Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Bài thu hoạch Đồng chí nãy nêu nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với dân tộc và cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.07 KB, 37 trang )

BÀI THU HOẠCH
LỚP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO HỌC VIÊN ĐỐI TƯỢNG KẾT NẠP ĐẢNG
Câu hỏi I:
Lựa chọn 1: Chứng minh rằng sự ra đời của ĐCSVN ngày 3/2/1930 là một tất yếu
khách quan?
Đồng chí nãy nêu nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với dân
tộc và cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
Trả lời:
I. Sự ra đời của Đảng là một tất yếu khách quan.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện. Tám thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách
mạng Tháng Tám 1945 thành công, xoá bỏ hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam); đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi
rất vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển của dân tộc ta: kỷ nguyên độc
lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội; mở ra thời đại mới: thời đại Hồ Chí Minh.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, là cả
một pho lịch sử bằng vàng. Kho tàng lịch sử quý giá đó không chỉ gồm những sự kiện
lịch sử oanh liệt, hào hùng của Đảng và dân tộc mà điều có ý nghĩa lớn lao là những
kinh nghiệm, những bài học lịch sử, những vấn đề lý luận cách mạng Việt Nam được
tổng kết từ hiện thực lịch sử với những sự kiện oanh liệt hào hùng đó.
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự chuẩn bị
đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Nhìn vào hoàn cảnh
trong nước và thế giới lúc bấy giờ, nhìn vào quá trình phát triển của lực lượng cách
mạng, ta có thể thấy được sự ra đời của Đảng là một tất yếu khách quan, đáp ứng nhu


cầu lịch sử của đất nước ta; phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
1.Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX
a. Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn
độc quyền. Các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao
1


động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị
tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên
cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay
gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
b. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác -Lênin
Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh,
đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư
tưởng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong
hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển trở thành chủ nghĩa
Mác - Lê nin.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra đảng cộng sản. Sự
ra đời đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân chống áp bức, bóc lột. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848) xác định: những
người cộng sản luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào; là bộ phận kiên
quyết nhất trong các đảng công nhân ở các nước; họ hiểu rõ những điều kiện, tiến
trình và kết quả của phong trào vô sản. Những nhiệm vụ chủ yếu có tính quy luật mà
chính đảng của giai cấp công nhân để thực hiện mục đích giành lấy chính quyền và
xây dựng xã hội mới. Đảng phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân,
mọi chiến lược, sách lược của Đảng đều luôn xuất phát từ lợi ích của giai cấp công
nhân. Nhưng, Đảng phải đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Bởi
vì giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng được giai cấp mình nếu đồng thời giải

phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin
đã lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những phần tử ưu tú, tích cực ở các nước
thuộc địa vào phong trào cộng sản.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu
nước và phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng vô
sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mang Việt Nam,
sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
c. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản
Năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Nhà nước Xôviết
dựa trên nền tảng liên minh công - nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bonsêvich Nga ra
đời. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã
trở thành hiện thực, đồng thời mở đầu một thời đại mới “ thời đại cách mạng chống đế
quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cuộc cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước và là một trong những động lực
2


thúc đẩy sự ra đời nhiều đảng cộng sản: Đảng Cộng sản Đức, Đảng cộng sản Hungari
(năm 1918), Đảng Cộng sản Pháp (năm 1919)…
Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười nêu tấm gương sáng trong
việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười,
Nguyễn ái Quốc khẳng định: Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân
dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỉ nay. Và “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng
muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng làm gốc, phải có đảng vững bền, phải
bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc
Tư và Lênin”.
Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản
có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lênin được công bố tại Đại hội II Quốc tế cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương
hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các
dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản.
Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc
không những đánh giá cao sự kiện ra đời Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cách
mạng thế giới, mà còn nhấn mạnh vai trò của tổ chức này đối với cách mạng Việt
Nam “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”.
2. Hoàn cảnh trong nước

a. Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp
- Chính sách cai trị của thực dân Pháp
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời
dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết
lập bộ máy thống trị ở Việt Nam.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực
đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam ra thành
ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
Đồng thời với chính sách nham hiểm này, thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ
trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột về kinh tế: tiến hành cướp
đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở
công nghiệp; xây dựng hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ cho chính sách
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp đã tạo nên sự chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam (hình thành một số ngành
kinh tế mới...) nhưng cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào tư
bản Pháp, bị kìm hãm trong vòng lạc hậu.
3



Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục thực dân; dung
túng, duy trì các hủ tục lạc hậu... Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị
thực dân ở Đông Dương: “Chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục
nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm... bằng thuốc phiện, bằng
rượu... chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự
do học tập”.
- Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc.
Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột,
áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa,
một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu
tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân: giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt
Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần
cùng của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và
phong kiến tay sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành
lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam: Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp. Đa số công nhân Việt Nam, trực tiếp xuất thân từ giai cấp nông dân,
nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam.
Vì vậy, giai cấp công nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân.
Giai cấp công nhân Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột. Đặc điểm nổi
bật của giai cấp công nhân Việt Nam là ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam,
và vừa lớn lên nó đã sớm tiếp thụ ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
nhanh chóng trở thành một lực lượng chính trị tự giác, thống nhất khắp Bắc Trung
Nam…
Giai cấp tư sản Việt Nam: Bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp…
Trong giai cấp tư sản có một bộ phận kiêm địa chủ.Ngay từ khi ra đời, giai cấp tư sản

Việt Nam đã bị tư sản Phảp và tư sản người Hoa cạnh tranh, chèn ép, do đó, thế lực
kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé và yếu ớt. Vì vậy, giai
cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ
đi đến thành công.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những
người làm nghề tự do… Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của
tầng lớp tiểu tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở
thành những người vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu nước, căm thù đế quốc,
thực dân, lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào. Vì
4


vậy, đây là lực lượng có tinh thần cách mạng cao và nhạy cảm chính trị. Được phong
trào cách mạng rầm rộ của công nông thức tỉnh và cổ vũ, họ bước vào hàng ngũ cách
mạng ngày càng đông và đóng một vai trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của
nhân dân, nhất là ở thành thị.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội
Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời hai
giai cấp mới là công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt
Nam lúc này đều mang thân phận người bị mất nước và ở những mức độ khác nhau,
đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn
cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, đã nẩy
sinh mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc,
đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược, giành
độc lập cho nhân dân, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành lại
dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc,
giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
b. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những phong trào tiêu

biểu diễn ra trong thời kỳ này là:
Phong trào Cần Vương (1885 – 1896): Ngày13/7/1885, Vua Hàm Nghi xuống
chiếu Cần Vương. Phong trào Cần Vương phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc
Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Ngày 01/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng phong
trào Cần Vương vẫn tiếp tục đến năm 1896.
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ năm 1884, nghĩa quân Yên Thế
đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó khăn, thiệt hại. Cuộc chiến
đấu của nghĩa quân Yên Thế kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918): các cuộc khởi nghĩa vũ
trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam vẫn tiếp diễn, nhưng đều không thành công.
Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng
phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước, giải quyết thành
công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.
Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước dưới
sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản
diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải phóng
dân tộc đầu thế kỉ XX có sự phân hóa thành hai xu hướng. Một bộ phận chủ trương
đánh đổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia bằng
biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải cách là giải pháp để tiến tới khôi
phục độc lập.
5


Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu ( 1867-1941) - quê Nghệ An
với chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục nền
độc lập cho dân tộc. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu trải qua nhiều bước
thăng trầm, đi từ lập trường quân chủ lập hiến đến lập trường dân chủ tư sản, nhưng
đều bị thất bại. Vào nửa đầu của thế kỉ XX, Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của Cách
mạng Tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc đánh giá “Phan Bội Châu là tiêu biểu cho
chủ nghĩa quốc gia”.Việc cụ dựa vào Nhật để đánh Pháp chẳng khác nào đuổi hổ cửa

trước rước beo cửa sau”.
Đại diện cho khuynh hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận
động cải cách văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước cho nhân dân; đả kích bọn
vua quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân
trí, chấn dân trí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang cầu
viện nước ngoài. Hoạt động cách mạng của Phan Châu Trinh đã góp phần làm thức
tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, về phương pháp, “Cụ Phan
Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương… điều đó là sai lầm, chẳng
khác gì đến xin giặc rủ lòng thương”.
Ngoài ra, trong thời kỳ này ở Việt nam còn nhiều phong trào đấu tranh khác như:
Phong trào Đông Kinh nghĩa thục(1907); Phong trào “tẩy chay Khách trú”(1919);
Phong trào chống độc quyền xuất nhập ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong các
hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố… đòi cải cách tự do dân chủ…
Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng phái ra đời: Đảng lập hiến
(năm1923); Đảng Thanh niên ( tháng 3 – 1926); Đảng thanh niên cao vọng (năm
1926); Việt Nam nghĩa đoàn (năm 1925), sau nhiều lần đổi tên, tháng 7 -1928 lấy tên
là Tân Việt cách mạng Đảng; Việt Nam quốc dân Đảng (tháng 12-1927). Các đảng
phái chính trị tư sản và tiểu tư sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước
chống Pháp, đặc biệt là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng.
Tân Việt cách mạng Đảng ra đời và hoạt động trong bối cảnh Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên phát triển mạnh, đã tác động mạnh mẽ đến Đảng này. Trong nội bộ
Đảng diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng: tư tưởng cách mạng vô sản và tư
tưởng cải lương. Cuối cùng khuynh hướng cách mạng theo quan điểm vô sản thắng
thế. Một số đảng viên của Tân Việt chuyển sang Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Số đảng viên tiên tiến còn lại trong Tân Việt tích cực chuẩn bị để tiến tới thành lập
một chính đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Việt Nam quốc dân Đảng là một đảng chính trị theo xu hướng dân chủ tư sản. Điều
lệ Đảng ghi mục tiêu hoạt động là: trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới
cách mạng; đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua, thiết lập nền dân quyền. Sau vụ
ám sát Ba Danh, trùm mộ phu đồn điền cao su của Pháp (tháng 2-1929), Đảng bị

khủng bố dữ dội, tổ chức đảng bị vỡ ở nhiều nơi. Trước tình thế nguy cấp, lãnh đạo
Việt Nam quốc dân Đảng đã quyết định dốc hết lực lượng vào trận đấu tranh sống mái
6


với kẻ thù. Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân Đảng bắt đầu từ đêm ngày 9- 2 –
1930 ở Yên Bái, Phú Thọ, Hải Dương, Thái Bình… trong tình thế hoàn toàn bị động
nên đã bị thực dân Pháp nhanh chóng dập tắt.
Trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống Pháp
diễn ra sôi nổi. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng tới giành
độc lập cho dân tộc, nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau nhằm khôi phục chế
độ phong kiến, hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế
độ cộng hòa tư sản. Các phong trào đấu tranh diễn ra với các phương thức và biện
pháp khác nhau: bạo động hoặc cải cách; với quan điểm tập hợp lực lượng bên ngoài
khác nhau; dựa vào Pháp để thực hiện cái cách, hoặc dựa vào ngoại viện để đánh
Pháp… nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại.
Một số tổ chức chính trị theo lập trường quốc gia tư sản ra đời và đã thể hiện vai
trò của mình trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và dân chủ. Nhưng các phong
trào và tổ chức trên, do những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị, hệ thống tổ
chức thiếu chặt chẽ; chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng xã hội cơ bản (công nhân
và nông dân), nên cuối cùng đã không thành công. Sự thất bại của các phòng trào yêu
nước theo lập trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đã phản ánh địa vị
kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp này trong tiến trình cách mạng dân tộc, phản
ánh sự bất lực của họ trước những nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra.
Mặc dù bị thất bại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỉ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu
nước, kiên cường bất khuất vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam và chính sự phát
triển của phong trào yêu nước đã tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ
nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở
thành một trong ba nhân tố dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư
tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc
về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường
cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của
nhân dân có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đi đến
thành công.
c. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản


Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho
việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình tìm
đường cứu nước, Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới.
Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các
7


cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), Cách mạng Pháp (1789)
… nhưng cũng nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Từ đó,
Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập
và hạnh phúc cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917. Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do,
bình đẳng thật”.
Tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Người tìm
thấy trong Luận cương của Lênin lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân

Việt Nam: về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế
giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác –Lênin.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (12/1920) Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc
gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này
đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người - từ người yêu
nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn “Muốn cứu
nước phải giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”.
Từ đây cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế,
Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, vạch phương hướng chiến
lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Quá trình Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng được đánh dấu
bằng việc Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - LêNin vào Việt Nam thông qua
những bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và đặc
biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925). Tác phẩm này đã vạch rõ
những âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc che dấu tội ác dưới cái vỏ bọc
“khai hóa văn minh”, từ đó khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần
dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Mùa hè 1923 từ Pháp sang Liên Xô,
Người tham gia nhiều Đại hội quốc tế và học tập nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lê nin.
Với tư cách là đại diện của quốc tế cộng sản, tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến
Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6-1925, người thành lập Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên. Chương trình và Điều lệ của Hội nêu rõ mục đích là: làm cách mạng dân
tộc và cách mạng thế giới. Sau khi cách mạng thành công. Hội chủ trương thành lập
Chính phủ nhân dân; mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân; tiến lên xây dựng xã hội cộng
sản chủ nghĩa; thực hiện đoàn kết với giai cấp vô sản các nước, với phong trào cách
mạng thế giới.
8



Từ năm 1925 - 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở các lớp huấn
luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng được nhiều cơ sở ở
các trung tâm kinh tế, chính trị trong nước. Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “vô
sản hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan
điểm giai cấp công nhân; để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận giải phóng
dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.
Ngoài việc trực tiếp huấn luyện cán bộ của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên Việt Nam ưu tú gửi đi học tại trường
Đại học Phương Đông và trường Lục quân Hoàng Phố nhằm đào tạo cán bộ cho cách
mạng Việt Nam.
Cùng với việc đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra các tờ báo Thanh
niên, Công nông, lính cách mệnh, Tiền phong nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam. Quan điểm cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã thức tỉnh và giác ngộ
quần chúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân phát triển theo con
đường cách mạng vô sản.
Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác
phẩm Đường cách mệnh đề cập đến những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính
trị, chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng Việt Nam.


Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản.

Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên lập trường tư
sản, phong trào công nhân chống lại sự áp bức bóc lột của tư sản thực dân cũng diễn
ra dưới các hình thức đình công, bãi công, tiêu biểu như các cuộc bãi công của công
nhân Ba Son (Sài Gòn) do Tôn Đức Thắng tổ chức (1925) và cuộc bãi công của công
nhân nhà máy sợi Nam Định ngày 30/4/1925, đòi chủ tư bản phải tăng lương, phải bỏ
đánh đập, giảm đuổi thợ…
Nhìn chung, phong trào công nhân những năm 1919- 1925 đã có bước phát triển

mới so với trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Hình thức bãi công đã trở nên phổ
biến, diễn ra trên quy mô lớn hơn và thời gian dài hơn.
Trong những năm 1926 - 1929, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo của các tổ
chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các tổ chức cộng sản
ra đời từ năm 1929. Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc đấu tranh của
công nhân diễn ra trong toàn quốc.
Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam trong những năm 1926 - 1929 mang
tính chất chính trị rõ rệt. Mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các
ngành và các địa phương. Phong trào công nhân có sức lôi cuốn phong trào dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản.
9


Cũng vào thời gian này, phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là
phong trào nông dân diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước, dân cày cũng đã tỉnh dậy,
chống đế quốc và địa chủ rất kịch liệt. Năm 1927, nông dân làng Ninh Thanh Lợi
( Rạch Giá) đấu tranh chống bọn thực dân và địa chủ cướp đất, đòi chia ruộng công…
Phong trào nông dân và công nhân đã hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống thực
dân, phong kiến.
Sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam:
Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, cuối tháng
3- 1929, tại 5D Hàm Long- Hà Nội, một số hội viên tiên tiến của tổ chức Thanh niên
ở Bắc Kỳ đã lập ra Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam gồm 7 đồng chí do đồng chí
Trần Văn Cung làm Bí thư Chi bộ.
Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5/1929) đã xảy
ra bất đồng giữa các đoàn đại biểu về vấn đề thành lập đảng Cộng sản, mà thực chất là
sự khác nhau giữa những đại biểu muốn thành lập ngay một đảng cộng sản và giải thể
tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với những đại biểu cũng muốn thành lập
đảng cộng sản, nhưng “không muốn tổ chức đảng ở giữa Đại hội thanh niên và cũng
không muốn phá thanh niên trước khi lập được đảng”. Trong bối cảnh đó, các tổ chức

cộng sản ở Việt Nam ra đời.
Đông Dương Cộng sản Đảng: Ngày 17-6-1929, tại 312 Khâm Thiên- Hà Nội, đại
biểu các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp Đại hội quyết định thành lập Đông Dương
Cộng sản Đảng. Tuyên ngôn của Đảng nêu rõ: Đảng Cộng sản Đông dương tổ chức
đại đa số và thực hành công nông liên hiệp mục đích để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa;
đánh đổ tư bản chủ nghĩa; diệt trừ chế độ phong kiến; giải phóng công nông; thực hiện
xã hội bình đẳng, tự do, bác ái, tức là hội cộng sản.
An Nam Cộng sản Đảng: Trước sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng và để
đáp ứng yêu cầu của phong trào cách mạng, mùa thu năm 1929, các đồng chí trong
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên hoạt động ở Trung Quốc và Nam Kỳ đã thành
lập An Nam Cộng sản Đảng về điều kiện kết nạp đảng viên, Điều lệ của Đảng viết
“Ai tin theo chương trình của Quốc tế Cộng sản, hăng hái phấn đấu trong một bộ phận
đảng, phục tùng mệnh lệnh đảng và góp nguyệt phí, có thể cho vào đảng được”.
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn: Việc ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng và
An Nam Cộng sản Đảng đã làm cho nội bộ Đảng Tân Việt phân hóa mạnh mẽ, những
đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Tuyên đạt của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn( 9/1929), nêu rõ : “Đông Dương
Cộng sản Liên Đoàn lấy chủ nghĩa Cộng sản làm nền móng, lấy công, nông, binh liên
hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh cộng sản trong xứ Đông Dương, làm cho xứ
sở của chúng ta hoàn toàn độc lập, xóa nạn bóc lột áp bức người, xây dựng chế độ
cộng sản chủ nghĩa trong toàn xứ Đông Dương”.
10


Mặc dù giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng
sản Việt Nam, nhưng ba tổ chức cộng sản trên đây hoạt động phân tán, chia rẽ đã ảnh
hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc này. Vì vậy, việc khắc phục sự
chia rẽ, phân tán giữa các tổ chức cộng sản là yêu cầu khẩn thiết của cách mạng nước
ta, là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả những người cộng sản Việt Nam.
Đến cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản

đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một đảng cộng sản thống
nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản ở Việt Nam. Điều này phản ánh
quá trình tự ý thức của những người cộng sản Việt Nam về nhu cầu phải thống nhất
các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất.
Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người Cộng sản Đông Dương tài
liệu Về việc thành lập một Đảng Cộng sản Đông Dương, yêu cầu những người cộng
sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản và thành lập
một đảng giai cấp vô sản. Quốc tế Cộng sản chỉ rõ phương thức để tiến tới thành lập
Đảng là phải bắt đầu từ việc xây dựng các chi bộ trong các nhà máy, xí nghiệp: chỉ rõ
mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với phong trào cộng sản quốc tế.
Nhận được tin về sự chia rẽ của những người cộng sản ở Đông Dương, Nguyễn Ái
Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc. Người chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng, tại Hương
Cảng, Trung Quốc. Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản (18/2/1930). Nguyễn Ái
Quốc viết: “Chúng tôi họp vào ngày 6-1… Các đại biểu trở về An Nam ngày 8-2”.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao Động Việt Nam
(10/9/1960) quyết định lấy ngày 3-2 dương lịch hàng năm làm ngày kỉ niệm thành lập
Đảng.
Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh
dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
Việt Nam và hệ tư tưởng Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời là “một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách
mạng Việt Nam ta, nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh
đạo cách mạng”, đưa cách mạng Việt Nam từng bước thắng lợi trên con đường xây
dựng xã hội chủ nghĩa.
II. Vai trò lãnh đạo của ĐCSVN trong giai đoạn hiện nay.
Từ khi ra đời đến nay, với vai trò là một đảng cách mạng chân chính, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân. Trong lịch sử Đảng ta,
mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân luôn luôn được củng cố, tăng cường
và trở thành một yếu tố đóng vai trò quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
Nhân dân gắn bó với Đảng, thừa nhận một cách tự giác vai trò lãnh đạo của Đảng,

