Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ ở Tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.82 KB, 107 trang )

LUẬN VĂN:

Thực hiện pháp luật thi hành án đối với
người được hưởng án treo và cải tạo
không giam giữ ở Tỉnh Thanh Hóa


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
nhiều ngành luật khác nhau với những biện pháp trách nhiệm, những chế tài cụ thể khác
nhau. Gắn với luật hình sự là biện pháp trách nhiệm hình sự với chế tài cụ thể là hình phạt.
Đó là một loại chế tài đặc biệt trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong số bảy hình phạt chính của pháp luật
hình sự Việt Nam.Theo qui định tại Điều 31 Bộ luật hình sự năm 1999 thì: "Cải tạo không
giam giữ là hình phạt chính có thời hạn từ sáu tháng đến ba năm được áp dụng với người
phạm tội ít nghiêm trọng, hoặc phạm tội nghiêm trọng, có nơi làm việc ổn định hoặc nơi
thường trú rõ ràng khi xét thấy không cần thiết phải cách li người phạm tội ra khỏi xã hội.
Còn án treo không phải là một hình phạt, mà là một biện pháp miễn chấp hành hình
phạt tù có điều kiện. Điều 60 Bộ luật hình sự hiện hành qui định: "Khi phạt tù không quá ba
năm xét thấy không cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù thì tòa án cho hưởng án treo và
ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm’’.
Việc qui định hình phạt cải tạo không giam giữ và chế định án treo là sự thể chế hóa
chủ trương, chính sách hình sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta. Đó là
Trừng trị kết hợp với giáo dục, giáo dục với phòng ngừa là chính, kết hợp
với răn đe, giữ nghiêm kỷ cương, đề cao tinh thần nhân đạo Xã hội chủ nghĩa,
phát huy sức mạnh của cơ quan bảo vệ pháp luật, của các đoàn thể xã hội và mọi
công dân trong phòng chống tội phạm,vận dụng thích hợp các biện pháp hành
chính, kinh tế, cải tạo và quản lý giáo dục tại cộng đồng dân cư để đạt hiệu quả
cao nhất đối với từng người phạm tội, tránh khuynh hướng nặng về hình phạt tù


[4].
Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng và cụ thể hóa các quy định của Bộ luật hình
sự, Bộ luật tố tụng hình sự về chế định án treo và cải tạo không giam giữ, ngày 30/10/2000,
Chính phủ đã ban hành Nghị định 60, Nghị định 61/2000/NĐ-CP qui định cụ thể về quyền
và nghĩa vụ của người được hưởng án treo, người bị phạt cải tạo không giam giữ, trách


nhiệm và quyền của cơ quan tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án.Việc thực hiện
nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật này có ý nghĩa hết sức quan trọng, vừa mang tính nhân
đạo, nhân văn sâu sắc, vừa đem lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đảm bảo sự ổn
định của đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế- xã hội của đất nước.
Tuy nhiên thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án
treo và cải tạo không giam giữ chưa đạt được kết quả mong muốn. Xin trích lời phát biểu
của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thạc Nhượng sau chuyến giám sát tại một số địa phương, đã
đưa ra lời cảnh báo: "án treo và cải tạo không giam giữ tại các địa phương không hề được các
cơ quan chức năng để mắt tới, sự buông lỏng quản lý của các địa phương là lý do khiến việc
thực hiện Nghị định 60, 61 của chính phủ về thi hành án hết sức khó khăn’’ [58].
Thanh Hóa cũng trong tình trạng chung của cả nước, là một tỉnh đất rộng, người
đông, với tổng diện tích 11.000km2/3,7triệu dân, 636 xã, phường, thị trấn. Cùng với sự phát
triển kinh tế, tình hình tội phạm cũng gia tăng và diễn biến phức tạp, số người bị kết án phạt
tù cho hưởng án treo và cải tạo không giam giữ tương đối lớn song số người được giám sát,
giáo dục theo tinh thần của Nghị định 60,61 không đáng kể, nhiều người không nhận được
sự quan tâm từ phía gia đình, xã hội, môi trường để họ tái hòa nhập với cộng đồng hết sức
khó khăn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện pháp luật thi hành án hình sự đối
với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ chưa đạt hiệu quả, song nguyên
nhân cơ bản nhất do cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục người bị kết án chưa thực
hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình theo Nghị định 60,61, mặt khác các qui định
của Nghị định 60,61 thiếu tính khả thi, nhiều điểm chưa rõ ràng, bất cập. Bên cạnh đó các
cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa chưa thực sự quan tâm đến công tác này. Từ

năm 2000 đến nay, toàn tỉnh chưa mở được hội thảo khoa học nghiên cứu về lĩnh vực thực
hiện pháp luật thi hành án hình sự, chưa tiến hành sơ kết, tổng kết đánh giá thực trạng thực
hiện pháp luật trên địa bàn Tỉnh, chỉ ra nguyên nhân và giải pháp thi hành án có hiệu quả.
Xuất phát từ yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật, nhất thiết phải đảm bảo các quy
định của pháp luật về thi hành án treo và cải tạo không giam giữ đã ban hành phải được thực
hiện nghiêm chỉnh và thống nhất, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, đơn vị và người bị kết
án phải nắm vững và thực hiện nghiêm chỉnh quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, góp
phần lập lại trật tự kỷ cương pháp luật trong lĩnh vực thi hành án


Từ những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài:" Thực hiện pháp luật thi hành án
đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ ở Tỉnh Thanh Hóa " để nghiên
cứu viết luận văn thạc sĩ luật học, bởi đây bởi đây là đề tài rất cấp thiết có ý nghĩa quan trọng cả
về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện pháp luật là một nội dung quan trọng của Lý luận chung về Nhà nước và
Pháp luật, được các nhà khoa học pháp lý, các cơ quan thực thi pháp luật nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau. Riêng thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án
treo và cải tạo không giam giữ mang đậm tính nhân đạo Xã hội chủ nghĩa và là một vấn đề
khá nhạy cảm, mang tính cấp thiết nên đã có một số công trình nghiên cứu trong lĩnh vực
này ở những khía cạnh nhất định:
* Thứ nhất: Về sách và các bài viết đăng trên báo, tạp chí:
- Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam. Sách xuất bản năm 2007, tác giả Lê
văn Luật.
- Một số suy nghĩ về Nghị định 61/2000/NĐ-CP về thi hành hình phạt tù cho hưởng
án treo, Tạp chí Toà án nhân dân, số 3/2001.
- Bàn về án treo từ góc nhìn so sánh, Trịnh Quốc Toản,Tạp chí khoa học và Tổ
Quốc số 22/2004 ngày 20/11/2004.
- án treo và thực tiễn áp dụng, tạp chí Toà án nhân dân, số 05/1996.
- Chế định án treo và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt Nam, tạp chí

