Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Pháp luật thi hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn thực hiện tại địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LÊ DƯƠNG HƯNG

HÀ NỘI – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LÊ DƯƠNG HƯNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. LÊ HỒNG HẠNH


HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi
đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo qui định của Viện Đại học Mở Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Viện Đại học Mở Hà Nội xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Dương Hưng


LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Viện Đại học Mở Hà Nội
đã tận tình dạy dỗ em trong thời gian vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn GS.TS. Lê Hồng Hạnh đã hướng dẫn tận tình để
em hoàn thành luận văn đề tài “Pháp luật thi hành án kinh doanh, thương mại từ
thực tiễn thực hiện tại địa bàn thành phố Hà Nội”.
Em xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã cung cấp số liệu, giúp đỡ
em để em có thể phản ánh chính xác thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm y tế tại
thành phố Hà Nội.



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN
KINH DOANH THƯƠNG MẠI VÀ VIỆC THỰC HIỆN .................................. 7
1.1. Khái niệm thi hành án kinh doanh thương mại............................................... 7
1.2. Đặc điểm của thi hành án kinh doanh thương mại ....................................... 12
1.3. Ý nghĩa của thi hành án kinh doanh thương mại .......................................... 13
1.4. Các yếu tố bảo đảm hiệu quả hoạt động thi hành án kinh doanh thương
mại ............................................................................................................................. 15
1.4.1. Bảo đảm về pháp lý .............................................................................. 15
1.4.2. Bảo đảm về chính trị ............................................................................. 17
1.4.3. Bảo đảm về kinh tế, xã hội.................................................................... 18
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 21
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI.... 22
2.1. Các yếu tố cơ bản của thi hành án kinh doanh thương mại theo pháp luật
hiện hành................................................................................................................... 22
2.1.1. Đối tượng thi hành án kinh doanh thương mại ...................................... 22
2.1.2. Việc ra quyết định thi hành án kinh doanh thương mại ......................... 23
2.1.3. Ủy thác thi hành án kinh doanh thương mại ........................................ 29
2.1.4. Thủ tục THAKDTM ............................................................................. 32
2.1.5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo thi hành án kinh doanh, thương mại .......... 42
2.2. Thực tiễn thực hiện thi hành án kinh doanh, thương mại trên địa bàn
Thành phố Hà Nội.................................................................................................... 44
2.2.1. Những đặc điểm về kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội tác động trực
tiếp đến việc THAKDTM ............................................................................... 44

2.2.2. Thực tiễn thi hành án kinh doanh thương mại tại địa bàn thành phố Hà
Nội trong những năm qua ............................................................................... 47


2.2.3. Đánh giá kết quả từ thực tiễn thực hiện pháp luật THA KDTM tại Hà
Nội ................................................................................................................. 52
2.2.4. Những tồn tại, hạn chế từ thực tiễn thực hiện pháp luật THA KDTM tại
Thành phố Hà Nội .......................................................................................... 58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 78
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH VỀ THI HÀNH ÁN
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...... 79
3.1. Một số giải pháp chung và hướng hoàn thiện pháp luật ............................... 79
3.2. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án kinh doanh thương
mại ............................................................................................................................. 81
3.2.1. Đảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan trong quá trình
thi hành án kinh doanh, thương mại................................................................ 81
3.2.2. Hoàn thiện các điều kiện luật định về thi hành án kinh doanh, thương mại .. 84
3.2.3. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật cho các chủ thể có liên quan
đến thi hành án kinh doanh, thương mại ......................................................... 90
3.2.4. Phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan trong THA KDTM ................................................................................. 91
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 94
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. CHV


Chấp hành viên

2. CQTHA

Cơ quan thi hành án

3. CQTHADS

Cơ quan thi hành án dân sự

4. TAND

Tòa án nhân dân

5. THA

Thi hành án

6. THADS

Thi hành án dân sự

7. VKSND

Viện Kiểm sát nhân dân

8. THAKDTM

Thi hành án kinh doanh thương mại



DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Bảng số liệu tổng số vụ THA KDTM so với tổng số vụ thi hành án dân sự
trong giai đoạn năm 2011-2015 tại Hà Nội. ........................................................... 53
Bảng 2: Bảng số liệu tổng số án kinh doanh thương mại đã thi hành với tổng số án
kinh doanh thương mại phải thi hành giai đoạn năm 2011-2015 tại Hà Nội. .......... 54
Bảng 3: Bảng số liệu về tổng số tiền THA KDTM so với tổng số tiền THADS giai
đoạn năm 2011-2015 tại Hà Nội. ........................................................................... 55
Bảng 4: Bảng số liệu về tổng số tiền án kinh doanh thương mại đã thi hành so với tổng
số tiền án kinh doanh thương mại cần THA giai đoạn năm 2011-2015 tại Hà Nội. ..... 56


