Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực tài chính tại công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng cosevco

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538 KB, 102 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hoạt động kinh doanh ngày nay được đặt trong những điều kiện mới,
khác với nhiều so với trước đây. Nó không chỉ là các điều kiện truyền thống ít
biến động, mà còn có điều kiện thị trường và sự cung cấp sản phẩm mới của
cách mạng khoa học - kỷ thuật - công nghệ đầy sống động. Sự hoạt động của
doanh nghiệp gắn với toàn cục của nền kinh tế với sự hòa nhập khu vực và
quốc tế bằng sự tìm kiếm và phát huy các lợi thế so sánh, trong môi trường
cạnh tranh hết sức gay gắt và dữ dội. Sự phát triển ngắn hạn được đặt trong
bối cảnh dài hạn với không ít cơ hội và nguy cơ phải nắm bắt và xử lý. Kết
quả và hiệu quả - hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội gắn kết với
nhau, vì chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp và toàn
bộ nền kinh tế.
Với điều kiện hoạt động kinh doanh mới doanh nghiệp muốn tồn tại và
phát triển phải kinh doanh hiệu quả, không ngừng nâng cao vị thế cạnh tranh,
để làm được điều trên doanh nghiệp phải có nguồn lực đủ mạnh để có thể tận
dụng các cơ hội và một trong những nguồn lực quan trọng mang tính quyết
định là năng lực tài chính của doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc nâng cao năng
lực tài chính là vấn đề cấp thiết cho các doanh nghiệp.
Công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng Cosevco đang phải cạnh tranh
gay gắt với nhiều đối thủ có tiềm lực thị trường và uy tín thương hiệu rất quen
thuộc với người tiêu dùng. Hơn nữa tình trạng cung lớn hơn cầu, sản phẩm
gạch men Trung Quốc nhập lậu tràn lan, các mặt hàng nhập khẩu chính ngạch
từ Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Thái Lan v.v. đã làm cho Công ty cổ phần gốm sứ
và xây dựng Cosevco đứng trước những thách thức lớn để tồn tại và phát

1


triển. Để có thể nâng cao vị thế cạnh tranh không còn cách nào khác là Công
ty cổ phần gốm sứ và xây dựng Cosevco phải sử dụng tốt các nguồn lực hiện


có cũng như tiềm tàng của mình nhất là sử dụng tốt nguồn lực tài chính.
Trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng
Cosevco cho thấy vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần quá nhỏ, cụ thể chỉ
chiếm dưới 5% còn nợ phải trả chiếm tỷ lệ quá cao luôn lớn hơn 95%. Bên
cạnh đó Công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng Cosevco có độ rủi ro rất cao cụ
thể luôn nằm trong vùng có nguy cơ phá sản cao. Điều này đặt ra cho Công ty
cổ phần gốm sứ và xây dựng Cosevco câu hỏi lớn: làm thế nào để nâng cao
năng lực tài chính? Làm sao để sớm thoát ra khỏi vùng có nguy cơ phá sản
cao?
Xuất phát từ thực tế đó Tôi chọn đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực
tài chính tại Công ty cổ phần Gốm sứ và Xây dựng Cosevco” làm luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Hệ thống hoá những kiến thức, lý luận về tình hình tài chính, phương
pháp phân tích rủi ro tài chính trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
- Phân tích tình hình tài chính và rủi ro tài chính của Công ty nghiên
cứu.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng tài chính và hạn
chế rủi ro tài chính của Công ty nghiên cứu.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nhằm tiếp cận và giải quyết vấn đề, trong đề tài đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:

2


* Phương pháp thu thập số liệu: phương pháp nghiên cứu tài liệu được
sử dụng để thu thập số liệu thứ cấp.
* Phương pháp phân tích số liệu:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.

Mọi kết qủa hoạt động tài chính doanh nghiệp đều có thể chia ra thành
nhiều chi tiết để phân tích, đánh giá từng chi tiết cụ thể xem nó tác động đến
doanh nghiệp như thế nào. Có thể chi tiết theo các tiêu thức như sau:
+ Chi tiết các bộ phận cấu thành các chỉ tiêu: Chi tiết các bộ
phận cấu thành nhằm giúp cho việc đánh giá chính xác và cụ thể, qua đó xác
định nguyên nhân và trọng điểm trong công tác quản lý.
+ Chi tiết theo thời gian: Kết quả hoạt động tài chính bao giờ
cũng là kết quả của một quá trình. Chi tiết theo thời gian sẽ giúp cho việc
đánh giá kết quả hoạt động tài chính một cách chính xác theo những thời gian
khác nhau.
+ Chi tiết theo địa điểm: Chi tiết theo địa điểm phát sinh nhằm
phát hiện việc hình chúng, có như vậy mới xác định được trọng điểm trong
công tác quản lý tài chính.
Các chỉ tiêu có mối liên hệ mật thiết với nhau, vì vậy trong phân tích có
thể kết hợp các chỉ tiêu khác nhau để đưa ra một chỉ tiêu tổng hợp khác. Có
các mối quan hệ phổ biến như:
+ Liên hệ cân đối: Có cơ sở là cân bằng về lượng giữa nguồn thu,
huy động và tình hình các quỹ, các loại vốn; giữa tổng tài sản và tổng nguồn
vốn; giữa nhu cầu và khả năng thanh toán; giữa thu với chi và kết quả kinh
doanh v.v.