Toà án nhân dân, số 02/2005.
- Một số suy nghĩ về chế định án treo, tạp chí Toà án nhân dân số 01/1991. Nguyễn
Khắc Công
- Sự cần thiết của việc áp dụng án treo đối với người phạm tội, tạp chí Toà án nhân
dân,số 6/1994. Lê Văn Dũng.
- Nhân thân người phạm tội và việc áp dụng biện pháp án treo theo điều 44 Bộ luật
Hình sự, tạp chí Toà án nhân dân số 6/1990.
- Một số vần đề thi hành án hình sự, sách của tác giả Trần Quang Tiệp.
- Dự thảo Bộ luật thi hành án.
- Pháp luật thi hành án Việt Nam- những vấn đề lý luận và thực tiễn [57].
* Thứ hai: Về đề tài khoa học:


- Đề tài: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm về công tác quản lý,
giáo dục người phải thi hành án phạt tù cho hưởng án treo và cải tạo không giam giữ tại Uỷ
ban nhân dân cấp xã của Tỉnh Vĩnh Phúc- Đề tài khoa học của Viện Kiểm sát nhân dân
Tỉnh Vĩnh Phúc- chủ nhiệm Nguyễn Huy Phượng.
Các công trình nghiên cứu hoặc các bài viết trên chủ yếu phân tích và bình luận về
chế định án treo, cải tạo không giam giữ, hoặc có đề tài không dừng lại ở phần lý luận mà
có đánh giá thực trạng về thi hành án hình sự đối với người được hưởng án treo và cải tạo
không giam giữ ở địa phương mình, song chưa có công trình nào nghiên cứu dưới góc độ lý
luận và thực trạng về thực hiện pháp luật, lý giải các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thực
hiện pháp luật, các biện pháp, giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật thi hành án đối với
người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ nói chung và ở Tỉnh thanh Hóa nói
riêng.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu, các bài viết, đồng
thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và vốn hiểu biết của mình, học viên trình bày trong luận
văn cơ sở lý luận, nội dung thực hiện pháp luật thi hành án hình sự đối với người được
hưởng án treo và cải tạo không giam giữ, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật ở địa bàn
tỉnh Thanh Hóa, đưa ra nhóm giải pháp đảm bảo hiệu lực các văn bản pháp luật đã ban hành

trong lĩnh vực thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ, đáp
ứng vấn đề cấp bách của thực tiễn công tác thi hành án đối với người được hưởng án treo và
cải tạo không giam giữ ở địa phương mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải
tạo không giam giữ, đánh giá thực trạng công tác thi hành án treo và cải tạo không giam giữ
ở tỉnh Thanh Hóa, chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong tác này, đề ra các giải pháp
nhằm đảm bảo phát huy hiệu quả công tác thi hành án treo và cải tạo không giam giữ ở Tỉnh
Thanh Hóa.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:


- Phân tích, làm rõ các khái niệm về thi hành án, khái niệm án treo và cải tạo không
giam giữ, trình tự thủ tục thi hành án, quyền và nghĩa vụ của người bị kết án, quyền và trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức có liên quan đối với người bị kết án.
- Phân tích vai trò thực hiện pháp luật thi hành án trong đời sống, các yếu tố nhằm
đảm bảo phát huy hiệu quả thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ
ở Tỉnh Thanh Hóa từ năm 2001 đến năm 2007- Kết quả đạt được; những yếu kém và
nguyên nhân, đề xuất giải pháp đảm bảo tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật thi hành
án treo và cải tạo không giam giữ, kiến nghị sửa đổi và hoàn thiện pháp luật thi hành án
hình sự đối với hai loại hình phạt nêu trên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật nói chung, pháp
luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ nói riêng, phân tích đánh giá thực trạng thực
hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ ở
Tỉnh Thanh Hóa.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Luận văn đánh giá kết quả thực hiện pháp luật thi hành án hình sự
đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ, thời gian từ năm 2001 đến
năm 2007.
- Về không gian: Tác giả khảo sát thực trạng thực thi pháp luật thi hành án hình sự
đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ trên địa bàn Tỉnh Thanh Hóa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chi Minh và quan điểm của Đảng về công tác thi hành án và chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác- Lênin,
đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, chứng minh, tổng


hợp, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu trong khi trình bày luận văn, chẳng hạn tác
giả sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử cụ thể khi trình bày sự hình thành
và phát triển các chế định án treo, cải tạo không giam giữ, có so sánh khái niệm với một số
quốc gia trên thế giới.
6. Đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn của luận văn
Đây là đề tài mang tính cấp thiết được các cơ quan bảo vệ pháp luật, Cấp ủy Đảng
và chính quyền tỉnh Thanh Hóa thực sự quan tâm, là đề tài đầu tiên đề cập đến công tác thực
hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ trên
địa bàn Thanh Hóa, những đóng góp mới của luận văn đó là:
Thứ nhất, tác giả phân tích lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo
không giam giữ; quan điểm của một số nhà khoa học về thi hành án và thực hiện pháp luật
thi hành án. Trên nền tảng lý luận đó, tác giả xây dựng một số khái niệm liên quan đến thực
hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ.
Thứ hai, tác giả trình bày vai trò của thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật thi

hành án nói riêng và ý nghĩa của nó trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội
chủ nghĩa, các yếu tố nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không
giam giữ trên thực tế.
Thứ ba, tác giả trình bày thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo
không giam giữ ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2001 đến 2007, kết quả đạt được, yếu kém và các
nguyên nhân khách quan, chủ quan.Từ thực trạng đó, tác giả xây dựng các quan điểm và
nêu ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải
tạo không giam giữ, kiến nghị sửa đổi các qui định của pháp luật về thi hành án, đáp ứng
yêu cầu cấp bách về hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực thi hành án nói chung và thi hành
án treo, cải tạo không giam giữ nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
Chương 1


Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật
thi hành án đối với người được hưởng án treo
và cải tạo không giam giữ

1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án
treo và cải tạo không giam giữ
1.1.1. Khái niệm thi hành án
Tòa án là cơ quan xét xử, nhân danh Nhà nước ra các phán quyết nhằm góp phần lập
lại trật tự kỷ cương xã hội. Song phán quyết có được thi hành trên thực tế hay không nhờ một
phần rất lớn vào hoạt động thi hành án. Theo Từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã
chính thức quyết định" [32, tr.1559].
Còn thi hành án được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được
tiến hành theo trình tự thủ tục được pháp luật qui định nhằm thực hiện các bản án, quyết
định đã có hiệu lực của Tòa án [36, tr.706]. Hiện nay, xung quanh bản chất pháp lý của khái

niệm thi hành án, còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Quan điểm thứ nhất: Thi hành án là một giai đoạn tố tụng, hoạt động thi hành án
gắn liền với quá trình xét xử, tiếp theo quá trình xét xử và chịu sự chi phối của các cơ quan
tố tụng, đặc biệt là Tòa án.Thi hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật khác với bản chất với
các hoạt động hành chính là tổ chức và quản lý.Thi hành án là nhằm mục đích thực thi các
phán quyết của Tòa án, đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành.
Quan điểm thứ hai: Thi hành án là một giai đoạn mang tính Hành chính - Tư pháp,
bởi lẽ:
Thứ nhất, thi hành án thực chất là hoạt động chấp hành, điều hành. Điều hành và
chấp hành là đặc trưng của quản lý hành chính. Tuy nhiên đây là hoạt động chấp hành và
điều hành để thực hiện bản án, quyết định của Tòa án, tức là một nội dung có tính chất tư
pháp. Do vậy khó có thể nói nó là giai đoạn của tố tụng.
Thứ hai, với tính chất là hoạt động điều hành, cho dù căn cứ để thi hành là các bản
án, quyết định của Tòa án, nhưng quá trình thi hành án không chỉ là các hoạt động mang tính tố
tụng, không chỉ áp dụng luật tố tụng, mà nội dung của nó phải áp dụng nhiều văn bản pháp luật
khác để giải quyết (luật nội dung).


