Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Quá trình hình thành những nhận thức mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.04 KB, 15 trang )

LUẬN VĂN:
Quá trình hình thành những nhận thức mới
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta


CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta là vấn đề lý luận và thực tiễn rất
cơ bản, trọng yếu, liên quan trực tiếp đến đường lối chính trị của Đảng, phương hướng
phát triển của đất nước. Đây là vấn đề trung tâm, cốt lõi trong đường lối cách mạng
nước ta; nó chi phối toàn bộ các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại,
an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng.
Vì vậy, ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng đều tập trung vào việc xác định
mục tiêu và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đó là những thành tựu lớn trong sự
phát triển tư duy của Đảng và nhân dân ta về xây dựng CNXH. Những thành tựu đó có
ý nghĩa đặc biệt trong điều kiện hiện nay, là một trong những nhân tố quyết định đối
với sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta. Bởi lẽ:
Thứ nhất, các nước XHCN đang lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện và
nghiêm trọng chưa từng thấy trong lịch sử cả về chính trị, kinh tế, xã hội, cả lý luận về
mô hình CNXH của nhiều đảng. Trước cuộc khủng hoảng đó, nhiều đảng có sự đánh
giá lại về công cuộc xây dựng CNXH, về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đề ra chủ
trương cải tổ, cải cách, đổi mới. Trong quá trình thực hiện chủ trương này, có đảng
trung thành và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tổng kết kinh nghiệm, đề ra
được đường lối cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu, giữ vững thành quả của
CNXH; có đảng xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, đi vào con đường xã hội - dân chủ. ở
một số nước, chế độ XHCN đã bị lật đổ.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ đến nước ta. Nếu Đảng ta không vững vàng,
không đủ bản lĩnh, không kịp thời đổi mới, không xác định được và xác định đúng quan
niệm về CNXH và con đường xây dựng CNXH thì cuộc khủng hoảng nói trên sẽ tác
động nguy hiểm đến sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Chúng ta đã vượt
qua cuộc khủng hoảng đó, tiếp tục đứng vững và ngày càng phát triển. Điều đó do
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là Đảng ta đã sáng suốt đề ra
đường lối đổi mới đúng đắn và sự nghiệp đó đã giành được những thành tựu quan


trọng, từng bước hình thành quan niệm về con đường xây dựng CNXH ở nước ta.
Thứ hai,bên cạnh những thành tựu quan trọng đã giành được, công cuộc xây
dựng CNXH của chúng ta cũng gặp không ít khó khăn. Trong những năm 80 của thế kỷ
XX, nước ta đã lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Cuộc khủng hoảng này do nhiều


nguyên nhân, trong đó nguyên nhân sâu xa là trong suốt nhiều năm, chúng ta đã có
những quan niệm đơn giản hoặc không đúng về xây dựng CNXH thể hiện ở những
khuyết điểm sai lầm mà Đảng ta đã tự phê bình trong Đại hội VI. Việc đề ra đường lối
đổi mới, hình thành những quan niệm đúng đắn về CNXH, về con đường xây dựng
CNXH chẳng những tạo điều kiện để đất nước ta từng bước thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, mà còn là cơ sở để chúng ta tiến lên trên con đường xây dựng CNXH.
Những quan niệm đó đã củng cố niềm tin vững chắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
ta đối với con đường đã lựa chọn; mở đường cho toàn Đảng, toàn dân phát huy khả
năng sáng tạo trong tư duy, trong hành động, trong việc đưa những quan điểm đó vào
cuộc sống; góp phần vào việc bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh những quan niệm đó. Tuy
nhiên những điều mà Đảng và nhân dân ta nhận thức đạt tới hôm nay sẽ còn tiếp tục
được bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển sau này của thực tiễn của tư duy lý luận.
Quá trình hình thành những nhận thức mới về con đường đi liên CNXH ở nước
ta được phản ánh ngày càng rõ nét qua lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng
Cộng sản Việt Nam từ 1930 đến nay.
Ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên (2/1930), Đảng ta đã khẳng
định mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của cách mạng nước ta là độc lập dân tộc và CNXH.
Cương lĩnh chỉ rõ "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản". Bổ sung cho Chánh cương vắn tắt của Đảng và Luận cương chính trị của
Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930), Đảng ta cũng chỉ ra rằng "Trong lúc đầu, cuộc
cách mạng Đông Dương sẽ là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền... nhờ giai cấp vô
sản chuyên chánh các nước giúp sức cho mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh
đấu thẳng lên con đường XHCN"(1). Tuy nhiên trong giai đoạn cách mạng dân chủ nhân
dân, hoạt động tư duy của Đảng phải tập trung vào việc thực hiện những nhiệm vụ cơ