3


+ Liên hệ trực tuyến: Là mối liên hệ theo một hướng xác định
giữa các chỉ tiêu phân tích. Trong mối liên hệ trực tuyến này, theo mức phụ
thuộc giữa các chỉ tiêu có thể phân thành hai loại chính: Liên hệ trực tiếp và
liên hệ gián tiếp. Liên hệ trực tiếp giữa các chỉ tiêu như giữa lợi nhuận và giá
bán, giá thành, tiền thuế v.v. trong những trường hợp này các mối không
thông qua một chỉ tiêu nào giá bán giảm (hoặc giá thành tăng) sẽ làm lợi

nhuận giảm, lợi nhuận tăng thì thuế thu nhập doanh nghiệp tăng v.v. Liên hệ
gián tiếp là quan hệ giữa các chỉ tiêu trong đó mức độ phụ thuộc giữa chúng
được xác định bằng một hệ số riêng.
+ Liên hệ phi tuyến: là mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trong đó
mức độ liên hệ không được xác định theo một tỉ lệ và chiều hướng liên hệ
luôn luôn biến đổi.
- Phương pháp so sánh: Nếu có sự thống nhất về không gian thì các chỉ
tiêu so sánh qua nhiều mốc thời gian khác nhau để biết được xu thế phát triển.
- Phương pháp chỉ số: Chỉ số là một loại chỉ tiêu tương đối biểu hiện
mối quan hệ so sánh giữa hai mức độ nào đó của một hiện tượng kinh tế.
Chỉ số là chỉ tiêu vừa có tính tổng hợp vừa có tính phân tích, thể hiện:
+ Chỉ số là chỉ tiêu mang tính chất tổng hợp dùng để nghiên cứu
biến động của một tổng thể kinh tế phức tạp bao nhiều phần tử và hiện tượng
không thể trực tiếp cộng với nhau được. Đặc điểm này thể hiện thông qua chỉ
số chung.
+ Chỉ số là chỉ tiêu mang tính chất phân tích dùng để nghiên cứu
biến động của các nhân tố trong một tổng thể kinh tế phức tạp có quan hệ tích
số với nhau và ảnh hưởng của biến động đó đối với biến động chung của tổng
thể. Đặc điểm này thể hiện rỏ thông qua chỉ số hệ thống chỉ số.

4


Chỉ số là một phương pháp phân tích thống kê quan trọng có các tác
dụng như: Biểu hiện biến động của hiện tượng qua thời gian và không gian,
biểu hiện các nhiệm vụ kế hoạch hoặc tình hình hoàn thành kế hoạch về các
chỉ tiêu kinh tế, phân tích vai trò và ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối
với biến động của toàn bộ hiện tượng kinh tế phức tạp.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu chủ yếu tập trung vào tình hình tài chính rủi ro

tài chính trong sản xuất kinh doanh gạch men Ceramic của Công ty cổ phần
gốm sứ và xây dựng Cosevco.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về địa điểm: Công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng Cosevco
trực thuộc Tổng công ty Miền trung Cosevco đóng tại xã Lộc Ninh - Đồng
Hới - Quảng Bình. Là đơn vị hạch toán độc lập.
+ Về thời gian: từ năm 2005 đến năm 2007.
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Về lý luận:
+ Góp phần hệ thống hóa các quan điểm về phân tích tình hình
tài chính và rủi ro tài chính.
+ Lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính phù hợp với
Công ty nghiên cứu.
- Về thực tiễn:
+ Đưa ra được các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính
và hạn chế rủi ro tài chính của Công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng Cosevco
trong thời gian từ năm 2008 đến năm 2013.

5


+ Làm tài liệu tham khảo cho Công ty cổ phần gốm sứ và xây
dựng Cosevco trong công tác tài chính.

6


Chương 1:

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA NĂNG LỰC TÀI CHÍNH

1.1 HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
1.1.1 Khái niệm về năng lực tài chính của doanh nghiệp
Theo Từ điển tiếng Việt “năng lực” là khả năng đủ để làm một công việc
nào đó hay “năng lực” là những điều kiện được tạo ra hoặc vốn có để thực
hiện một hoạt động nào đó [35,1021]. “Tài chính” là sự quản lý thu chi tiền
bạc theo những mục đích nhất định [35,1364], sự vận động của vốn tiền tệ
diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội, nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ
kinh tế phát sinh trong phân phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập
hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các
chủ thể trong xã hội.
Tài chính là sự vận động của tiền tệ chỉ với hai chức năng là phương tiện
thanh toán và phương tiện cất trữ và với đặc tính riêng của tài chính trong
phân phối là luôn gắn với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định.
“Năng lực tài chính” của một doanh nghiệp là nguồn lực tài chính của
bản thân doanh nghiệp, là khả năng tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền hợp lý,
đảm bảo khả năng thanh toán thể hiện ở qui mô vốn, chất lượng tài sản và khả
năng sinh lời v.v. đủ để đảm bảo và duy trì hoạt động kinh doanh được tiến
hành bình thường .
Tiêu chí đánh giá năng lực tài chính
Năng lực tài chính được đánh giá dựa trên các yếu tố định lượng và các
yếu tố định tính.

