồng bào miền Nam. Nhân dân miền Nam đã tiến hành cuộc


14


chiến tranh nhân dân rộng khắp, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh
quân sự, đánh địch bằng ba mũi giáp cơng: Qn sự, chính trị, binh vận; đánh
địch cả trên ba vùng chiến lược: Rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; kết
hợp giữa khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng... Chính vì thế, sau
thời gian 18 tháng bình định, lập ấp chiến lược, kế hoạch Xta-lây - Taylo của
địch bị thất bại nặng nề và hoàn toàn phá sản. Mục tiêu lập 16.000 ấp chiến
lược của Mỹ không thể thực hiện được, trên thực tế lúc cao nhất chúng chỉ lập
được khoảng 4.000 ấp; do ta tiếp tục phá, chúng chỉ tạm duy trì được 1.300
ấp, đạt dưới 10% mục tiêu đề ra.
Đối với miền Bắc, địch tăng cường cuộc chiến tranh bí mật, tung hơn
100 tốn biệt kích, gián điệp bằng đường khơng, đường biển, hoạt động móc
nối với bọn phản động trong nước nhằm phá hoại công cuộc xây dựng CNXH
của nhân dân ta. Chúng đã thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh phá hoại,
bởi nhân dân miền Bắc đã luôn cảnh giác, đối phó kịp thời với chúng.
Trước tình hình đó, Mỹ vẫn tỏ ra hung hăng. Sau khi Tổng thống Mỹ
J.Kennơđi bị ám sát, L.Giônxơn lên thay (tháng 12 năm 1963). Trên cương vị
mới, L.Giônxơn triệu tập cuộc họp với các cố vấn cấp cao bàn về Việt Nam.
Trong cuộc họp này, ông ta khẳng định tiếp tục theo đuổi các chính sách và
các hoạt động đã cam kết nhằm giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam. Muốn vậy, ông ta cho rằng trước mắt cần tập trung gia tăng
các hoạt động quân sự, bằng cách tiếp tục tăng cường viện trợ, huấn luyện, cố
vấn cho chính quyền và qn đội nguỵ Sài Gịn. Quyết tâm của Mỹ là kết thúc
chiến tranh, giành thắng lợi vào cuối năm 1965.
Sau khi thị sát tình hình ở Việt Nam về, Bộ trưởng Quốc phịng Mỹ
Mắc Namara trình lên Tổng thống L.Giơnxơn bản báo cáo mang tên “Tình
hình Việt Nam” nói về tình hình miền Nam và những biện pháp nhằm thay đổi
chiều hướng cuộc chiến tranh theo hướng có lợi cho Mỹ. Báo cáo được Tổng



15

thống Mỹ phê chuẩn ngày 17 tháng 3 năm 1964. Tiếp theo, chúng đặt ra kế
hoạch L.Giônxơn - Mắc Namara nhằm bình định miền Nam trong vịng 2 năm
(từ 1963 đến 1964).
Thực hiện kế hoạch này, Mỹ đã tăng cường lực lượng cố vấn, yểm
trợ từ 22.400 người (năm1963) lên 26.200 người (năm 1964), trong đó
có 10.400 cố vấn Mỹ; quân nguỵ tăng từ 417.000 người (năm 1963)
lên 561.000 người (năm 1964). Về vũ khí trang bị cũng được tăng
cường cả về số lượng lẫn chất lượng: máy bay năm 1963 là 527 chiếc,
sang năm 1964 là 989 chiếc; xe cơ giới tăng từ 582 chiếc năm 1963
lên 732 chiếc năm 1964; pháo từ 248 khẩu năm 1963 lên 415 khẩu
năm 1964[10, tr.290-291].
Chúng sử dụng các thủ đoạn chiến tranh khốc liệt và đẫm máu như
gom dân, lập ấp chiến lược, đẩy mạnh bình định, càn quét ra các vùng chúng
khơng kiểm sốt được. Từ cuối tháng 2 năm 1964, chúng vạch ra kế hoạch
bình định mang tên “Chiến thắng”, hịng tiêu diệt tồn bộ tổ chức qn sự,
chính trị, kinh tế của ta. Kế hoạch được bắt đầu từ ngày 1 tháng 4 năm 1964,
dự định chia làm hai bước:
Bước một, từ ngày 1 tháng 4 năm 1964 đến ngày 3 tháng 12 năm
1965, sẽ tiến hành bình định các vùng trọng điểm như vùng chiến thuật I (Bắc
Trung Bộ), vùng II (Trung Trung Bộ), vùng III (Đông Nam Bộ), bằng những
cuộc hành quân đánh phá liên tục, ác liệt, kết hợp với việc gom dân lập ấp.
Bước hai, bắt đầu từ năm 1966, tiến công vào các vùng căn cứ, tiêu
diệt các đơn vị chủ lực của Quân Giải phóng, phá huỷ các cơ sở quân sự của ta.
Đồng thời, chúng tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền
Bắc Việt Nam như dùng máy bay do thám, bắt cóc cơng dân Bắc Việt Nam để
khai thác tin tức; thả biệt kích, thám báo gây chiến tranh phá hoại mọi mặt;
dùng chiến tranh tâm lý gây mất ổn định đối với công cuộc xây dựng CNXH