bản của cuộc cách mạng ấy. Hoạt động tư duy về CNXH và con đường xây dựng
CNXH của Đảng chỉ được tiến hành với quy mô lớn khi nhân dân ta bắt tay vào xây
dựng CNXH, từ 1955 là ở miền Bắc, sau 1975 là trên cả nước. Quá trình đó được hình
thành trên cơ sở khẳng định những cái đúng, cần kế thừa, những cái trước kia đúng,
(1)

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, CTQG, H, 1998, tr.9394.


nhưng nay không còn phù hợp phải thay đổi, những gì trước đây không đúng phải kiên
quyết khắc phục.
Trong những năm 1955-1965, hoạt động tư duy về CNXH và con đường tiến
lên CNXH của Đảng được triển khai thể hiện việc Đảng ta xác định nước ta đã bước
vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Chẳng hạn như: Tháng 8-1955, Hội nghị Trung ương
lần thứ 8 xác định "Đường lối củng cố miền Bắc là củng cố và phát triển chế độ dân
chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc lên CNXH". Tháng 1-1956, trong văn kiện
về đường lối cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị nhấn mạnh "Từ khi hòa bình lập lại,
miền Bắc nước ta chuyển sang giai đoạn cách mạng XHCN". Hội nghị Trung ương lần
thứ 13 (12-1957) nhận định: "Từ khi hòa bình lập lại, miền Bắc hoàn toàn giải phóng,
ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên CNXH". Năm 1957, Hội nghị các Đảng Cộng
sản và công nhân quốc tế đã khẳng định những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây
dựng CNXH, chủ yếu rút ra từ thực tiễn Liên Xô. Lúc này Đảng ta chưa đề ra đường lối
chung về xây dựng CNXH.
Trong mấy năm đầu sau khi hoàn thành thắng lợi khôi phục kinh tế, trong khi
chưa đề ra đường lối chung, Đảng ta vẫn chỉ đạo xây dựng CNXH, đặt trọng tâm vào
cải tạo XHCN, coi chuyển nhanh nền kinh tế nhiều thành phần sang nền kinh tế XHCN
bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể chiếm ưu thế là điều kiện cơ bản để đẩy
mạnh sự nghiệp xây dựng CNXH. Điều đó thể hiện rõ qua Hội nghị Trung ương lần thứ
14 (11-1958) với việc chủ trương đẩy mạnh công cuộc cải tạo XHCN đối với thành
phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cải tạo XHCN đối với các thành phần

kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Khâu chính là
cải tạo và phát triển nông nghiệp; Hội nghị Trung ương lần thứ 16 (4-1959) thông qua
hai Nghị quyết quan trọng về hợp tác hóa nông nghiệp và về cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã xác định đường lối
chung của cách mạng XHCN ở miền Bắc. Sau khi xác định mục tiêu là "đưa miền Bắc
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc
ở miền Bắc và củng cố miền bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện
hòa bình thống nhất nước nhà". Muốn thực hiện được mục tiêu đó, Đại hội đã nêu lên