Thứ ba, trong quá trình thi hành án, phương pháp áp dụng chủ yếu là kết hợp giữa
giáo dục thuyết phục và mệnh lệnh hành chính, mục đích tác động trực tiếp tới đối tượng thi
hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ được xác định
trong bản án, quyết định của Tòa án; giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi
ích Nhà nước, tập thể và công dân.
Thứ tư, việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo được giao cho cơ
quan, tổ chức, chính quyền địa phương thực hiện theo thủ tục hành chính. Pháp luật được áp
dụng không phải chỉ riêng luật tố tụng mà còn bao gồm các qui định pháp luật hành chínhtư pháp.
Như vậy có thể nói hoạt động thi hành án là sự kết hợp biện chứng giữa quá trình tố
tụng và thi hành án hình sự, thi hành án là hoạt động mang tính hành chính- tư pháp.
Quan điểm thứ ba: Thi hành án là hoạt động tư pháp bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, trước hết cần khẳng định, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn

xét xử, hoạt động xét xử là tiền đề của hoạt động thi hành án.
Thi hành án là giai đoạn diễn ra ngay sau giai đoạn xét xử và các bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là cơ sở để tiến hành hoạt động thi hành án. Song không
thể nói đây là cơ sở pháp lý duy nhất, mà mới chỉ là điều kiện cần. Để tiến hành hoạt động
thi hành án có hiệu quả, phải có các điều kiện đủ là có cơ quan thi hành án, các nguyên tắc,
trình tự, thủ tục thi hành án được quy định cụ thể trong pháp luật thi hành án. Cho nên, hoạt
động thi hành án không chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng mà chịu sự điều chỉnh của
pháp luật thi hành án.
Thứ hai, mặc dù có sự lệ thuộc và chịu sự chi phối như trên, nhưng ở giai đoạn thi
hành án, tính chất tố tụng đã chấm dứt, bởi lẽ khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật, chức năng xét xử đã hoàn thành, chân lý đã được làm sáng tỏ, có tội hay vô
tội, đúng hay sai đã được phân xử rõ ràng. ở thời điểm này, quyền lực của Nhà nước mới chỉ
được thể hiện trên các bản án, quyết định công nhận các sự kiện pháp lý, các quan hệ pháp
luật hoặc buộc người thi hành án có nghĩa vụ phải làm một việc hoặc không làm một việc vì
lợi ích của Nhà nước hoặc của người được thi hành án, chứ việc công nhận này chưa được
thể hiện trên thực tế. Để thực hiện nhiệm vụ đưa các phán quyết của Tòa án trở thành hiện
thực trên thực tế, cơ quan thi hành án phải có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên
quan, trong đó có Tòa án. Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án, nhìn chung


không thuộc chức năng của cơ quan xét xử, điều này được thể hiện rõ nhất trong hoạt động
thi hành án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động.
Thứ ba, thi hành án không mang tính chất hành chính, bởi hành chính là hoạt động
chấp hành, điều hành, các quyết định hành chính được đưa ra trên cơ sở mệnh lệnh có tính
bắt buộc thi hành của cấp trên đối với cấp dưới. Hoạt động của cơ quan hành chính chủ yếu
xoay quanh người đứng đầu là Thủ trưởng cơ quan hành chính, trong khi đó thi hành án là
hoạt động tư pháp có những điểm khác cơ bản.
Khái niệm tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, là một hệ thống các thiết chế, các tổ chức
bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng xã hội, trong đó hoạt động xét xử của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Tòa án giữ vai trò, vị trí quan trọng, là khâu trung tâm.

Khái niệm tư pháp hiểu theo nghĩa hẹp, đó là hoạt động xét xử của Tòa án, thông
qua những thủ tục tố tụng nhất định nhằm bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công
bằng xã hội.
Là một trong các hoạt động tư pháp, với mục đích chung là: "Bảo vệ Pháp chế xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ Chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài
sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân" [23], thi hành án có những đặc trưng cơ bản sau đây:
a) Thi hành án dựa trên cơ sở kết quả xét xử của Tòa án. Những bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật là căn cứ để các cơ quan nhà nước, người phải thi hành án, người
được thi hành án, người có quyền và lợi ích liên quan thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo
đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án.
b) Chủ thể thi hành án có rất nhiều loại, đó có thể là Tòa án, cơ quan Công an, cơ
quan thi hành án, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người phải
thi hành án cư trú, làm việc hoặc các cơ sở chuyên khoa y tế. Vai trò của từng loại chủ thể
khi tham gia vào quá trình thi hành án khác nhau, phụ thuộc vào từng loại việc thi hành án.
c) Các chủ thể thi hành án phải tuân thủ những quy định rất chặt chẽ về thi hành án.
Những quy định rất chi tiết, cụ thể như: trình tự, thủ tục ra quyết định thi hành án; cách thức
tổ chức việc thi hành án; giải quyết khiếu nại hoặc trả lời kháng nghị việc thi hành án...
Những quy định này được thực hiện một cách độc lập, do người có thẩm quyền tiến hành
mà không phụ thuộc vào các hoạt động tố tụng khác như trong quá trình điều tra, truy tố và
xét xử.


Bản án, quyết định của Tòa án là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước
tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình, lao động, kinh tế, hành chính. Việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
quả một mặt bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã
hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước là Tòa án, mặt khác
nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức
và công dân bị xâm hại.