16

ở miền Bắc Việt Nam.
Trên trường quốc tế, Mỹ ráo riết khai thác những khuynh hướng phức
tạp đang diễn ra trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đặc biệt là
mâu thuẫn Xô - Trung, nhằm hạn chế sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước trên
thế giới, trước hết là của Liên Xô, Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của
nhân dân ta. Do đánh giá quá cao sức mạnh của Mỹ, Liên Xơ tìm mọi cách
hướng ta đi vào thương lượng với Mỹ. Trung Quốc một mặt vẫn giúp đỡ ta
chống Mỹ, mặt lại muốn lôi kéo ta theo đường lối của Trung Quốc.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương
Đảng, quân và dân ta đã anh dũng đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
của đế quốc Mỹ. Đến mùa hè năm 1965, bằng các chiến thắng Bình Giã
(tháng 1 năm 1965), Ba Gia (tháng 5 năm 1965), Đồng Xoài (tháng 7 năm
1965), chúng ta đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
của đế quốc Mỹ, cục diện chiến trường Nam Bộ thay đổi ngày càng có lợi cho
ta. Trong cuộc tiến cơng này, địn tiến cơng của chủ lực Qn giải phóng kết
hợp với lực lượng vũ trang địa phương và phong trào đấu tranh chính trị, đấu
tranh binh vận của quần chúng ở các tỉnh, thành đã đánh bại quân địch, làm
thất bại chương trình bình định nơng thơn, đẩy chính quyền Sài Gịn lún sâu
vào con đường khủng hoảng chính trị.
Khơng những thế, cách mạng miền Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ
cả thế và lực. Chúng ta đã tìm ra phương thức đấu tranh thích hợp, đặc biệt là
sự kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh binh vận, phát
huy có hiệu quả sức mạnh của phong trào quần chúng trên cả ba vùng chiến
lược, sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới với bất kỳ một loại hình chiến
tranh nào của địch.
Cịn ở miền Bắc, quân và dân ta đã nêu cao tinh thần cảnh giác cách
mạng, vừa tích cực sản xuất, xây dựng đất nước, vừa sẵn sàng chiến đấu, đánh



17

trả quyết liệt những cuộc đánh phá bằng không quân, hải quân của Mỹ, gây
cho chúng nhiều tổn thất nặng nề. Từ đó, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn
của địch nhằm chống phá miền Bắc XHCN.
Thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” trên chiến trường miền
Nam, đã giáng một địn chí mạng vào chính quyền và qn đội Mỹ - nguỵ,
đẩy chính quyền Sài Gịn lún sâu hơn vào cuộc khủng hoảng chính trị. Mặc
dù đội quân chủ lực nguỵ đã bị thua, có những trận bị ta tiêu diệt từng chiến
đồn, tinh thần, ý chí của chúng bị sa sút, tuy nhiên ta chưa giành được thắng
lợi quyết định, vì đội quân nguỵ bị đánh bại, nhưng số lượng cịn khá đơng,
chưa tan rã về tổ chức. Trước tình hình đó, Mỹ buộc phải tăng viện trợ, ồ ạt
đưa quân viễn chinh và quân chư hầu vào miền Nam Việt Nam, thực hiện
chiến lược “chiến tranh cục bộ. Đây là một nỗ lực cao nhất trong chiến lược
toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của Mỹ, nhằm cứu vãn tình thế bất lợi của
chúng trên chiến trường miền Nam Việt Nam.
Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”, bằng cách đưa
quân viễn chinh Mỹ vào tham chiến trên qui mô lớn ở miền Nam, đồng thời
đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân đối với miền Bắc.
Sau khi dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” vào ngày 3 tháng 8 năm 1964, Tổng
thống L.Giônxơn ra lệnh cho không quân Mỹ mở cuộc tiến công “trả đũa” và
yêu cầu Quốc hội Mỹ ra nghị quyết trao toàn quyền cho Tổng thống sử dụng
lực lượng vũ trang đối phó với “cuộc khủng hoảng lớn” ở Việt Nam. Ngày 5
tháng 8 năm 1964 không quân Mỹ mở cuộc tiến công bằng bom đầu tiên
xuống miền Bắc Việt Nam.
Tháng 2 năm 1965, Mỹ mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không
quân và hải quân đối với miền Bắc Việt Nam. Cuộc chiến tranh đó đã diễn ra
qua ba bước leo thang:

Từ ngày 7 tháng 2 năm 1965 đến ngày 13 tháng 6 năm 1965, khi cuộc


18

“chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam lên đến đỉnh cao, thực hiện kế hoạch “sấm
rền” đánh phá từ vĩ tuyến 17 ra vĩ tuyến 20. Mục tiêu đánh phá là các trục
đường giao thông, các công trường, nhà máy, các đơn vị quân đội từ Vĩnh
Linh (Quảng Bình) ra đến Thanh Hoá.
Từ ngày 14 tháng 6 năm 1965 đến ngày 21 tháng 2 năm 1967, khi tiến
hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” với hai cuộc phản công lớn vào mùa
khô năm 1965 - 1966 và năm 1966 - 1967, khơng qn Mỹ đã leo thang ra
đánh phá tồn miền Bắc, chúng đánh phá các khu công nghiệp như Việt Trì,
Thái Ngun... và các trục đường giao thơng quan trọng như Hà Nội - Hải
Phòng, Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Lào Cai...
Từ ngày 22 tháng 2 năm 1967 đến ngày 31 tháng 3 năm 1968, khi bị ta
đánh mạnh ở miền Nam, nhất là từ Tết Mậu Thân, không quân Mỹ đã leo thang
lên mức độ cao, chúng đánh phá quyết liệt nội thành Hà Nội, Hải Phòng.
Thời kỳ leo thang cao nhất vào tháng 8 năm 1967, Mỹ đã huy động
hàng nghìn máy bay chiến đấu chiến thuật, xuất kích trung bình một
ngày 90 - 100 lần/chiếc, có những ngày cao hơn 400 lần/chiếc. Về
máy bay ném bom chiến lược B-52, ngày cao nhất chúng sử dụng 100
lần/chiếc. Hơn 40 loại máy bay hiện đại được Mỹ sử dụng trong cuộc
chiến tranh phá hoại miền Bắc[16, tr.153].
Đồng thời chúng sử dụng lực lượng hải quân thả thuỷ lôi nhằm phong
toả miền Bắc, triệt phá giao thơng trên biển của ta, gây cho ta nhiều khó khăn
trên các tuyến giao thông trên sông, trên biển, trong vận chuyển, tiếp tế lương
thực, vũ khí cho chiến trường miền Nam.
Để leo thang chiến tranh, tháng 3 năm 1965 tiểu đồn lính thuỷ đánh
bộ Mỹ đầu tiên đổ bộ lên Đà Nẵng, Chính phủ Mỹ tiếp tục gửi nhiều tiểu

đoàn chiến đấu khác sang trực tiếp chiến đấu trên chiến trường miền Nam,
từng bước leo thang chiến tranh. Tính đến ngày 27 tháng 7 năm 1965 Tổng