những biện pháp cơ bản sau: sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch
sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành
phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách "ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ"; đẩy mạnh cách mạng XHCN về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật; biến
nước ta thành một nước XHCN có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa
và khoa học tiên tiến.
Với sự chỉ đạo công cuộc xây dựng CNXH từ 1955 của Đảng, nhất là đường lối
chung của cách mạng XHCN ở miền Bắc đề ra ở Đại hội III, từ 1955 đến 1965, miền
Bắc đã đạt được những thành tựu quan trọng như bảo đảm được lương thực, tự giải
quyết được 90% hàng tiêu dùng,... đặc biệt đã trở thành hậu phương vững chắc cho
cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tuy nhiên cũng nảy sinh nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng CNXH ở
miền Bắc. Nguyên nhân là do có một số sai lầm trong chủ trương về cải tạo XHCN, về
cơ chế quản lý như nhanh chóng biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế
XHCN thuần nhất, trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể chiếm ưu thế tuyệt
đối...
Từ 1965 đến 1975, miền Bắc tiến hành xây dựng CNXH trong điều kiện cả

nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đảng ta đã dành nhiều trí tuệ,
công sức vào việc lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến; đồng thời quan tâm, lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Tư duy của Đảng về cách mạng XHCN trong thời kỳ này được thể hiện cả
trong các Nghị quyết của Đảng, cả trong nhiều tác phẩm, bài viết của các đồng chí lãnh
đạo Đảng, cán bộ quản lý, cán bộ khoa học. Những quan niệm về CNXH và con đường
xây dựng CNXH thể hiện ở những nét lớn sau:
+ Phát triển đường lối của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, hình thành nội
dung và tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ
thuật là then chốt, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con
người mới.


+ Nêu lên "bước đi ban đầu" trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
+ Xây dựng quan điểm về cơ cấu kinh tế, xác định quan hệ công nghiệp và
nông nghiệp thể hiện ở phương hướng phát triển kinh tế phải theo đường lối ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ, xây dựng kinh tế Trung ương, đồng thời phát triển kinh tế địa phương.
+ Xác định nội dung chủ yếu của đấu tranh giữa hai con đường ở miền Bắc là
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn...
+ Tìm tòi con đường đi lên sản xuất lớn: cuộc vận động cải tiến quản lý, tổ
chức các hợp tác xã với quy mô lớn, xây dựng huyện thành huyện nông - công nghiệp...
+ Trong quản lý kinh tế, đã đề ra phương hướng: xóa bỏ quản lý hành chính cung
cấp, thực hiện quản lý theo phương thức kinh doanh XHCN.
Tuy nhiên, do điều kiện đất nước lúc đó, mô hình xây dựng CNXH của ta lúc đó
qua bộc lộ hết những nhược điểm, khuyết điểm. Nhưng thực tế đã cho thấy có nhiều cái
không phù hợp, kìm hãm sự phát triển của sản xuất...
Như vậy, tư duy của Đảng trong thời kỳ này đã trải qua trên bề rộng và có đi
vào chiều sâu trên một số lĩnh vực chủ yếu, trong đó vấn đề mục tiêu, phương hướng
vẫn là cơ bản. Một số vấn đề mới được phát hiện có giá trị như chỉ ra bước đi ban đầu

của thời kỳ quá độ ở nước ta. Việc nghiên cứu để đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
trong điều kiện nước ta là cần thiết, nhưng một số giải pháp đưa ra không phù hợp.
Thiếu sót của ta là chậm nhìn ra nguyên nhân sâu xa của sự trì trệ trong sản xuất kinh
doanh, chậm tìm ra những hình thức kinh tế mới để khắc phục nhược điểm, khuyết điểm
của mô hình cũ, cho phép sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng đến năm 1986, sự nhận thức về CNXH
và con đường tiên lên CNXH của Đảng ta ngày càng sáng rõ.
Năm 1976, Đại hội IV của Đảng đã phát triển một bước đường lối của Đại hội
III, vạch ra đường lối xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước: "Nắm vững chuyên chính
vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời 3
cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách
mạng tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh
công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH; xây


dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN; xây dựng nền sản xuất lớn XHCN; xây dựng nền
văn hóa mới, xây dựng con người mới XHCN; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa
bỏ nghèo nàn và lạc hậu..."(1).
Tuy nhiên chúng ta đã phạm một số sai lầm, khuyết điểm trong việc thiết kế các
mô hình cụ thể và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Việc duy trì và áp dụng cơ chế cũ theo
kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp không còn phù hợp với tình hình mới. Không những
thế lại thực hiện việc xóa bỏ thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, làm cho kinh tế
XHCN bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể giữ vai trò độc tôn. Điều này trái
với những quy luật khách quan trong thời kỳ quá độ và không phù hợp với điều kiện
thực tế ở Việt Nam. Chính vì vậy, vào cuối những năm 1970, nền kinh tế nước ta bị
mất cân đối nghiêm trọng, khủng hoảng kinh tế - xã hội đã diễn ra. Cuộc khủng hoảng
này thật sự là một thách thức đối với cả dân tộc và chế độ xã hội ta.
Trong hoàn cảnh đó, Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) đã thông qua 2 Nghị
quyết: Nghị quyết số 20-NQ/TW về tình hình và nhiệm vụ cấp bách và Nghị quyết số
21-NQ/TW về phương hướng, nhiệm vụ phát triển hàng công nghiệp tiêu dùng và công

nghiệp địa phương. Tinh thần cơ bản của Hội nghị Trung ương 6 là "làm cho sản xuất
bung ra" nhằm khắc phục khuyết điểm trong quản lý kinh tế, đề ra chủ trương phù hợp
để phát triển lực lượng sản xuất. Nghị quyết đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Tháng
10-1979, Hội đồng Chính phủ công bố quyết định xóa bỏ các trạm kiểm soát ngăn
sông, cấm chợ, người sản xuất được tự do lưu thông hàng hóa ngoài thị trường, không
phải nộp thuế sau khi đã làm tròn nghĩa vụ đầy đủ đối với Nhà nước.
Tiếp sau Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, chỉ thị 100-CT/TW ngày 13-11981 về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người
lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã tạo ra động lực mới trong sản xuất nông
nghiệp. Trong lĩnh vực công nghiệp, Quyết định 25-CP ngày 21-1-1981 của Chính phủ
về một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất
kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh đánh dấu sự đổi
mới trong quản lý công nghiệp, giúp cho các cơ sở khắc phục được khả năng sản xuất,
(1)

Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị BCHTW Đảng Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, H, 1977, tr.67.


giải phóng sức sản xuất, mở ra một hướng mới trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội.
Tháng 3-1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng họp nêu rõ nhiệm
vụ trong những năm 80 là tập trung sản xuất công nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công
nghiệp nặng quan trọng trong mộtc ơ cấu công nông nghiệp hợp lý. Đại hội coi đây là
nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt nhằm phát triển sức
sản xuất, chuẩn bị tiền đề và lực lượng cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa trong
những năm tiếp theo.
Tuy nhiên kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Ban Chấp hành Trung ương
đã tiến hành nhiều Hội nghị, trong đó có 8 Hội nghị bàn về kinh tế - xã hội. Quan trọng
nhất là Hội nghị Trung ương 8 (khóa V) tháng 6-1985 đã chủ trương phải dứt khoát xóa

bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch
toán kinh tế và kinh doanh XHCN. Hội nghị cũng thừa nhận sản xuất hàng hóa và
những quy luật của sản xuất hàng hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta
trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Như vậy, sự đổi mới tư duy trong quá trình nhận thức về con đường đi lên
CNXH ở nước ta là hết sức quan trọng, là cơ sở để Đảng ta có thể hoạch định đường lối
đổi mới toàn diện sau này.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) tiếp tục khẳng định sự tồn tại
khách quan của sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường. Đại hội chỉ rõ: Cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy
yếu kinh tế XHCN, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm
hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng hiệu quả, gây rối loạn phân phối lưu
thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Đại hội quyết định chuyển từ cơ
chế quản lý kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN, phát huy quyền tự chủ kinh doanh của đơn vị và cá
nhân trong khuôn khổ pháp luật, giải phóng mọi tiềm năng sản xuất.
Với đường lối đổi mới nêu trên, Đại hội VI của Đảng đánh dấu sự đổi mới quan
trọng trong nhận thức của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta.