Từ sự phân tích ở trên, tác giả có thể đưa ra khái niệm thi hành án như sau: Thi hành án
là hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do
pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế nhằm bảo
đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Khái niệm án treo và cải tạo không giam giữ
1.1.2.1. án treo - Khái niệm, bản chất, trình tự, thủ tục thi hành án
- Khái niệm án treo:
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ,
hạn chế quyền lợi của người phạm tội. Theo Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999 thì " Hình
phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích
cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống Xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm". Bên cạnh việc áp dụng các hình phạt, Việt nam
và một số quốc gia khác sử dụng các biện pháp khác đó là án treo.
án treo là một chế định ra đời từ rất sớm. Trên thế giới, mỗi Quốc gia có qui định
khác nhau về chế định này, chẳng hạn luật hình sự của Anh và Mỹ coi án treo là trường hợp
hoãn tuyên án kèm theo biện pháp bảo lĩnh hoặc biện pháp bảo đảm bằng tiền. Luật hình sự
của Pháp, Bỉ và một số nước coi án treo là việc hoãn hoặc miễn chấp hành hình phạt. Các
nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây coi án treo là biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện, nhưng cũng có nước coi án treo là hình phạt chính như Cộng hòa
dân chủ Đức [17, tr.8].
ở nước ta, chế định án treo được qui định ngay từ những năm đầu của Nhà nước dân
chủ nhân dân và tồn tại cho đến ngày nay, mặc dù chưa có văn bản luật nào đưa ra định
nghĩa chính thức án treo là gì, song nhìn chung các văn bản đều đưa ra những qui định về án


treo, điều kiện được hưởng án treo. Trải theo dòng lịch sử lập pháp Việt Nam, các quy định
về án treo có một số thay đổi và ngày càng hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh và
phòng ngừa tội phạm. Văn bản đầu tiên quy định về án treo là Sắc lệnh số 21 năm 1946, giai
đoạn này án treo được xem là một biện pháp tạm đình chỉ việc thi hành án: "Khi phạt tù,

Tòa án có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản
án xử treo sẽ tạm đình chỉ việc thi hành án. Nếu trong năm năm bắt đầu từ ngay tuyên án,
tội nhân không bị tòa án làm tội một lần nữa về một tội mới thì bản án đã tuyên sẽ bị hủy đi,
coi như không có. Nếu trong năm năm ấy, tội nhân lại bị kết án một lần nữa trước một tòa
án thì bản án treo sẽ đem ra thi hành". án treo là một biện pháp hoãn hình có điều kiện, áp
dụng chủ yếu đối với những kẻ phạm tội nhẹ, bản chất không nguy hiểm, xét không cần
thiết phải bắt thi hành ngay án phạt tù, nhằm mục đích khuyến khích họ tự nguyện lao động
cải tạo với sự giúp đỡ tích cực của xã hội, đồng thời cảnh báo họ nếu tiếp tục phạm tội trong
thời gian thử thách, thì tùy trường hợp, sẽ buộc phải chấp hành án cũ trong mức độ cần
thiết. Ngược lại,"nếu trong thời gian thử thách, họ không phạm tội gì mới, án trước sẽ được
xóa bỏ" [30].
Theo Nghị quyết số 01/1990/NQ-HĐTP ngày 18.10.1990 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân Tối cao thì án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều
kiện.
Sau này nhiều nhà Luật học có đưa ra các quan điểm về án treo, theo Đinh Văn Quế
thì: "án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với
người bị phạt tù không qua ba năm tù, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình
tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù [21, tr.372].
Theo PGSTSKH Lê Văn Cảm thì: án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù
kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực
hiện tội phạm khi có đủ căn cứ và điều kiện do pháp luật hình sự quy định.
Nhìn chung các tác giả đều thống nhất với sự hướng dẫn, giải thích của Tòa án nhân
dân Tối cao trong Nghị quyết số 01/1990, coi án treo là một biện pháp miễn chấp hành hành
hình phạt tù có điều kiện, và điều kiện đó là: Người phạm tội bị xử phạt tù không quá ba
năm không phân biệt tội gì, có nhân thân tốt, luôn chấp hành chính sách pháp luật, thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ công dân, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi thường trú rõ ràng, có nhiều tình


tiết giảm nhẹ, và xét thấy không cần thiết phải bắt họ chấp hành hình phạt tù thì Tòa án xét
xử cho họ hưởng án treo.

- Với tinh thần của Nghị quyết, trên cơ sở qui định của Bộ luật hình sự hiện hành,
Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường đại học Luật Hà Nội có nêu: án treo là biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, án treo thể hiện tính nhân đạo của Luật Hình
sự Việt Nam,có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự tu dưỡng và lao động tại cộng
đồng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội cũng như gia đình đồng thời cảnh báo họ nếu phạm
tội mới trong thời gian thử thách thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên.
- Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự hiện hành cũng xác định án treo là
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều 60 khoản 1 Bộ luật hình sự năm
1999 qui định:"Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội
và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì tòa án
cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm".
Tuy nhiên, so với qui định về án treo theo Bộ luật Hình sự năm 1985, thì chế định
án treo được qui định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 có nhiều sự thay đổi về điều kiện
được hưởng án treo (Mức hình phạt tù xem xét cho hưởng án treo từ 5 năm theo Bộ luật
Hình sự 1985 xuống còn 3 năm tù theo Bộ luật Hình sự 1999), điều kiện thử thách (điều
kiện không phạm tội mới thay thế cho điều kiện không phạm tội mới do cố ý hoặc không
phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù).
Trên cơ sở tra cứu từ điển luật học, các quan điểm của các nhà Luật học về án treo,
hướng dẫn giải thích của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, quy định của Bộ
luật Hình sự năm 1985, năm 1999 về áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với người
phạm tội, tác giả có thể đưa ra khái niệm chung nhất về án treo như sau: án treo không phải là
một loại hình phạt mà là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, điều kiện đó
là: Người bị phạt tù không quá ba năm bất kể về tội gì, nhân thân tốt và có nhiều tình tiết giảm
nhẹ, và xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi xã hội, tòa án cho họ miễn chấp hành
hình phạt tù và ấn định cho họ một khoảng thời gian thử thách từ một năm đến năm năm, trong
khoảng thời gian đó nếu họ không phạm tội mới thì họ không phải chấp hành hình phạt tù của
bản án đã tuyên.
- Bản chất của án treo: Từ khái niệm chung về án treo, rút ra nhận xét về bản chất
của án treo như sau:



Thứ nhất: án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, không phải
là hình phạt tù, đây là điểm cần phân biệt. Pháp luật Hình sự Việt Nam quy định bảy hình
phạt chính trong đó có hình phạt tù,và án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù
trong các trại giam khi người phạm tội có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật hình
sự hiện hành;
Thứ hai: Người được hưởng án treo sẽ phải chịu một thời gian thử thách từ một đến
năm năm, thời gian thử thách bằng hoặc lớn hơn mức phạt tù. Trong thời gian thử thách
phải chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan tổ chức được Tòa án giao trách nhiệm giám sát,
giáo dục;
Thứ ba: Trong thời gian thử thách, nếu người đó phạm tội mới thì biện pháp miễn
chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ, người được hưởng án treo buộc phải chấp hành hình phạt
tù trong bản án mà Hội đồng xét xử đã cho hưởng án treo trước đó cộng với hình phạt của
bản án về tội phạm mới thực hiện.
Tóm lại: án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Việc cho bị
cáo được hưởng án treo thể hiện chính sách nhân đạo của Pháp luật xã hội chủ nghĩa, có
mục đích khuyến khích người bị kết án tự lao động cải tạo dưới sự giám sát của xã hội, sự
giúp đỡ khuyến khích của cộng đồng, người thân, tạo cho họ có cơ hội trở thành người có
ích mà không nhất thiết bắt buộc cách ly họ ra khỏi xã hội.
Tuy nhiên hiện nay ở một số địa phương, trong từng vụ án cụ thể, trong từng thời
điểm cụ thể do có sự không thống nhất trong nhận thức nên việc vận dụng cho bị cáo hưởng
án treo còn tùy tiện, không đảm bảo tính công bằng xã hội, làm mất đi ý nghĩa tốt đẹp trong
chính sách nhân đạo của Pháp luật Xã hội chủ nghĩa. Vì vậy có quan điểm cho rằng nên bỏ
chế định án treo, quan điểm này cho rằng:
Từ trước đến nay luật chưa định nghĩa án treo là gì, án treo đang "Tạo ra sự bất
công và không hề nhân đạo, làm một điểm tựa của hiện tượng tiêu cực trong ngành Tòa
án" [59]. Bên cạnh đó, căn cứ để Tòa án cho án treo là "nhân thân", là "tình tiết giảm nhẹ",
các yếu tố này cũng đã được tòa án cân nhắc khi quyết định hình phạt rồi, nếu cho người
phạm tội hưởng án treo, tức là các yếu tố này được xem xét tới hai lần. Hơn nữa, "một ngày
tù ngàn thu ở ngoài", một người xử ba năm tù thì được tự do,trong khi một người xử sáu

tháng tù giam thì ở trong trại. Như thế là không công bằng.


Tuy nhiên không vì những lý do trên để xóa bỏ chế định án treo, bản thân chế định
này thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, đối với người phạm tội lần đầu, nhân thân
tốt và có đầy đủ các điều kiện luật cho phép, nếu để họ cải tạo tại địa phương, dưới sự giám
sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức mà họ vẫn trở thành người tốt thì tại sao chúng ta không
áp dụng chế định án treo, tại sao cứ nhất thiết bắt họ phải chấp hành hình phạt trong trại
giam, tốn kém cho Nhà nước, cho gia đình trong khi đó mục đích của hình phạt mà chúng ta
muốn hướng tới là: Trừng trị người phạm tội, giáo dục họ thành người có ích cho xã hội,
ngăn ngừa họ phạm tội mới, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm đều đạt được. Nếu
như vẫn còn tình trạng xử án không công bằng thì không phải do chế định pháp luật tạo ra,
mà chính do người áp dụng pháp luật không tôn trọng các quy định của luật pháp.
- Trình tự, thủ tục thi hành án treo: Được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự và
Nghị định 61 của Chính phủ.
Sau khi nhận được bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, cơ quan, tổ chức giám
sát, giáo dục người bị kết án tổ chức thi hành án, ra quyết định phân công người trực tiếp
giám sát, giáo dục người bị kết án. Người trực tiếp giám sát, giáo dục phải áp dụng đầy đủ
các biện pháp như: Chủ động gặp gỡ, động viên người kết án chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật, ba tháng một lần báo cáo với thủ trưởng cơ quan tổ chức giám sát, giáo dục về tình
hình chấp hành án, báo cáo cơ quan tổ chức giám sát, giáo dục khi người bị kết án có đủ
điều kiện được xét giảm thời gian thử thách…Về phía cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục
có trách nhiệm tạo điều kiện để người bị kết án cải tạo, giáo dục tốt, lập hồ sơ đề nghị rút
ngắn thời gian thử thách cho người bị kết án.
1.1.2.2. Cải tạo không giam giữ- khái niệm, bản chất, trình tự thủ tục thi hành án
Cải tạo không giam giữ là một loại hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của Bộ
luật Hình sự.
- Theo từ điển Luật học thì cải tạo không giam giữ là việc buộc người phạm tội phải
tự cải tạo dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi họ làm việc hoặc
cư trú qua việc phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định [36, tr.98].

Xét về bản chất đây là loại hình phạt không tước tự do, không buộc người phạm tội
cách ly khỏi gia đình, nơi làm việc cũng như xã hội nói chung. Nội dung chính của hình
phạt là việc buộc một người bị kết án phải chịu sự giám sát, giáo dục của các cơ quan, tổ
chức. Nghĩa vụ mà người bị kết án phải thực hiện là nghĩa vụ báo cáo, tự kiểm điểm định kỳ


và có thể nộp 5% đến 20% thu nhập để sung quỹ nhà nước. Thời hạn cải tạo không giam giữ
từ sáu tháng đến ba năm. Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc
nghiêm trọng, có nơi làm việc hoặc nơi thường trú rõ ràng và khi các điều kiện khác cho
thấy họ có thể tự cải tạo, giáo dục mà không cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội.
So với qui định về cải tạo không giam giữ trong Bộ luật Hình sự năm 1985 (Điều 21
và điều 24), thì qui định về cải tạo không giam giữ theo Bộ luật hình sự hiện hành có một số
điểm khác cơ bản như sau:
Thời hạn cải tạo không giam giữ: Bộ luật Hình sự năm 1999 qui định thời hạn cải
tạo không giam giữ từ sáu tháng đến ba năm, trong khi đó Bộ luật Hình sự năm 1985 qui
định thời hạn này là từ sáu tháng đến hai năm.
Về điều kiện áp dụng: Bộ luật Hình sự năm 1999 qui định có thể áp dụng hình phạt
cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng.
Trong khi đó Bộ luật Hình sự năm 1985 cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng. Sự thay đổi này liên quan đến tiêu chí phân loại tội phạm
của Bộ luật Hình sự năm 1985 và 1999.
Về nghĩa vụ phải khấu trừ phần trăm thu nhập: Theo Bộ luật hình sự năm 1985, việc
khấu trừ phần trăm thu nhập là chế tài tùy nghi do Tòa án quyết định, nhưng ở Bộ luật Hình sự
năm 1999, thì đây là chế tài bắt buộc. Có thể Tòa án cho miễn việc khấu trừ thu nhập nhưng
phải ghi rõ lý do trong bản án.
Trên cơ sở phân tích qui định của Bộ luật Hình sự hiện hành về chế định cải tạo
không giam giữ (có so sánh với qui định của Bộ luật Hình sự 1985), xuất phát từ bản chất
của loại hình phạt cải tạo không giam giữ, có thể đưa ra khái niệm như sau: Cải tạo không
giam giữ là loại hình phạt chính trong hệ thống hình phạt tù, tạo điều kiện cho người bị
phạt tù được cải tạo, học tập trong môi trường xã hội bình thường, khuyến khích họ cải tạo

thành người có ích, được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội
nghiêm trọng đang có nơi làm việc ổn định hoặc nơi thường trú rõ ràng và xét thấy không
cần phải cách ly họ ra khỏi xã hội.
Hiện nay đang có quan điểm cho rằng nên bỏ loại hình phạt này vì một số lý do sau:
Thứ nhất: Trên thực tế, số bị án phạt cải tạo không giam giữ có xu hướng giảm đi,
hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo tăng lên vì các điều kiện cho bị cáo hưởng án treo hoặc
cải tạo không giam giữ có nhiều điểm giống nhau, cho nên có nhiều Tòa án hàng chục năm


không áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, thay vì đó thường áp dụng hình phạt tù nhưng
cho hưởng án treo.
Thứ hai: Cả án treo và cải tạo không giam giữ đều cho người bị kết án được cải tạo,
giáo dục ở ngoài xã hội, ở cộng đồng dân cư nơi sinh sống, làm việc mà không bị bắt buộc
tập trung cải tạo ở các trại giam.
Do vậy có thể kết hợp các điều kiện cho hưởng án treo và điều kiện áp dụng hình
phạt cải tạo không giam giữ như: Người phạm tội nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, phạm
tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng và xét thấy không cần phải
cách ly họ ra khỏi xã hội thì tòa án cho họ được hưởng án treo, nên bỏ qui định hình phạt cải
tạo không giam giữ là một loại hình phạt chính.
Tác giả cho rằng không thể bỏ hình phạt cải tạo không giam giữ, bởi lẽ:
Mặc dù có nhiều điểm giống nhau giữa án treo và cải tạo không giam giữ, song hai
chế định này vẫn có những nét khác biệt cơ bản, đó là:
+ án treo không phải là một hình phạt mà chỉ là biện pháp miễn chấp hành hình phạt
tù có điều kiện, trong khi đó, cải tạo không giam giữ là hình phạt chính trong hệ thống hình
phạt của Luật hình sự Việt Nam.
+ Về hình phạt áp dụng đối với người bị kết án: Người bị phạt tù cho hưởng án treo
là người bị phạt tù có thời hạn.Tù có thời hạn là hình phạt nặng hơn, nghiêm khắc hơn so
với hình phạt cải tạo không giam giữ. Xét về bản chất, hành vi phạm tội của người được
hưởng án treo có tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn.
+ Trong giai đoạn chấp hành bản án, người được hưởng án treo phải chấp hành

thời gian thử thách của án treo (chứ không phải là chấp hành hình phạt), trong khi đó,
người cải tạo không giam giữ phải chấp hành hình phạt của bản án. Do vậy, nếu trong
thời gian đang chấp hành bản án, người được hưởng án treo phạm tội mới thì sau khi
quyết định hình phạt đối với tội mới, họ sẽ phải chấp hành toàn bộ hình phạt của bản án
treo mà không được trừ đi những ngày đã chấp hành thời gian thử thách, trong khi đó
người bị phạt cải tạo không giam giữ sẽ được trừ đi thời gian mà họ đã chấp hành hình
phạt cải tạo không giam giữ và chỉ phải tổng hợp phần hình phạt cải tạo không giam giữ
còn lại chưa chấp hành theo nguyên tắc, cứ ba ngày cải tạo không giam giữ được chuyển
đổi thành một ngày tù để tổng hợp hình phạt chung.


+ Hơn nữa việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phù hợp với đường lối
xử lý tội phạm hình sự trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đúng với chủ trương của Nghị quyết 49-NQ/TƯ ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 "Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt cải
tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm" [4].
- Trình tự, thủ tục thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ:
Sau khi nhận được bản án, quyết định thi hành án của Tòa án nhân dân chuyển
đến, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục vào sổ
thụ lý thi hành án và thực hiện hàng loạt các biện pháp quản lý giám sát người bị kết án
như: ra quyết định phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người bị kết án, yêu cầu
người bị kết án thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, có biện pháp ngăn ngừa, giáo dục
kịp thời khi người bị kết án có vi phạm, thực hiện họp kiểm điểm người bị kết án, cấp
giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời hạn cải tạo không giam giữ…Quá trình đó, cơ
quan, tổ chức giám sát giáo dục người bị kết án phối kết hợp chặt chẽ với các cơ quan tổ
chức hữu quan, tổ chức xã hội thực hiện giám sát, giáo dục người bị kết án.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm, chủ thể thực hiện pháp luật thi hành án đối với
người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ
1.1.3.1. Khái niệm thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án
treo và cải tạo không giam giữ

Bất kì một nhà nước nào cũng đều quản lý xã hội dưới ba dạng hoạt động cơ bản:
Ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và đảm bảo cho pháp luật được thực hiện
nghiêm chỉnh.Trong đó việc thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu
khách quan và cấp bách của quản lý nhà nước bằng pháp luật, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Hoạt động thực hiện pháp luật là việc chuyển hóa pháp luật vào đời
sống thực tiễn, biến các qui định trên giấy thành hiện thực. Giữa hoạt động xây dựng pháp
luật và thực hiện pháp luật có quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau. Chỉ có thể thực hiện
pháp luật tốt khi các quy định pháp luật mang tính khách quan, phản ánh ý chí, nguyện vọng
và bảo vệ lợi ích của nhân dân, và thông qua hoạt động thực hiện pháp luật, phát hiện những
quan hệ mới nảy sinh cần điều chỉnh bằng pháp luật, những bất cập trong quá trình thực
hiện pháp luật từ đó có cơ sở xây dựng các qui phạm mới, bổ sung, sửa đổi pháp luật cho
phù hợp với thực tiễn.


Về khái niệm thực hiện pháp luật: Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn Lý luận
chung về Nhà nước và pháp luật của Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Học viện Chính trịHành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, thực hiện pháp luật đuợc hiểu là "quá trình hoạt động
có mục đích làm cho những qui định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo
cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật" [14, tr.270].
Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội thì: "Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích làm
cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật"
[35, tr.369].
Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội thì:
"Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của
pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp
luật "[33, tr. 463].
Như vậy thực hiện pháp luật được hiểu là hiện tượng, quá trình có mục đích, có chủ
định làm cho những qui định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp
luật. Hành vi của chủ thể (hành động hoặc không hành động) được tiến hành phù hợp với
quy định, với yêu cầu của pháp luật, tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp

luật quy định. Thực hiện pháp luật có thể là một xử sự có tính chủ động được tiến hành bởi
một thao tác nhất định nhưng cũng có thể là xử sự thụ động, tức là không tiến hành vượt xử
sự bị pháp luật cấm.
Thực hiện pháp luật thi hành án hình sự ở nghĩa hẹp là việc đảm bảo thi hành các
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, đảm bảo các bản án, quyết định phải
được cả xã hội, các cá nhân, tổ chức hữu quan chấp hành nghiêm chỉnh.Thực hiện pháp luật
về thi hành án dưới góc độ nghiên cứu của khoa học pháp lý là quá trình hoạt động có mục
đích làm cho các qui phạm pháp luật thi hành án đi vào cuộc sống, trở thành hành vi hợp
pháp của các chủ thể nhằm phát huy hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án, đảm
bảo các bản án, quyết định được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh.
Trên cơ sở lý luận chung về thực hiện pháp luật, có thể đưa ra khái niệm thực hiện
pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ như sau: Thực hiện pháp luật thi hành
án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ là hành vi hợp pháp của
các chủ thể thực hiện trách nhiệm quyền và nghĩa vụ của mình theo qui định của pháp luật,