theo Đảng làm cách mạng. Trong những thời kỳ đen tối nhất của cách mạng Việt
11


Nam, nhân dân ta đã dũng cảm chịu đựng hy sinh để bảo vệ Đảng, vượt mọi khó
khăn, gian khổ, mất mát để thực hiện mục tiêu cao cả: Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân Việt Nam là quyền thiêng
liêng và bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam; là sự lựa chọn lịch sử được nhân
dân thừa nhận, là sự ủy quyền, tín nhiệm của nhân dân đối với Đảng. Hơn nữa còn
phù hợp với truyền thống lập hiến và công ước quốc tế.
Do gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng ta đã kịp thời phát hiện, tổng kết những
hoạt động thực tiễn đầy sáng tạo của nhân dân, từng bước bổ sung, hoàn thiện và phát
triển đường lối lãnh đạo của mình. Nhiều chủ trương lớn của Đảng đã được nghiên
cứu, phát triển trên cơ sở tiếp thu một cách sáng tạo sáng kiến từ thực tiễn xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Trong khi nhiều quốc gia còn lúng túng, chưa tìm được lời giải cho vấn đề đảm
bảo công bằng xã hội trong phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, giảm thiểu
khoảng cách giàu nghèo thì sáng kiến huy động cả xã hội vào công cuộc xoá đói giảm
nghèo xuất hịên. Đảng ta đã kịp thời phát hiện, nhân rộng, tổng kết sáng kiến đầy tính
nhân văn này, nâng lên thành Chương trình quốc gia và Cuộc vận động lớn trong toàn
Đảng, toàn dân về xoá đói, giảm nghèo. Những thành tựu của công cuộc xoá đói,
giảm nghèo ở nước ta được cộng đồng quốc tế đánh giá cao là một minh chứng cho
khả năng giải quyết những vấn đề không chỉ mang tính quốc gia mà còn có tính toàn
cầu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Nghị quyết của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế thắng 12-2001 đã được
nhân dân ta hiện thực hoá một cách thành công. Tổ chức thành công Hội nghị APEC
14 và trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là những mốc son
trên con đường hội nhập thế giới của nước ta đồng thời nâng cao vị thế của nước Việt
Nam độc lập, tự chủ trên trường quốc tế. Nhờ liên hệ mật thiết với nhân dân, Đảng,
Nhà nước ta đã huy động đựoc sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và thực hiện

thành công từng bước tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong giai đoạn mới của Cách mạng Việt Nam hiện nay, Đảng và nhân dân ta
đang đứng trước những đòi hỏi mới và nhiệm vụ mới. Đó là nhiệm vụ tiếp tục sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa; là yêu cầu giữ vững, tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng trong điều kiện đổi mới hệ thống chính trị, dân chủ hóa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa; là nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực. Thế giới đã có nhiều thay đổi và
diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển và hội nhập vẫn là xu thế
lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ, khủng bố
vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh, các nước lớn dùng mọi thủ đoạn tinh
vi, thậm chí cả hành động quân sự dưới mọi chiêu bài để can thiệp, lấn lướt các quốc
gia nhỏ, yếu thế và tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu
như biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, thiên tai, dịch bệnh,... sẽ tiếp tục diễn biến
12


phức tạp, không chỉ còn là vấn đề của mỗi quốc gia mà muốn giải quyết được phải có
sự chung tay, góp sức của tất cả các nước trên thế giới. Song, chế độ chính trị, lợi ích
của mỗi nước lại khác nhau, số nước do Đảng Cộng sản là Đảng duy nhất cầm quyền,
lãnh đạo không còn nhiều, trong khi sự chia sẻ trên tinh thần đoàn kết, hy sinh giúp đỡ
của các nước có chế độ do Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo đối với nước ta cũng
đã thay đổi nhiều. Tuy xu hướng hòa bình, hữu nghị vẫn là chính, nhưng việc tính
toán để bảo vệ quyền lợi của mỗi quốc gia cũng thay đổi. Quốc gia nào cũng có toan
tính riêng trong bối cảnh phức tạp hơn. Toàn cầu hóa, hội nhập và cách mạng khoa
học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, làm cho thời gian
như ngắn lại, không gian như nhỏ đi, thúc đẩy hình thành xã hội thông tin và kinh tế
tri thức. Quá trình cấu trúc lại nền kinh tế thế giới và nền kinh tế của mỗi quốc gia
diễn ra mạnh mẽ theo chiều sâu, lấy chất lượng tăng trưởng làm mục tiêu. Trong khi

đó, cạnh tranh trên tất cả các lĩnh vực, cả ở thị trường tại mỗi quốc gia và thị trường
thế giới, giữa các nước ngày càng gay gắt. Đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến
phức tạp. Khu vực Thái Bình Dương, trong đó có Đông - Nam Á là khu vực phát triển
năng động nhưng vẫn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển
đảo càng nóng bỏng. Trong nước, tuy đã có thành tựu và kinh nghiệm của hơn 25 năm
đổi mới, tạo ra thế và lực mới cho đất nước, nhưng "nước ta vẫn phải đứng trước
nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Những
biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có diễn
biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện "diễn biến hòa bình", gây bạo
loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta".
Hơn 80 năm chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta đã hoàn thành được một phần sứ
mệnh lịch sử: đất nước độc lập, thống nhất, đi lên CNXH. Song con đường phía trước
không hoàn toàn bằng phẳng, trơn tru. Trong bối cảnh, thời cơ và thách thức đan xen
như hiện nay, vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng càng cực kỳ quan trọng và luôn là
nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, buộc dân tộc ta,
Đảng ta và bản thân mỗi người dân Việt Nam chúng ta phải "lớn" hơn ngày hôm qua.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn,
tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong để xây dựng Đảng thật sự
trong sạch, vững mạnh, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học...Trên
bệ phóng của những thành công rực rỡ mà cha ông đã xây dựng, thế hệ trẻ Việt Nam
khát khao được là người kế nghiệp xứng đáng. Thiết nghĩ, để khát khao ấy được thắp
sáng, điểm xuất phát trước hết của người Đảng viên phải là sự trung thành đối với Tổ
quốc, với lý tưởng của Đảng và của nhân dân, kiên định lập trường cách mạng, thấm
nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đặc biệt là

13



nhất quyết thực hiện sứ mệnh: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, xây dựng thành
công CNXH.