19

thống Mỹ L.Giônxơn đã quyết định tăng số quân Mỹ lên 125.000 quân, trực
tiếp làm nhiệm vụ chiến đấu trên chiến trường Việt Nam. Đến tháng 12 năm
1965 quân số đó đã lên đến 184.314 tên, gồm 3 sư đồn, sáu lữ đoàn và trung
đoàn cùng hai phi đoàn máy bay chiến đấu chiến thuật số 3 và 12, lực lượng
hải qn đặc nhiệm 115 và 116. Ngồi ra cịn có quân đội các nước chư hầu
của Mỹ cũng trực tiếp tham chiến.
Như vậy từ giữa năm 1965, cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu
mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã leo lên nấc thang mới, “chiến tranh cục
bộ”. Đặc điểm chủ yếu của chiến lược “chiến tranh cục bộ” là đế quốc Mỹ
không chỉ lấy lực lượng tay sai phản động làm công cụ thống trị nhân dân ta
và tiến hành chiến tranh, mà còn trực tiếp tung đội quân viễn chinh Mỹ vào
tác chiến chống lại lực lượng vũ trang và nhân dân ta. Quân viễn chinh Mỹ
được huy động với qui mô lớn trong thời gian ngắn, kèm theo là một khối
lượng khổng lồ binh khí kỹ thuật, vật tư, bom đạn. Mỹ đã tung vào miền Nam
hầu hết các sư đoàn tinh nhuệ, sử dụng các loại vũ khí trang bị hiện đại nhất.
Đây là những nỗ lực cao nhất mà đế quốc Mỹ có thể huy động trong
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Tuy nhiên, lực lượng quân viễn chinh
Mỹ chỉ là con chủ bài, là lực lượng nòng cốt để “tìm diệt” bộ đội chủ lực ta,
cịn lực lượng chiếm đóng, bình định vẫn là qn đội nguỵ. Mục tiêu quân sự
của “chiến tranh cục bộ” là nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang ta, nhất là quân
chủ lực tập trung, nhằm giành thắng lợi về quân sự trong thời gian ngắn, buộc
ta phải ngồi vào đàm phán theo ý muốn của Mỹ, để Mỹ rút quân về nước trên
thế thắng.
Với sự leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ ở mức độ cao nhất, cách

mạng Việt Nam đứng trước tình thế hiểm nghèo, đó là phải đương đầu với
một tên đế quốc hùng mạnh nhất trong thế giới tư bản cả về kinh tế lẫn quân
sự, vừa có thủ đoạn thâm độc và xảo quyệt, vừa có dã tâm xâm lược nước ta


20

bằng mọi giá. Chúng đã huy động một khối lượng vũ khí trang bị khổng lồ,
hiện đại vào bậc nhất lúc bấy giờ (trừ bom nguyên tử). Từ những cố gắng lớn
về quân sự của Mỹ, đặt ra câu hỏi lớn cho dân tộc Việt Nam là làm thế nào có
thể đánh Mỹ và thắng được Mỹ? Trong bối cảnh lúc bấy giờ, một số nhân vật
tên tuổi trên thế giới, kể cả những người ủng hộ và giúp đỡ cuộc kháng chiến của
nhân dân ta, lúc đầu cũng chưa thật tin rằng nhân dân ta sẽ đánh thắng được
quân Mỹ.
Nhưng với bản lĩnh vững vàng và tài thao lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng Trung ương Đảng đã bình tĩnh, sáng suốt nhận định, đánh giá tình hình, đặt
lợi ích dân tộc lên trên hết, chấp nhận con đường duy nhất đúng nhưng cũng đầy
hy sinh gian khổ, đó là phát động toàn dân tộc, triệu người như một, anh dũng
đứng lên chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, chấp nhận cuộc đụng đầu lịch sử.
1.1.2. Cách mạng Việt Nam đứng trước cuộc đụng đầu lịch sử
Khi tiến hành chiến lược chiến tranh hạn chế, dưới hình thức một cuộc
“chiến tranh đặc biệt” để chống lại phong trào đấu tranh cách mạng của nhân
dân ta, đế quốc Mỹ tin tưởng rằng sẽ giành thắng lợi khơng mấy khó khăn.
Theo tính tốn của Nhà Trắng và Lầu Năm góc thì với chiến lược này, Mỹ có
thể tạo ra ưu thế trong chiến tranh và chủ động lựa chọn các phương án tiến
công, nhằm làm cho đối phương bị động, lúng túng và thất bại. Nhưng chiến
lược đó của Mỹ đã bị thất bại sau các trận: Ấp Bắc, Bình Giã (1964), Ba Gia,
Đồng Xồi (1965). Thất bại đó, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược chiến tranh,
bằng cách trực tiếp ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam, tiến hành chiến
lược “chiến tranh cục bộ”. Đối với nhà cầm quyền Mỹ, quyết định chuyển

chiến lược trên không phải là đơn giản, mà là quyết định “quyết liệt” nhưng
“day dứt” nhất. Ba phương án do Bộ Quốc phịng đệ trình lên Tổng thống Mỹ
đều khó lựa chọn cả:
Một là, rút lui mà chắc chắn đó là điều nhục nhã đối với nước Mỹ.