Đại hội VI đã có những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế. Đại hội xác định rõ
các thành phần kinh tế ở nước ta gồm: kinh tế XHCN (quốc doanh và tập thể); kinh tế
tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh
doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản, tư nhân; kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình
thức mà hình thức cao nhất là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong
một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số. Với nội dung đổi mới và những quan điểm nêu
trên, Đại hội VI không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là nhận thức đúng đắn hơn
về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Một thành tựu rất quan trọng về tư duy của Đại hội VI là đã rút ra những bài
học rất cơ bản có ý nghĩa thiết thực, quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng CNXH và

bảo vệ Tổ quốc. Các bài học đó là:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy
dân làm gốc", xây dựng và phát triển quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan.
Ba là, Đảng phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới.
Bốn là, phải chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một Đảng cầm quyền lãnh
đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN.
Từ 1986 đến nay, là thời kỳ triển khai Nghị quyết Đại hội VI. Sự phát triển tư
duy của Đảng ta ở thời kỳ này diễn ra trong quá trình vừa cụ thể hóa, bổ sung và phát
triển Nghị quyết Đại hội VI, vừa dựa vào những thành tựu tư duy từ trước để xây dựng
Cương lĩnh, hình thành quan niệm về CNXH và con đường xây dựng CNXH trong thời
kỳ quá độ ở nước ta.
Trong nhiệm kỳ Đại hội VI, Ban Chấp hành Trung ương đã họp nhiều Hội nghị
Trung ương để triển khai Nghị quyết Đại hội VI, đặc biệt Hội nghị Trung ương lần thứ
6, khóa VI (3-1989) đã cụ thể hóa và phát triển nhiều quan điểm của Đại hội VI, nhất là
về điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung thực hiện các mục tiêu của ba
chương trình kinh tế; thực hiện chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng
mọi năng lực sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh các đơn vị kinh tế


sang hạch toán kinh doanh theo quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch
gồm nhiều thành phần đi lên CNXH; đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại; xây dựng
và phát huy dân chủ XHCN, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị.
Hội nghị Trung ương 6 khóa VI đã rút ra nhiều kết luận quan trọng như: chính
sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất
nhỏ đi lên CNXH. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất vốn có bản chất riêng,
nhưng trong hoạt động sản xuất kinh doanh không ngăn cách nhau mà có nhiều loại

hình hỗn hợp đan kết với nhau vừa cạnh tranh nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp
luật. Kinh tế quốc doanh cần có đủ lực lượng chi phối thị trường, song không nhất thiết
chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành nghề... Những kết luận đó thể hiện trình độ tư duy
của Đảng đã được nâng lên. Nghị quyết Đại hội VI, do đó đã được cụ thể hóa và phát
triển một bước quan trọng.
Những quan điểm của Hội nghị Trung ương lần thứ 7 và lần thứ 8 chủ trương
đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN, đổi mới có nguyên tắc, có bước
đi phù hợp.
Đại hội VI nêu lên phương hướng và nhiệm vụ về các mặt đối ngoại, an ninh,
quốc phòng nhưng đến Nghị quyết 7 của Trung ương và các Nghị quyết 02, 13 của Bộ
Chính trị thì sự đổi mới tư duy của Đảng rõ nét hơn thể hiện ở sự điều chỉnh lớn về
chiến lược quốc phòng, về chính sách an ninh và chính sách đối ngoại.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII họp trong điều kiện tình hình thế giới có
nhiều biến động phức tạp: chế độ XHCN ở các nước Đông Âu đã bị sụp đổ, Liên Xô đã
tiến hành cải tổ nhưng chệch hướng và đang có nguy cơ tan rã. Điều đó đã tác động xấu
đến một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Các thế lực thù địch nhân cơ hội tấn
công quyết liệt vào các nước XHCN còn lại, trong đó có Việt Nam. Trên cơ sở tổng kết
thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế đến năm 2000.
Cương lĩnh tiếp tục khẳng định việc kiên định con đường đi lên CNXH ở nước
ta và nêu rõ 6 đặc trưng cơ bản của CNXH ở Việt Nam. Đó là:


+ CNXH ở nước ta là xã hội do nhân dân lao động làm chủ.
+ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
+ Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà, bản sắc dân tộc.
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển

toàn diện cá nhân.
+ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
+ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Đồng thời với việc xác định 6 đặc trưng mang tính mục tiêu, Cương lĩnh của
Đảng đã nêu lên những phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng CNXH và bảo
vệ Tổ quốc. Những phương hướng đó là: "Xây dựng nhà nước XHCN, Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giữa giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của
nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi
ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng
bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất
lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ
sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước.
Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, làm cho thế giới
quan Mác - Lênin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống
tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các
dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân
chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người. Chống tư tưởng văn hóa
phản tiến bộ, trái với những giá trị cao quý của loài người.


Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh.Thực
hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung
thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước XHCN, với

tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ thế giới.
Xây dựng CNXH phải gắn liền với bảo vệ Tổ quốc...
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang
tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
XHCN ở nước ta"(1).
Những phương hướng nêu trên chính là những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quá
trình xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đường lối của Đại hội VII tiếp
tục được bổ sung, phát triển và cụ thể hóa qua các Nghị quyết của BCHTW và Bộ
Chính trị. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994) đã khẳng định
những thành tựu trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới và đã thẳng thắn chỉ ra
những thách thức lớn đối với nước ta. Đó là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ
chệch hướng XHCN; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu và nguy cơ "diễn biến
hòa bình" của các thế lực thù địch.
Với đường lối đúng đắn của Đại hội VI và Đại hội VII, công cuộc đổi mới đã
thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Đại hội đạibiểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng (6-1996) đã khẳng định: "Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội' và "nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền
đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"; "con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày
càng được xác định rõ hơn.
Như vậy, đến trước Đại hội IX của Đảng, nhận thức về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở nước ta theo tinh thần đổi mới đã được xác lập và từng bước được bổ
sung, hoàn thiện dần.

(1)

Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, ST, H, 1991, tr.9-10.



Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001) đã tổng kết thành tựu 15 năm
đổi mới, khẳng định tính đúng đắn của Cương lĩnh xây dựng đất nước đã thông qua tại
Đại hội VII của Đảng về con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Đại hội IX một lần nữa khẳng định sự kiên định mục tiêu cách mạng của nhân
dân ta là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên CNXH. Độc lập dân
tộc luôn gắn liền với CNXH. Mục tiêu phấn đấu đề ra trong Đại hội IX là "xây dựng
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh".
Về thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, Đại hội chỉ rõ: "con đường đi lên
CNXH của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
tức bỏ qua việc xác lập vị trí thống nhất của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tư bản chủ nghĩa, nhưng phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đi lên CNXH phải trải qua
một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội có tính chất quá độ.
Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế, Đại hội IX xác định: Trong thời kỳ
quá độ ở nước ta tất yếu phải tồn tại các hình thức sở hữu đa dạng, đan xen với 6 thành
phần kinh tế khác nhau: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh
tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Đại
hội chỉ rõ các thành phần kinh tế này đều là những bộ phận quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
Về vấn đề đấu tranh giai cấp và động lực chủ yếu để phát triển đất nước, Đại
hội nêu rõ: Do nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức
sở hữu tư liệu sản xuất nên tất yếu tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội khác
nhau. Sự tồn tại, đan xen giữa cái cũ và cái mới tất yếu dẫn tới đấu tranh với nhau.
Nhưng về cơ bản lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp và cả dân tộc trong mục tiêu chung độc lập dân tộc ngắn liền với CNXH, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do đó mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp là
vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.