Câu hỏi II:
Phân tích luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ
hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong”.
Trong quá trình phấn đấu vào ĐCSVN, lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý
nghĩa như thế nào đối với đồng chí?
Trả lời:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo
đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng,
lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại, có tới gần
50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những
vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách
mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông
thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh,
nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất
bại, đều do cán bộ tốt hay kém”, Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không
có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có
đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho

nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách
mạng, đạo đức là “gốc” của người cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của đạo đức cách mạng Việt
Nam gồm những điểm sau:
Một là, trung với nước hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất
khác.
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống
của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới,
14


phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một
cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành
động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ
trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Hai là, yêu thương con người.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí
Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức
cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ.
Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở
miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không
trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của
Người.

Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết
điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con
người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người
cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc
và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con
người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời".
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau,
nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế
hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười
biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là
nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân,
của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng
lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương
hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không
tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không
ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá".

15


Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao,
tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay,
sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn

giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với
việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình
nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà
Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh
thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí
Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và
bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.
Tuy nhiên Hồ Chí Minh cũng từng khẳng định:“Đạo đức cách mạng không
phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và
củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Những
yêu cầu về đạo đức đối với cán bộ, đảng viên luôn đòi hòi phải được tăng cường rèn
luyện, tu dưỡng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó
khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của
Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần ngại
hy sinh lợi ích riêng của cá nhân mình. Đó là biểu hiện cao quý của đạo đức cách
mạng. Bác nói: Có đạo đức thì khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ tinh thần
gia khổ, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho
tốt, chứ không tính toán, kèn cưa để hưởng thụ; không công thần không quan liêu
không kiêu ngạo, hủ hoá, rèn luyện đạo đức cách mạng như “rửa mặt hàng ngày”. Để
rèn luyện đạo đức cách mạng trong giai đoạn hiện nay, người cán bộ, Đảng viên cần
phải:
a. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, nêu cao tinh thần phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân.
Điểm mấu chốt của sự khác biệt căn bản giữa đạo đức cũ và đạo đức mới, như
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, là: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân
chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng
lên trời”. Đạo đức cũ là đạo đức của giai cấp tư sản, của phong kiến, đạo đức áp bức

và bóc lột. Còn đạo đức mới là đạo đức cách mạng, đạo đức hướng tới giải phóng
nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, đưa lại cuộc sống ấm no, tự do cho tất cả mọi
người. Vì vậy, cán bộ, đảng viên cần phải ý thức được sự nghiệp cao cả đó; đưa nhân
dân từ thân phận nô lệ trở thành người chủ nước nhà, sự nghiệp cách mạng đó là của
toàn dân. Người cán bộ, đảng viên phải thấu hiểu và thấm nhuần một cách triệt để:
Trung thành với cách mạng chính là trung thành với sự nghiệp của nhân dân. Hồ Chí
Minh nhắc nhở, dù ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của nhân dân
16


lên trên hết, trước hết. Cán bộ phải ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng,
hết sức trung thành phục vụ nhân dân. Có trung thành và quyết tâm phấn đấu vì sự
nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc thì mới dám dũng cảm hy sinh quên mình
vì nghĩa lớn. Lòng trung thành cao đẹp ấy phải được thể hiện bằng hành động thiết
thực, cụ thể hàng ngày, trong từng công việc phải biến khát vọng làm sao cho “nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành” của Hồ Chí Minh thành hiện thực. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy mỗi cán bộ rằng: “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục
vụ cho lợi ích của nhân dân”. Người khuyên bảo cán bộ: “Việc gì có lợi cho dân thì
làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”. Phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân,
tôn trọng nhân dân và tin tưởng vào lực lượng của nhân dân, tổ chức tuyên truyền,
thuyết phục nhân dân, đồng thời phải lắng nghe, học tập nhân dân. Thấm nhuần lời
dạy của Người, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Cán
bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân
dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Trong chế độ chúng ta,
địa vị của người dân là cao nhất, dân là chủ: “Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo”. Một yêu cầu có tính nguyên tắc mà Hồ Chí Minh đã đặt ra là phải xây dựng
pháp luật để bảo đảm các quyền tự do dân chủ và cán bộ phải tuyệt đối trung thành
với sự nghiệp của nhân dân, cho dù ở bất kỳ tình huống nào cũng phải đặt lợi ích của

dân lên trên hết và trước hết. Người viết: “Các bạn là viên chức của Chính phủ Dân
chủ Cộng hoà mà các bạn đã giúp xây dựng nên. Chính thể Dân chủ Cộng hòa của ta
tuy còn trẻ tuổi, nhưng đã chiến thắng nhiều cuộc thử thách, nó đã chứng tỏ rằng quả
thật là đầy tương lai. Do đó, nhiệm vụ các bạn phải tuyệt đối trung thành với chính
quyền dân chủ”. Cán bộ, đảng viên trung thành với lý tưởng, với đất nước phải được
thể hiện trong công việc hàng ngày, đó là: hướng tới phục vụ nhân dân, vì lợi ích của
nhân dân. Bảo vệ thành quả chính đáng của cách mạng cũng có nghĩa là phải bảo vệ
quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Đó là đạo đức chân chính của
người cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp.
b. Kiên quyết chống tham ô, lãng phí, quan liêu, thực hành dân chủ.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, tham nhũng đang làm cản
trở công cuộc kiến thiết đất nước, cản trở sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước, là kẻ thù nguy hiểm của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: cách
mạng là để triệt diệt những cái xấu, xây dựng những cái tốt. Chúng ta làm cách mạng
là tiêu diệt triệt để chế độ thực dân, phong kiến, để xây dựng dân chủ mới. “Thực dân,
phong kiến tuy bị tiêu diệt, nhưng cái nọc xấu của nó (tham ô, lãng phí, quan liêu) vẫn
còn, thì cách mạng vẫn chưa hoàn toàn thành công, vì nọc xấu ấy ngấm ngầm ngăn
trở, ngấm ngầm phá hoại sự nghịêp xây dựng của cách mạng”. Với quyết tâm đưa đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh
chỉ rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là “xây dựng được về
17


cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Để thực hiện thành công mục tiêu tổng quát này,
Đại hội đặc biệt chú trọng đến việc đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí một cách có hiệu quả. Trong cuộc đấu tranh này, cần phải: “Nâng cao
phẩm chất đạo đức của đội ngũ công chức; công khai, minh bạch tài sản của cán bộ,