7


Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có, bao gồm: qui
mô vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời v.v..
Các yếu tố định tính thể hiện khả năng khai thác, quản lý, sử dụng các
nguồn lực tài chính được thể hiện qua trình độ tổ chức, trình độ quản lý, trình

độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực v.v.
1.1.2 Mục tiêu và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính giúp chúng ta đánh giá năng lực tài chính của doanh
nghiệp. Những người sử dụng báo cáo tài chính theo đuổi các mục tiêu khác
nhau nên việc phân tích tài chính cũng được tiến hành theo nhiều cách khác
nhau. Điều đó vừa tạo ra lợi ích vừa tạo ra sự phức tạp của phân tích tài chính
[34,15].
1.1.2.1 Những người sử dụng báo cáo tài chính
Có nhiều người sử dụng báo cáo tài chính và những người sử dụng khác
nhau sẽ đưa ra những quyết định theo các mục đích khác nhau như [34,15]:
- Các nhà quản trị dùng để đưa ra các quyết định quản lý doanh nghiệp.
- Các cổ đông hiện tại hoặc những người muốn trở thành cổ đông của
doanh nghiệp sử dụng báo cáo tài chính để đi đến quyết định mua hoặc bán
tín phiếu .
- Những người tham gia vào các hoạt động của doanh nghiệp dùng để
đưa ra quyết định tiếp tục hay thôi tham gia hoạt động với doanh nghiệp.
- Những người cho doanh nghiệp vay tiền: ngân hàng, các chế định tài
chính, người mua tín phiếu của doanh nghiệp, công ty mẹ, các doanh nghiệp
khác v.v.. thông qua các báo cáo tài chính để có quyết định chấp nhận hoặc từ
chối tín dụng.

8


- Nhà nước sử dụng báo cáo tài chính của doanh nghiệp để xem xét cho
doanh nghiệp tiếp tục hoạt động hay sát nhập với Công ty khác hay giải thể.
- Cơ quan thuế sử dụng để xem doanh nghiệp có thực hiện đúng nghĩa
vụ hay chưa.
- Các doanh nghiệp khác tham gia đầu tư nhằm đa dạng hóa rủi ro và
thực hiện xâm nhập, mua hoặc bán tín phiếu qua đấu thầu v.v. quyết định mua

toàn bộ hay từng phần doanh nghệp v.v.
1.1.2.2 Phân tích tài chính đối với các nhà quản trị
Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp được gọi là
phân tích tài chính nội bộ. Khác với phân tích tài chính bên ngoài do các nhà
phân tích ngoài doanh nghiệp tiến hành. Do có thông tin đầy đủ và hiểu rỏ
doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế
để có thể phân tích tài chính [34,15-16].
Phân tích tài chính doanh nghiệp có nhiều mục tiêu:
1.Tạo thành chu kỳ đánh giá đều đặn về các hoạt động kinh doanh quá
khứ, tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả
nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
2.Định hướng các quyết định của Ban Tổng giám đốc cũng như của
giám đốc tài chính: các quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần
v.v.
3.Là cơ sở cho các dự báo tài chính: kế hoạch đầu tư, phân bổ ngân
sách tiền mặt v.v.
4.Là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý.
1.1.2.3 Phân tích tài chính với các nhà đầu tư

9


Các cổ đông - là cá nhân hoặc doanh nghiệp - quan tâm trực tiếp đến
tính toán các giá trị của doanh nghiệp vì họ đã giao vốn cho doanh nghiệp và
có thể phải chịu rủi ro.
Thu nhập của cổ đông là tiền chia lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm
của vốn đầu tư. Hai yếu tố này chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ vọng của
doanh nghiệp. Trong thực tế, các nhà đầu tư thường đánh giá khả năng sinh
lợi của doanh nghiệp. Câu hỏi trọng tâm là: lợi nhuận bình quân cổ phiếu của
doanh nghiệp là bao nhiêu? Thông thường họ không hài lòng với lợi nhuận

tính toán theo sổ sách kế toán và cho rằng phần lợi nhuận này có quan hệ rất
xa với lợi nhuận thực sự.
Các cổ đông cá nhân của doanh nghiệp nói chung phải dựa vào các
chuyên gia phân tích tài chính vì họ là những người chuyên nghiên cứu các
thông tin kinh tế - tài chính, có những cuộc tiếp xúc trực tiếp với Ban giám
đốc tài chính của doanh nghiệp làm rỏ triển vọng phát triển doanh nghiệp và
đánh giá các cổ phiếu trên các thị trường tài chính [34,16-17].
1.1.2.4 Phân tích tài chính với người cho vay
Nếu phân tích tài chính được phát triển trong các ngân hàng khi ngân
hàng đảm bảo về khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, thì phân tích tài chính
cũng được các doanh nghiệp cho vay, ứng trước hoặc bán chịu sử dụng.
Phân tích tài chính đối với những khoản nợ dài hạn khác với những
khoản cho vay ngắn hạn. Nếu là những khoản cho vay ngắn hạn, người cho
vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp,
nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp đối với các món nợ khi đến hạn
trả. Nếu là những khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả
năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và
lãi sẽ tùy thuộc vào khả năng sinh lời này [34,17].