đảm bảo cho các bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện trên thực tế. Mục đích mà
các chủ thể hướng tới nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho người phạm tội được lao động, học
tập tại cộng đồng và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của họ ngay trong môi trường xã hội
bình thường dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo
dục, đào tạo hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú.
1.1.3.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án
treo và cải tạo không giam giữ
Thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không
giam giữ có những đặc điểm chung của thực hiện pháp luật nói chung, ngoài ra nó còn có
những đặc điểm mang tính chất đặc thù.
- Thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo
không giam giữ mang đậm tính nhân đạo của PLxã hội chủ nghĩa.
Tính nhân đạo trong thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ
xuất phát từ tính nhân đạo trong chế định án treo và chế định cải tạo không giam giữ, ngay

bản thân khái niệm " người được hưởng án treo " đã thể hiện sự nhân đạo mà xã hội dành
cho họ, những ưu thế so với các hình phạt được coi là hình phạt chính khác trong hệ thống
Luật hình sự. Mặc dù phải chịu hình phạt nhưng người bị kết án không phải cách ly khỏi xã
hội. Họ được cải tạo, giáo dục tại cộng đồng. Trong thời gian chấp hành án, họ được gia
đình, người thân và cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục tạo điều kiện được cải tạo, học
tập,lao động, được đối xử như những người bình thường khác, họ chỉ bị hạn chế một số
quyền do pháp luật quy định.Tính nhân đạo trong thực hiện pháp luật thi hành án còn thể
hiện ở phương pháp thực hiện pháp luật thi hành án chủ yếu là giáo dục thuyết phục, lấy
việc cảm hóa, động viên, khuyến khích là chính, giúp người bị kết án nhận ra lỗi lầm, tự
nguyện sửa chữa, cải tạo thành người có ích.
- Thực hiện pháp luật về thi hành án đối với người hưởng án treo và cải tạo không
giam giữ vừa mang tính quyền lực Nhà nước vừa mang tính xã hội rộng lớn.
Các qui phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án phạt tù cho hưởng án treo và
cải tạo không giam giữ là các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế của nhà
nước, bao gồm các qui định về quyền và nghĩa vụ của người bị kết án, quyền và trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức giám sát người bị kết án, cách thức, biện pháp đảm bảo cho việc giám


sát giáo dục các bị án đạt hiệu quả cao nhất, các quy định có tính bắt buộc đối với các chủ
thể thực hiện pháp luật thi hành án và vì vậy nó mang tính quyền lực nhà nước. Nhà nước
khẳng định quyền lực của mình thông qua chức năng quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả
công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này.Tuy nhiên thi hành án đối với người bị kết án
án treo và cải tạo không giam giữ là hoạt động hành chính tư pháp, nó không chỉ phụ thuộc
vào sự nỗ lực của các cơ quan nhà nước, nó được thực hiện bởi chính quyền địa phương,
các tổ chức xã hội và mọi công dân, để hoạt động thi hành án đối với người bị kết án đạt
hiệu quả cao nhất thì cần phải có sự chấp hành, phối hợp chấp hành, phối hợp tác động của
nhiều chủ thể, sự quan tâm hợp tác của cộng đồng xã hội, do vậy hoạt động này mang tính
xã hội.
- Thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo

không giam giữ kết hợp giữa phương pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế.
Sự tự nguyện thi hành án là một trong yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho hoạt
động thực hiện pháp luật diễn ra thuận lợi, có hiệu quả. Sự tự nguyện đối với người phải thi
hành án xuất phát từ bản chất, mục đích tốt đẹp nhân đạo trong việc hướng người thi hành
án hòa nhập với cộng đồng, tạo cho họ môi trường thân thiện, ổn định để họ được học tập,
lao động và có cơ hội chứng tỏ quyết tâm cải tạo trở thành người có ích trong xã hội.Để các
chủ thể tự nguyện thực hiện pháp luật, nhà nước phải áp dụng biện pháp thuyết phục và
cưỡng chế, lấy thuyết phục, giáo dục làm chính, làm cho người thi hành án hiểu được các
quyền lợi của họ khi thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, ví dụ: quyền được rút ngắn thời gian
thử thách, được biểu dương khi có nhiều tiến bộ, tích cực, được cấp giấy chứng nhận đã
chấp hành xong thời gian thử thách....Song cũng phải xử lý nghiêm minh các chủ thể khi
không chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật thi hành án nhằm mục đích đảm bảo
hiệu lực tối đa của các bản án đã tuyên.
Việc kết hợp giữa giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế trong khi thi hành án đòi hỏi
phải đảm bảo hài hòa vận dụng trong hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, trong đó luôn nêu cao
nguyên tắc giáo dục thuyết phục, chỉ cưỡng chế trong trường hợp thật cần thiết.
- Chủ thể thực hiện pháp luật thi hành án treo và cải tạo không giam giữ đa dạng
và phong phú.


Đặc điểm này xuất phát từ tính xã hội rộng lớn của hoạt động thực hiện pháp luật
thi hành án đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ, chủ thể thực hiện
pháp luật bao gồm:
Tòa án nhân dân: Là cơ quan ra quyết định thi hành án, theo dõi, giám sát kết quả
thi hành án.
Viện kiểm sát nhân dân: Là cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp trong đó bao
gồm hoạt động thi hành án, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể thực hiện pháp
luật thi hành án.
Các cơ quan thi hành án: Có trách nhiệm áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép
đảm bảo quản lý, giám sát, giáo dục người bị kết án đạt hiệu quả.

Các tổ chức đoàn thể, khu phố, làng bản, cộng đồng dân cư là những chủ thể có
trách nhiệm phối hợp tác động với các cơ quan tổ chức quản lý giám sát các bị án trong và
sau khi chấp hành án.
Mỗi chủ thể có quyền hạn trách nhiệm khác nhau (học viên sẽ trình bày cụ thể phần
tiếp theo), song các chủ thể đều cùng chung mục đích là: cảm hóa, giám sát, giáo dục và tạo
điều kiện thuận lợi để người bị kết án cải tạo tốt.
1.1.3.3. Chủ thể thực hiện pháp luật thi hành án phạt tù cho hưởng án treo và cải
tạo không giam giữ
Thứ nhất, Tòa án nhân dân: Theo điều 127 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thì: Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án
quân sự và các Tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam,Tòa án còn là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có nhiệm vụ thực hiện một
số hoạt động tố tụng trong giai đoạn thi hành án hình sự như ra quyết định thi hành án (Điều
226 BLtố tụng hình sự năm 2004), xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù (Điều 238).
Trong hoạt động thi hành án (nói chung) và thi hành án treo, cải tạo không giam giữ nói
riêng, Tòa án có trách nhiệm và quyền hạn sau:
- Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp
luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm,
quyết định tái thẩm, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc ủy
thác cho Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.