21

Hai là, tiếp tục chiến tranh như mức hiện có, điều đó sẽ làm cho nước
Mỹ sẽ ngày cành yếu đi.
Ba là, mở rộng và đẩy mạnh chiến tranh ra cả hai miền Nam - Bắc
Việt Nam, sẽ tránh được thất bại nhưng sẽ phí tổn lớn và sau này rút quân sẽ
rất khó khăn.
Sau nhiều ngày đêm trăn trở, với nhiều cuộc họp quan trọng trong giới
quan chức Mỹ, Tổng thống Mỹ đã đưa ra một quyết định đó là “bằng mọi giá
không để miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản”. Q trình tính tốn các
phương án leo thang chiến tranh, trong hai viện của Quốc hội Mỹ có một số ý
kiến do dự hoặc khơng tán thành. Số ít ý kiến này cho rằng nên tìm giải pháp
ngoại giao, thương lượng để tránh sa lầy trong cuộc chiến ở Việt Nam. Nhưng
những tiếng nói lừng chừng hoặc khơng đồng tình này nhanh chóng bị rơi vào
im lặng, bởi những nhân vật “diều hâu” chủ chốt trong chính quyền Mỹ rất
hiếu chiến, chúng khơng rễ ràng từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Nhưng để
cứu vãn tình thế bất lợi trên chiến trường, Mỹ khơng cịn cách nào khác là
phải thay đổi chiến lược chiến tranh cho phù hợp với tình hình cuộc chiến
đang diễn ra ở Việt Nam.
Chính quyền Mỹ đánh giá rất cao việc trực tiếp dùng quân viễn chinh
đi xâm lược. Bởi cũng bằng chiến lược này, Mỹ đã làm thay đổi tình hình ở
Triều Tiên năm 1950. Chúng hy vọng rằng, với chiến lược này sẽ giáng một
đòn mạnh và đè bẹp cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, kết thúc chiến
tranh, rút quân về nước trong thế thắng. Mục tiêu bao trùm của chiến lược

“chiến tranh cục bộ” là dùng lực lượng chủ yếu đưa từ Mỹ sang, đẩy mạnh
phản công tiêu diệt bộ đội chủ lực ta trên chiến trường miền Nam. Đồng thời
đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng khơng qn, hải qn ra miền Bắc, với
mục đích làm cho “cột xương sống của Hà Nội mềm đi”, buộc chúng ta phải
ngồi vào đàm phán theo điều kiện có lợi cho Mỹ và từ bỏ chi viện cho cách


22

mạng miền Nam. Qua đó, Mỹ sẽ củng cố vị trí của chúng ở Việt Nam, Đơng
Dương và Đơng Nam Á, giữ vững vai trò lãnh đạo “thế giới tự do”. Làm được
như thế, Mỹ còn chứng tỏ cho thế giới biết sức mạnh hùng hậu và khả năng
của Mỹ có thể đè bẹp, tiêu diệt bất cứ một cuộc khởi nghĩa và chiến tranh nào,
đồng thời răn đe phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước Á, Phi,
Mỹ La tinh. Để thực hiện mục tiêu trên, Mỹ đề ra kế hoạch ba giai đoạn, dự
định giành thắng lợi trong vòng 25 đến 30 tháng.
Giai đoạn 1, từ tháng 7 năm 1965 đến tháng 12 năm 1965, đưa nhanh
quân Mỹ và quân chư hầu vào miền Nam Việt Nam nhằm phá kế hoạch mùa
mưa của ta, “chặn chiều hướng thua” của quân đội Sài Gòn, bảo đảm triển
khai nhanh lực lượng quân viễn chinh Mỹ chuẩn bị cho cuộc phản công giành
lại thế chủ động trên chiến trường.
Giai đoạn 2, từ đầu năm 1966 đến tháng 6 năm 1966, quân Mỹ và
quân chư hầu phối hợp với qn nguỵ mở các cuộc phản cơng chiến lược tìm
diệt chủ lực và các căn cứ du kích ta, hỗ trợ cho chương trình bình định.
Giai đoạn 3, từ tháng 7 năm 1966 đến giữa hoặc cuối năm 1967, quân
Mỹ và quân chư hầu phối hợp với quân đội Sài Gịn mở các cuộc hành qn
tiến cơng tiêu diệt các lực lượng cịn lại của Qn giải phóng và các khu căn
cứ du kích, hồn thành cơ bản chương trình bình định, rút quân Mỹ về nước
vào cuối năm 1967.
Kế hoạch ba giai đoạn trên nói rõ tham vọng của Mỹ là tập trung lực