10


1.1.2.5 Phân tích tài chính với những người hưởng lương trong
doanh nghiệp
Khoản tiền lương nhận được từ doanh nghiệp luôn là nguồn thu nhập
duy nhất của người hưởng lương. Thêm vào đó, các doanh nghiệp ở nước ta
đang cổ phần hóa nên mỗi cá nhân hưởng lương được quyền góp vốn theo
một số điều kiện bằng lợi nhuận như: quyền được lựa chọn mua cổ phiếu của
người hưởng lương, mua theo giá phát hành hoặc mua trên thị trường cổ
phiếu dành riêng cho cổ đông, phân phối đặc biệt các cổ phiếu dành cho

người hưởng lương, các cổ đông có quyền quyết định nhận cổ tức hay để lại
doanh nghiệp nhằm tăng thêm vốn góp của họ [34,17-18].
1.1.2.6 Những công dụng khác của phân tích tài chính
Phân tích tài chính nội bộ doanh nghiệp được thực hiện thuộc phạm vi
quản trị trong những trường hợp sau [34,18]:
- Quản lý hợp đồng tái nhận thầu, gia công dài hạn, xây dựng và trang
thiết bị.
- Quản lý hợp đồng mua những thiết bị cần thiết cho việc thực hiện một
dự án đầu tư lớn.
- Mua sắm từng phần hay toàn bộ tài sản của doanh nghiệp khác…
Trong trường hợp này, phân tích tài chính sẽ đầy đủ nhờ: “sự đánh giá cẩn
thận tài sản cố định nói chung cũng như tài sản cố định vô hình nói riêng”.
Đối với các nghiệp vụ kể trên, phân tích tài chính là kỷ thuật hữu ích
cần sử dụng để xác định giá trị kinh tế, các mặt mạnh, mặt yếu của một doanh
nghiệp để tránh những rủi ro tài chính dẫn đến phá sản doanh nghiệp.

1.1.3 Thông tin cần thiết cho phân tích tài chính
Sự phát triển của một doanh nghiệp dựa vào nhiều yếu tố [34,18-20].

11


Các yếu tố bên ngoài bao gồm sự tăng trưởng của nền kinh tế, tiến bộ
khoa học kỷ thuật, chính sách tiền tệ, chính sách thuế. Các yếu tố bên trong
bao gồm cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, tính chất của sản phẩm, quy trình
công nghệ, khả năng tài trợ cho tăng trưởng, năng suất lao động.
Phân tích tài chính có mục tiêu đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế rủi
ro tài chính nên không chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu các báo cáo tài
chính mà phải mở rộng sang các lĩnh vực. Các thông tin cần cho phân tích tài
chính bao gồm các thông tin chung về kinh tế, thuế, tiền tệ, các thông tin về

ngành kinh doanh của doanh nghiệp, các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với
doanh nghiệp.
1.1.3.1 Các thông tin chung
Những thông tin chung là những thông tin liên quan đến cơ hội kinh
doanh, nghĩa là tình hình chung về tình hình kinh tế tại một thời điểm cho
trước. Sự suy thoái hoặc tăng trưởng có tác động mạnh mẽ đến tình hình kinh
doanh. Khi cơ hội thuận lợi, các hoạt động của doanh nghiệp được mở rộng,
lợi nhuận của doanh nghiệp biến động cùng chiều với các hoạt động.
1.1.3.2 Các thông tin theo ngành kinh tế
Nội dung nghiên cứu trong phạm vi ngành là việc đặt sự phát triển của
doanh nghiệp trong mối liên hệ chung của ngành kinh doanh.
Đặc điểm của ngành liên quan đến: tính chất của các sản phẩm, quy
trình kỷ thuật áp dụng, cơ cấu sản xuất: công nghiệp nặng hay công nghiệp
nhẹ, những cơ cấu sản xuất này có tác động tới khả năng sinh lời, vòng quay
vốn dự trữ, phương tiện tài trợ, nhịp độ phát triển của các chu kỳ kinh tế.
1.1.3.3 Các thông tin liên quan đến doanh nghiệp
Các nguồn thông tin liên quan đến doanh nghiệp rất đa dạng như: trình

12


độ quản lý, lao động, quy trình kỷ thuật công nghệ, thị phần của doanh
nghiệp, hoạt động nghiên cứu và phát triển.
Các thông tin rất phong phú, chỉ còn lại vấn đề người sử dụng biết lựa
chọn, phân tích để hình thành các dự báo cần thiết cho việc ra quyết định.

1.2 TỔ CHỨC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Hiểu quá khứ là bước mở đầu cần thiết để dự tính cho tương lai, vì thế
để có thể phân tích tài chính doanh nghiệp chúng ta phải xem xét tóm tắt các
báo cáo tài chính của doanh nghiệp và sử dụng số liệu tài chính để phân tích

toàn bộ thành quả và đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp hiện tại
như thế nào.
Các nhà phân tích tài chính tính toán một số chỉ số tài chính chủ yếu để
đo lường thành quả của doanh nghiệp. Các chỉ số tài chính này có thể giúp
chúng ta hiểu rỏ hơn năng lực tài chính của doanh nghiệp. Hơn nữa, các chỉ
số tài chính còn có thể cảnh giác cho giám đốc về các lĩnh vực khó khăn tiềm
ẩn [26,119].
1.2.1 Các báo cáo tài chính
Một trong những nguồn thông tin nội bộ quan trọng nhất để đánh giá
tình trạng sức khỏe của một doanh nghiệp là báo cáo tài chính, chủ yếu bao
gồm các báo cáo như: bảng cân đối kế toán (hay bảng tổng kết tài sản), báo
cáo thu nhập (còn gọi là báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh) [34,119-121].
1.2.1.1 Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán của một doanh nghiệp là bức tranh tài chính phản
ánh tất cả các nguồn ngân quỹ nội bộ và việc sử dụng nguồn ngân quỹ đó tại
một thời điểm nhất định. Phương trình cơ bản xác định bảng cân đối kế toán
là:

13


TỔNG TÀI SẢN = NỢ PHẢI TRẢ + VỐN CHỦ SỞ HỮU

Định nghĩa chính thức về tài sản và nợ của các nhà kế toán là bất cứ
những khoản nào có thể chuyển hóa thành tiền trong vòng một năm là lưu
động hay ngắn hạn và những tài sản khác còn lại được gọi là cố định hay dài
hạn.
Các khoản mục trong bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo thứ tự
tính thanh khoản giảm dần. Đầu tiên là những tài sản hầu như có thể chuyển
thành tiền mặt trong một tương lai gần, bao gồm: tiền mặt, các chứng khoán

thị trường, các khoản phải thu, nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành
phẩm và hàng tồn kho v.v. Những tài sản này gọi là tài sản ngắn hạn. Hàng
tồn kho là tài sản ngắn hạn với lý do chúng sẽ được bán và tạo thành tiền
trong vòng một năm.
Tài sản còn lại trên bảng cân đối kế toán bao gồm những tài sản dài hạn
thường có tính thanh khoản thấp như văn phòng, nhà xưởng, máy móc, thiết
bị v.v. Bảng cân đối kế toán không cập nhật giá thị trường của các tài sản dài
hạn này, thay vào đó, kế toán viên ghi giá trị ban đầu và khấu trừ dần hàng
năm một giá trị nhất định gọi là khấu hao. Bảng cân đối kế toán không bao
gồm hết tất cả tài sản của doanh nghiệp. Một vài tài sản có giá trị nhất là tài
sản vô hình như bản quyền, uy tín thương hiệu, kỷ năng quản lý và lực lượng
lao động lành nghề thường không được phản ánh trong bảng cân đối kế toán.
Phần còn lại của bảng cân đối kế toán cho thấy nguồn tiền nào dùng để
mua tài sản. Trước tiên gồm những khoản nợ phải trả trong năm gọi là nợ
ngắn hạn. Khoản phải trả người bán là khoản nợ ngắn hạn do chúng phải được
thanh toán trong vòng một năm. Chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn
hạn gọi là vốn luân chuyển ròng. Tiếp theo là các khoản nợ dài hạn của doanh
nghiệp do phát hành trái phiếu hay vay trực tiếp ngân hàng. Phần còn lại là

14


vốn cổ phần.Vốn cổ phần của một doanh nghiệp đơn giản chỉ là tổng giá trị
của vốn luân chuyển ròng và tài sản cố định trừ cho nợ dài hạn. Một phần của
vốn cổ phần có được do bán cổ phần cho các nhà đầu tư, phần còn lại là từ lợi
nhuận giữ lại nhân danh các cổ đông để tái đầu tư vào doanh nghiệp.
1.2.1.2 Bảng báo cáo thu nhập
Nếu bảng cân đối kế toán cho thấy bức tranh về tài sản doanh nghiệp
tại một thời điểm cụ thể thì báo cáo thu nhập giống như một cuộn video, nó
chiếu lại trong năm vừa qua doanh nghiệp đã thu lợi như thế nào. Mối quan

hệ cơ bản là:
DOANH THU – CHI PHÍ = LỢI NHUẬN

1.2.2 Những công cụ và phương pháp chủ yếu trong phân tích tài
chính
Công cụ phân tích tài chính là một phương pháp hoặc một kỷ thuật để
đo lường hiệu quả về mặt tài chính của các hoạt động đã qua như: khả năng
sinh lời của một doanh nghiệp có thể biểu hiện bằng tỷ suất, đánh giá mức độ
hoàn hảo về tài chính, giúp cho việc ra quyết định thông qua việc tạo điều
kiện đánh dấu tác động của các quyết định vào tương lai của doanh nghiệp,
đánh giá tình hình tài chính.
1.2.2.1 So sánh các báo cáo tài chính
So sánh báo cáo tài chính là công việc hiển nhiên, thực hiện so sánh
qua nhiều năm ta thu được kết quả của quy luật số lớn.
So sánh các báo cáo tài chính nhiều năm có thể thực hiện bằng cách
tính số phần trăm tăng thêm. Bên cạnh tiêu chuẩn tỷ lệ phần trăm để phân
tích, ta không loại trừ việc phân tích bằng số tuyệt đối của các dòng khác
nhau trên báo cáo tài chính.

15


Phân tích tài chính cần được nhận thức rỏ ràng về những chênh lệch
trong thực hành kế toán mà chênh lệch này đã ảnh hưởng đến kết quả và tác
động vào việc tăng giá trị trên báo cáo tài chính [34,24-25].
1.2.2.2 Phân tích các tỉ số tài chính
Hầu hết các tỉ số tài chính đều có những cái tên mô tả cho người sử
dụng nhận biết làm thế nào để tính toán các tỉ số ấy hoặc làm thế nào để hiểu
được lượng giá trị của nó [34,25].
Các loại tỉ số thường được sử dụng để phân tích tài chính doanh nghiệp

bao gồm:
1- Tỉ số thanh toán đo lường khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
2- Tỉ số hiệu quả đo lường mức độ hoạt động liên quan đến tài sản của
doanh nghiệp.
3- Tỉ số đòn bẩy cho thấy việc sử dụng nợ của doanh nghiệp có ảnh
hưởng như thế nào đến hoạt động kinh doanh.
4- Tỉ số sinh lợi biểu hiện khả năng tạo lãi của tài sản và vốn chủ sở
hữu.
5- Tỉ số giá trị thị trường cho thấy doanh nghiệp được nhà đầu tư đánh
giá như thế nào.
1.2.3 Hệ thống các chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp
Với quan điểm phân tích trên, trong nghiên cứu này sử dụng các nhóm
chỉ tiêu sau đây:
1- Chỉ tiêu phân tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và mối quan hệ
giữa tài sản và nguồn vốn