Từ đặc điểm về quan hệ giai cấp nêu trên, Đại hội chỉ rõ "Nội dung chủ yếu của
đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN... đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng đất
nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc"(1).
Với tinh thần đó, Văn kiện Đại hội IX khẳng định: động lực chủ yếu để phát
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích...
Như vậy Đại hội IX đã nêu rõ các đặc trưng CNXH và nội dung cơ bản của con
đường đi lên CNXH ở nước ta. Những đặc trưng và nội dung đó chính là mục tiêu, cơ
sở cho toàn Đảng, toàn dân ta vững bước trên con đường xây dựng CNXH, xây dựng
đất nước phồn vinh.
Con đường phát triển đi lên CNXH không qua CNTB đã được Đảng ta nêu ra
ngay từ khi thành lập nhưng trải qua 15 năm thực hiện nhiệm vụ của cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ, qua gần 30 năm chống Pháp và chống Mỹ, con đường đó mới ngày
càng được nhận thức cụ thể hơn, với những bước đi thích hợp.
Nhờ những nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH, công cuộc
xây dựng CNXH của Đảng và của nhân dân ta nói chung, sự nghiệp đổi mới của Đảng
ta hiện nay đã và đang đạt được những thành tựu vô cùng to lớn về mọi mặt, đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát chấm
dứt, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Thành tựu lớn nhất là chúng ta vẫn
đứng vững, CNXH ở Việt Nam ngày càng trở thành hiện thực, trở thành mục tiêu, động
lực vươn tới của toàn Đảng toàn dân ta.
Để nhận thức đúng CNXH, con đường đi lên CNXH và xây dựng thành công
CNXH, chúng ta cần nắm vững các điểm sau:
+ Vấn đề hình thành quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH là quá
trình lâu dài, gian khổ. Quá trình đó sẽ còn tiếp tục được bổ sung, phát triển thông qua
thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên đến Đại hội IX; nhiều vấn đề cơ bản đã

được khẳng định và điều đó phản ánh sự năng động, sáng tạo của Đảng ta trước những
(1)

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, CTQG, Hà Nội, 2001, tr.86.


biến đổi quan trọng của thời cuộc và mở ra những triển vọng mới cho việc cụ thể hóa
những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong các bước phát triển tiếp theo.
+ Trên cơ sở xác định được mục tiêu, phương hướng XHCN, chúng ta phải tìm
ra được những hình thức phương pháp và bước đi thích hợp để xây dựng CNXH. Đây
là một vấn đề hết sức khó khăn, đòi hỏi tầm cao trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân. Thực
tiễn công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta đang tìm tòi, hình thành từng bước và
đạt những thành tựu quan trọng.
+Trong khi xây dựng quan niệm về CNXH và con đường xây dựng CNXH phải
nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, những thành
quả khoa học - kỹ thuật trên thế giới, phải tham khảo kinh nghiệm của các nước, kể các
các nước không phải là XHCN, nghiên cứu sâu truyền thống lịch sử, điều kiện chính
trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của nước ta... để rút ra những kết luận bổ ích. Đặc biệt là
chúng ta phải bám sát thực tiễn xây dựng CNXH, thực tiễn sản xuất, đời sống của nhân
dân, thực tiễn các cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa. Thực tiễn đó sẽ là cơ sở cho việc
tìm tòi những hình thức và bước đi, phương pháp của việc xây dựng CNXH.
+ Trong quá trình hình thành quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH,
chúng ta phải biết kế thừa những quan niệm đúng, phủ định những quan niệm không
phù hợp trước đó; tránh khuynh hướng phủ nhận sạch trơn hoặc tiếp thu nguyên vẹn.
+ Trong quá trình hình thành các quan niệm mới, phải phát hiện được các vấn
đề, thẳng thắn vạch ra các quan điểm khác nhau, nêu một cách khách quan lập luận của
mỗi quan điểm để thảo luận. Trong thảo luận phải phát huy tự do tư tưởng, dân chủ.
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay khi các thế lực thù địch tấn công quyết liệt về tư
tưởng, lý luận làm cho ta chệch hướng; chúng ta phải bảo đảm sinh hoạt tư tưởng, lý
luận theo nguyên tắc của Đảng, không thể buông lỏng cuộc đấu tranh chống lại những

quan điểm thù địch, cơ hội.



×