lượng tiêu diệt chủ lực, bình định nơng thơn, diệt cơ sở chính trị ta, leo thang
đánh phá miền Bắc, chặn mọi nguồn chi viện, cô lập miền Nam, giành thắng
lợi cho cuộc chiến tranh trong thời gian ngắn nhất. Bộ Quốc phòng Mỹ đánh
giá cao kế hoạch đó, họ cho rằng: “Đưa cuộc chiến tranh đến tận xứ sở của
địch, làm cho kẻ địch không thể tự do đi lại ở bất cứ nơi nào trên đất nước...
và giáng cho kẻ địch những đòn thật nặng nề”[68, tr.136].


23

Với mục tiêu, kế hoạch đó, ngày 17 tháng 7 năm 1965, Tổng thống
Mỹ L.Giônxơn chuẩn y đề nghị tăng qn lên 44 tiểu đồn và thực hiện kế
hoạch “tìm diệt” của tướng Oétmolen. Trước tiên ông ta ra lệnh triển khai vào
Nam Việt Nam 34 tiểu đoàn quân Mỹ gồm khoảng 100.000 quân, số còn lại
được dự kiến sẽ bổ xung tiếp sau. Quyết định này đã đưa nước Mỹ “vượt qua
ngưỡng cửa bước vào cuộc chiến tranh trên đất liền ở Châu Á”[68, tr.136].
Đây là bước ngoặt quan trọng đánh dấu q trình thay đổi đường lối,
chính sách leo thang chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Kể từ
đây, qn Mỹ đóng vai trị là lực lượng chủ yếu, quyết định trên chiến trường.
Đồng thời đây cũng là những cố gắng quân sự lớn nhất, bước leo thang chiến
tranh cao nhất của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Đây cũng là lần đầu tiên Mỹ đưa
nhiều quân đi xâm lược nước khác nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Khi đế quốc Mỹ trực tiếp đưa quân vào miền Nam, đồng thời leo
thang đánh phá miền Bắc làm cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam ngày càng trở
nên gay go, ác liệt. Bởi đế quốc Mỹ là tên đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân
sự hùng mạnh bậc nhất trong thế giới tư bản, với âm mưu, thủ đoạn hết sức
thâm độc, xảo quyệt, chúng không từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Trong
giai đoạn này, âm mưu trước mắt của chúng là:
Ra sức mở những cuộc tiến công nhằm tiêu diệt lực lượng ta - nhất là
lực lượng vũ trang tập trung của ta; giữ vững và củng cố hoặc chiếm

đóng thêm các vị trí chiến lược quan trọng rồi dựa vào đó mà đẩy
mạnh cơng tác bình định có trọng điểm, đánh phá vùng giải phóng,
khống chế kìm kẹp quần chúng và chiếm lại một số vùng đã mất; tìm
mọi biện pháp để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc, bao vây cô lập
chiến trường miền Nam; đồng thời tăng cường chiến tranh phá hoại
đối với miền Bắc nước ta[19, tr.626].
Dân tộc ta đứng trước một cuộc đụng đầu lịch sử, bởi khi so sánh lực