công chức. Tăng cường công tác giám sát, thực hiện dân chủ, tạo cơ chế để nhân dân
giám sát các công việc có liên quan đến ngân sách, tài sản của Nhà nước”. Rõ ràng,
chống tham nhũng là một quyết tâm chính trị lớn của Đảng. Để thực hiện quyết tâm
đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, tự giác “thực hiện chế độ công khai, minh
bạch về kinh tế, tài chính…; thực hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản,
thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định”. Mỗi cán bộ, công chức, đảng viên và
nhân dân phải sống và làm việc theo pháp luật; sáng tạo, kỷ cương trong lao động; tiết
kiệm trong lối sống và công việc. Muốn đạt được mục tiêu chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2011 - 2020 mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đề ra,
ngoài việc phát huy tốt các yếu tố nội lực và ngoại lực, thực hiện triệt để, đồng bộ các
giải pháp, thì một yếu tố quan trọng và cần kíp là chống tham nhũng. Đi liền với nạn
tham nhũng là nạn lãng phí, đó cũng là một thứ giặc nội xâm. Muốn xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội thì phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Trong thời gian
qua, do cách tổ chức quản lý chưa tốt của cán bộ nên có không ít nơi để xảy ra tình
trạng lãng phí của công đến mức phải cảnh báo. Hồ Chí Minh quan niệm lãng phí của
công tuy không lấy của công cho riêng cá nhân như tham nhũng, song kết quả cũng
rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ, có khi tai hại hơn cả tham nhũng và trộm
cướp. Lãng phí của công điển hình là các cơ quan công quyền dùng vật liệu, điện
nước một cách phí phạm; các xí nghiệp dùng máy móc và nguyên liệu không đúng
mức; các cơ quan dùng xe vào mục đích cá nhân, không tiết kiệm xăng dầu; các dự án
đầu tư dàn trải, không hiệu quả,… Những thứ bệnh đó một phần là do hậu quả của xã
hội cũ để lại, do lòng tự tư, tự lợi, ích kỷ, hại dân mà ra. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến
thâm hụt ngân sách nhà nước, làm khủng hoảng kinh tế - xã hội. Cho nên nhiệm vụ
của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà nước là phải triệt để loại bỏ những
căn bệnh đó và tăng cường thực hành tiết kiệm; có như thế mới thực hiện được đạo
đức mới, đạo đức cách mạng, mới làm cho dân cường, nước thịnh. Khi nói về vai trò
của việc chống lãng phí trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã từng căn dặn
chúng ta là phải thông qua pháp luật để nhổ tận gốc tất cả những hiện tượng lãng phí.
Hồ Chí Minh còn lưu ý chúng ta là ngoài vai trò của pháp luật, phải phát động tư
tưởng của quần chúng, làm cho quần chúng khinh ghét tham ô, lãng phí, để biến

“hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng” thành những ngọn đèn pha soi
sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí còn chỗ ẩn nấp, góp phần làm
cho Đảng và Nhà nước ta trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng thành
công. Để làm được những điều này, dứt khoát phải chống bệnh quan liêu vì quan liêu
đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô và lãng phí. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí
18


Minh đã chỉ rõ: “Ở đâu có bệnh quan liêu thì ở đó chắc có tham ô, lãng phí; nơi nào
bệnh quan liêu càng nặng thì nơi đó càng nhiều lãng phí, tham ô”. Vì vậy, chống tham
ô, lãng phí phải gắn với chống quan liêu và là việc làm cần thiết, thường xuyên. Bệnh
quan liêu làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí vượt khó của cán bộ ta. Nó phá hoại
những phẩm chất đạo đức cách mạng mà chúng ta đang xây dựng là: Cần, kiệm, liêm,
chính. Thấy được tác hại của căn bệnh này, chúng ta cần phải quyết tâm tẩy sạch nó
đi. Cũng như: “ Muốn lúa tốt thì phải nhổ cỏ cho sạch, nếu không, thì dù cày bừa kỹ,
bón phân nhiều, lúa vẫn xấu vì lúa bị cỏ át đi. Muốn thành công trong việc tăng gia
sản xuất và tiết kiệm cũng phải nhổ cỏ cho sạch, nghĩa là phải tẩy sạch nạn tham ô,
lãng phí và bệnh quan liêu”. Nguyên nhân sinh ra quan liêu, từ đó sinh ra tham nhũng,
lãng phí là do xa dân, xa rời cuộc sống của nhân dân; vì không tin dân; vì coi thường
dân, không thương dân; vì sợ dân. Để chữa bệnh quan liêu, cần phải gần dân, học hỏi
ở dân và đặc biệt là phải thực hành dân chủ. Dân chủ là dựa vào lực lượng của quần
chúng, đi đúng đường lối của quần chúng. Cho nên, “Phong trào chống tham ô, lãng
phí,quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”. Cũng như
mọi việc khác, chúng ta phải động viên quần chúng, phải thực hành dân chủ cho dân,
phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc
chắn thành công, phải làm sao để phát huy được tiếng nói của tất cả các tầng lớp nhân
dân, phát huy dân chủ để phòng và chống có hiệu quả tham ô, lãng phí, quan liêu.
c. Ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã đưa ra quyết tâm trong nhiệm kỳ
này phải “tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp

theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp
hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” Đại hội xác định bảy nhiệm vụ trọng tâm
cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo:
(1) Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
(2) Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và
hoạt động của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân.
(3) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của đất nước.
(4) Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống giao
thông.
(5) Đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động
tiêu cực của quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay.
(6) Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối
sống, tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương xã hội).
(7) Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này.

19


Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là góp
phần thiết thực và trực tiếp thực hiện tốt cả bảy nhiệm vụ nêu trên, góp phần thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Yêu cầu của việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh là phải thường xuyên và tự giác trong việc rèn luyện và tu dưỡng đạo đức,
lối sống của mỗi người, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, theo tấm gương đạo đức của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên tinh thần đó, mỗi cá nhân, mỗi tập thể cần phải tự cảm
thấy bức xúc, tự cảm nhận nhu cầu tự thân phải thực hiện cho chính mình, vì chính sự
phát triển của cá nhân và tập thể mình.

Ý nghĩa lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đạ i hóa
và đổi mới đất nước theo hướng tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc
học tập rèn luyện tư tưởng đạo đức cách mạng, lối sống và làm theo tấm gương đạo
đức của Người là một việc làm hết sức quan trọng. Bởi vì tư tưởng đạo đức của chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn là một nền tảng tinh thần xã hội, là động lực vượt qua khó
khăn thách thức để tiến lên. Do đó học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người
là một biện pháp quan trọng hàng đầu để mỗi cán bộ Đảng viên và Tổ chức cơ sở
Đảng khắc phục sửa chữa tình trạng suy thoái có “tính chất nghiêm trọng” về đạo đức
và lối sống, suy thoái về tư tưởng chính trị, giữ vững niềm tin trong nhân dân về lãnh
đạo Đảng.
Con người toàn diện là con người phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức trong
sáng, tri thức và năng lực nghề nghiệp chuyên sâu và thể chất lành mạnh. Đó là con
người đủ đức và tài để lập thân, lập nghiệp, để phục vụ Tổ quốc và nhân dân. Tùy vào
hoàn cảnh và diều kiện học tập công tác cá nhân để xác định và xây dựng kế hoạch
phấn đấu, rèn luyện. Học tập và rèn luyện tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân.
Từ cuộc đời và quan điểm của Bác về đạo đức cách mạng, dựa trên quan điểm
của Đảng ta về những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam trong giai đoạn mới,
căn cứ vào tình hình thực tiễn của đất nước, yêu cầu đặt ra cho cán bộ, Đảng viên
trong giai đoạn mới là phải có kiến thức chuyên môn cao, có tư tưởng chính trị vững
vàng, có năng lực tư duy độc lập để giải quyết những vấn đề khoa học – kỹ thuật, sản
xuất, văn hóa, giáo dục… đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lá cờ đầu của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc Việt Nam. Tôi có nguyện vọng được đứng trong hàng ngũ của
Đảng, sau khi được học lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, tôi càng nhận thức được rõ
hơn về Đảng Cộng sản và càng quyết tâm phấn đấu để trở thành Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam. Là một công dân đang trong quá trình phấn đấu vào Đảng, tôi
cần tăng cường giáo dục, rèn luyện các phẩm chất đạo đức cách mạng cơ bản, cần xây