16


2 - Chỉ tiêu phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho cho hoạt động
kinh doanh.
3- Chỉ tiêu về tình hình thanh toán và khả năng thanh toán.
4- Chỉ tiêu về mức độ sử dụng vốn kinh doanh.
5- Chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
6- Chỉ tiêu đòn bẩy tài chính.
7- Chỉ tiêu thu nhập mỗi cổ phần.
Dưới đây trình bày cụ thể từng nhóm chỉ tiêu
1.2.3.1 Chỉ tiêu phân tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và
mối quan hệ giữa tài sản với nguồn vốn
*Chỉ tiêu phân tích cơ cấu tài sản

Phân tích cơ cấu tài sản giúp người phân tích tìm hiểu sự thay đổi về
giá trị, tỷ trọng của tài sản qua các thời kỳ như thế nào, sự thay đổi này bắt
nguồn từ những dấu hiệu tích cực hay thụ động trong quá trình sản xuất kinh
doanh, có phù hợp với việc nâng cao năng lực kinh tế để phục vụ cho chiến
lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay không. Ngoài ra,
việc phân tích này còn cung cấp cho nhà phân tích nhìn về quá khứ tìm kiếm
một xu hướng, bản chất sự biến động tài sản của doanh nghiệp.
Khi phân tích cơ cấu tài sản, ngoài việc so sánh sự biến động trên tổng
số tài sản và từng loại tài sản (tài sản ngắn hạn, tài sản dài hạn, các khoản phải
thu ngắn hạn, hàng tồn kho, v.v.) giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc, các nhà
phân tích còn tính ra và so sánh tỷ trọng của từng loại tài sản chiếm trong
tổng số, từ đó thấy được xu hướng biến động và mức độ hợp lý của việc phân
bổ.

17


Tỷ trọng của
từng bộ phận

Giá trị của từng bộ phận tài sản
=

x 100
Tổng số tài sản

tài sản

*Chỉ tiêu phân tích cơ cấu nguồn vốn
Phân tích cơ cấu nguồn vốn nhằm giúp nhà phân tích tìm hiểu được sự

thay đổi về giá trị, tỷ trọng của nguồn vốn qua các thời kỳ. Sự thay đổi này
bắt nguồn từ những dấu hiệu tích cực hay thụ động trong quá trình sản xuất
kinh doanh, có phù hợp với việc nâng cao năng lực tài chính, tính tự chủ tài
chính, khả năng tận dụng, khai thác nguồn vốn trên thị trường cho hoạt động
sản xuất kinh doanh hay không cũng như có phù hợp với chiến lược, kế hoạch
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay không? Phân tích cơ cấu nguồn
vốn cung cấp thông tin cho người phân tích sự thay đổi nguồn vốn, một xu
hướng cơ cấu nguồn vốn hợp lý trong tương lai .
Việc phân tích cơ cấu nguồn vốn cũng được tiến hành tượng tự như
việc phân tích cơ cấu tài sản. Cùng với việc so sánh tổng nguồn vốn cũng như
từng loại nguồn vốn giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc, các nhà phân tích còn
tính ra và so sánh tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số,
từ đó thấy được xu hướng biến động, mức độ hợp lý và tính tự chủ tài chính
của doanh nghiệp.

Tỷ trọng của từng
bộ phận nguồn vốn

Giá trị của từng bộ phận nguồn vốn
=

x 100
Tổng số nguồn vốn

*Chỉ tiêu phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn

18


Mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn thể hiện sự tương quan về

giá trị tài sản và cơ cấu vốn của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Phân tích mối quan hệ này giúp nhà phân tích phần nào nhận
thức được sự hợp lý giữa nguồn vốn doanh nghiệp huy động và sử dụng
cùng trong đầu tư, mua sắm, dự trữ, và sử dụng có hợp lý, hiệu quả hay
không.
Khi phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn, nhà phân
tích cần tính ra và so sánh các chỉ tiêu sau:
+ Hệ số nợ so với tài sản
Nợ phải trả
Hệ số nợ so với tài sản =
Tài sản
Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp dùng các khoản nợ đầu tư cho tài
sản là bao nhiêu. Thông thường các chủ nợ thích hệ số này vừa phải vì khi đó
các khoản nợ của họ được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá
sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích hệ số nợ cao vì họ
muốn gia tăng lợi nhuận nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp.
Hệ số nợ cao, mức độ an toàn tài chính giảm đi, mức độ rủi ro cao hơn và có
thể doanh nghiệp sẽ bị lỗ nặng nếu hoạt động sản xuất kinh doanh không ổn
định, nhưng doanh nghiệp cũng có khả năng thu lợi nhuận cao khi điều kiện
kinh tế thuận lợi. Dù vậy, nếu hệ số này quá cao thì doanh nghiệp sẽ dể rơi và
tình trạng mất khả năng thanh toán và không thể kiểm soát được hoạt động
của mình.Vì vậy, để vừa đảm bảo khả năng gia tăng lợi nhuận cao vừa giảm
thiểu rủi ro khi đưa ra các quyết định tài chính, doanh nghiệp cần xem xét
mức độ cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận.