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là hoạt động nhằm thực thi các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được
chấp hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với
pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế.
Nhận thức tầm quan trọng của công tác thi hành án, từ khi thực hiện đường
lối đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách,
pháp luật về thi hành án như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (2004) và
nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020. Thể chế hoá đường lối của Đảng, từ năm 1993 đến nay, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng về thi hành án dân sự
(trong đó có công tác THAKDTM), tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc hình thành,
phát triển tổ chức, hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự.
Mặc dù, công tác thi hành án dân sự trong những năm qua đạt được một số
kết quả đáng khích lệ, công tác thi hành án dân sự có tăng lên nhưng chưa thực sự
bền vững, án dân sự vẫn còn tồn đọng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự chưa
cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, và sự quan tâm, mong mỏi của Đảng,
Nhà nước và nhân dân; hoạt động thi hành án chưa thật sự đảm bảo được tính công
bằng và nghiêm minh của pháp luật. Đây là vấn đề rất bức xúc đặt ra trong công tác
1


thi hành án dân sự hiện nay. Thực trạng này, có một phần xuất phát từ nguyên nhân:
trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở nước ta đã có sự cắt khúc, tách rời hầu như hoàn
toàn giữa cơ quan xét xử và cơ quan thi hành án trở thành một trong những nguyên
nhân dẫn đến việc thi hành án bị chậm, tồn đọng, nhiều vụ việc gây khiếu kiện bức
xúc, kéo dài; quá trình tổ chức thi hành án vẫn còn một số khó khăn vướng mắc do thi
hành án dân sự là lĩnh vực có liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác, liên quan đến
nhiệm vụ, quyền hạn của nhiều cơ quan nhà nước khác nhau; chưa có sự phối hợp chặt
chẽ, thống nhất giữa cơ quan pháp luật trong việc xử lý các hành vi không chấp hành án,
chống đối, cản trở thi hành án 1.
Tồn tại lớn nhất trong công tác thi hành án dân sự những năm qua là tình
trạng án "tồn đọng" kéo dài, với số lượng lớn ngày càng tăng, song chưa có biện
pháp hữu hiệu để giải quyết, nhất là đối với THAKDTM. Bởi lẽ, tính chất của công
tác THAKDTM rất phức tạp (thường có lượng tiền phải thi hành rất lớn); nhận thức
về công tác THAKDTM của các cấp, các ngành còn hạn chế; tại một số địa phương,
các cấp chính quyền chưa thực sự quan tâm chỉ đạo thực hiện công tác này; tổ chức
bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan thi hành án dân sự chưa được kiện toàn,
đào tạo và bồi dưỡng kịp thời, cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc

chưa được đầu tư tương xứng với nhiệm vụ mới được giao.
Chính vì vậy, để giải quyết tình trạng "án tồn đọng", nâng cao hiệu quả thi
hành án dân sự nói chung và thi hành án dân sự trong lĩnh vực kinh doanh thương
mại nói riêng cần phải nghiên cứu đề ra các giải pháp đồng bộ, phù hợp với thực tế.
Cần nghiên cứu tình hình này trên địa bàn phức tạp, sẽ cho thấy toàn cảnh bức tranh
về thi hành án kinh doanh thương mại. Có thể thấy một trong những địa bàn phù
hợp đó là Thành phố Hà Nội, vì đây là một trong hai đơn vị có số lượng các vụ việc
phải thi hành án lớn nhất trong cả nước (đứng sau Thành phố Hồ Chí Minh), hơn
nữa với vai trò là thủ đô của đất nước, tính chất các vụ việc khó khăn phức tạp.

Bộ Tư pháp (2013), Báo cáo kết quả tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 1993-2012 và công tác
thi hành án hành chính giai đoạn 1996-2012 thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp.

1

2


Từ những phân tích trên, tác giả lựa chọn đề tài "Pháp luật thi hành án
kinh doanh, thương mại từ thực tiễn thực hiện tại địa bàn thành phố Hà Nội"
làm luận văn thạc sĩ luật học là cấp thiết và có ý nghĩa trong thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, đã và đang có những công trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài những năm gần đây. Trước những đòi hỏi khách quan của công
tác thi hành án dân sự, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi
hành án dân sự, cụ thể là: Đề tài cấp Nhà nước “Luận cứ khoa học của việc đổi mới
tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mớí” do TS.Nguyễn
Đình Lộc làm chủ nhiệm; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình quản lý thống nhất
công tác thi hành án", mã số 96-98- 027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư
pháp chủ trì thực hiện; Đề tài cấp Nhà nước đang thực hiện: "Luận cứ khoa học của

việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do
Bộ Tư pháp chủ trì; Đề tài: "Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện
của Dự án VIE/98/001" do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án.
Một số luận án và công trình nghiên cứu khác như: Luận án tiến sĩ "Hiệu quả
áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự Việt Nam" của tác giả Đặng Đình Quyền
(năm 2012); Luận án Tiến sỹ luật học "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động
thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" (năm 2008) của TS. Nguyễn Quang
Thái;Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự tại Việt
Nam" của tác giả Nguyễn Thanh Thủy (năm 2008); Luận văn thạc sĩ luật học "Xã
hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Lê Xuân Hồng; Luận văn thạc sĩ
luật học "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả
Nguyễn Quang Thái;Luận văn thạc sĩ luật học: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành
án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" của tác giả Nguyễn Công Long;
Luận văn thạc sĩ luật học "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Lê
Anh Tuấn.

3


Bên cạnh đó, còn một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như:
"Pháp lệnh thi hành án sự năm 2004 với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi
hành án" của tác giả Nguyễn Thanh Thuỷ, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên
đề về nghiệp vụ thi hành án dân sự năm 2005; "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự" của tác giả Trần Phương Thảo, Tạp chí Luật học số 7/2007; "Một số kiến
nghị từ thực tiễn hoạt động kiểm sát thi hành án dân sự ở xã, phường, thị trấn" của
tác giả Nguyễn Ngọc Kiên, Tạp chí Kiểm sát số 19/2006; "Hòa giải - biện pháp nâng
cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THADS" của tác giả Phạm Quốc Toản,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 7/2006; "Thi hành án dân sự phải
là công việc, nhiệm vụ của cấp uỷ, chính quyền đoàn thể nhân dân" của tác giả
Trương Vĩnh Trọng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 8/2005; "Biện pháp tự nguyện

trong thi hành án dân sự" của tác giả Phạm Quang Dũng, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật số 4/2005; "Vai trò của công tác hòa giải trong thi hành án dân sự" của tác giả
Đỗ Xuân Lợi, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 01/2005; "Tổ chức và hoạt động thi
hành án dân sự trong cải cách tư pháp" của PGS.TS. Nguyễn Văn Luyện...
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở
những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Ở một số công trình cũng đã đề cập
đến vấn đề thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THADS, nhưng chưa
nghiên cứu vấn đề riêng biệt và chuyên sâu về THADS trong lĩnh vực kinh doanh,
thương mại ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn
đề lý luận và thực tiễn thực hiện việc áp dụng các quy định về thi hành án dân sự
trong các vụ án kinh doanh, thương mạitừ thực tiễn tại địa bàn Thành phố Hà Nội,
luận văn phân tích, đặt ra các trường hợp để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về thi hành án kinh doanh, thương mại nói riêng và thi hành án dân
sự nói chung. Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:

4


- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về thi hành án dân sự nói chung,
đặc biệt các quy định về thi hành án kinh doanh, thương mại;
- Đánh giá toàn diện thực trạng áp dụng các quy định về thi hành án dân sự
trong các vụ án kinh doanh, thương mại trên địa bàn Thành phố Hà Nội;
- Phân tích những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định
về thi hành án dân sự trong các vụ án kinh doanh, thương mại trên địa bàn Thành
phố Hà Nội, từ đó đưa ra hướng hoàn thiện và giải pháp tăng cường hiệu quả thực
hiện pháp luật về thi hành án kinh doanh, thương mại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung nghiên cứu cơ sở lý

luận về thi hành án dân sự; thực trạng thi hành án dân sự trong lĩnh vực kinh doanh,
thương mại; và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về THAKDTM trên địa bàn
Thành phố Hà Nội từ năm 2011 đến nay.Từ đó rút ra những giải pháp hoàn thiện
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự nói chung, thi
hành án kinh doanh, thương mại nói riêng.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên phương pháp luận khoa học xã hội ở Việt Nam
mà nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, về mối quan hệ giữa
pháp luật và đời sống thực tiễn, giữa thực thi pháp luật và xây dựng pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, tác giả đã sử
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, và kết
hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp lịch sử được sử dụng ở các chương của luận
án nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, khái quát hóa, đánh giá thực trạng và đề xuất các
quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về THAKDTM;