- Quyết định thi hành án phải ghi rõ họ tên người ra quyết định; tên cơ quan có
nhiệm vụ thi hành bản án hoặc quyết định; họ tên, ngày tháng năm sinh, nơi cư trú của
người bị kết án; bản án hoặc quyết định mà người bị kết án phải chấp hành.
- Quyết định thi hành án,trích lục bản án hoặc quyết định hoặc phải được gửi cho
Viện kiểm sát cùng cấp nơi thi hành án.Cơ quan thi hành án và người bị kết án.
Để đảm bảo việc thi hành án được thực hiện đúng,Tòa án ra quyết định thi hành bản
án hoặc quyết định có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi việc thi hành án. Các cơ quan, tổ chức
có nhiệm vụ thi hành án phải báo cho Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án về việc

bản án, quyết định đã được thi hành đến đâu, nếu chưa thi hành được phải báo cáo rõ lý do.
- Thứ hai, Viện kiểm sát nhân dân: là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Chức năng nhiệm vụ quyền hạn được quy định tại Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1992.Trong hoạt động kiểm sát thi hành án đối với người bị kết án
phạt tù cho hưởng án treo và cải tạo không giam giữ, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan
trong việc thi hành án treo và cải tạo không giam giữ nhằm đảm bảo các bản án, quyết định
đó được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời.
Khi thực hiện nhiệm vụ, Viện kiểm sát nhân dân có quyền:
- Yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới ra quyết định thi hành án treo và
cải tạo không giam giữ đúng quy định pháp luật, hoặc Tòa án tự kiểm tra việc thi hành án
treo và thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát nhân dân; yêu cầu Tòa án cung cấp hồ
sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án treo và cải tạo không giam giữ;
- Trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án treo và cải tạo
không giam giữ của cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên
quan và việc giải quyết kháng cáo, khiếu nại, tố cáo đối với việc thi hành án;
- Tham gia việc xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích;
- Đề nghị miễn chấp hành hình phạt theo qui định của pháp luật;
- Kháng nghị với tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới, cơ
quan, tổ chức, đơn vị có vi phạm trong việc thi hành án treo và cải tạo không giam giữ, yêu
cầu chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật trong thi hành án nếu có.
Thứ ba, quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức giám sát giáo dục người bị kết
án:


Cơ quan, tổ chức giám sát giáo dục người bị kết án theo quy định tại Điều 3 Nghị
định 60, 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ là:
Cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý người bị kết án nếu người đó là cán bộ, công
chức, người đang học tập tại cơ sở giáo dục, đào tạo;
Đơn vị quân đội từ cấp đại đội hoặc tương đương, nếu người bị kết án là quân nhân,

công nhân quốc phòng;
Doanh nghiệp, hợp tác xã, nếu người bị kết án là người làm công ăn lương;
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú, nếu người đó
không thuộc các đối tượng trên.
Trong hoạt động thi hành án treo và cải tạo không giam giữ, cơ quan tổ chức giám
sát, giáo dục người bị kết án có trách nhiệm và quyền được qui định tại Điều 7, Điều 8 Nghị
định 60,61/2000/NĐ-CP của Chính phủ.
- Phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người bị kết án;
- Tạo điều kiện để người bị kết án lao động, học tập và hòa nhập vào cuộc sống
chung của cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình;
- Phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan khác và gia đình người bị kết án trong
việc giáo dục, cảm hóa, giúp họ sửa chữa lỗi lầm.
- Yêu cầu người bị kết án thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình; có biện pháp
ngăn ngừa, giáo dục kịp thời khi người đo có biểu hiện tiêu cực và thông báo với cơ quan có
thẩm quyền đề nghị xử lý khi cần thiết;
- Kịp thời biểu dương khi người bị kết án có nhiều tiến bộ, tích cực tham gia các
hoạt động xã hội hoặc lập công;
- Cho phép người bị kết án vắng mặt nơi cư trú;
- Xem xét hoặc theo đề nghị của người bị kết án đề nghị Tòa án cấp huyện hoặc Tòa
án quân sự khu vực nơi người đó đang chấp hành hình phạt xem xét việc giảm thời hạn hoặc
miễn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ còn lại hoặc rút ngắn thời gian thử thách
của án treo khi người bị kết án chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có tiến
bộ;
- Cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời hạn cải tạo không giam giữ hoặc
thời gian thử thách cho người bị kết án;


- Nhận xét bằng văn bản và ghi vào sổ theo dõi quá trình chấp hành hình phạt của
người bị kết án khi người đó chuyển đi nơi khác;
- Tiến hành khấu trừ một phần thu nhập của người bị kết án theo quyết định của Tòa

án để giao nộp cho cơ quan thi hành án dân sự (nếu người bị kết án cải tạo không giam giữ).
- Khi đề nghị Tòa án xem xét việc giảm thời hạn hoặc miễn thời hạn chấp hành hình
phạt còn lại, cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án phải gửi kèm hồ sơ.
- Đối với người bị kết án là cán bộ, công chức, quân nhân, công nhân quốc phòng,
người lao động làm công ăn lương, người đang học tập tại các cơ sở giáo dục, đào tạo chấp
hành hình phạt tại cơ quan, tổ chức đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục đào tạo thì ngoài những
trách nhiệm quyền hạn trên, thủ trưởng các cơ quan, tổ chức trên có trách nhiệm phối hợp
với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó bị kết án.
- Cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục không được đặt thêm nghĩa vụ và hạn chế
khác đối với người bị kết án ngoài những nghĩa vụ quy định tại nghị định và những hạn chế
ghi trong bản án của Tòa án.
- Trong trường hợp xem xét cấp giấy chứng nhận chấp hành xong thời hạn cải tạo
không giam giữ hoặc cấp giấy chứng nhận xong thời gian thử thách của án treo thì cơ quan,
tổ chức giám sát giáo dục phải tổ chức cuộc họp để người bị kết án kiểm điểm, làm cơ sở
cho việc nhận xét đánh giá quá trình chấp hành hình phạt của người đó [6], [7].
Thứ tư, quyền và trách nhiệm của người trực tiếp giám sát giáo dục người bị kết án:
Được quy định tại Điều 9, Điều 10 Nghị định 60,61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000
của Chính phủ:
- Chủ động gặp gỡ người bị kết án để tìm hiểu nguyên nhân, hoàn cảnh khi phạm
tội, tâm tư nguyện vọng của người đó và giải thích, hướng dẫn người đó chấp hành tốt nghĩa
vụ của mình.
- Ba tháng một lần báo cáo với thủ trưởng cơ quan, tổ chức giám sát giáo dục về
tình hình chấp hành của người bị kết án, trừ trường hợp đột xuất hoặc cơ quan, tổ chức giám
sát, giáo dục yêu cầu;
- Khi người bị kết án có đủ điều kiện để xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt (đối
với cải tạo không giam giữ), thời hạn thử thách (đối với án treo) thì báo cáo với thủ trưởng
cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục để đề nghị Tòa án xét giảm thời hạn theo qui định của
Bộ luật Hình sự, trong trường hợp người đó đã chấp hành xong hình phạt hoặc thời gian thử



×