24

lượng giữa một bên là toàn thể dân tộc Việt Nam với một bên là đế quốc Mỹ
xâm lược, xét về thế chiến lược lúc đầu chiến tranh rất quan trọng, nhưng
trong quá trình của cuộc chiến tranh, thế lại càng quan trọng hơn. Mỹ là nước
đế quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất trong thế giới tư bản, so
sánh về tiềm lực kinh tế, quân sự giữa ta và Mỹ có sự chênh lệch khá xa: về
diện tích, nước ta chỉ bằng 1/20, dân số bằng 1/6, giá trị tổng sản lượng hàng
năm (tính ở miền Bắc) chỉ bằng 1/1000 nước Mỹ. Mỹ có lực lượng quân đội
hùng mạnh, vũ khí trang bị hiện đại với đầy đủ các quân, binh chủng hải, lục,
không quân, quân Mỹ chưa từng thất bại trong các cuộc chiến tranh xâm lược.
Khi Mỹ phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nhất là khi
chúng quyết định trực tiếp đưa quân viễn chinh vào tham chiến trên chiến
trường miền Nam, đã được Quốc hội Mỹ đa số nhất trí, trao toàn quyền cho
Tổng thống quyết định việc huy động quân số, vũ khí, tiền của cho cuộc chiến
tranh. Lúc này nhân dân Mỹ chưa hiểu hết về cuộc chiến tranh xâm lược của
giới cầm quyền Mỹ, do đó chưa đứng lên đấu tranh phản đối cuộc chiến tranh
xâm lược do đế quốc Mỹ phát động. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đối
với Việt Nam được nhiều nước đồng minh của Mỹ ủng hộ và trực tiếp đưa
quân tham chiến tham chiến như Nam Triều Tiên, Tân Tây Lan, Ôxtrâylia...
Mặt khác, xu thế quốc tế diễn ra trong giai đoạn này đang có những

bất lợi cho ta, nhất là những bất đồng trong phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, những mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc có ảnh hưởng đến
cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta. Liên Xô đang bị chủ nghĩa xét
lại lũng đoạn, việc ủng hộ, giúp đỡ cách mạng nước ta chỉ trên lĩnh vực tuyên
truyền, còn viện trợ kinh tế, quân sự ít ỏi, chưa đáp ứng được yêu cầu cuộc
kháng chiến. Còn Trung Quốc, nước láng giềng gần gũi với Việt Nam đang
làm cuộc “Đại cách mạng văn hố”, cho nên “Trung Quốc sẽ khơng phản ứng
theo bất kỳ cách nào đối với chiến dịch ném bom, trừ phi quân Mỹ hoặc Nam


25

Việt Nam xâm lược miền Bắc Việt Nam... Phản ứng của Trung Quốc đối với
cuộc ném bom có hệ thống Bắc Việt Nam chắc chắn sẽ có giới hạn”[68,
tr.12]. Lúc này nhân dân các nước trên thế giới bị Mỹ bưng bít hoặc tun
truyền sai sự thật, do đó họ chưa thấy hết bản chất cuộc chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ, chưa đứng hẳn về phía Việt Nam đấu tranh đòi Mỹ chấm dứt
chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Mặc dù đế quốc Mỹ trực tiếp đưa quân xâm lược Việt Nam, huy động
tối đa sức mạnh quân sự (thời điểm cao nhất vào cuối năm 1967 là 442.588
quân), trước tình hình đó Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng ta nhận
định so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường vẫn khơng có sự thay
đổi lớn, có lợi cho Mỹ. Bởi Mỹ giàu, quân Mỹ mạnh, trang bị hiện đại, nhưng
chúng vào miền Nam trong hồn cảnh qn đội nguỵ đã thua trận, chính
quyền tay sai rệu rã, “chiến tranh đặc biệt” đã thất bại, chúng mất thế chủ
động chiến lược. Chỗ yếu cơ bản nhất của quân Mỹ từ trước đến nay vẫn là
chính trị. Cuộc chiến tranh phi nghĩa của Mỹ khơng thể là động lực cho binh
lính Mỹ chiến đấu. Binh lính, vũ khí trang bị hiện đại nhưng khơng phù hợp
điều kiện địa hình, thời tiết, cách đánh của ta, do đó sức cơ động, sức chiến
đấu khơng được phát huy. Hậu phương của Mỹ xa, cách ta nửa vòng trái đất,

không thể đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu của cuộc chiến tranh. Cuộc chiến
tranh mà Mỹ phát động chống lại nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh phi
nghĩa, sẽ bị nhân dân thế giới, trong đó có cả nhân dân Mỹ lên án mạnh mẽ,
khiến Mỹ không thể huy động hết sức mạnh quân sự vào cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam.
Mặt khác, trước tình hình chung trên thế giới cũng như tình hình nước
Mỹ khơng cho phép Mỹ sử dụng hết sức mạnh về kinh tế và quân sự trong
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mỹ không thể tăng quân với bất kỳ số
lượng nào mà khơng tính đến những khó khăn và hậu quả về mọi mặt trên


×