5


- Phương pháp lịch sử, thống kê, so sánh được sử dụng để đánh giá về thực tiễn
thực hiện pháp luật về THAKDTM trên địa bàn Thành phố Hà Nội;
- Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh pháp luật cũng được sử dụng
trong việc xác định quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về
THAKDTM.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào lý luận về
THADS nói chung và thi hành án dân sự trong các vụ án kinh doanh thương mại

nói riêng nhằm thống nhất nhận thức về bản chất, nội dung THADS và thấy được
tính đặc thù trong việc thi hành án dân sự đối với các vụ án kinh doanh, thương mại.
Trên cơ sở đó có cách nhìn nhận, đánh giá khoa học, thấy rõ những mặt được,
những vướng mắc bất cập của các quy định về thi hành án trong các vụ án kinh
doanh, thương mại cũng như thực trạng áp dụng các quy định này. Kết quả của việc
nghiên cứu luận văn là các luận cứ khoa học và thực tiễn có giá trị trực tiếp đóng
góp vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về THADS trong lĩnh vực kinh
doanh, thương mại ở Việt Nam. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo của các cơ
quan quản lý THADS, cơ quan THADS, các cơ quản lý nhà nước có quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
Luận văn gồm 03 Chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật thi hành án kinh doanh,
thương mại và việc thực hiện;
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về thi hành án kinh doanh, thương
mại trên địa bàn thành phố Hà Nội;
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện các quy định về thi hành án kinh doanh,
thương mại từ thực tiễn thành phố Hà Nội.

6


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN
KINH DOANH THƯƠNG MẠI VÀ VIỆC THỰC HIỆN
1.1. Khái niệm thi hành án kinh doanh thương mại
Trong quá trình thực hiện chức năng của Nhà nước, để bảo đảm hiệu lực của
bản án, quyết định về dân sự của Toà án, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể,
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, nhiều quy phạm pháp luật đã được ra đời để điều chỉnh các mối quan hệ

nêu trên, trong đó có pháp luật thi hành án.
Thi hành án được hiểu là việc đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật để thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án một mặt bảo đảm việc thực
hiện quyền tư pháp của Nhà nước, mặt khác là công cụ hữu hiệu để khôi phục lại
các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân khi bị xâm hại.
Để làm rõ khái niệm thi hành án kinh doanh thương mại thì trước hết cần
phải hiểu rõ khái niệm về thi hành án dân sự. Liên quan đến vấn đề này, hiện nay đã
có nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về thi hành
án dân sự. Cụ thể:
Quan điểm 1: Thi hành án dân sự không phải một thủ tục tố tụng dân sự mà
là hoạt động mang tính chất chấp hành và điều hành.Như vậy, theo quan điểm này
thì thi hành án dân sự là thủ tục hành chính.
Tác giả không đồng tình với quan điểm này bởi lẽ bản chất của THADS là
dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành phán quyết của cơ quan xét xử với
các cách thức và biện pháp khác nhau nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định
trong bản án, quyết định của Tòa án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Và
mục đích cuối cùng của THADS là bảo đảm cho các quyết định của Tòa án được
ghi trong bản án, quyết định được thực thi trên thực tế chứ không phải là ra văn bản

7


áp dụng pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành - nét đặc trưng của hoạt động
hành chính. Mặt khác, tính chất chấp hành không chỉ là yêu cầu trong hoạt động
THADS mà còn là yêu cầu bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng trước đó - chấp
hành các quy định của pháp luật.
Do đó, quan điểm cho rằng THADS là hoạt động mang tính chất chấp hành
và điều hành vẫn chưa phản ánh chính xác và đầy đủ bản chất của hoạt động
THADS.
Quan điểm 2: thi hành án dân sự là dạng hoạt động hành chính - tư pháp2.

Theo tác giả, quan điểm này là hợp lý nhất, phản ánh đầy đủ bản chất của
THADS đó là vừa mang tính chất của hoạt động hành chính, vừa có những yếu tố
của hoạt động tư pháp, bởi lẽ: THADS không phải là một giai đoạn tố tụng, có mục
đích khác với mục đích của tố tụng. Tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ
việc đã diễn ra để trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ việc theo đúng các quy
định của pháp luật. Với mục đích đó, toàn bộ quá trình tố tụng diễn ra theo quy trình
hết sức chặt chẽ và phải bảo đảm các nguyên tắc như bình đẳng, công khai, dân chủ,
tôn trọng quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng... và khi có phán quyết của
Tòa án thì quá trình tố tụng kết thúc. Trong khi đó, THADS là quá trình tiến hành
các hoạt động nhằm thực hiện các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật. Khác với trong thủ tục tố tụng dân sự, mối quan hệ giữa các chủ thể trong
hoạt động THADS là tổ chức thi hành, có tính hành chính, mệnh lệnh liên quan.
Theo đó, quan điểm cho rằng THADS mang tính hành chính - tư pháp là thích hợp
hơn cả.
Tính hành chính thể hiện ở chỗ: THADS là dạng hoạt động chấp hành, quản lý.
(i) Là dạng hoạt động chấp hành vì THA chỉ được tiến hành trên cơ sở các
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khổ luật định;
toàn bộ quá trình THA với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều
nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định của
Tòa án và theo các quy định cụ thể của pháp luật.
2