20


dựng một động cơ vào Đảng đúng đắn, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao phẩm
chất đạo đức cách mạng, nỗ lực học tập, cải thiện năng lực chuyên môn, hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao, gắn bó với tập thể, nhân dân, tích cực tham gia các hoạt động
đoàn thể, công tác xã hội, tích cực tham gia xây dựng Đảng…
Tôi đã xác định cho mình động cơ vào Đảng: Đảng là tổ chức các mạng có sứ
mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội.
Được đứng trong hàng ngũ của Đảng là được đứng trong một tổ chức của những
người cùng chung chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội tốt đẹp, dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn mình. Khi vào Đảng, bản thân tôi sẽ được phục vụ
cách mạng, được phục vụ nhân dân, được nhân dân tin cậy và yêu mến. Động cơ vào
Đảng của tôi là muốn góp sức mình xây dựng đất nước ta ngày càng tốt đẹp hơn nữa.
Bác Hồ khẳng định người có đạo đức cách mạng là người phải có lối sống cần
kiệm liêm chính. Đây chính là những phầm chất tốt đẹp cần thiết cho mọi người Việt
Nam trong việc tu dưỡng đạo đức cá nhân, trong mọi hoạt động kể từ cuộc sống gia
đình cho đến việc xây dựng đất nước. Đó cũng là nền tảng cho đời sống đạo đức mới
ở nước ta. Để trở thành một Đảng viên, tôi xác định bản thân phải rèn luyện bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Tôi quyết kiên định mục tiêu, lý tưởng đã
chọn, trong bất cứ tình huống khó khăn nào cũng không giao động, giảm sút niềm tin
và ý chí chiến đấu. Đồng thời, tôi rèn luyện cho mình tinh thần độc lập, sáng tạo. Bản
thân tôi đã nỗ lực học tập, nắm vững lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền
tảng tư tưởng của Đảng. Tôi tự rèn luyện mình qua thực tế hoạt động chính trị, xã hội.
Bên cạnh đó tôi trau dồi đạo đức cách mạng, đi đôi với chống chủ nghĩa cá nhân. Đạo
đức cách mạng cần phải tu dưỡng rèn luyện suốt đời, bởi vậy tôi sẽ củng cố hàng ngày
để có được phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, tự giác rèn luyện, vững vàng
trước mọi cám dỗ, dũng cảm đấu tranh quyết liệt chống mọi biểu hiện sai trái trong lối
sống, nhân cách. Tôi nhận thức được, trong bối cảnh ngày nay, đạo đức cách mạng là
ý chí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở

thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc. Tôi quyết tâm đi theo đường lối của Đảng: kết hợp hài hoà ba loại
lợi ích: lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, kiên quyết chống chủ
nghĩa cá nhân, ích kỷ.
Để phấn đấu trở thành một người đảng viên, tôi không quên nâng cao năng lực,
hoàn thành tốt những nghiệm vụ được giao, phấn đấu học tập, rèn luyện nghiêm túc,
bền bỉ, kiên trì, không những vươn lên làm chủ tri thức khoa học, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước. Đối
với một sinh viên như tôi – còn ngồi trên ghế nhà trường, thì nhiệm vụ trọng tâm là
việc học. Tôi phấn đấu học tập thật tốt, hoạt động ngoại khoá hăng say và hoàn thành
tốt những nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó tôi cũng rất coi trọng việc học tập chính
trị. Đó là việc tham gia đầy đủ và có hiệu quả các buổi sinh hoạt chính trị công dân
sinh viên, tham gia lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng…

21


Truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết,
máu thịt với nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Bản thân Người cũng chính là hạt
nhân quy tụ sự đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân, dân tộc và đoàn kết quốc tế, tạo
nên sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Tinh thần đoàn kết, hợp tác sẽ giúp cho
chúng ta xoá bỏ chủ nghĩa cá nhân, xoá bỏ những tư tưởng cô độc, hẹp hòi, cố chấp,
thành kiến tự cao, tự đại, tự ái, tự phụ, nghi kỵ vô căn cứ, xung đột vô nguyên tắc.
Thực tế hiện nay, chủ nghĩa cá nhân vẫn còn rơi rớt trong không ít sinh viên do chủ
yếu ảnh hưởng của lối sống ích kỷ, thực dụng. Để phấn đấu được đứng trong hàng ngũ
của Đảng, tôi hiểu rằng mình phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia
hoạt động đoàn thể, công tác xã hội. Đối với tôi, đó chính là tập thể lớp, là ngôi
trường đại học của mình. Tôi cũng tham gia những hoạt động đoàn thể và công tác xã
hội, như những buổi ngoại khoá, tình nguyện…

Người phấn đấu vào Đảng phải tích cực tham gia xây dựng Đảng. Tôi nhận
thức được rằng, bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình, cần đóng góp ý
kiến với chi bộ, đảng bộ. Ngoài ra, cần tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở bằng những
việc làm như: Tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai chủ
trương, nhiệm vụ do đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ động, sáng tạo, nỗ lực
phấn đấu cao nhất. Góp phần tích cực đưa những chủ trương, nhiệm vụ đó vào cuộc
sống. Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, những tư tưởng của quần chúng, kịp thời
phản ánh đề xuất với tổ chức Đảng. Tích cực mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối với
lãnh đạo của tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên. Tích cực và kiên quyết đấu tranh bảo
vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở, đơn vị.
Đứng trước tình hình mới trong giai đoạn đất nước đang tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, tích cực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mỗi cá nhân không
những cần phải không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, mà còn phải không
ngừng rèn luyện đạo đức, lối sống. Phải luôn ghi nhớ và thực hiện tốt lời Bác dặn:
chống tâm lí tự tư tự lợi, chi lo lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình, chống tâm lí
ham sung sướng và tránh khó nhọc, chống thói xem kinh lao động, nhất là lao động
chân tay, chống lười biếng, xa xỉ, chống cách sinh hoạt ủy mị, chống kiêu ngạo, giả
dối, khoe khoang. Không ngừng phấn đấu để trở thành một công dân có ích trong thời
đại mới, đáp ứng những nhu cầu mới của thế giới, góp phần xây dựng đất nước ngày
một tiến lên.