19


+ Hệ số tài sản so với vốn chủ sở hữu
Tài sản

Hệ số tài sản so với vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu
Đây là chỉ tiêu phản ánh mức độ đầu tư tài sản của doanh nghiệp bằng
vốn chủ sở hữu. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn hơn 1, chứng tỏ tài sản của
doanh nghiệp được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu càng ít làm cho khả năng độc
lập về tài chính của doanh nghiệp càng kém và ngược lại.
1.2.3.2 Chỉ tiêu phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh
doanh
Bất kỳ một doanh nghiệp nào để đi vào hoạt động thì cũng phải huy
động được một lượng vốn chủ sở hữu đảm bảo cho nhu cầu thiết yếu về tài
sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp sẽ tiếp
tục hình thành nên các khoản chiếm dụng vốn tạm thời, vốn vay ngắn hạn,
vốn vay dài hạn đồng thời với sự tích lũy dần về vốn chủ sở hữu. Thực chất
của phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh là việc xem
xét mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành nên tài sản, nói cách
khác là việc phân tích cân bằng tài chính của doanh nghiệp.
* Chỉ tiêu phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần có
tài sản bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Nguồn tài trợ tương ứng
cho hai loại tài sản này là nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Nguồn
vốn ngắn hạn trong doanh nghiệp bao gồm các khoản nợ ngắn hạn, còn nguồn
vốn dài hạn bao gồm các nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn dài hạn

20


trước hết được đầu tư để hình thành tài sản dài hạn, nguồn vốn ngắn hạn và
phần dư của nguồn vốn dài hạn được đầu tư vào tài sản ngắn hạn.
Trong mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn, sẽ là hợp
lý nếu tài sản ngắn hạn lớn hơn nợ ngắn hạn vì điều này chứng tỏ doanh

nghiệp giữ vững mối quan hệ cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
Sử dụng đúng mục đích nợ ngắn hạn. Đồng thời nó cũng chỉ ra một sự hợp lý
trong chu kỳ luân chuyển tài sản ngắn hạn với chu kỳ thanh toán nợ ngắn hạn.
Ngược lại, nếu tài sản ngắn hạn nhỏ hơn nợ ngắn hạn thì đây là dấu hiệu cho
thấy một phần nếu tài sản ngắn hạn lớn hơn nguồn vốn ngắn hạn đã được đầu
tư vào tài sản dài hạn. Khi đó chu kỳ luân chuyển tài sản khác với chu kỳ
thanh toán nên dể dẫn đến những vi phạm nguyên tắc tín dụng và có thể đưa
đến một hệ quả tài chính không tốt.
Trong mối quan hệ giữa tài sản dài hạn và nợ dài hạn, nếu tài sản dài
hạn lớn hơn nợ dài hạn và phần thiếu hụt được bù đắp từ vốn chủ sở hữu thì là
điều hợp lý vì khi đó doanh nghiệp đã sử dụng đúng mục đích nợ dài hạn và
vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên nếu phần thiếu hụt được bù đắp bằng nợ ngắn hạn
thì lại bất hợp lý vì nó làm mất cân đối giữa tài sản ngắn hạn lớn hơn nợ ngắn
hạn. Nếu tài sản dài hạn nhỏ hơn nợ dài hạn thì chứng tỏ nợ dài hạn đã được
chuyển vào tài trợ tài sản ngắn hạn. Điều này vừa làm lảng phí chi phí lãi vay
nợ dài hạn vừa thể hiện sai mục đích nợ dài hạn.
Ngoài ra khi phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn,
cũng cần chú trọng đến vốn hoạt động thuần (vốn ngắn hạn thường xuyên) là
số vốn mà doanh nghiệp không cần phải vay mượn hay đi chiếm dụng, được
sử dụng để duy trì những hoạt động bình thường, diễn ra thường xuyên ở
doanh nghiệp. Vốn hoạt động thuần được tính theo công thức sau [12,479782]:

21


Vốn hoạt động thuần = Tài sản ngắn hạn - Nợ ngắn hạn
Nếu vốn hoạt động thuần lớn hơn 0 thì đây là dấu hiệu tài chính bình
thường hay khả quan, thể hiện sự cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nguồn vốn
ngắn hạn hoặc cân đối giữa nguồn vốn dài hạn với tài sản dài hạn. Cân bằng
tài chính trong trường hợp này được gọi là cân bằng tốt.

Ngược lại nhỏ hơn 0 sẽ thể hiện một sự mất cân đối giữa tài sản ngắn
hạn và nợ ngắn hạn và mất cân đối giữa nguồn tài trợ thường xuyên với tài
sản dài hạn và nếu tình hình này kéo dài thì có thể dẫn đến tình trạng tài chính
của doanh nghiệp có thể mất dần và đi đến bờ vực phá sản. Và tất nhiên cân
bằng tài chính trong trường hợp này được gọi là cân bằng xấu.
*Chỉ tiêu phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh
doanh
Để phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh, nhà
phân tích cần tính ra và so sánh các chỉ tiêu sau:
+ Hệ số tài trợ thường xuyên
Nguồn tài trợ thường xuyên
Hệ số tài trợ thường xuyên =
Tổng nguồn vốn
Trong đó nguồn tài trợ thường xuyên là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử
dụng thường xuyên lâu dài, bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay, nợ dài hạn,
trung hạn.
Hệ số này cho biết, so với tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, nguồn tài
trợ thường xuyên chiếm mấy phần. Trị số này càng lớn chứng tỏ tính ổn định
về tài chính càng cao và ngược lại.
+ Hệ số tài trợ tạm thời:

22


Nguồn tài trợ tạm thời
Hệ số tài trợ tạm thời =
Tổng nguồn vốn
Nguồn tài trợ tạm thời là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng vào hoạt
động kinh doanh trong một thời gian ngắn. Nguồn vốn này bao gồm các
khoản vay nợ ngắn hạn, vay nợ quá hạn và các khoản chiếm dụng bất hợp

pháp của người bán, người mua, người lao động (mua hàng mà không thanh
toán, bán hàng mà không giao hàng, thuê công nhân mà không trả lương v.v.).
Tương tự như hệ số tài trợ thường xuyên, hệ số tài trợ tạm thời cho biết
so với tổng nguồn tài trợ, nguồn tài trợ tạm thời chiếm mấy phần.Trị số của
chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ tính ổn định về tài chính càng thấp và ngược
lại.
+ Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên
Hệ số vốn chủ sở hữu so với
nguồn tài trợ thường xuyên

Nguồn tài trợ thường xuyên
=
Tổng nguồn vốn

Thông qua chỉ tiêu này, nhà phân tích thấy được trong tổng nguồn tài
trợ thường xuyên, số vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu. Trị số của chỉ tiêu này
càng lớn tính ổn định tự chủ và độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng
cao và ngược lại.
+ Hệ số nguồn tài trợ thường xuyên so với tài sản dài hạn
Hệ số nguồn tài trợ thường
xuyên so với tài sản dài hạn

Nguồn tài trợ thường xuyên
=
Tài sản dài hạn

23


Chỉ tiêu này cho biết mức độ tài trợ của tài sản dài hạn bằng nguồn vốn

thường xuyên. Trị số này càng lớn thì tính ổn định và bền vững về mặt tài
chính của doanh nghiệp càng lớn và ngược lại.
1.2.3.3 Chỉ tiêu tình hình thanh toán và khả năng thanh toán
Chất lượng hoạt động tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu phụ thuộc
chủ yếu vào tình hình thanh toán của doanh nghiệp. Nếu hoạt động tốt doanh
nghiệp sẽ có ít công nợ, ít bị chiếm dụng vốn và cũng ít đi chiếm dụng vốn.
Ngược lại nếu hoạt động tài chính kém, doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với
các khoản nợ kéo dài. Phân tích tình hình thanh toán là việc xem xét tình hình
thanh toán các khoản phải thu, phải trả của doanh nghiệp, qua đó có thể đánh
giá được chất lượng và hiệu quả của hoạt động tài chính.
Để phân tích tình hình thanh toán các khoản phải thu, nhà phân tích
trước tiên cần xem xét sự biến động các khoản phải thu trên tổng số giữa kỳ
phân tích so với kỳ gốc nhằm đánh giá chung tình hình thanh toán của doanh
nghiệp. Sau đó tính ra tỷ lệ các khoản phải thu so với tổng số các khoản nợ
phải thu, phải trả.

(1) Tỉ lệ các khoản phải thu so với tổng =
số các khoản nợ phải thu, phải trả

Nợ phải thu
Tổng số các khoản nợ

x 100

phải thu, phải trả

Đây là chỉ tiêu nhằm đánh giá mối quan hệ giữa các khoản nợ phải thu
so với tổng số các khoản nợ phải thu, phải trả. Nó cho biết trong tổng số các
khoản nợ phải thu, phải trả thì nợ phải thu chiếm bao nhiêu phần trăm. Nếu tỷ
lệ này lớn hơn 50% thì các khoản phải thu lớn hơn các khoản phải trả có

nghĩa doanh nghiệp đang bị chiếm dụng vốn. Ngược lại, doanh nghiệp đang
chiếm dụng vốn của người khác. Chiếm dụng vốn và bị chiếm dụng vốn trong

24


hoạt động kinh doanh là điều bình thường, tuy nhiên cần xem xét tính hợp lý
để có biện pháp quản lý công nợ tốt hơn.
Để phân tích tình hình thanh toán các khoản nợ phải trả, nhà phân tích
cần so sánh các khoản nợ phải trả trên tổng số cũng như trên từng khoản nợ
phải trả kỳ phân tích so với kỳ gốc cả về số tuyệt đối và số tương đối. Sau đó
tính ra tỷ lệ các khoản phải trả so với tổng số các khoản nợ phải thu, phải trả.
(2) Tỉ lệ các khoản phải trả so với tổng =
số các khoản nợ phải thu, phải trả

Nợ phải trả
Tổng số các khoản nợ

x 100

phải thu, phải trả

Thực chất chỉ tiêu này là nghịch đảo của chỉ tiêu: “tỉ lệ các khoản phải
thu so với tổng số các khoản nợ phải thu, phải trả”, nó phản ánh so với tổng
số các khoản nợ phải thu, phải trả thì các khoản nợ phải trả chiếm bao nhiêu
phần trăm.
*Các tỉ số về khả năng thanh toán
Tỉ số thanh toán hiện hành: Một trong những thước đo khả năng
thanh toán của một doanh nghiệp được sử dụng rộng rải nhất là khả năng
thanh toán hiện hành.

Tài sản ngắn hạn
(3) Tỉ số thanh toán hiện hành Rc =
Nợ ngắn hạn

Tài sản ngắn hạn bao gồm các khoản bằng tiền, đầu tư tài chính ngắn
hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho và tài sản ngắn hạn khác.
Nợ ngắn hạn là các khoản nợ phải trả trong năm bao gồm: vay ngắn
hạn, vay dài hạn đến hạn trả và các khoản phải trả khác.

25


×