Nguyễn Thanh Thủy (2001), Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội. Tr 14

8


Thi hành án dân sự là một giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối
quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng tại Tòa án trước đó. Giai đoạn

THADS có thể bắt đầu ngay từ khi việc xét xử vụ án chưa kết thúc như việc thi
hành các quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án (Điều 130 Luật THADS) hoặc
những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay như bản án,
quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất
sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần,
nhận người lao động trở lại làm việc mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị (khoản
2 Điều 2 Luật THADS). Ngay cả khi việc xét xử chấm dứt, bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nhưng mối quan hệ giữa cơ quan xét xử và cơ quan THADS vẫn
tồn tại như việc cơ quan THADS yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ
hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định khi phát hiện
có sai lầm hoặc án tuyên không khả thi, không thể thi hành được (khoản 2, khoản 3
Điều 179 Luật THADS). Trong quá trình tổ chức THADS, Chánh án Tòa án, Viện
trưởng Viện Kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu cơ quan THADS hoãn THA (điểm d,
khoản 1, Điều 48 Luật THADS); tạm đình chỉ THADS để xem xét lại bản án theo
trình tự giám đốc thẩm; tái thẩm hoặc Tòa án thông báo về việc thụ lý đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản đối với người phải THA (khoản 1, khoản 2 Điều 49 Luật
THADS). Những quyết định này mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các
chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc THADS. Các cơ quan, tổ
chức, công dân, trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối
hợp thực hiện để THADS đạt hiệu quả.
(ii) Là dạng hoạt động quản lý vì THADS là sự tác động của pháp luật, của
các cơ quan THADS tới đối tượng phải THA để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng
các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án,
quyết định của Tòa án; phải tuân theo các quy định của pháp luật; giáo dục họ có ý
thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, tôn trọng kỉ luật nhà nước.
Tính tư pháp thể hiện ở chỗ: căn cứ để THA là các bản án và quyết định của
Tòa án và có sự tham gia của các cơ quan tư pháp vào quá trình THA. Về mặt hình

9



thức, bên cạnh các chủ thể là Tòa án, Viện Kiểm sát, các chủ thể tham gia vào giai
đoạn THADS đông đảo và đa dạng hơn so với các giai đoạn tố tụng tại Tòa án trước
đó. Ví dụ: tham gia thi hành án dân sự còn có tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân cấp xã
(nơi người phải THA cư trú), Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh; cơ quan, tổ
chức nơi người phải THA làm việc; ngân hàng, tổ chức tín dụng nơi người phải
THA mở tài khoản, giao dịch... Các chủ thể này có đặc điểm khác với các chủ thể
trong giai đoạn tố tụng trước đó về địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn.
Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, tác giả đồng tình với quan
điểm coi thi hành án là một hoạt động quản lý hành chính- tư pháp. Do đó, thi hành
án được hiểu là hoạt động hành chính - tư pháp mang tính quyền lực nhà nước, do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thi hành theo trình tự thủ tục do pháp luật quy
định, thông qua đó bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền được thi hành trên
thực tế.
Từ khái niệm về thi hành án dân sự nói chung, phải khẳng định thi hành án
kinh doanh thương mại là một bộ phận của hoạt động thi hành án dân sự. Để có một
khái niệm chính xác về thi hành án kinh doanh thương mại, ta cần hiểu thế nào là
kinh doanh thương mại, hoạt động thương mại, án kinh doanh thương mại từ đó mới
có khái niệm về thi hành án kinh doanh thương mại cụ thể.
Trong phạm vi điều chỉnh của Luật thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 sửa
đổi 2014 (Luật thi hành án dân sự) yếu tố "kinh doanh thương mại" chưa được thể
hiện rõ (ngoài đối tượng là quyết định của trọng tài thương mại). Tuy nhiên, án kinh
doanh thương mại là loại án có vị trí quan trọng trong lĩnh vực thi hành án, xuất phát
từ tính chất và giá trị cần được thi hành án. Vậy, căn cứ nào để cơ quan THADS thụ
lý, tổ chức thi hành các bản án, quyết định có yếu tố "kinh doanh thương mại"?
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 "hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi nhuận, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác". Ngày
nay xã hội ngày càng phát triển thì các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nhuận