22


QUI ĐỊNH VỀ BỐ CỤC VÀ HÌNH THỨC LUẬN VĂN THẠC SỸ
Luận văn thạc sỹ luật của Học viên cao học Trường ĐH Luật TP HCM phải thoả mãn các yêu
cầu về bố cục và hình thức như sau:
1 Về cấu trúc luận văn:
Luận văn tốt nghiệp bao gồm các bộ phận theo trình tự sau:
1.1. TRANG BÌA (phụ lục 01)

1.2. TRANG PHỤ BÌA (phụ lục 02)
1.3. LỜI CAM ĐOAN (Tác giả luận văn cần có lời cam đoan danh dự về công trình khoa học
này của mình)
1.4. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT (nếu có)
1.5 DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU (nếu có)
1.5. MỤC LỤC (phần mục lục chỉ liệt kê tên đề mục đến 3 chữ số, ví dụ: 1; 1.1; và 1.1.1.)
1.6. PHẦN MỞ ĐẦU: đảm bảo các nội dung sau đây:
- Lý do chọn đề tài;
- Tình hình nghiên cứu đề tài (Giới thiệu và đánh giá sơ bộ các công trình nghiên cứu đã có của
các tác giả trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận văn);
-Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu;
-Các phương pháp tiến hành nghiên cứu;
- Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài;
- Bố cục của luận văn.
1.7. PHẦN NỘI DUNG:
Số chương của một luận văn tuỳ thuộc vào từng đề tài cụ thể theo đề cương đã thống nhất giữa
Học viên và GV hướng dẫn. Thông thường Luận văn Thạc sỹ luật có thể chia làm 2 hoặc nhiều
chương.

23


Mỗi chương chia làm nhiều mục; kết thúc mỗi chương nên có kết luận của chương, kết thúc mỗi
mục có thể có tiểu kết l cho mục đó.
Số thứ tự của các chương, mục được đánh số bằng hệ thống số Ả rập. Các tiểu mục của luận văn
được trình bày và đánh số thành nhóm chữ số, nhiều nhất gồm bốn chữ số với số thứ nhất chỉ số
chương. Tại mỗi nhóm tiểu mục phải có ít nhất hai tiểu mục, nghĩa là không thể có tiểu mục
2.1.1 mà không có tiểu mục 2.1.2 tiếp theo.
Ví dụ:
CHƯƠNG 2….

2.1.
2.1.1.
2.1.1.1. (nếu có)
2.1.1.2.....
........
2.1.2.
Tên chương phải ở đầu trang mới.
Tên chương viết chữ hoa, in đậm, cỡ chữ 14. Tên các mục trong chương viết chữ thường, in
đậm, cỡ chữ 13; tên các tiểu mục trong mục viết chữ thường, in nghiêng, cỡ chữ 13
1.8. KẾT LUẬN: Phải khẳng định được những nội dung chính của luận văn và kết quả đạt được,
những đóng góp và đề xuất mới. Phần kết luận cần ngắn gọn, không có lời bàn và bình luận
thêm.
1. 9. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: Học viên liệt kê danh mục các tài liệu được trích
dẫn trực tiếp trong luận văn.
1.10. PHỤ LỤC (nếu có). Phần này bao gồm các bảng, biểu, các bản án, mẫu hợp đồng, mẫu
phiếu khảo sát, điều tra xã hội học kết quả thống kê, khảo sát có ý nghĩa và có liên quan đến nội
dung của đề tài mà không tiện đưa vào phần nội dung của luận văn.
Luận văn được in thành 7 bản, đóng bìa cứng, bìa màu xanh dương, in chữ nhũ, đủ dấu tiếng
Việt trên bìa trước (xem phụ lục 1). Trên gáy của luận văn in đủ các thông tin sau: tên tác giả,
chữ “luận văn cao học” và năm ….. theo chiều đứng của luận văn.
24


Học viên không được sử dụng giấy có mùi để in luận văn
2. CÁC YÊU CẦU VỀ HÌNH THỨC VÀ CÁCH TRÌNH BÀY LUẬN VĂN

Luận văn phải được trình bày ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc, sạch sẽ, không được tẩy xoá, có đánh
số trang, đánh số bảng biểu, hình vẽ, đồ thị (nếu có).
Luận văn sử dụng chữ Times New Roman hoặc VnTime, cỡ chữ 13 hoặc 14 của hệ soạn thảo
Winword hoặc tương đương; mật độ chữ bình thường, không được nén hoặc kéo dãn khoảng

cách giữa các chữ.
Giãn dòng đặt chế độ 1.2 đến 1,3 lines;
Luận văn được in (hoặc phô tô) trên một mặt giấy trắng khổ A4 (210 x 297 mm), lề trên 3,5cm;
lề dưới 3cm; lề trái 3,5 cm; lề phải 2cm.
Số trang được đánh ở giữa, phía trên mỗi trang giấy, bắt đầu đánh số trang từ Phần mở đầu và
kết thúc ở phần Kết luận. Không đánh số trang các trang phụ bìa, lời cam đoan, mục lục, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Luận văn Thạc sỹ từ 60 đến 80 trang , không kể trang phụ bìa, lời cam đoan, mục lục, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.
3. QUI ĐỊNH VỀ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Không lạm dụng việc viết tắt trong luận văn. Chỉ viết tắt những từ, cụm từ hoặc thuật ngữ được
sử dụng nhiều lần trong luận văn. Không viết tắt những cụm từ dài, những mệnh đề; không viết
tắt những cụm từ ít xuất hiện trong luận văn.
Nếu cần viết tắt những từ, thuật ngữ, tên cơ quan, tổ chức... thì chỉ được viết tắt sau lần viết thứ
nhất có kèm theo chữ viết tắt trong ngoặc đơn. Nếu luận văn có nhiều chữ viết tắt thì phải có
Bảng danh mục các chữ viết tắt (xếp theo thứ tự ABC) ở phần đầu luận văn.
Trường hợp dẫn chiếu văn bản pháp luật cần ghi đầy đủ số ký hiệu văn bản và tên văn bản , ví
dụ: Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ về đăng ký kinh
doanh.
Trường hợp văn bản đó được sử dụng nhiều lần trong luận văn thì từ lần thứ 2 trở đi có thể viết
tắt như sau:
- Số, ký hiệu của các văn bản quy phạm pháp luật còn lại được sắp xếp theo thứ tự: "số thứ tự
của văn bản/năm ban hành/tên viết tắt của loại văn bản-tên viết tắt của cơ quan ban hành văn
bản" ví dụ: Nghị định số 88/2006/NĐ-CP.
25


×