10


càng nhiều, các hoạt động kinh doanh thương mại ngày càng đa dạng và phong phú,
cũng vì vậy các tranh chấp, các vụ viêc liên quan đến hoạt động kinh doanh thương
mại xảy ra nhiều hơn.
Theo Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, những tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án gồm có:
(1) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, bao
gồm: (i) Mua bán hàng hoá; (ii) Cung ứng dịch vụ; (iii) Phân phối; (iv) Đại diện, đại
lý; (v) Ký gửi; (vi) Thuê, cho thuê, thuê mua; (vii) Xây dựng; (viii) Tư vấn, kỹ
thuật; (ix) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ
nội địa; (x) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
(xi) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; (xii) Đầu tư, tài chính,
ngân hàng; (xiii) Bảo hiểm; (xiv) Thăm dò, khai thác;
(2) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
(3) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty;
(4) Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Bên cạnh đó, Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 cũng quy định những
yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, bao gồm:
(1) Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết
các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại;
(2) Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án,
quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu
thi hành tại Việt Nam;


11


(3) Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh,
thương mại của Trọng tài nước ngoài;
(4) Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Cần hiểu rằng bản án, quyết định dân sự được đề cập trong Luật thi hành án
dân sự là bao hàm cả bản án, quyết định về kinh doanh, thương mại. Do tính chất
tương đồng giữa vụ án và việc dân sự với vụ án và việc kinh doanh, thương mại nên
pháp luật THADS không tách bạch giữa pháp luật THADS với pháp luật
THAKDTM. Những quy định của pháp luật THADS cũng chính là các quy định của
pháp luật THAKDTM. Do đó, không tồn tại một hệ thống pháp luật THAKDTM
chuyên biệt, độc lập so với hệ thống pháp luật thi hành án dân sự nói chung.
Như vậy, thi hành án kinh doanh thương mại là hoạt động hành chính - tư
pháp, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định nhằm bảo đảm thi hành phần tài sản, lợi ích của các bên trong bản án,
quyết định của Tòa án trong vụ án kinh doanh thương mại.
1.2. Đặc điểm của thi hành án kinh doanh thương mại
Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì thi hành án trong lĩnh vực
kinh doanh thương mại là một hình thức cụ thể của hoạt động thi hành án dân sự.
Đó cũng là hoạt động hành chính - tư pháp, do các cơ quan thi hành án có thẩm
quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật thi hành án quy định.Thi hành án
kinh doanh thương mại mang đầy đủ những đặc điểm của thi hành án dân sự, tuy
nhiên,thi hành án kinh doanh thương mại vẫn có có một số đặc trưng riêng, cụ thể:
Thứ nhất, chủ thể thi hành án kinh doanh thương mại chủ yếu là các doanh
nghiệp. Xuất phát từ quy định của Luật thương mại, Luật tố tụng dân sự. Theo đó,
đặc điểm để xác định các vụ án kinh doanh thương mại là tranh chấp giữa các chủ
thể kinh doanh với nhau là vì mục đích lợi nhuận Hiện nay, chủ yếu là tranh chấp
giữa một bên là ngân hàng, tổ chức tín dụng với một bên là doanh nghiệp. Ví dụ,

ngân hàng với công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cũng có thể giữa ngân hàng với

12


các hộ kinh doanh cá thể... vấn đề quan trọng là lý do của tranh chấp xuất phát từ
hoạt động kinh doanh, mục đích của việc vay vốn nhằm kinh doanh.
Thứ hai, tài sản để đưa ra thi hành trong án kinh doanh thương mại thường có
giá trị lớn. Tài sản của các chủ thể kinh doanh thương mại tồn tại dưới nhiều hình
thức khác nhau như: tài khoản tại ngân hàng, sản phẩm hàng hóa,... và nhiều tài sản
tương đối đặc biệt như: dây chuyền công nghệ, thương hiệu kinh doanh, nhãn hiệu
hàng hóa...Đây đều là những tài sản có giá trị lớn.
Trong quá trình hoạt động, để có được vốn hoạt động thì các doanh nghiệp
phải thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó vay vốn ngân hàng
để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm
bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp là hình
thức được các doanh nghiệp sử dụng khá phổ biến. Do đó, doanh nghiệp thường sử
dụng chính tài sản sẵn có của mình để đảm bảo các khoản vay có giá trị, các hợp
đồng tín dụng trong hoạt động kinh doanh, thương mại thường có giá trị lớn. Dẫn tới
khi đưa ra thi hành án, các tài sản trong THA KDTM cũng là những tài sản “khổng
lồ” của doanh nghiệp.
1.3. Ý nghĩa của thi hành án kinh doanh thương mại
Hoạt động thi hành án kinh doanh thương mại là hoạt động thực thi phán
quyết của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền liên quan đến các vấn đề về tranh chấp
trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Với đặc thù là hoạt động hành chính - tư
pháp, do các cơ quan thi hành án có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do
pháp luật thi hành án quy định thì hoạt động thi hành án kinh doanh thương mại có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bao gồm ý nghĩa của hoạt động thi hành án dân sự nói
chung như:
Thông qua hoạt động thi hành án, những phán quyết của Tòa án nhân danh

Nhà nước, thể hiện ý chí của Nhà nước được trở thành hiện thực, công lý và công
bằng xã hội được thực hiện trên thực tế. Quá trình giải quyết một vụ án chỉ kết thúc
khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành kịp thời và đầy đủ. Phán quyết của

13


Tòa án có trở thành hiện thực hay không tuỳ thuộc vào quá trình thực thi nó trong
cuộc sống. Thông qua giai đoạn thi hành án, các bản án, quyết định của Tòa án mới
có hiệu lực trên thực tế, công lý mới được thực hiện. Với ý nghĩa đó, thi hành án
dân sự là một hoạt động không thể thiếu được của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích
của đương sự. Thông qua thi hành án, kết quả của công tác xét xử được củng cố,
hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án được bảo đảm thực thi. Khi công tác thi
hành án dân sự được thực hiện nhanh chóng, kịp thời sẽ có tác dụng tích cực đối với
hoạt động xét xử; góp phần củng cố, tăng cường uy tín của cơ quan xét xử trước xã
hội. Không tổ chức tốt và kịp thời công tác thi hành án, thì các phán quyết của tòa
án chỉ là công lý trên giấy.
Mặt khác, thi hành án dân sự còn là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn
những phán quyết của Tòa án, phản ánh trung thực chất lượng và hiệu quả của hoạt
động xét xử. Thông qua hoạt động thi hành án, các thẩm phán TAND có thể rút ra
cho mình những bài học bổ ích, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử 3.
Ngoài ra, thi hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục ý thức
pháp luật của nhân dân. Đặc thù của thi hành án dân sự nước ta là sự kết hợp chặt
chẽ giữa vai trò chủ động, phát huy trách nhiệm của CHV, cơ quan THA. Trong
THA còn có sự chỉ đạo sát xao, cụ thể của chính quyền địa phương, sự phối hợp của
các cơ quan tổ chức có liên quan, sự đồng tình của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng
hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong hoạt động thi hành án dân sự.
Do vậy, thi hành án không chỉ là hoạt động nghiệp vụ riêng của cơ quan THA,
CHV mà còn là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, đoàn thể
xã hội và mọi thành viên trong cộng đồng. Nói cách khác đó còn là trách nhiệm của

cả hệ thống chính trị.
Thông qua các quy định của pháp luật thi hành án dân sự và áp dụng trong
việc xử lý các hành vi chống đối, cản trở hoặc can thiệp trái pháp luật vào quá trình
thi hành án, mọi người càng thấy được thái độ cụ thể của pháp luật đối với những
người cố ý vi phạm. Cũng từ đó nhận thức pháp luật được nâng lên, ý thức pháp luật
Nguyễn Thanh Thủy (2001), Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Tr 19-20

3

14


của nhân dân, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức được nâng cao. Tổ chức
tốt công tác thi hành án còn tạo niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân vào tính nghiêm
minh, công bằng của pháp luật và sức mạnh của Nhà nước ngày càng được củng cố
vững chắc.
Bên cạnh những ý nghĩa chung của hoạt động thi hành dân sự, hoạt động
THAKDTM có ý nghĩa đặc trưng. Cụ thể:
Kinh doanh, thương mại là môi trường hiện đang có nhiều bất cập, nhất là
trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh và đảm bảo khôi phục quyền và lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp, thương nhân. Việc doanh nghiệp này chiếm dụng vốn
của doanh nghiệp khác một cách bất hợp pháp, được Tòa án ra bản án mà không
thực hiện được sẽ khó thúc đẩy được sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy đòi hỏi
phải thực thi nhanh và hiệu quả bản án, quyết định của Tòa án trong lĩnh vực này.
Đó là một trong những yêu cầu cơ bản của việc phát triển kinh tế thị trường.
Tài sản để đưa ra thi hành trong án kinh doanh, thương mại thường có giá trị
lớn. Chính vì vậy, hoạt động kinh doanh thương mại hiệu quả đem lại khoản lợi
nhuận khổng lồ cho doanh nghiệp, các chủ sở hữu bao giờ cũng cần nguồn vốn lớn
đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế đất nước càng ngày càng phát triển.

Hơn nữa, hầu hết các vụ thi hành án đều tập trung vào lĩnh vực kinh doanh
thương mại, nhất là trong tình hình án tín dụng ngân hàng tồn đọng rất nhiều, do đó,
hoạt động thi hành án kinh doanh thương mại ngày càng phát triển sẽ giảm bớt phần
nào số lượng án tồn đọng trên tổng số vụ việc thi hành án dân sự.
1.4. Các yếu tố bảo đảm hiệu quả hoạt động thi hành án kinh doanh thương mại
Các yếu tố bảo đảm hiệu quả hoạt động THA kinh doanh thương mại là
những yếu tố, những điều kiện cần thiết để hoạt động này chắc chắn được thực hiện.
Có nhiều yếu tố khác nhau có thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thi hành song
những yếu tố dưới đây có thể được coi là những yếu tố chính:
1.4.1. Bảo đảm về pháp lý

15


Một là, chất lượng pháp luật về THAKDTM.Trong mọi lĩnh vực chỉ phát
triển được khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ, thể chế hóa được
các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước. THAKDTM cũng vậy, muốn thực hiện tốt công tác THAKDTM
phải có hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, dễ tiếp cận. Pháp luật tTHAKDTM
phải tạo ra được một hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động thi hành án,
đồng thời là cơ sở để đánh giá sự tuân thủ pháp luật của cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp và cũng là công cụ để phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật, khôi phục và bảo đảm trật tự quản lý Nhà nước. Có thể nói, một hệ thống
pháp luật về tTHAKDTM hoàn chỉnh là điều kiện cần, bảo đảm cho việc nâng cao
hiệu quả công tác THAKDTM được đúng đắn.
Hai là, bản án, quyết định dân sự phải thật sự rõ ràng, có tính khả thi. Bản án là
cơ sở pháp lý để ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan. Vì vậy, để các
bản án có thể thi hành trên thực tế thì trước hết bản án, quyết định của Tòa án về kinh
doanh, thương mại phải cụ thể về nội dung. Quyền và nghĩa vụ được ghi nhận trong
bản án, quyết định của Tòa án phải có khả năng thực thi trên thực tế. Ngoài ra, để tránh

hiểu sai, hiểu không đúng thì lời văn của bản án, phải rõ ràng, dễ hiểu và chỉ hiểu theo
một nghĩa.
Bản án, quyết định của Tòa án phải đảm bảo tính chung thẩm cao. Có như
vậy mới hạn chế được tình trạng bản án, quyết định kinh doanh thương mại có hiệu
lực pháp luật được đưa ra thi hành nhưng sau đó lại được hoãn, tạm đình chỉ, kháng
nghị, huỷ hoặc cải sửa làm ảnh hưởng tới quá trình thực thi bản án của các bên có
liên quan.
Ba là, công tác tổ chức thực hiện pháp luật trong hoạt động THA kinh doanh,
thương mại phải bảo đảm thực sự có hiệu quả. Khi tổ chức thực hiện pháp luật có
liên quan đến hình thức tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Việc đã có hệ thống pháp luật thống nhất đồng bộ dễ hiểu nhưng khi áp dụng pháp
luật lại không đúng tinh thần quy định thì việc đó cũng không đảm bảo hiệu quả của

16


hoạt động THAKDTM đúng. Có thể nói, việc thi hành án kinh doanh thương mại
rất khó khăn vì tính chất án kinh doanh, thương mại thường rất phức tạp. Do đó,
việc tuân thủ pháp luật, hiểu và áp dụng quy định đó là việc rất quan trong trong quá
trình THAKDTM.
Bốn là, công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật và xử lý vi phạm
pháp luật phải thực hiện thật sự có hiệu quả. Giám sát, kiểm tra nhằm mục đích uốn
nắn, chấn chỉnh hoạt động chấp hành và thực thi pháp luật, kịp thời có những biện
pháp để bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, chính xác trong thực tế.
1.4.2. Bảo đảm về chính trị
Thứ nhất, phát huy vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc bảo đảm
hiệu quả hoạt động THAKDTM. Đặc trưng của hệ thống chính trị ở nước ta là một
đảng duy nhất cầm quyền. Trong khi đó THA kinh doanh, thương mại có vai trò
quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án kinh
doanh, thương mại nói riêng. Bản án, quyết định của Toà án chỉ thực sự có giá trị

khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động THAKDTM là công đoạn cuối cùng, bảo
đảm cho bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án được chấp hành,
góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa;
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Vì vậy, không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng.
Ngoài ra, với vai trò lãnh đạo của mình, việc phát huy vai trò của các cấp uỷ
Đảng đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức phối hợp, chỉ đạo giải quyết những
vụ việc thi hành án kinh doanh thương mại phức tạp có liên quan đến đường lối của
Đảng và tình hình an ninh chính trị ở địa phương.

Thứ hai, Nhà nước cần phải tạo ra một hệ thống cơ quan THA đủ mạnh để
đảm bảo hiệu quả trong hoạt động THAKDTM. Việc tổ chức hệ thống các cơ quan
THA cũng cần bảo đảm cho CHV có thể chủ động trong việc đưa ra các quyết định
17


×